Người Niệm Phật Nên Tu 4 Thứ Chánh Hạnh1. Dốc lòng tin lời Phật:

Đức Phật nói, người cực ác lúc sắp lâm chung thành tựu mười niệm cũng được vãng sanh. Mọi việc làm trong cả đời của ông chưa hẳn đến nỗi xếp vào hạng cực ác, thường ngày trì danh lại hơn mười niệm. Nếu chẳng được vãng sanh tức là Đức Phật làm lầm lạc người, dẫn người đi sai đường, lẽ nào lại có việc đó?

Nay ông chỉ cần tin chắc thật, niệm niệm chuyên thiết, ngày ngày chẳng kể, lần hồi đến lúc lâm chung chánh niệm cầu vãng sanh, hoàn toàn chẳng điên đảo thì nhất định được vãng sanh không nghi. Ví như trồng dưa quyết định được dưa, trồng đậu quyết định được đậu, lại như dùng bùi nhùi lấy lửa, đá nam châm dẫn kim, chỉ cần cơ cảm hợp nhau quyết định được ứng nghiệm, tự mình quyết đừng phát sanh sự chướng ngại mà không thể tiến tới trước.

Nếu nghi ngờ sâu nặng, tuy nghe nói như thế nhưng rốt cuộc vẫn cảm thấy hồ nghi. Đó là do nghiệp chướng mạnh mẽ, phải thường để khởi chánh niệm, lại thêm sớm chiều sám hối, lâu ngày dài tháng tự nhiên có thể hiển bày trí tuệ. Tin chắc không nghi thì việc niệm Phật cũng mười phần đắc lực.

Đây là điều trọng yếu thứ nhất mở đầu để phát khởi niềm tin nơi chánh hạnh.

2. Gần gũi bậc Thiện trí thức:

Niệm Phật tuy là việc rất dễ dàng nhưng niệm không đắc lực thì cảm thấy không có mảy may lợi ích. Khi gặp cảnh duyên chẳng thuận liền phát sanh sự thối lui lười biếng. Hoặc nghe các pháp Thiền Quán, lại suy nghĩ muốn Tham thiền tập Quán thay đổi pháp môn.

Nếu không gặp thầy lành bạn tốt cảnh sách bình luận xét định thì nhất định sai lầm không ít. Thế nên, tu hành tuy chính mình cần phải dụng công nhưng hoàn toàn nhờ vào lực của bậc Thiện tri thức. Trong kinh nói: “Bậc Thiện tri thức là nhân duyên hoàn toàn để được đạo. Nếu như tự mình ứng dụng công phu tu sai lầm thì mình nhờ Thiện tri thức chỉ điểm trở về chân chánh; tự mình công phu lười biếng thì nhờ Thiện tri thức cảnh giác sách tấn. Những điều mình không biết thì nhờ Thiện tri thức nói rõ; những điều mình đã biết phải nhờ Thiện tri thức ấn chứng”. Nếu người thông hiểu văn nghĩa thời nên nghiên cứu kinh giáo, tăng trưởng lòng tin Tịnh độ, cũng phải cùng với Thiện tri thức luận rõ, tìm xét một cách thiết thực mới tránh khỏi vướng mắc vào sự hiểu biết mà tự lầm lạc.

Pháp sư Tĩnh Am nói: “Tài nghệ nhỏ ở thế gian còn không thể không có thầy bạn, huống gì niệm Phật là pháp môn vượt thoát sanh tử. Nếu không có Thiện tri thức thì biết từ đâu mà khai phát? Ai dẫn dắt? Một niệm bất giác liền bị đọa lạc, sai lầm không nhỏ. Đến lúc lâm chung, bậc Thiện tri thức lại càng thêm quan trọng”.

Hòa thượng Thiện Đạo nói: “Phàm tất cả người mạng chung muốn vãng sanh Tịnh độ thì cần phải không được sợ chết. Thường nghĩ thân này nhiều đau khổ, bất thanh tịnh, nghiệp ác trùng trùng xen tạp. Nếu được bỏ thân hình nhơ nhớp này, siêu sanh Tịnh độ thì thọ hưởng vô lượng niềm vui, giải thoát con đường khổ đau sanh tử. Như vậy mới vừa ý, như cởi bỏ chiếc áo nhơ xấu được thay vào y phục quý đẹp. Chỉ nên buông bỏ thân tâm đừng sanh lòng lưu luyến.

Hễ gặp lúc có bệnh thì nghĩ nhớ về vô thường, nhất tâm niệm Phật đợi cái chết đến. Dặn dò người nhà và người lo bệnh vì tôi mà niệm Phật, không được nói việc tạp nhạp hằng ngày, sắp mạng chung thân thuộc không được khóc lóc rơi lệ và phát ra lời than thở ảo não, hoặc loạn tâm thần mất đi chánh niệm, chỉ nên đồng thanh niệm Phật trợ giúp vãng sanh, đợi khi hơi ấm hết rồi, lâu sau mới có thể bi ai than khóc.

Vừa có mảy may tâm luyến tiếc như thế liền trở thành chướng ngại chẳng được giải thoát. Nếu được người hiểu rõ Tịnh độ thường đến sách tấn thì rất là may mắn.

Tôi thường thấy người đời lúc bình thường niệm Phật cầu sanh Tây Phương, nhưng đến lúc lâm chung lại sợ chết, hoàn toàn chẳng nói đến việc vãng sanh giải thoát. Chết là việc trọng đại tự mình cần phải gắng sức!”.

Xem Hòa thượng Thiện Đạo khai thị như thế, có thể biết đây là mấu chốt trọng yếu. Trước phải gần gũi bậc Thiện tri thức, mới mong lúc lâm chung được sức mạnh tương trợ.

Đây là điều trọng yếu thứ hai cảnh sách huân tu nơi chánh hạnh.

3. Thường thêm tinh tấn:

Tinh tấn có nhiều dạng, như công khóa mỗi ngày và pháp Thập niệm sẽ nêu ở phần sau.

Mỗi ngày hạn định bao nhiêu cầu Phật hiệu, đó là tùy theo sự trù tính trong hoàn cảnh bận hay rãnh của mỗi người. Lập định khóa trình suốt đời này, mỗi ngày cũng không để gián đoạn, đó gọi là thường hằng tinh tấn.

Gặp lúc thanh nhàn, hoặc mỗi ngày một đêm, cho đến bảy ngày, hai mươi mốt ngày, bốn mươi chín ngày, hạn định thời gian chuyên niệm để mong nhanh chóng chứng đắc tam muội, đó gọi là mạnh mẽ tinh tấn.

Phương pháp niệm Phật không luận là một người hay nhiều người niệm, ngồi xếp bằng hay kinh hành niệm, trì thầm hay niệm ra tiếng, đều phải nhất tâm nắm chặt danh hiệu Phật, mỗi chữ mỗi chữ rõ ràng, vừa cảm thấy lờ mờ liền gấp rút để khởi sự tỉnh giấc soi chiếu. Hoặc rơi vào vô ký, hoặc trôi theo vọng tưởng, lần lượt tỉnh giấc, lần lượt để khởi, đem một câu Phật hiệu này huân vào áp bức ý căn, đoạn dứt hôn trầm tạp niệm, đó là con đường chân chánh của pháp niệm Phật.

Không thể quá gấp, gấp thì khó được lâu dài; không thể quá hưỡn, trì hưỡn thì dễ rời rạc. Lại không thể trông mong nhập định, hoàn toàn chẳng để khởi ý niệm.

Nếu buông bỏ không niệm nơi miệng rất dễ rơi vào chỗ hôn trầm nhẹ. Bởi vì niệm Phật quan trọng ở nơi nhất tâm không loạn động, lúc sắp lâm chung hoàn toàn nhờ vào niệm này mà vào thẳng thai sen. Người niệm Phật không thể không biết. Đến khi đạt tới chỗ nhất tâm cùng cực thì chẳng mong Thiền định hiện tiền mà cũng tự hiện, đây là khi công phu thuần thục, hoàn toàn khác xa với người buông bỏ không niệm nơi miệng rơi vào chỗ hôn trầm nhẹ. Nên nghiền ngẫm suy tư kỹ điều này!

Còn như Thể cứu, niệm tức là vô niệm thì không ngại vô niệm mà niệm. Một niệm này tức là Tam đế: Không, Giả, Trung; tức là bốn pháp giới Sự Lý; tức là hai môn quán Duy thức, Duy tâm; tức là tâm mầu nhiệm Niết Bàn, Thật tướng Vô tướng. Đó chính là pháp niệm Lý nhất tâm của bậc thượng căn, nhưng cũng không rời nhất tâm, nắm chặt câu Phật hiệu, mỗi chữ mỗi chữ rõ ràng mà niệm.

Đây là điều trọng yếu thứ ba của phép tắc Trì danh nơi chánh hạnh.

4. Phát nguyện chuyên cần, nhớ nghĩ thiết tha:

Lấy công đức niệm Phật này cầu sanh Tịnh độ, đó là nguyện. Nhưng phải luôn luôn khẩn thiết nguyện cầu; đối với tất cả việc lành hồi hướng; đối với tất cả việc ác sám hối hồi hướng. Tùy lúc tùy việc đều nguyện về Tây Phương thì nhân duyên Tịnh độ thuần thục, lúc lâm chung vãng sanh, cũng như xe nhẹ đường quen không có chút gì trở ngại. Còn như nhớ tưởng Phật Di Đà, càng là sự thiết yếu của pháp niệm Phật.

Chương Đại Thế Chí trong kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhớ Phật, niệm Phật, hiện tại tương lai nhất định thấy Phật”. Nhớ nghĩ như việc khẩn thiết ràng buộc trong lòng; hoặc nhớ nghĩ sự trang nghiêm về y báo và chánh báo của Phật Di Đà, quán tưởng Phật Bồ Tát, Pháp thân, Báo thân, Hóa thân và các tướng bạch hào, duỗi tay, ánh sáng tròn đầy, Hóa Phật, hoa sen; hoặc nghĩ nhớ công đức, thệ nguyện từ bi của Phật Di Đà thương xót chúng ta biết bao, cứu vớt tất cả chúng sanh.

Nghĩ tưởng thiết tha, nhớ mãi không quên, ở trong Trì danh chẳng ngại chuyển đổi lần lượt, nhớ niệm Phật, tinh thần dung hội nơi đó, đây chính là nhất tâm không loạn động.

Nhất định đừng bảo rằng, ý niệm xen lẫn mà tự phát sanh nghi ngờ lo ngại. Bởi nhất tâm nghĩa là chuyên chú nơi một cảnh, ví như những kẻ mưu tài hiếu sắc, tinh thần hồn phách muôn thứ tính toán đều qui nơi một việc, ắt mong tới tay rồi mới thôi, như thế đâu chẳng phải nhất tâm rồi sao? Thế nên người niệm Phật trong lúc vội vàng vẫn thường không quên Phật, lâu dần trở thành thuận thục, tự nhiên thường nghĩ nhớ, có thể ngăn chặn tất cả ý niệm ác, thành tựu tất cả công đức của nhân thanh tịnh.

Bậc Cao đức ngày xưa có nói bài kệ:

“Lâm chung không thể quán và niệm
Chỉ sanh khởi ý biết có Phật,
Người này hơi đứt liền vãng sanh
Kinh Đại Pháp Cổ nói như thế”.

Bởi vì lúc lâm chung không thể quán niệm, chỉ biết được trong lòng có Phật liền như ý mà vãng sanh, huống chi nhớ niệm không quên. Đó là điều trọng yếu thứ tư nhớ nguyện chuyên thiết nơi chánh hạnh.

Có thể đầy đủ bốn chánh hạnh nói trên thì việc vãng sanh đã quyết định không còn nghi ngờ.

Trích Khuyến Tu Tịnh Độ Thiết Yếu
Người dịch: Thích Minh Thành
Soạn thuật: Chân Ích Nguyện