Khuyên Tu Pháp Môn Tịnh ĐộĐạo hữu nghe được nhiều bài giảng Phật Pháp của Thầy thì rất tốt, nhưng bên cạnh đó mình nên chọn cho mình 1 pháp môn Tu để sau này mình được nhiều lợi ích hơn. Đồng ý là nghe nhiều thì có Trí huệ và Công Đức. Bên cạnh đó nếu mà chỉ nghe mà không chọn pháp môn tu thì khó có thể giải thoát khỏi sanh tử. Giống như 1 miếng bánh rất thơm ngon nếu chỉ ngửi mùi thôi thì mình không biết vị ngon ngọt thế nào, đến khi mình ngửi và ăn thì mới biết bánh đó thật sự ngon như thế nào. Cũng vậy, nếu mình chỉ nghe Phật Pháp mà không chọn pháp môn Tu thì cũng giống như ngửi bánh ngon mà không được ăn vậy. Mình nên có Văn, Tu và Chứng. Nếu chỉ có Văn (tức là nghe Pháp) mà không tu làm sao Chứng biết được vị của Giải Thoát. Hồi đức Phật còn tại thế, có 1 vị đệ tử là Ngài A Nan, Ngài nghe Phật nói Pháp tới đâu là Ngài nhớ tới đó. Ngài là thị giả của đức Phật bởi thế nghe rất nhiều về Phật Pháp. Nhưng khi Phật còn ở trần thế, Ngài vẫn chưa tu giải thoát cho chính mình, vì Ngài A Nan nghe nhiều mà không lo tu. Đến khi Đức Phật qua đời, thì Ngài A Nan tinh tấn tu hành sau này mới chứng quả Thánh thoát khỏi sanh tử luân hồi. Có đệ tử Phật lúc Phật còn tại thế, Ngài nghe Phật giảng 1 bài Pháp, sau đó tu liền thời gian sau liền chứng quả vị Thánh trong hiện đời. Bởi vậy đạo Phật không chủ trương nghe Pháp để giải trí hay nghe chơi cho vui hay nghe để lấp khoảng thời gian trống. Đạo Phật chủ trương nghe Pháp để có trí huệ và nương theo pháp môn Tu để tu thoát khỏi sanh tử. Nếu mà chỉ nghe Pháp không mà không chọn cho mình pháp môn Tu hành thì khó có thể thoát khỏi luân hồi đau khổ.

Theo đạo Phật, được thân người là rất khó, gặp được Chánh Pháp lại còn khó hơn, gặp Chánh Pháp mà tu theo được Chánh Pháp lại còn rất khó. Đạo hữu đã được nghe Thầy giảng thì đạo hữu cũng đã có nhiều duyên lành với Phật Pháp từ nhiều kiếp trước. Nếu mình có duyên lành thì mình nên bắt lấy cơ hội quý báo này để chọn cho mình pháp môn Tu để giải thoát sanh tử luân hồi. Sanh tử là khổ, chỉ 1 đời này mình gặp nhiều điều khổ (1) như sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ… huống chi nhiều đời nhiều kiếp sanh đi tử lại thì cái khổ phải nói là rất khổ và rất nhiều. Nếu biết cõi đời này là Khổ, sao mình không tu chẳng lẽ mình thấy Khổ mà vẫn chui đầu vào, như thấy tối mà đi vào tối. Không phải đạo Phật nói Khổ để bi quan mà nói Khổ để cho mình thức tỉnh tìm cách giải thoát. Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết tới hay Vô Thường tới (không thường còn mà hay thay đổi), lúc đó đã quá muộn rồi. Cõi này Vô Thường: thân vô thường (sanh, lão, bệnh, tử), tâm vô thường (buồn, giận, thương, ghét…) và hoàn cảnh vô thường (thành, trụ, hoại, không). Thân này rất mỏng manh, nó ví như là bọt biển có thể vỡ bất cứ lúc nào. Người có trí huệ nên dùng thân giả tạm này như chiếc bè để tu hành qua đến bờ Giải Thoát. Đừng để cuộc đời mình trôi đi qua theo năm tháng già bệnh chết một cách uổng phí. Như có Thầy nói, người sống trăm tuổi không biết tu thì không bằng người sống 1 ngày mà biết tu. Đúng như vậy, sống trăm tuổi mà chỉ biết ham mê ngũ dục, ăn ngủ và dục lạc… Đến khi chết không biết đi về đâu hoang mang sợ hãi và khi chết rồi đi tái sanh lại còn khổ hơn. Sống như thế hiện tại không được an lạc mà tương lai mờ mịt, sống như thế không có ý nghĩa và lợi ích cho mình. Hiểu cuộc đời này là vô thường, thân này là giả tạm, luân hồi là đau khổ, cõi này là cõi khổ thì mình chọn cho mình 1 pháp môn tu liền ngay lập tức đừng để cái Chết hay Vô Thường đến trước khi mình bắt đầu tu? Vậy Tu như thế nào và tu theo pháp môn gì?

Đạo Phật rất hay, hay ở chổ là nói Pháp cho mình có trí huệ và có duyên lành rồi sau đó mình tỉnh thức và nương theo pháp môn để tu. Pháp môn tu thì có rất nhiều gồm 84000 pháp môn. Tùy theo căn cơ và hoàn cảnh của chúng sanh mà chọn pháp môn tu cho phù hợp mỗi cá nhân. Tu đây không có nghĩa là bắt buộc phải Tụng Kinh, vào chùa cạo đầu. Mình tu tại gia thì mình tu theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Có nhiều pháp môn tu trong đạo Phật. Tùy theo căn cơ, trình độ, điều kiện và hoàn cảnh của mỗi người mà chọn pháp môn tu cho phù hợp. Pháp môn mà nhiều người tu (kể cả tại gia và xuất gia) là pháp môn Tịnh Độ (pháp môn niệm Phật). Sở dĩ pháp môn niệm Phật phổ biến và nhiều người tu vì nó không giới hạn mình trong 1 khuôn khổ nhất định nào và dễ tu đạt nhiều lợi ích. Như tu theo Thiền, mình nên có thời gian và môi trường yên tĩnh. Như pháp môn niệm Phật, đi, đứng, nằm, ngồi hay làm chuyện gì mình cũng có thể niệm Phật được. Mục đích và hướng đến của người tu Tịnh Độ là Vãng Sanh Cực Lạc. Muốn vãng sanh Cực Lạc gồm có 3 điều kiện: Tín, Nguyện và Hạnh. Như trong Kinh Phật A Di Đà, Phật Thích Ca nói cách đây mười vạn ức cõi Phật hướng về Phương Tây có 1 thế giới tên gọi là Cực Lạc, vị giáo chủ cõi Cực Lạc là Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp tại đó. Mình nên tin Phật Thích Ca nói vì Ngài không bao giờ nói dối và Ngài ra giới luật không nói dối cho đệ tử Ngài cũng như hàng xuất gia và tại gia. Mình chưa có khả năng thấy biết được Thê Giới Cực Lạc và Phật A Di Đà là giáo chủ cõi Cực Lạc, nhưng qua khả năng thấy biết của Thích Ca Mâu Ni Phật và Ngài nói lại mình nên tin như thế. Như trước đây khi không có kính thiên văn, người ta nghĩ chỉ có 1 trái đất này tồn tại, nhưng sau thời gian nhà khoa học khám phá ra được ngoài trái đất này có rất nhiều hành tinh khác nhau. Cách đây hơn 2500 năm, đức Phật đã nói có nhiều cõi nước khác nhau trong vũ trụ này bởi vậy Phật đã nói đúng với khoa học.

Thứ nhất tu theo pháp môn Tịnh Độ phải có Tín. Bất cứ tu theo pháp môn nào cũng đòi hỏi Tín nếu không tin làm sao tu theo được. Tin vẫn là căn bản thiết yếu trong hết thảy mọi pháp môn tu. Tin là mẹ đẻ ra tất cả những Công đức. Vậy người tu Tịnh Độ nên tin những gì: Tin có Phật A Di Đà, tin có cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, tin Nhân Quả, Tin rằng kiếp sống này ngắn ngủi mạng người như hơi thở ra vào, tin 48 (2) lời nguyện của Phật A Di Đà là hoàn toàn chân thật

Thứ 2 là phải nên có Nguyện, nếu không có Nguyện làm sao Vãng Sanh Cực Lạc được. Giống như người đi từ điểm A tới điểm B, nếu người đó nói Tôi muốn đi tới điểm B mà tâm ý không muốn đi tới điểm B thì không bao giờ tới được. Khi mình có Nguyện thì Phật A Di Đà có tha tâm thông (3) mới biết mình muốn Vãng Sanh Cực Lạc thì Ngài mới giúp mình Vãng Sanh được. Mình vẫn còn là phàm phu không có khả năng vãng sanh được nhưng nhờ có Phật Lực giúp cho mình Vãng Sanh. Đạo hữu nên Nguyện như thế này: Nam Mô A Di Đà Phật, con tên gì…sanh năm mấy…bao nhiêu tuổi…con nguyện vãng sanh Cực Lạc sau khi con bỏ thân mạng này. Nguyện nhiều hay ít hoặc nguyện 1 hay 2 lần cũng được tùy theo mỗi người và Đạo hữu nguyện trong tâm hay nguyện ra tiếng hay đứng trước hình Phật hay không đứng trước cũng được. Tại sao mình phải nguyện về Cực Lạc, Cực Lạc là gì? Cực nghĩa là rất, Lạc là vui. Cực Lạc là rất vui. Trong Kinh Phật A Di Đà có nói đến đoạn “Tại sao gọi là Cực Lạc? Vì cõi đó không có những sự đau Khổ chỉ hưởng thụ những sự vui sướng mà thôi”. Vui sướng đây không có nghĩa là Vui sướng với dục lạc, ngũ dục hay vui tạm bợ của thế gian…Vui sướng đây là vui được thường nghe Phật Pháp, vui không phiền não, vui không già, bệnh, chết, vui không đau khổ, vui được bực Thượng Thiện Nhân (Bồ Tát) được ngồi chung nghe Pháp, vui với Công Đức Trang Nghiêm của Cực Lạc và không có những điều Khổ và không có những tiếng Khổ và không có những điều ác và những điều vui khác…Bởi thế nên Nguyện Vãng Sanh Cực Lạc để được nhiều lợi ích cho chính mình.

Thứ 3 là nên có Hạnh tức là trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Trì đây có nghĩa là mình nên niệm Nam Mô A Di Đà Phật nhiều mỗi ngày tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật có nhiều cách: hoặc là trì Nam Mô A Di Đà Phật ra tiếng, hoặc trì thầm, hoặc lần xâu chuổi hoặc trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật trong tâm… Cách nào cũng được miễn sao phù hợp với khả năng và hoàn cảnh mỗi người. Đi, đứng, nằm, ngồi hay làm chuyện gì cũng trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cũng được. Như trong Kinh A Di Đà có nói “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói về Đức Phật A Di Đà, cố gắng chuyên trì danh hiệu Ngài: hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm chẳng loạn, thì người ấy khi lâm chung sẽ được Đức Phật A Di Đà cùng các bậc Thánh, hiện ra trước người ấy, người ấy trong khi chết tâm không điên đảo, liền được sinh sang cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Đà”. Nếu muốn niệm Phật được sớm Nhất Tâm Chẳng Loạn thì nên trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật không xen tạp nghĩa là sao? Nghĩa là niệm Phật không nên để vọng tưởng, suy nghĩ phân biệt xen vào tức là đừng để tâm phân biệt tốt, xấu, phải, quấy, hơn thua, đúng, sai… Chỉ để tâm tập trung vào câu niệm Phật mỗi câu rõ ràng, mỗi niệm phân minh, niệm Phật với tâm thanh tịnh thì được phẩm vị Vãng sanh cao (4). Trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật còn nói “Muốn vãng sanh Cực Lạc chỉ cần trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là đủ”. Bởi thế mình tu theo pháp môn Tịnh Độ chỉ cần có Tín, Nguyện và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là đủ.

Theo như Kinh Niệm Phật Ba La Mật có nói “Vãng Sanh Cực Lạc thì không còn ở địa vị phàm phu thân xác ngũ uẩn nữa” (tức là thoát khỏi sanh tử luân hồi). Vãng Sanh Cực Lạc mình được rất nhiều lợi ích là chứng được quả vị Bất Thối Chuyển (không còn thối chuyển ở quả Vị Phật), thọ mạng lâu dài sống rất lâu (trích trong Kinh A Di Đà), không phiền não, bệnh, già, chẳng những thế mà không khổ còn hưởng những điều vui, và còn có điều kiện tốt, môi trường và hoàn cảnh tốt, bạn tốt để tu hành tiến tu lên tới quả vị Thánh. Khi mình tu hành lên tới quả vị Bồ Tát, nếu mình tu tiếp lên tới quả vị Phật, mình phải trở lại những Cõi, độ giúp những chúng sanh khác giải thoát. Bồ Tát lấy lợi ích cho chúng sanh làm sự nghiệp của mình. Bởi thế Bồ Tát muốn thành Phật thì phải độ giúp rất nhiều chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi.

Đới nghiệp vãng sanh là vãng sanh mang theo nghiệp nghĩa là mặc dù mình có Nghiệp (Nghiệp Thiện hay Ác) nhưng mình vẫn được vãng sanh. Không có nghĩa là mình tạo tội hay điều ác mà mình tránh được Quả Báo. Nhân Quả thì đúng ba đời Quá Khứ, Hiện Tại Và Vị Lai không sai. Mình vãng sanh cõi Cực Lạc thì không lãnh Quả báo nhưng khi mình ở quả vị Bồ Tát trở lại độ giúp chúng sanh thoát khổ, lúc đó Quả Báo từ nhiều kiếp trước của mình đến với mình. Lúc đó mình có năng lực lãnh Quả báo 1 cách an nhiên, chứ mình không đau khổ lãnh Quả báo như còn phàm phu. Còn những tập khí: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…Những tánh xấu đó khi mình Vãng Sanh Cực Lạc mình sẽ tiêu trừ nó lần lần đến diệt đi. Mình Vãng Sanh Cực Lạc thì mình có nhiều cơ hội điều kiện tốt để diệt trừ đi những tâm xấu của mình. Nếu nói như thế thì những người ác nếu Vãng Sanh Cực Lạc thì cõi đó sẽ trở nên phức tạp sao? Không. Người ác nếu mà hồi đầu mà tu theo pháp môn Tịnh Độ, nếu có Tín Nguyện Hạnh, hoặc trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật trước khi lâm chung đủ 10 niệm. Thì người đó vẫn được vãng sanh nhưng mà ở phẩm vị thấp. Nếu ở phẩm vị vãng sanh thấp thì hoa sen rất lâu nở và lâu thấy cõi Cực Lạc. Khi hoa sen nở sẽ thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát hay Đại Thế Chí Bồ Tát thuyết pháp cho chúng sanh đó nghe. Còn những chúng sanh nào mà tội ít, làm lành nhiều, niệm Phật nhiều thì hoa sen của người đó mau nở và mau thấy được cõi Cực Lạc.

Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ có nói “mỗi câu niệm Phật trừ được 80 ức kiếp (1 ức bằng 100000) tội sanh tử?” Nam Mô A Di Đà Phật là gì? Nam Mô (nghĩa là Quy Y) A Di Đà (Vô Lượng Thọ hoặc Vô Lượng Công Đức) Phật (Giác Ngộ). Trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật được rất nhiều Công Đức. Trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật trừ đi được nhiều vọng tưởng. Trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật làm thân, khẩu và ý của mình từ từ trở nên thanh tịnh, như thế mình hạn chế hoặc không tạo ra Tội và Nghiệp xấu. Và niệm Phật được nhiều lợi ích khác (muốn biết thêm xin đọc cuốn Kinh Niệm Phật Ba La Mật có nói nhiều về lợi ích của trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật)

Đặc điểm của Pháp môn niệm Phật là: tự lực và tha lực. Tự lực là tự nỗ lực chính mình tu hành trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Còn tha lực nghĩa là nhờ Phật Lực giúp mình được Vãng Sanh Cực Lạc. Không như pháp môn Thiền, chỉ có tự lực mà không có tha lực nghĩa là tự khả năng mình tu hành mà không có tha lực.

Đạo hữu nên có công phu niệm Phật mỗi ngày tức là mình nên có thời khóa biểu niệm Phật, tùy theo khả năng và hoàn cảnh của đạo hữu. Ví dụ như, sáng dậy sớm đạo hữu niệm Phật 1 tiếng hay 2 tiếng…trước khi đi làm, ăn xong lên niệm Phật 1 hoặc 2 tiếng….trước khi đi ngủ nên dành thời gian ra niệm Phật khoảng 1 hay 2 tiếng…Số lần công phu niệm Phật mỗi ngày của đạo hữu có thể hơn số đó nữa. Tùy theo hoàn cảnh của đạo hữu mà có thời khóa niệm Phật riêng cho mình như thế nào. Mỗi lần niệm Phật vậy đạo hữu nên ngồi niệm Phật (tốt hơn nằm niệm Phật) vì làm mình dễ tập trung niệm Phật và làm mình không ngủ gục. Lúc mình công phu niệm Phật đừng để vọng tưởng suy nghĩ phân biệt xen vào nghĩa là đừng để tâm phân biệt tốt, xấu, phải, quấy, hơn thua, đúng, sai… Chỉ để tâm tập trung vào câu niệm Phật mỗi câu rõ ràng, mỗi niệm phân minh. Nếu trong lúc công phu niệm Phật nếu đạo hữu trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT ra tiếng được thì tốt (còn nếu không được thì niệm Phật thầm ra tiếng hoặc niệm Phật trong tâm…). Vì nếu niệm Phật ra tiếng sẽ giúp tâm đạo hữu dễ dàng theo tiếng niệm Phật và vọng tưởng suy nghĩ phân biệt cũng khó phát khởi hơn. Bên cạnh thời khóa niệm Phật riêng cho mình, đạo hữu đi, đứng, nằm, ngồi hay làm công chuyện gì… đạo hữu cũng nên trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

Còn việc Vãng Sanh Cực Lạc thì có người đã Vãng Sanh hay chưa? Đã có rất nhiều người đã vãng sanh Cực Lạc, những người tại gia và xuất gia đã vãng sanh rất nhiều, có những video, tài liệu sách vở, hình ảnh lưu xá lợi, và những vị Thầy kể lại. Những điều này mình nên tin vì những bằng chứng ghi lại hay kể lại này đều là Phật tử tại gia hay xuất gia. Phật tử thì không được nói dối cho dù tại gia hay xuất gia. Có nói có, không nói không, không có thì không nói. Nếu phạm tội nói dối là phạm vào giới luật của đạo Phật. Một trong những giới luật căn bản của người Phật tử tại gia hay xuất gia là không được nói dối. Nếu người này phá giới nói dối, tội người này nặng hơn người không giữ giới. Tức là tội nói dối cộng thêm với tôi phá giới.

Tôi tình cờ đọc được bài viết “CON ĐƯỜNG TU TẮT-PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ” (soạn giả: Cư Sĩ Thiện-Tâm) và biết được sự vãng sanh của ông Cố tôi là Trần Phong Sắc đã được ghi lại trong bài viết này trong phần sự tích vãng sanh ở nước Việt Nam. “Ông Trần Phong Sắc tại chợ Vũng Gù (bây giờ gọi là Long An). Ông trường chay lúc 10 tuổi và thờ Tam giáo, Nho, Thích, Đạo. Vào khoảng năm 1920, ông làm giáo học dạy chữ Nho tại trường tỉnh Long An. Ông xem kinh Đại tạng gần 30 năm mới gặp pháp môn Tịnh độ. Lúc đó ông trên 50 tuổi và bắt đầu tu theo pháp môn này. Ông có viết quyển Lão Nhơn Đắc Độ và dịch quyển Tây Quy Trực Chỉ của ông Châu an Sỹ. Cơn lâm chung, ông biết trước ngày về Tây phương, do đó ông có làm bài kệ khuyên người tu Tịnh độ (xem Tây Quy Trực Chỉ)” (Trích trong “CON ĐƯỜNG TU TẮT-PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ” soạn giả: Cư Sĩ Thiện-Tâm)

Tôi có nghe người nhà nói nhiều về ông Cố và nói ông Cố có viết quyển “Lão Nhơn Đắc Độ”. Ông Nội tôi là con của ông Trần Phong Sắc và hiện giờ vẫn còn sống và đang ở Long An. Hiện giờ, ông Nội và bà Nội tôi vẫn tinh tấn tu theo Pháp Môn Tịnh Độ và đã tu được mấy chục năm rồi. Tôi nói đây không phải là khoe khoang, mà xác nhận việc vãng sanh của ông Cố tôi là sự thật và đúng như bài viết “CON ĐƯỜNG TU TẮT-PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ”. Đây là 1 trong những bằng chứng trong nhiều trường hợp vãng sanh là có thật. Đạo hữu nên tin những gì tôi nói trên. Tôi cũng là Phật tử tại gia, thọ trì 5 giới cấm (trong đó có giới cấm không nói dối, bởi thế tôi không được nói dối). Vãng sanh Cực Lạc là có thật, rất nhiều chúng sanh đã vãng sanh Cực Lạc được ghi lại. Tôi tu theo pháp môn Tịnh Độ nhiều năm và tôi đã có Tín, Nguyện và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cũng được nhiều năm rồi. Đạo hữu nên tu theo pháp môn Tịnh Độ, có Tín (nghĩa là lòng tin chân thật, tha thiết, bền vững), Nguyện tha thiết, Hạnh (nghĩa là chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT nhiều mỗi ngày và giữ trọn đời không thay đổi). Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, thì đạo hữu chắc chắn vãng sanh Cực Lạc của Phật A Di Đà sau kiếp này. Vãng Sanh Cực Lạc tức là đạo hữu thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ.

Khi mình tu theo pháp môn niệm Phật, khi cái chết đến với mình mình không hoang mang, lo sợ hay đau khổ vì mình biết hướng đi của mình, mình biết sẽ về đâu vì có sự giúp đỡ và sự tiếp dẫn của Phật A Di Đà để giúp mình Vãng sanh Cực Lạc thì mình không còn gì phải lo sợ. Còn nếu mình không biết tu, khi cái chết đến mình rất hoang mang, đau khổ, hoặc mình thấy những oan hồn oan gia trái chủ đến đòi nợ, và mình thấy những tội ác mình làm trước và thấy những cảnh ghê sợ hiện đến và sự đau đớn của thể xác sắp tan rã trong nội tạng. Sau khi chết mình bị Nghiệp (5) (là hành động tạo tác của thân, khẩu và ý) dẫn đi luân hồi sanh tử, và thần thức (hay linh hồn) không biết sẽ tái sanh đi đâu và không biết có vào tam ác đạo (địa ngục, ngạ Quỷ và súc sinh) hay không. Mình không định hướng cho mình đi tái sanh, chỉ có Nghiệp Thiện và Nghiệp Ác của mình quyết định hướng tái sanh cho mình. Có 4 Nghiệp sẽ tác động đến khi luân hồi là: Cận Tử Nghiệp (Nghiệp trước giờ lâm chung, nghiệp xấu như giận dữ …), Cực Trọng Nghiệp (Nghiệp rất nặng: như giết cha mẹ…), Thường Nghiệp (nghiệp tốt hay xấu mình làm thường trong khi còn sống), và Tích Lũy Nghiệp (Nghiệp nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ). Thầy có nói là mình là chủ nhân của Nghiệp và mình cũng chính là thừa tự của Nghiệp. Mình tạo Nhân gì thì mình gặt Quả đó không trốn chạy đi được. Mình tạo Nhân tốt, được Quả tốt, mình tạo Nhân xấu, được Quả xấu. Như Phật nói khi Quả đến cho dù mình có chui vào hang, trốn trong lòng đất cũng không thoát khỏi cái Quả. Nhân Quả là đúng ba đời (Quá Khứ, Hiện Tại và Vị Lai). Bởi thế khi sắp lâm chung Nghiệp sẽ quyết định ta luân hồi vào cõi tốt hay xấu. Bởi thế sanh tử luân hồi là rất nguy hiểm và đau khổ. Bởi thế lúc còn sống mình nên tạo Thường Nghiệp tốt như trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là một ví dụ để trước khi chết mình có Cận Tử Nghiệp là vẫn niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì khi lâm chung mình chắc chắn vãng sanh Cực Lạc. Khi còn sống nếu không tạo Thường Nghiệp tốt tức là không trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, trước khi lâm chung rất khó khăn trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Mặc dù biết rằng trước khi lâm chung trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật mười niệm vẫn được Vãng Sanh Cực Lạc (trích trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ), nhưng rất là khó vì có người khi lâm chung bị nhiều thứ chi phối (như thân thể đau đớn, tâm sợ hãi lo sợ, hình ảnh xấu hiện trong tâm, hoặc thấy oan gia trái chủ…) rất khó mà trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật đến mười niệm. Mình còn sống thì nên chuẩn bị Thường Nghiệp trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cho nhiều để mình tạo thói quen và tạo cái Lực thật mạnh, để khi lâm chung thói quen niệm Phật đó sẽ giúp mình nhớ đến niệm Phật và cái Lực sẽ tác động mình trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật 1 cách dễ dàng.

Đạo hữu nên tin những gì tôi nói trên. Tôi cũng là Phật tử tại gia và tu theo pháp môn Tịnh Độ nhiều năm và tôi đã có Tín, Nguyện và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cũng được nhiều năm rồi. Tôi không nói dối gì cả, tôi đọc nhiều Kinh Phật, sách Phật Pháp cũng như xem nhiều tài liệu Kinh Phật về pháp môn Tịnh Độ, và qua đó nghe nhiều bài giảng của Thầy về Phật Pháp và pháp môn Tịnh Độ. Nếu đạo hữu muốn tìm hiểu thêm về pháp môn Tịnh Độ cũng như tìm hiểu thêm về Công Đức Trang Nghiêm của cõi Cực Lạc, 48 lời nguyện của Phật A Di Đà, nói Tín, Nguyện và Hạnh, hay tả về cõi Cực Lạc rất đẹp và vi diệu như thế nào thì có thể tìm đọc: Kinh Niệm Phật Ba La Mật, Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Kinh Vô Lượng Thọ Phật. Đó là 4 Kinh Phật chính nói về pháp môn Tịnh Độ (hay pháp môn niệm Phật) qua đó có thể tham khảo thêm. Hoặc có thể nghe những bài giảng của Thầy về Pháp môn Tịnh Độ và xem đĩa của những người vãng sanh hoặc đọc sách của Cư Sĩ Tịnh Hải biên soạn (có nhiều hình ảnh lưu xá lợi của những người đã vãng sanh và có những câu chuyện thật của những người vãng sanh).

Tôi viết những điều này cũng mong rằng đạo hữu tu theo pháp môn Tịnh Độ liền, đừng để những nghi ngờ, hay những chướng duyên nào đó hay bị cuộc sống mình cản ngăn. Đừng để tâm mình biện minh, tại này tại nọ hay hẹn này hẹn nọ hay lý do này lý do nọ là tôi không tu được theo pháp môn niệm Phật. Chẳng lẽ mình đi theo những nghi ngờ này nghi ngờ nọ hay lý lẽ này lý lẽ nọ hay lý do này lý do nọ mà đánh đổi cơ hội quý báo thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ này sao. Như thế không đáng chút nào. Pháp môn này rất dễ tu ai ai tu cũng được. Đi, đứng, nằm, ngồi hay làm công chuyện mình vẫn có thể trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật hoặc là niệm Phật ra tiếng, hay niệm Phật thầm hay niệm Phật trong tâm cách nào cũng tốt…Đạo hữu nên bắt đầu ngay từ bây giờ, đừng đợi thời gian sau làm. Mình đâu biết cái chết có thể đến với mình 1 giờ sau hay qua ngày mai đâu…Cái chết không biết đến với mình bất cứ lúc nào, không biết sống nay chết mai, và nó không phân biệt khoẻ mạnh, ốm đau, già trẻ, lớn bé, nam hay nữ…Bởi thế, giờ còn sống ngày nào nên tu theo pháp môn Tịnh Độ: có Tín, Nguyện và Hạnh đầy đủ là chắc chắn được vãng sanh Cực Lạc. Mình đừng nên để lý lẽ lý luận làm chướng ngại cho đường tu hành của mình. Tu theo pháp môn Tịnh Độ là lợi ích cho mình và lợi ích cho nhiều chúng sanh khác hiện tại và sau này nữa. Nếu mình vãng sanh Cực Lạc sau khi bỏ thân mạng này, mình về cõi Cực Lạc tinh tấn tu hành, sau này trở thành Bồ Tát, trở lại sớm độ giúp nhiều chúng sanh thoát luân hồi. Tất cả mọi thứ điều Vô Thường, Thân Vô Thường, Tâm cũng Vô Thường, Hoàn cảnh cũng Vô Thường, vui buồn, mừng giận, thương ghét, thành bại, khổ đau, vui sướng…những điều này cũng bị luật Vô Thường chi phối những tâm trạng đó có rồi mất không thường còn với mình. Mình chết là sẽ bỏ lại tất cả những tài sản của cải vật chất, người thân, thân mạng mình và những Tâm vui buồn… Mình chỉ mang đi cái Nghiệp Thiện và Ác của mình tạo ra. Nếu mình có tạo nghiệp Thiện, nếu có sanh về cõi trời đi nữa, khi hưởng phước đã hết thì vẫn luân hồi và vẫn đau khổ trở lại. Chi bằng, nay mình biết pháp môn Tịnh Độ, nương theo Tín, Nguyện, và Hạnh mà tu thì mình thoát khỏi sanh tử luân hồi một cách dể dàng nhờ Nguyện Lực, Tha Lực và Lòng Đại Từ Đại Bi của Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc. Đã có nhiều người đã vãng sanh, đừng để mình là một trong những người không được vãng sanh thế thì rất tiếc. Đừng để mình tụt lại phía sau những chúng sanh khác. Đừng để mình phải tiếp tục chịu khổ trong luân hồi và trong khi đó nhiều chúng sanh đã vãng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi hết đau khổ. Những người có trí huệ thấy khổ người ta tìm cách thoát khổ, chứ không phải thấy khổ mà vẫn vui trong khổ, đó là si mê. Mình nên nương theo người trí huệ đừng nương theo người si mê để rồi phải chịu nhiều đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác từ đời này sang đời khác. Mình nên tu theo pháp môn Tịnh Độ để đặt dấu chấm hết cho sự luân hồi đau khổ cho chính mình và ráng tu theo pháp môn Tịnh Độ để kiếp sống này là kiếp cuối cùng của mình trong sanh tử luân hồi. Già, trẻ, nam, nữ, khỏe mạnh, người tốt, người xấu, người bệnh, ngu si, thông minh gì…cũng tu được pháp môn niệm Phật này, chủ yếu mình có tu hay không thôi. Nếu mình có Tín Nguyện Hạnh đầy đủ thì Phật A Di Đà chắc chắn giúp mình vãng sanh Cực Lạc và Ngài không bỏ sót bất cứ chúng sanh nào cả không luận người đó ở địa vị gì, hoàn cảnh thế nào, thân thế ra sao, tốt hay xấu…miễn tu theo pháp môn niệm Phật thì Ngài sẽ giúp cho vãng sanh Cực Lạc chắc chắn là thế.

Mình tu theo pháp môn Tịnh Độ và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là mình có rất nhiều thiện căn phước đức từ nhiều kiếp trước. Nhiều kiếp trước mình đã gieo duyên lành nhiều với Phật Pháp, tạo Nhân tốt nhiều và tu hành nhiều. Nên nay mình tu theo pháp môn Tịnh Độ và được trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật đây là Quả thoát khỏi sanh tử luân hồi sau khi bỏ thân mạng này là điều tất yếu. Bởi thế mình nên nắm lấy Quả tốt này đừng nên phân vân để rồi Cái Chết đến với mình và mình mất duyên thoát khỏi sanh tử luân hồi. Đừng nghĩ đợi kiếp sau mình sẽ gặp Phật Pháp rồi mình tu hành thoát khỏi sanh tử luân hồi sau. Theo đạo Phật, đây là thời Mạt Pháp, sau thời Mạt Pháp này qua rồi. Phật Pháp bị diệt phải đợi rất rất rất lâu thì Phật mới ra đời. Nếu mình đánh mất cơ hội tu theo pháp môn Tịnh Độ cuộc đời này, mình sanh tử luân hồi lại rất là đau khổ và nguy hiểm, cho dù ở cõi Người đi chăng nữa lúc đó ngoại đạo, những người ác, những cái ác và cái xấu sẽ rất nhiều và lẫy lừng trong xã hội. Lúc đó không gặp Phật Pháp thì làm sao mình thoát khỏi sanh tử luân hồi tới lúc đó mình rơi vào Tam Ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh rất là dễ.

Nếu có người hỏi tại sao Phật A Di Đà không tiếp dẫn tất cả những chúng sinh? Phật A Di Đà muốn tiếp dẫn tất cả những chúng sinh, nhưng chúng sinh đó phải có duyên với Ngài. Không có duyên Ngài không độ giúp được. Nếu người ta không muốn về mình không bắt ép người ta được, như thế dẫn đến hậu quả không tốt. Người đó không nguyện vãng sanh Cực Lạc thì làm sao đưa người đó về Cực Lạc được, họ vẫn còn si mê cho rằng cõi này vui và họ còn tham chấp yêu thích cõi Khổ này và họ không muốn vãng sanh. Và có người họ không biết pháp môn Tịnh Độ thì làm sao họ nguyện mà về được. Không phải họ không muốn biết và tu theo pháp môn Tịnh Độ, mà họ không có duyên lành với Phật Pháp và họ không có thiện căn phước đức để có duyên gặp pháp môn Tịnh Độ. Bởi thế, mình có duyên gặp được pháp môn Tịnh Độ này là mình có duyên lành tốt và thiện căn phước đức nhiều. Nay mình nên tạo duyên với Phật A Di Đà bằng cách tu theo pháp môn Tịnh Độ, có Tín (nghĩa là lòng tin chân thật, tha thiết, bền vững), Nguyện tha thiết, Hạnh (Theo Kinh Niệm Phật Ba La Mật “nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào, đủ lòng tin thì chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT, suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi”. “Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, lập tức vào Phổ-đẳng Tam-muội của đức A-Di-Đà được Phật tiếp dẫn về Tịnh-độ Tây-phương. Vĩnh viễn xa lìa các đường ác, không còn luân hồi sanh tử.”)

Luân hồi đau khổ

Khổ không sao nói cho hết

Khổ thân rồi đến khổ tâm

Khổ từ đời này sang đời khác

Khổ từ kiếp này sang kiếp khác

Người trí huệ tìm cách thoát khổ

Kẻ si mê thấy khổ vẫn vui

Vui trong đau khổ khổ hoài khó ra

Tịnh Độ là dứt luân hồi đau khổ

Tịnh Độ là vui

Vui không sao nói cho hết

Vui được nghe Pháp vui gần Thượng Thiện Nhân

Vui cảnh vật Trang Nghiêm cõi Cực Lạc

Vui trong tu hành giải thoát

Vui không sanh tử luân hồi

Vui không sanh, tử, bệnh, già

Vui không phiền não vui thiệt là vui

Khuyên ai gắng sức lo tu

Tu theo pháp môn Tịnh Độ một đời

Vãng Sanh Cực Lạc thoát khỏi phàm phu

Tu liền chớ nên đợi chờ

Thân người mong manh như bọt biển

Vô Thường không phân biệt nữ nam

Đừng để cái chết gần kề

Đừng chờ đừng đợi đừng kẻo hoài nghi

Hãy tu liền mau kẻo muộn

Pháp môn Tịnh Độ dễ lắm ai ơi

Người nào tu cũng được vãng sanh

Vãng Sanh Cực Lạc sướng chừng biết bao

19/09/2008

Chú thích:

(1) Khổ: có 8 cái khổ là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ái biệt ly khổ (người mình thương xa cách là khổ), oán tắng hội khổ (kẻ thù gặp nhau là khổ), cầu bất đắc khổ (cầu muốn điều gì mà không được là khổ), năm ấm hưng thạnh là khổ.

(2) 48 lời nguyện: tức là 48 lời nguyện của Pháp Tạng Tỳ Kheo trong quá khứ, nay là Phật A Di Đà. 48 lời nguyện của Ngài là tạo nên cõi Cực Lạc hiện nay và nguyện tiếp dẫn những chúng sanh mười phương chí tâm, tin, ưa muốn vãng sanh cõi Cực Lạc và niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. 48 lời nguyện của Phật A Di Đà đã thành tựu và Ngài đã thành Phật đến nay đã được 10 kiếp.

(3) Tha tâm thông: khả năng biết tâm chúng sanh muốn gì, suy nghĩ gì, nguyện gì…

(4) Phẩm vị vãng sanh: Cõi Cực Lạc có 9 phẩm vị vãng sanh: Thượng Thượng, Thượng Trung, Thượng Hạ, Trung Thượng, Trung Trung, Trung Hạ, Hạ Thượng, Hạ Trung va Hạ Hạ.

(5) Nghiệp: là hành động tạo tác của thân, khẩu và ý. Nghiệp có hai loại: Nghiệp Thiện và Nghiệp Ác. Nghiệp Thiện là hành động tạo tác thiện của thân, khẩu và ý. Nghiệp Ác là hành động tạo tác ác của thân, khẩu và ý

SỰ VÃNG SANH CỦA ÔNG CỐ TÔI

Tôi tình cờ đọc được bài viết “CON ĐƯỜNG TU TẮT-PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ” (soạn giả: Cư Sĩ Thiện-Tâm) và biết được sự vãng sanh của ông Cố tôi là Trần Phong Sắc đã được ghi lại trong bài viết này trong phần sự tích vãng sanh ở nước Việt Nam. Tôi từng có nghe người nhà nói nhiều về ông Cố và nói ông Cố có viết quyển “Lão Nhơn Đắc Độ”. Ông Nội tôi là con của ông Trần Phong Sắc và hiện giờ vẫn còn sống và đang ở Long An. Hiện giờ, ông Nội và bà Nội tôi vẫn tinh tấn tu theo Pháp Môn Tịnh Độ và đã tu được mấy chục năm rồi. Tôi nói đây không phải là khoe khoang, mà xác nhận việc vãng sanh của ông Cố tôi là sự thật và đúng như bài viết “CON ĐƯỜNG TU TẮT-PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ”. Đây là 1 trong những bằng chứng trong nhiều trường hợp vãng sanh là có thật. Các bạn nên tin những gì tôi nói trên. Tôi cũng là Phật tử tại gia, thọ trì 5 giới cấm (trong đó có giới cấm không nói dối, bởi thế tôi không được nói dối). Vãng sanh Cực Lạc là có thật, rất nhiều chúng sanh đã vãng sanh Cực Lạc được ghi lại. Tôi tu theo pháp môn Tịnh Độ nhiều năm và tôi đã có Tín, Nguyện và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cũng được nhiều năm rồi. Các bạn nên tu theo pháp môn Tịnh Độ, có Tín (nghĩa là lòng tin chân thật, tha thiết, bền vững), Nguyện tha thiết, Hạnh (nghĩa là chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT nhiều mỗi ngày và giữ trọn đời không thay đổi). Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, thì các bạn chắc chắn vãng sanh Cực Lạc của Phật A Di Đà sau kiếp này. Vãng Sanh Cực Lạc tức là các bạn thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ. Nếu bạn nào chưa biết gì về Pháp Môn Tịnh Độ hoặc chưa tu theo Pháp Môn Tịnh Độ. Các bạn có thể tìm đọc những Kinh Phật (như Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ Phật…) hay những bài viết về Pháp Môn Tịnh Độ (tức là Pháp Môn Niệm Phật) của những Thầy trong mục “Tịnh Độ” trong những mạng Phật Giáo hay bạn có thể đọc bài viết “Khuyên Tu Pháp Môn Tịnh Độ” của tôi viết. Qua đó giúp các bạn tu theo Pháp Môn Tịnh Độ liền, nhằm được nhiều lợi ích cho mình và nhiều chúng sanh khác. Hầu giúp mình và nhiều chúng sanh khác tất cả đều vãng sanh Cực Lạc của Phật A Di Đà sau kiếp này và thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ. Bạn nào hiện đang tu theo Pháp Môn Tịnh Độ hãy nên Tín sâu hơn, Nguyện thiết hơn và trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT tinh tấn hơn. Để các bạn được vãng sanh Cực Lạc ở phẩm vị cao hơn, về cõi Cực Lạc tu hành tinh tấn hơn, sớm lên quả vị Bồ Tát, trở lại những Cõi độ vô lượng chúng sanh sớm thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ và tu hành thành Phật.

Trong Kinh Ðại Tập, Phật có nói: “Ðời mạt pháp, ức ức người tu hành, ít người được đạo, duy chỉ có nương theo pháp môn niệm Phật mới được độ”. Hiện tại, đây là thời Mạt Pháp muốn thoát khỏi sanh tử sau kiếp này chỉ có 1 con đường duy nhất là tu theo Pháp Môn Tịnh Độ. Ngày nay, các bạn tu theo Pháp Môn Tịnh Độ là làm đúng lời Phật dạy thì chắc chắn các bạn, 1000 người tu 1000 người đều vãng sanh Cực Lạc và hơn thế nữa. Không luận là các bạn bao nhiêu tuổi và hiện giờ đang ở đâu trong nước hay ngoài nước, vẫn ở tại nơi chốn của mình mà vẫn tu theo Pháp Môn Tịnh Độ và các bạn vẫn được vãng sanh Cực Lạc sau kiếp này. Hẹn tất cả các bạn ở cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà ở Tây Phương.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Dưới đây là những mạng kết nối, các bạn nhấn vào những mạng kết nối dưới đây để đọc để tìm hiểu về Pháp Môn Tịnh Độ (hay Pháp Môn Niệm Phật)

KINH A DI ĐÀ (Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch)

http://www.quangduc.com/tinhdo/13kinhdida.html

CON ĐƯỜNG TU TẮT-PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ (soạn giả: Cư Sĩ Thiện-Tâm)

http://www.thuvienhoasen.org/conduongtutat.htm

Khuyên Tu Pháp Môn Tịnh Độ (Cư Sĩ Thiện Thông)

http://www.tangthuphathoc.net/tinhdo/khuyentutinhdo.htm

Dưới đây là vài mạng kết nối hữu ích để giúp đạo hữu đọc những bài của nhiều Thầy, qua đó biết cách trợ niệm vãng sanh như thế nào cho những người khác trong gia đình, bà con, quyến thuộc…trước khi lâm chung hay sau khi mất trong vòng 49 ngày. Hầu giúp nhiều chúng sanh sớm được vãng sanh Cực Lạc của Phật A Di Đà thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ. Những bài này cũng giúp cho đạo hữu hiện đang tu theo Pháp Môn Tịnh Độ (hay Pháp Môn Niệm Phật) biết những điều quan trọng mình nên tránh và nên làm trước khi lâm chung để vượt qua những chướng duyên, giúp cho đạo hữu chắc chắn vãng sanh Cực Lạc sau khi bỏ thân mạng cuộc đời này.

Trích trong “Rốt Cùng Của Cuộc Đời” của Đại Sư Hoằng Nhất “Cho dù người nào lâm chung có duyên lành được thiện hữu trợ niệm mọi việc diễn ra đều như pháp, nhưng bản thân thường ngày phải có công phu tu trì mới có được lâm chung an nhiên tự tại. Tôi xin có lời khuyên các bậc hiền giả, tốt nhất là khi còn sống chuẩn bị tư tưởng vãng sanh mới là thoả đáng”.

Nghĩa là mình nên tu theo Pháp Môn Niệm Phật lúc còn sống, có Tín sâu, Nguyện thiết và Hạnh tinh tấn (tức là trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT) để khi lâm chung thói quen niệm Phật đó sẽ giúp mình nhớ đến niệm Phật và cái Lực sẽ tác động mình trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật 1 cách dễ dàng. Đừng nên chờ trước khi lâm chung mới bắt đầu Niệm Phật. Mặc dù biết rằng trước khi lâm chung trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật mười niệm vẫn được Vãng Sanh Cực Lạc (trích trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ), nhưng rất là khó vì có người khi lâm chung bị nhiều thứ chi phối (như thân thể đau đớn, tâm sợ hãi lo sợ, hình ảnh xấu hiện trong tâm, hoặc thấy oan gia trái chủ…) rất khó mà trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật đến mười niệm. Đừng nên nghĩ mình đợi tới lúc lâm chung trông cậy vào Ban trợ niệm hay người nhà mình trợ niệm thì lúc đó mình mới bắt đầu niệm Phật. Mình đâu biết lúc mình lâm chung có Ban trợ niệm hay người nhà mình trợ niệm ở đó hay không. Bởi thế, lúc còn sống mình nên tu theo Pháp Môn Niệm Phật, có Tín (nghĩa là lòng tin chân thật, tha thiết, bền vững), Nguyện tha thiết, Hạnh (nghĩa là chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT nhiều mỗi ngày và giữ trọn đời không thay đổi). Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, thì cho dù lúc mình lâm chung có Ban trợ niệm hay người nhà mình niệm Phật ở đó hay không thì mình vẫn trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT thì mình chắc chắn vãng sanh Cực Lạc sau khi bỏ thân mạng cuộc đời này.

Trích trong “Những Điều Cần Biết Khi Lâm Chung” (Tác giả: Pháp Sư Thế Liễu, Việt dịch: Thích Tâm An)

Hỏi: Người tu niệm Phật vào giờ phút lâm chung thế nào gọi là đầy đủ nhân duyên có thể vãng sinh Cực Lạc?

Ðáp: Như có hạng người có căn cơ rất lớn, lúc bình thường hết sức tin sâu nguyện thiết niệm Phật, tín nguyện lại tha thiết, công phu niệm Phật lại thuần thục, đến giờ phút lâm chung không cần người trợ niệm, mà tự họ có thể tín nguyện niệm Phật như bình thường, không có một mảy may tưởng khổ vui… làm xao động, mà niệm niệm luôn an trụ vào hồng danh, A DI ÐÀ PHẬT vì vậy trong Kinh A Di Ðà Phật nói: “Nhất tâm bất loạn, tức được vãng sinh” là vậy (“nhân” của tâm niệm tự lực cảm ứng với “duyên” cảnh giới của Phật) đây là ý nghĩa đầy đủ nhân duyên vậy.

Bởi thế mình nên khuyên người nhà, bạn bè hay quyến thuộc… lúc còn sống nên tu theo Pháp Môn Niệm Phật, có Tín sâu, Nguyện thiết và trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT tinh tấn. Đến lâm chung họ có người trợ niệm hay không thì họ vẫn giữ niệm Phật. Nếu còn sống mà không có Tín, Nguyện, niệm Phật, e rằng lâm chung hay trong vòng 49 ngày sau khi chết rất khó khuyên họ niệm Phật. Thời điểm này muốn giúp họ chỉ là những hy vọng vì lúc lâm chung hay trong vòng 49 ngày họ bị nhiều thứ chi phối, rất khó mà niệm Phật theo. Nhưng mà đây cũng là những cơ hội cuối để khai thị, khuyên họ niệm Phật và trợ niệm vãng sanh cho họ, và hồi hướng những công đức niệm Phật trong vòng 49 ngày cho chúng sanh đã mất… nhằm giúp chúng sanh đó được liền vãng sanh Cực Lạc, trước khi họ có thể đi luân hồi. Bởi thế mình nên khuyên người nhà, bạn bè hay quyến thuộc… lúc còn sống nên tu theo Pháp Môn Niệm Phật, có Tín (nghĩa là lòng tin chân thật, tha thiết, bền vững), Nguyện tha thiết, Hạnh (nghĩa là chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT nhiều mỗi ngày và giữ trọn đời không thay đổi). Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau. Nếu lúc lâm chung có Ban Trợ Niệm hay người nhà trợ niệm thì giúp cho họ vãng sanh Cực Lạc ở phẩm vị cao sau kiếp này.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Đạo hữu muốn đọc Những Bài Trợ Niệm Vãng Sanh chỉ cần nhấn vào những mạng kết nối phía dưới để đọc:

Lâm Chung Tam Đại Yếu Quyết (Ấn Quang Đại Sư)

http://www.tangthuphathoc.net/tinhdo/lamchungtamdaiyeuquyet.htm

Những Điều Cần Biết Khi Lâm Chung (Tác giả: Pháp Sư Thế Liễu, Việt dịch: Thích Tâm An)

http://www.tangthuphathoc.net/tinhdo/nhungdieucanbietkhiamchung.htm

Bộ Phim: Trợ Niệm Và Chuẩn Bị Khi Lâm Chung (Tỳ Kheo Thích Nhuận Nghi biên soạn)

http://www.tangthuphathoc.net/tinhdo/troniemvachuanbikhilamchung.htm

Chúc đạo hữu tất cả đều sớm vãng sanh Cực Lạc thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Cư Sĩ Thiện Thông,

MƯỜI CÔNG ĐỨC NIỆM PHẬT

Trong kinh nói: “ Người nào chí tâm niệm Phật, được mười món công đức như sau:

1-Thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, Đức A-Di-Đà phóng quang nhiếp thọ.
2- Thường được các vị Đại Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm thủ hộ.
3- Ngày đêm thường được chư Thiên cùng Đại lực Thần tướng ẩn hình ủng hộ.
4- Tất cả Dạ-xoa, ác quỉ, rắn độc, thuốc độc đều không thể làm hại.
5- Không bị những tai nạn: nước, lửa, đao, tên, gông, xiềng, lao ngục, giặc cướp, oan gia, cùng các thứ chết dữ.
6- Những tội đã làm thảy đều tiêu diệt, những kẻ chết oan vì mình đều được giải thoát, không còn kết oán ràng buộc.
7- Ban đêm nằm ngủ thường thấy điềm lành, hoặc thấy sắc thân thắng diệu của Phật A-Di-Đà.
8- Tâm thường vui vẻ, sắc thường tươi nhuận, khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp lợi ích.
9- Mọi người trông thấy đều vui mừng, cung kính hoặc lễ bái cũng như kính Phật.
10- Khi mạng chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được Tây phương Tam-Thánh tiếp dẫn sanh về Tịnh-Độ hưởng sự an vui không cùng!”

KHUYÊN ĐỪNG ĂN MẠNG

Thầy nói “ăn mặn” xuất xứ từ chữ “ăn mạng” mà ra. Sau này “ăn mạng” người ta nói quen riết thành ra ăn mặn cho dễ nghe. Thật sự, ăn mặn tức là ăn mạng, nghĩa là ăn mạng con này con nọ như thịt, cá, đồ biển…. Trong bài này, tôi khuyên đạo hữu đừng nên ăn mặn, đạo hữu nên hiểu là đừng nên ăn mạng, chứ không phải đừng nên ăn vị mặn. Tôi khuyên đạo hữu đừng nên ăn mặn vì nhiều lý do. Thứ nhất, ăn mặn làm mình dễ bị bệnh và việc ăn mặn lại càng nguy hiểm đến sức khỏe. Mình đâu biết những xác con này con nọ có bệnh này bệnh nọ không. Thứ 2, theo đạo Phật, mình sát sanh thì sẽ mang nhiều thứ bệnh và đoản thọ, và những chúng sanh bị mình giết sẽ trở thành oan gia trái chủ của mình. Thứ 3, theo đạo Phật là những con vật, con cá, đồ biển… đều có sự sống và chúng nó cũng sợ chết như mình, nó cũng tham sống sợ chết như mình. Nếu nó không sợ chết và không biết đau, thì chúng nó không cố gắng giẫy giụa hay tìm cách thoát chết khi mình giết nó. Tuy nó hình thể khác mình, nhưng nó cũng là sự sống dưới hình dạng khác. Thứ 4, theo đạo Phật, những con vật mình sát hại hoặc ăn, mình đâu biết đó có thể là cha, mẹ, vợ, chồng, anh, em…của mình từ nhiều kiếp trước. Thứ 5, theo đạo Phật mình không ăn mặn để trưởng dưỡng tâm từ bi của mình.

Có người nói ăn chay thì không đủ chất, đều đó không đúng. Đâu phải chỉ có thịt, cá, đồ biển hay con này con nọ… mới có chất này chất nọ…Trong rau, quả, trái cây, đậu nành… cũng có những chất như trong thịt, cá… Nếu nói ăn chay không đủ chất, thì tại sao nhiều Thầy tu ăn chay trường từ nhỏ mà vẫn sống thọ và khỏe mạnh. Tôi thấy đa số Thầy tu đều sống thọ, có nhiều Thầy tu ăn chay từ nhỏ, ăn chay trường mà vẫn khỏe mạnh. Tôi có kinh nghiệm riêng, lúc trước tôi ăn mặn, tôi thường cảm thấy mệt và khó thở, đi bác sĩ vẫn không biết lý do tại sao tôi bị triệu chứng như thế. Bác sĩ cũng không biết thật sự nguyên nhân như thế nào. Thời gian sau, tôi ăn chay tự nhiên tôi cảm thấy khỏe và không bị mệt và khó thở nữa. Tôi trở lại bác sĩ và nói, tôi ăn chay và không còn cảm thấy mệt và khó thở nữa. Bác sĩ cũng ngạc nhiên và nói tốt. Có lúc tôi ăn mặn lại thì cảm thấy mệt và khó thở nữa. Và hầu như, nhiều lần sau tôi ăn mặn thì vẫn cảm thấy mệt và khó thở nữa. Nhưng khi tôi ăn chay thì không khó mệt và khó thở nữa. Bây giờ tôi đã ăn chay rồi và vẫn còn đang ăn chay. Câu chuyện tôi kể là sự thật. Tôi nghe có đạo hữu nọ nói, có người giàu kia, ăn nhiều đồ mặn và ăn tôm hùm, thời gian sau bị bệnh sau đó chuyển sang bệnh thận. Không phải có tiền mà ăn mặn nhiều là khỏe mạnh, đó là quan niệm sai lầm. Còn vấn đề mà bệnh do di truyền hay bệnh do sống dưới môi trường nguy hiểm, thì không nói tới. Bệnh có thể phát sinh ra do những gì mình ăn vào. Người ta có câu, “họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập”, nghĩa là mình mang họa cũng do miệng mình nói xấu hay ác, bệnh cũng xuất phát từ những gì mình ăn vào. Chắc đạo hữu có nghe tiếng Thầy Tuệ Hải trị nhiều người hết bệnh, thật ra là một trong những cách trị bệnh của Thầy là không có ăn mặn. Mình không ăn mặn, nhiều khi đó là thuốc hay để trị bệnh. Chứ mình ăn nhiều đồ mặn khi mà độc tố nhiều vào cơ thể thì tới lúc đó nó sẽ phát sinh ra nhiều bệnh, tới lúc đó uống nhiều thuốc hay cũng không trị được nữa. Thật ra người bệnh trên mà tôi kể đạo hữu nghe, trước đây người đó ăn đồ mặn, thời gian sau bị bệnh rồi mới uống thuốc vào, nhưng thuốc cũng là con dao hai lưỡi, nó trị bệnh này, xong phản ứng phụ của thuốc làm mình sang tới bệnh khác, như người đó trước đây bệnh khác, nhưng uống thuốc sau đó bệnh chuyển sang bệnh thận. Đó là câu chuyện thật. Nếu mình không sát sanh mà ăn đồ mặn, thì mình cũng gián tiếp sát sanh, thì tội mình cũng ít nhiều trong đó, nếu mình không mua đồ mặn ăn thì làm sao người khác sát sanh để mà bán.

Nếu mình ăn đồ mặn nhiều, nữa những chúng sinh đó cũng ăn lại mình thôi. Đạo hữu thử nghĩ đi, từ hồi mình sanh ra tới bây giờ, cái bụng chứa bao nhiêu là xác của những con vật, con cá, đồ biển…? Thì phải nói là tội mình không nhỏ. Bây giờ đạo hữu nghe tôi khuyên, nên bỏ việc ăn mặn đi. Nhân Quả ba đời Quá Khứ, Hiện Tại và Vị Lai là không sai. Mình tạo Nhân tốt, mình được Quả tốt. Mình tạo Nhân xấu, mình lãnh Quả xấu. Nếu Nhân sát sanh và ăn mặn thì cái Quả hiện tại hay tương lai cũng không tốt gì. Đạo hữu nên tin luật Nhân Quả. Luật Nhân Quả là thật sự có, Đức Phật có khả năng thấy biết được điều đó. Có thể, bây giờ 1 người tạo Nhân tốt hay xấu, tùy nhân duyên mà Quả tốt hay xấu có thể đến với người đó ở cuộc đời này, hay kiếp sau, hay nhiều kiếp sau nữa… Ví dụ: nếu người đó sát hại người thì Quả xấu sẽ là bị người giết lại hoặc mang bệnh hoặc bị đoản thọ ở cuộc đời này, hay kiếp sau hay những kiếp về sau nữa…Như đạo hữu thấy đó, có người giàu, nghèo, đẹp, xấu, sang, hèn, bệnh tật, khỏe mạnh, chết yểu, sống lâu…Tất cả đều có Nhân Quả cả, không có tự nhiên mà có những sự sai biệt như thế. Trong nhà Phật, không có gì là may rủi, hên xui với may mắn cả. Muốn biết đời trước (hoặc nhiều kiếp trước) mình như thế nào, thì xem lại Quả hiện tại mình như thế nào, nếu muốn biết Quả đời sau và những đời sau như thế nào, thì xem lại Nhân hiện tại của mình tạo.

Đôi lúc mình không có khả năng thấy biết hay chứng kiến tận mắt được Luật Nhân Quả thì không phải là không có, mà thật sự là luật Nhân Quả là có, nhưng mình chưa có khả năng hiểu và thấy biết luật Nhân Quả 1 cách toàn diện. Như đạo hữu muốn có trái đu đủ (Quả), thì phải gieo hạt giống đu đủ (Nhân). Chứ không thể gieo trái giống ổi mà ra trái đu đủ được.

Có người gieo Nhân đời này, mà được hưởng Quả đời này hoặc có thể kiếp sau hoặc nhiều đời nhiều kiếp sau mới hưởng cái Quả. Khi Nhân đã có, phải hội đủ duyên thì cái Quả mới trổ. Ví dụ, như gieo hạt giống đu đủ (Nhân), thì phải có duyên hội tụ đầy đủ là điều kiện khác, yếu tố môi trường như đất, nước, ánh sáng, người chăm sóc…khi nhân duyên đã đầy đủ mới ra trái đu đủ (Quả). Nhân Quả cũng thế. Khi đã có Nhân thì phải có đầy đủ duyên khác, khi nhân duyên đã đầy đủ lúc đó Quả đến, trong đạo Phật dùng từ là Định Nghiệp thì lúc đó có chui vào lòng đất, trốn trong hang, bay lên trời cũng không tránh được cái Quả. Cho dù trước đó là mình là phàm phu mà tạo Nhân xấu, nhưng khi mình tu tới quả vị Thánh thì vẫn trả Quả xấu mình tạo ra lúc còn phàm phu. Trong nhà Phật có câu: Bồ Tát sợ Nhân, chúng sanh sợ Quả. Bồ Tát thấy được luật Nhân Quả, nên không tạo Nhân ác để tránh Quả ác. Chúng sinh không thấy luật Nhân Quả nên tạo Nhân xấu, khi Quả xấu tới thì mình sợ. Luật Nhân Quả, mình phàm phu chưa hiểu hết luật Nhân Quả 1 cách toàn diện, nhưng trong cuộc sống, mình ít nhiều cũng thấy phần nào đó.

Không phải lúc nào mình tạo Nhân gì thì mình lãnh Quả đó. Nếu mình biết cách chuyển thì Quả xấu sẽ nhẹ hơn mức độ nào đó. Nếu mình làm nhiều điều thiện, điều lành, sám hối, bố thí, trì giới, trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT, tạo các Công Đức lành…Nếu mà Nhân xấu thì Quả xấu sẽ nhẹ hơn ở mức độ nào đó, chứ không phải là Quả xấu hoàn toàn mất tất cả. Nếu như 1 nắm muối bỏ vào tô nước, tô nước đó sẽ rất mặn, nếu cũng cùng 1 nắm muối, nếu bỏ vào hồ nước thì hồ nước sẽ đỡ mặn hơn nhiều. Cũng như thế, nếu mình biết làm nhiều điều lành, điều thiện, sám hối, bố thí, trì giới, trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT, tạo các Công Đức lành… Thì mình sẽ chuyển đổi cái Quả xấu mình ở mức độ nhẹ nào đó, chứ không mất hoàn toàn. Bên cạnh đó, mình đừng nên tạo những Nhân xấu, ác khác nữa. Ví dụ như: đừng nên sát sanh và ăn đồ mặn nữa…

Đạo hữu thấy không sống trong kiếp sống sanh tử luân hồi này rất nguy hiểm và đau khổ. Ví dụ như việc ăn mặn này, theo quan niệm thế gian nhiều người cho rằng ăn mặn không phải là điều xấu. Quan niệm sai lầm như thế, đã kéo nhiều người tạo Nhân xấu, mà những người đó không hề hay biết. Kết quả là những người đó phải chịu Quả Báo xấu sau này. Mình sống trong cuộc sống này khi chưa biết Phật Pháp ít nhiều gì tâm mình cũng bị nhiễm bởi những quan niệm sai lầm như những người trên như thế, và tạo những Nhân xấu như thế. Những người quan niệm sai lầm như trên thật đáng thương, họ si mê và còn đi vào trong tối, thì thử hỏi chừng nào họ mới thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ. Chúng ta biết Phật Pháp, đừng nên tạo Nhân xấu, để đừng rơi vào Tam Ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) để chịu nhiều đau khổ và khó ngày ra khỏi. Nay mình biết Phật Pháp, biết sát sanh, ăn mặn là những điều ác thì mình nên tránh.

Đạo hữu nên tu theo Pháp Môn Tịnh Độ để được vãng sanh Cực Lạc sau kiếp này. Vãng sanh Cực Lạc tức là đạo hữu không còn sanh tử luân hồi đau khổ nữa. Theo đạo Phật, đây là thời Mạt Pháp, sau thời Mạt Pháp này qua rồi, Phật Pháp bị diệt phải đợi rất rất rất lâu thì Phật mới ra đời. Nếu mình đánh mất cơ hội tu theo pháp môn Tịnh Độ cuộc đời này, mình sanh tử luân hồi lại rất là đau khổ và nguy hiểm, cho dù ở cõi Người đi chăng nữa lúc đó ngoại đạo, những người ác, những cái ác và cái xấu sẽ rất nhiều và lẫy lừng trong xã hội. Lúc đó không gặp Phật Pháp thì làm sao mình thoát khỏi sanh tử luân hồi tới lúc đó mình rơi vào Tam Ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh rất là dễ. Thêm vào đó, nếu mình tái sanh ở cõi này, nếu không gặp được Phật Pháp, tới lúc đó gặp nhiều cái ác, cái xấu, người xấu, người ác, không có thiện tri thức hướng dẫn mình tu theo Chánh Pháp (Phật Pháp), tức là bỏ cái xấu, cái ác, làm điều thiện điều lành…Thì mình rất dễ rơi vào Tam Ác Đạo (là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Tới lúc đó chịu rất nhiều đau khổ và thời hạn bị đọa cũng rất là lâu. Những điều trên tôi không nói dối vì tôi có thọ trì năm giới cấm (trong đó có giới cấm không nói dối) và những điều trên tôi nói đúng với Phật Pháp và đúng với những lời Thầy dạy

Đạo hữu nên nhớ tu theo pháp môn Tịnh Độ (tức là Pháp Môn Niệm Phật), có Tín (nghĩa là lòng tin chân thật, tha thiết, bền vững), Nguyện tha thiết, Hạnh (nghĩa là đạo hữu chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT nhiều mỗi ngày và giữ trọn đời không thay đổi). Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau. Thì đạo hữu chắc chắn sẽ được vãng sanh Cực Lạc sau khi lâm chung ở cuộc đời này. Vãng sanh Cực Lạc tức là đạo hữu không còn sanh tử luân hồi đau khổ nữa.

Chúc đạo hữu thân tâm đều an lạc và tất cả được sớm vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà ở Tây Phương.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Cư Sĩ Thiện Thông,

Đây là những phần trích trong những bài viết của những Thầy mà tôi đã trích. Đạo hữu nên đọc để hiểu thêm những điều hại và nguy hiểm do ăn mặn (ăn mạng) gây ra

Khai Thị Về Ăn Chay
Hòa Thượng Tuyên Hóa

Mỗi người đều có nhân quả báo ứng của riêng mình. Hễ tạo nghiệp gì thì chịu quả báo đó. Không những chỉ có loài người là phải chịu quả báo mà tất cả chúng sanh cũng vậy; tạo nghiệp từ xưa, ngày nay gặt quả. Ðiều đó không dễ hiểu đâu. Ví như bị đọa làm súc sinh hoặc ở nơi ác đạo thì rất khó khôi phục lại thân người; nên nói rằng:

Nhất thất nhân thân,
Vạn kiếp nan phục.

Nghiã là:

Thân người mất rồi,
Vạn kiếp khó tìm.

Trên thế gian, có hai loại nhân: một là nhân thiện, hai là nhân ác. Khi mình trồng nhân thiện thì gặt quả thiện, khi trồng nhân ác thì gặt quả ác.

Song, cái nhân ác lớn nhất là gì? Tức là sát sinh! Con người nếu phạm Ngũ Giới (sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu) thì sẽ rất dễ đọa vào ba ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) và cũng rất dễ thành kẻ đầy dẫy tri kiến sai lầm, tà vọng, không tin Phật Pháp, không kính Tam Bảo. Ðọa vào ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) rồi thì khổ không cách gì nói được.

Tội lỗi lớn nhất mà mình đã phạm là gì? Tức là sát sinh, ăn thịt. Nếu bạn ăn thịt của người thì sau đó người sẽ ăn thịt của bạn lại. Hỗ tương ăn thịt lẫn nhau, hỗ tương chém giết, rồi hỗ tương đọa lạc. Một khi đã đọa lạc thì khó mà tiến lên được, đó là điều hết sức nguy hiểm, là đi vào “hiểm lộ” vậy.

Khi mình giết súc vật thì cũng tạo ra một thứ oán hận trong tâm chúng; lúc gần chết vì quá khủng khiếp và sợ hãi nên chúng nảy sinh lòng cừu hận muốn báo thù. Bởi vậy từ nơi lòng oán hận phẫn uất ấy phát tiết ra một độc tố thấm suốt da thịt chúng, nên hễ ai ăn thịt chúng thì giống như ăn phải chất độc vậy! Lúc ăn thì không thấy hại, nhưng dần dà sẽ mắc đủ chứng bịnh kỳ quái mà chẳng có thuốc gì cứu nổi.

ĂN CHAY

Thích Thiện Hoa

2. Vì muốn tránh quả báu luân hồi

Phật dạy: “Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, cứ tạo nhân tội ác, sát hại ăn thịt lẫn nhau, nên bị ác quả, là sanh tử luân hồi mãi trong sáu đường”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Hễ giết một mạng thì hãy trả lại một mạng; tâm giết hại chẳng dứt trừ, thì không thể nào ra khỏi trần lao được.” Vậy muốn tránh oan báo luân hồi, tránh các điều tội lỗi thuộc về giới sát. Phật tử phải ăn chay. Nếu ăn mặn hoài thì không thể nào hết nợ thân mạng và nợ xương thịt, máu huyết được.

3. Vì hợp vê sinh

Không phải mới từ nay mà từ ngàn xưa, một triết gia, ông Senèque, đã nói rằng: “Mỗi bữa ăn, người ta dùng thịt là tự đầu độc, thành thử con người tự sát ngấm ngầm mà không hay biết, do đó con người bị mạng yểu, chết sớm”. Thật thế, ngày nay những nhà y khoa bác sĩ trứ danh như ông Soteyko, Varia Kiplami có nói: “Trong các thứ thịt, có nhiều chất độc rất nguy hiểm cho sức khỏe con người”. Bằng chứng cụ thể là rau cải để lâu ngày thì héo khô, hoặc ung bấy mà ít hôi; còn thịt cá để lâu ngày thì sình, ương, hôi tanh không ai chịu nổi, và khi ăn vào, ta thấy trong người rất nặng nề, mệt nhọc ,khó tiêu. Hơn nữa, các loài thú vật, thường mắc bệnh này hay bệnh khác như: bệnh lao, bệnh thương hàn v.v…,nếu chúng ta ăn vào, sẽ vướng bệnh, rất nguy hiểm.

Ðể tránh những bệnh tật, và tăng sức khỏe, chúng ta nên ăn nhiều rau cải. Các nhà khoa học, cũng như các nhà y học Ðông, Tây đều công nhận đồ ăn chay là nhẹ nhàng, thanh khiết, dễ tiêu hóa và có nhiều sinh tố rất bổ. Bởi thế, ở nước Nhật có hội “Tổ Thực Chủ Nghĩa”, ở Pháp, Ðức, Anh, Mỹ đều có “Thảo Mộc Thực Hội”.

Có nhiều người có thành kiến sai lầm rằng: ăn thịt cá, mới có đủ sức mạnh. Thật ra, người ăn thịt không có sức mạnh và sức chịu nhọc dẻo dai bằng người ăn chay trường. Chính Giáo sư Irwin Fischer ở Ðại học đường Yale, sau nhiều cuộc thí nghiệm, đã long trọng tuyên bố rằng:

” Ăn thịt hay ăn những vật có nhiều chất đạm, sẽ làm cho con người không đủ sức chịu nhọc, không khác nào như người uống rượu”.

Bà White, một bác học gia cũng đã tuyên bố rằng:

” Các thứ hột, các thứ trái cây, đậu và rau cải là những thức ăn mà thiên nhiên đã dành để nuôi chúng ta. Các thức ăn ấy nấu nướng một cách giản dị, thì rất hợp vệ sinh và rất bổ. Nó làm cho thân thể tráng kiện, tinh thần sáng suốt và tránh biết bao nhiêu bệnh tật”.

Ăn Chay, Sát Sanh và Quả Báo

Tác giả: Thích Tâm Anh

1. ăn chay được mạnh khoẻ, sống lâu

Thứ nhất: thức ăn chay không độc, thịt có độc

Thức ăn chay phần nhiều đều là rau quả, sinh trưởng lớn lên từ đất, hoặc rong biển… đã nhiều dinh dưỡng lại không có độc tố. Những thực vật này giúp máu giữ được chất kiềm – đây muốn chỉ máu ấy trong sạch. Y học gọi là kiềm tính thực vật. Thực phẩm có thịt ăn vào có thể khiến cho máu mang tính chua – đây muốn chỉ máu ấy dơ, do đó thịt được gọi là thực phẩm mang tính chua. Người ăn chay máu sạch, nên tuần hoàn nhanh, khiến cơ thể nhẹ nhõm thoải mái, hoạt bát, chịu đựng giỏi, suy nghĩ nhanh lẹ và sống lâu. Như Hòa thượng Triệu Châu, một cao tăng Phật giáo đời Đường sống đến 150 tuổi. Hòa thượng Hư Vân thời cận đại sống được 120 tuổi. Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, Đài Loan, nhờ nhiều năm trường trai, 95 tuổi mà vẫn sáng suốt. Những điều này đều là hiện thực chứng minh ăn chay mạnh khỏe, sống lâu. Lại như quán quân bơi lội Mậu-lâm-la-tư của thế vận hội Olimpic, lần đầu tiên, tốc độ của anh ta thật kinh người. Là vận động viên nổi tiếng nhất, anh ta là một người ăn chay. Theo báo cáo của Kiện Đức, một nhà hóa học trứ danh Pháp quốc, ông ta phát hiện thực phẩm thịt là một loại thực phẩm trúng độc mang tính chậm. Bởi vì xuất xứ của thịt là từ heo, dê, gà, vịt… mà động vật lúc vội vàng, giận dữ hoặc sợ hãi thì trong cơ thể sản sinh một vật tiết ra độc tố, độc tố ấy nhanh chóng truyền khắp các mạch máu vi tế và thịt trong toàn thân. Vật tiết độc chất này thông thường đều đầy trong cơ thể, tác dụng “cái mới thay đổi cái cũ” bài xuất ra ngoài, hoặc ra bằng đường đại tiểu tiện. Nếu con vật bị giết trong lúc đang giận dữ hoặc sợ hãi, bộ máy cơ thể bị đình chỉ hoạt động, vật tiết xuất độc tố này không được bài xuất ra, vẫn tồn đọng trong máu thịt. Nếu ăn vào loại thịt này, tất bị trúng độc tố ấy. Cho nên, ăn thịt bằng với trúng độc mang tính chậm. Đã từng có người thí nghiệm qua. Động vật trong lúc giận dữ hoặc sợ hãi, chất tiết độc tố mà cơ thể sản sinh ra, nếu hút ra bằng ống thủy tinh, chỉ cần độc tố bằng một cây nhang đã có thể giết chết một mạng người. May mà độc tố này khi gặp rau quả, bị hóa giải bớt một phần nào.

Thứ hai: Nhân loại nên ăn chay, chớ nên ăn thịt

Theo tiến sĩ Hàn Đinh Đốn của trường đại học Ca-luân-tỷ-á Mỹ quốc, đã từng giải phẫu phân tích đường ruột, chứng minh con người thích hợp ăn chay mà không thích hợp ăn thịt. Ông ta giải thích ruột non của động vật ăn thịt thì ngắn, ruột già thẳng và trơn nhẵn; ruột non của động vật ăn chay thì dài, ruột già cũng dài; ruột của động vật ăn thịt lẫn ăn chay dài hơn động vật ăn thịt, ngắn hơn động vật ăn chay. Ruột già của con người dài khoảng 5 – 6 mét và quằn tới quằn lui, vách ruột không láng đồng thời chồng lên một đống. Đường ruột như thế chỉ thích hợp với ăn chay, không thích hợp với ăn thịt. Bởi vì thịt ít chất xơ, sau khi tiêu hóa để lại cặn bã. Ruột của con người tương đối dài, thức ăn ở trong ruột quá lâu sẽ sinh ra độc tố, tăng thêm gánh nặng cho gan. Gan quá sức chịu đựng sẽ trở nên xơ cứng, thậm chí ung thư. Lại nữa, trong thịt có rất nhiều a xít uric, Urê, ăn vào tăng thêm gánh nặng cho tạng thận, dẫn đến bệnh thận. Vả lại, thịt ở trong ruột già, ruột non phải qua sự hấp thu quá độ không cần thiết. Và thịt vốn lại thiếu chất xơ, dễ tạo nên táo bón, dẫn đến bệnh trĩ và ung thư trực tràng. Sự phân tích đường ruột con người trên đây, đủ để chứng minh con người ăn thịt là “tự rước họa vào thân”.

Thứ ba: Thức ăn thịt dễ dẫn đến bệnh tật

Sự nguy hại lớn nhất đến sức khỏe của người già, trung niên là colesterin, mà hàm lượng colesterin tương đối có nhiều trong não, thần kinh, máu, nước mật, lòng vàng trứng và mỡ… của động vật. Colesterin là chủ thể cấu thành hocmon của tuyến thượng thận và vitamin D. Tố chất dinh dưỡng này, thanh niên, trung niên hấp thu một lượng vừa phải rất là hữu ích. Nếu trong máu của một người chứa colesterin quá nhiều, sẽ dẫn đến xơ cứng động mạch, bệnh tim, bệnh cao huyết áp… Tuổi trung niên trở lên thì cơ thể, sinh lý có chiều hướng suy dần. Tất nhiên, cần phải tránh ăn nhiều thực phẩm thịt hàm chứa phong phú chất colesterin để giữ sức khỏe cơ thể.

Lại một chứng minh nữa: nhà dinh dưỡng học Kha-lâm-tư, Mỹ quốc nói: “Nhân loại nếu có thể bỏ ăn thịt, thì sẽ thu được lợi ích vô cùng”. Ăn chay có thể giữ lâu tuổi trẻ, tinh lực dồi dào, đầu óc mẫn tiệp, da thịt mềm mại, đây là hiện tượng của tuổi trẻ. Ngược lại, thân thể mệt nhọc, thần trí hôn ám, da thịt xù xì, lộ ra dáng vẻ lão hóa. Nay lấy ba cái này làm chuẩn, so sánh giữa ăn chay và ăn mặn, nhà dinh dưỡng học Chu Tu Tuệ nói: “Ăn nhiều thực phẩm có thịt, trong y học gọi là thực vật mang tính chua, có thể làm cho máu mang tính chua, máu dơ. Lúc muốn trung hòa tính chua này, chất canxi trong máu phải tiêu hao lượng lớn. Lượng canxi mất, tế bào sẽ bị lão hóa, cơ thể mỏi mệt không sức chịu đựng, dễ đưa đến thần trí hôn ám và suy yếu. Còn ăn nhiều rau xanh, trái cây, những thực vật mang tính kiềm này, có thể làm cho máu giữ được chất kiềm, máu trong sạch, khiến cho cơ thể nhẹ nhàng, thoải mái, chịu đựng giỏi, đầu óc nhanh nhạy đồng thời có thể sống lâu”.

Trên đây, đã đối chiếu sức khỏe và tinh thần của người ăn chay và người ăn mặn, rõ ràng đã thấy: một giữ được vẻ thanh xuân, một suy yếu lão hóa. Sự láng mịn và xù xì của da, chỉ nhìn qua ta có cảm giác ngay là già hay trẻ. Cho nên, da thịt mịn màng là điều kiện chính của sự trẻ mãi. Ăn chay làm sao giữ được nước da mịn màng? Điều này cần phải nói từ thực phẩm dầu mỡ nào mà người ăn chay đã ăn. Giá trị dinh dưỡng của mỡ là: thứ nhất, cung cấp nhiệt năng. Thứ hai, duy trì nhiệt độ cơ thể, bảo vệ nội tạng và làm tươi nhuận da. Thứ ba, giúp đỡ hấp thu vitamin. Chất mỡ quá nhiều làm cho người ta mập, dễ mắc bệnh cao huyết áp, mạch máu não cho đến các bệnh tim, gan, phổi, thận… Nếu mỡ quá ít khiến cho người ta gầy gò, dễ mắc các chứng suy nhược cho đến các bệnh về da. Có hai nguồn mỡ: một là mỡ từ động vật, như mỡ của heo, dê và thịt mỡ, gọi là mỡ động vật. Hai là mỡ từ nhân thực vật, như dầu phụng, dầu đậu nành, gọi là dầu thực vật. Sự hơn thiệt của hai loại dầu mỡ này khác nhau rất lớn. Mỡ động vật là mỡ bão hòa, nhiều colesterin, dễ dẫn đến xơ cứng động mạch, cao huyết áp, bệnh tim, cũng có lợi cho việc sinh sản ung thư tế bào. Dầu thực vật không phải là dầu bão hòa, có thể thúc đẩy tăng gia bài tiết tính chua của nước mật, làm cho colesterin xuống thấp, tránh được bệnh tim và các chứng huyết quản khác. Từ đó có thể thấy, người ăn chay sử dụng dầu thực vật, quả thật là một yếu tố lớn để khỏe mạnh tươi da. Hàm lượng dầu trong thực vật, nhiều nhất là ở hồ đào, chứa 66.90%. Thứ hai là đậu phụng, chứa 48.70%. Thứ ba là mè trắng, chứa 48.23%. Thứ tư là đậu nành, chứa 20.20%. Những dầu này đều không phải là dầu bão hòa, ăn vào có ích không hại. Hàm lượng mỡ trong động vật, nhiều nhất là ở thịt heo, chứa 57.80%. Thứ hai là thịt dê, chứa 25.00%. Thịt bò chứa 13.50%. Nhưng những loại mỡ này đều thuộc mỡ bão hòa, chứa rất nhiều colesterin, dễ dẫn đến bệnh tim, bệnh huyết quản.

4. Người ăn chay tăng trưởng lòng từ bi

Ăn chay đối với nhân loại mà nói, không kể là giữ được thân thể khỏe mạnh, hay tránh được nhân quả nghiệp báo, những lợi ích khác không thể nói cùng. Lại từ một người khuếch đại đến quốc gia xã hội, khiến cho xã hội an lành, thế giới hòa bình, có thể thấy lợi ích của ăn chay thật không thể tính đếm. Trong vô lượng lợi ích, tôi cho rằng lợi ích lớn nhất của ăn chay, phải là tăng trưởng lòng từ bi.

Sát sinh ăn thịt thật là ác nghiệp, tất phải thọ báo không còn nghi ngờ gì nữa. Có điều là thọ báo tùy theo tâm giết và cách giết tàn nhẫn hay không mà có nhanh chậm, nặng nhẹ, không thể nói một cách khái quát. Nếu sau khi sát sinh, sám hối tu thiện cũng có thể chuyển hậu báo thành hiện báo, trọng báo thành khinh báo. Tôi vì muốn để cho mọi người hiểu một cách thiết thực việc ác báo sát sinh ăn thịt, không ngại hiện thân thuyết pháp.

Làm sao tránh kiếp đao binh

1. Cội gốc đưa đến chiến tranh

Chúng ta phải hiểu rõ rằng, hết thảy nỗi thống khổ của chiến tranh từ đâu mà có? Không có điều gì là không có nhân quả. Quá khứ tạo nhân bát khổ, thì hiện tại phải chịu quả bát khổ. Hiểu được quan hệ của nhân quả thì biết ngay kiếp can qua cũng là một loại quả báo. Nhưng có một số người không tin vạn pháp đều có lý nhân quả. Bởi không học Phật, cho nên họ không tin lý nhân quả. Không tin nhân quả, vậy can qua nguyên nhân do đâu? Trí tuệ của phàm phu chỉ biết được hiện tại. Cách nhìn của phàm phu thế gian và cách nhìn của Thánh nhân căn bản không giống nhau. Cách nhìn của phàm phu chia làm hai loại: thứ nhất, họ cho rằng kiếp can qua là do bọn xâm lược chủ nghĩa đến quốc gây ra, muốn chinh phục thế giới mà gây nên chiến tranh. Cách nhìn thứ hai, họ cho rằng do bọn dã tâm trong nước không giữ bổn phận, nhiễu loạn trị an nội bộ, tạo phản dẫn đến đánh nhau, nên đã xảy ra kiếp nạn can qua. Phàm phu thường tình cho hai điều này chính là nguyên nhân gây nên chiến tranh. Thật ra, đây hoàn toàn không phải là nguyên nhân chính, chẳng qua chỉ là một trợ duyên mà thôi. Kiếp can qua là duyên, vậy thì nhân của nó ở đâu? Điều này không phải là cái mà kẻ thường tình có thể hiểu được, phải là bậc Thánh trí tuệ siêu xuất mới có thể thông tỏ.

2. Trí tuệ bậc thánh có thể thấy được quá khứ
Phật Pháp vô biên. Chỉ có Phật giáo mới có thể nói rõ được nguyên nhân vì sao xảy ra chiến tranh. Chúng ta đưa ra một ví dụ: Gieo hạt giống dưa xuống đất, đó gọi là nhân. Sau hạt giống nảy mầm, lớn lên ra trái, gọi đó là quả. Trợ duyên chính là điều kiện sinh trưởng. Giống như sau khi gieo hạt giống xuống, phải tưới nước, bón phân, có ánh sáng mặt trời mới sinh ra quả. Cho nên, chắc chắn có nhân, có duyên mới có quả. Như vậy, xem ra rõ ràng hơn rất nhiều. Thấy quả thì biết ngay nhân, giống như thấy dưa thì biết ngay dưa là từ hạt giống dưa mà có. Hiện tại, sở dĩ bị quả báo chiến tranh, là do đời trước tạo nhân chiến tranh. Quý vị phải biết, quả báo của chiến tranh là chết chóc, thì nhân của nó chắc chắn phải là nhân giết chóc. Lại thêm trợ duyên của bọn dã tâm và chủ nghĩa đế quốc, nên đã xảy ra quả báo chiến tranh. Nhưng rất tiếc, phàm phu không biết được nhân này, chỉ có Phật, Bồ tát mới hiểu rõ được. Điều này không phải nói dóc hay suy đoán. Phật, Bồ tát có thiên nhãn thông, cho nên thấy rất rõ nhân quả của chiến tranh, thấy được chúng sinh từ xưa đến nay luôn tạo nghiệp sát, không ai là không sát sinh. Và sát sinh được phân làm hai: một là trực tiếp giết, hai là gián tiếp giết. Tạo hai nghiệp sát này, lâu này gặp duyên tất kết thành quả chiến tranh. Vậy thì, thế nào là trực tiếp giết và gián tiếp giết? Đồ tể trực tiếp giết heo, dê, bò gọi là trực tiếp giết. Vì ngày nào chúng ta cũng ăn thịt nên đồ tể mới giết. Vì chúng ta họ mới giết, nên gọi là gián tiếp giết. Hai loại này đều là nhân sát.

3. Thủ phạm giết chính

Mọi người đều cho rằng, tội của người giết nặng còn tội của người ăn nhẹ, điều này không đúng. Luật pháp chính phủ, phạm tội cũng chia làm hai loại, đó là chủ phạm và tòng phạm.

Chủ phạm chính là tự tay mình làm, tòng phạm là hùa theo. Vậy thì người trực tiếp giết là chủ phạm hay là người ăn là chủ phạm? Điều này không nhất định. Thí như lúc đồ tể giết heo đi bán, lúc này đồ tể chính là chủ phạm, người mua thịt là tòng phạm. Nhưng thịt không đủ bán, người mua thịt nhiều quá, đồ tể bèn giết thêm, lúc này người mua thịt trở thành chủ phạm, và đồ tể là tòng phạm. Cho nên, có nhân như thế nào thì mỗi người tự chịu quả báo như thế ấy. Người thời nay không tin lý nhân quả báo ứng bằng người xưa. Trước đây, không những dân lành sợ nhân quả, mà ngay cả kẻ đồ tể cũng sợ nhân quả báo ứng, nên lúc sắp giết heo, miệng họ luôn nói thế này: “Heo này! Heo này! Mày đừng hận tao, mày là món ăn của thế gian, họ không ăn tao không giết, mày hãy đòi nợ người ăn thịt ấy!”. Bạn xem, chẳng phải người giết heo cũng sợ heo đến đòi mạng sao? Và rốt cuộc heo đòi nợ người ăn hay là đòi nợ người giết? Tục ngữ có câu nói rất hay: “Oan có gia trái có chủ”. Cho nên ăn có quả báo của ăn, giết có quả báo của giết.

Trong kinh cũng có một bài kệ rằng: “Cho dù trăm ngàn kiếp, nghiệp tạo ra hãy còn. Lúc gặp phải nhân duyên, quả báo phải nhận chịu”. Nghĩa là: Giả sử có trải qua trăm ngàn kiếp đi nữa, một thời gian lâu dài như thế, thì những nghiệp tốt xấu mà mỗi người ra tạo cũng không mất. Nên biết, giữa nhân và quả còn có cái duyên, khi nhân gặp duyên thì mình vẫn phải chịu quả báo.

Cư Sĩ Thiện Thông