Mượn Thây Hoàn HồnNăm Dân quốc 50, nhân Tinh Vân pháp sư được mời đến Hổ Vĩ giảng kinh, chúng tôi (nữ ký giả Lý Ngọc của báo Kim Nhật Phật Giáo) cùng vài vị cư sĩ tháp tùng đến Hổ Vĩ. Khi pháp sư giảng kinh thì chúng tôi đến thăm ni sư Trí Hạo ở Mạch Liêu. Mạch Liêu là một địa phương ở ven biển, giao thông không tiện lợi, lại không có thắng cảnh nào để xem. Chúng tôi đến thăm ni sư Trí Đạo ở Tố Vân Tự rồi, định trở về Hổ Vĩ, thì vị trụ trì mời ở lại độ ngọ. Trong khi trò chuyện thì vị Hứa cư sĩ có kể cho nghe chuyện mượn xác hoàn hồn, xẩy ra vài năm trước ở Mạch Liêu. Những người trong chuyện không nói, thành ra chỉ có người ở Mạch Liêu biết mà thôi. Những người ở vùng khác có nghe cũng không tin cho là chuyện thần kỳ quái đản không thể tin được.

Nghe xong chuyện chúng tôi quyết định sau khi thọ trai sẽ đến phỏng vấn những người trong chuyện. Nhân vật trong chuyện là ông Ngô Thu Đắc, ở số nhà 95 đường Trung Sơn, chủ một tiệm bán vật liệu xây cất. Khi mới gập ông có vẻ không vui, sau vài lần hỏi han, ông mới chịu thố lộ :

-Năm Dân quốc 48, tôi có tham gia việc xây cất ở Hải Phong Đảo, khi làm việc tôi ít về nhà. Khi tôi đi thì bệnh nhà tôi đã đỡ, nhưng rồi bệnh càng ngày càng nặng, tinh thần không bình thường. Chúng tôi định đưa bả đi Dưỡng trí viện. Hai ba người định lôi bà đi, nhưng bà kháng cự lại, và còn nói:

-Tôi không điên, đừng đưa tôi đến Dưỡng trí viện. Tôi là Chu Tú Hoa, người Kim Môn, mượn thây hoàn hồn đó.

Vợ tôi chính tên là Lâm Cương Yêu mà bà lại nói cái gì là Chu Tú Hoa. Tôi không tin là thân bà đã bị một hồn khác chiếm cứ. Nhưng khẩu âm của bà thì đổi khác. Khi ở Hải Phong đảo, mỗi khi đạp xe về nhà, tôi cảm thấy trên vai như nặng hơn, nhưng tôi nghĩ có lẽ là do đường không tốt, nên không để ý. Sau này tôi mới biết là do cô gái ở Kim Môn ngồi sau xe cùng tôi về nhà.

Nói tới đây, ông kết thúc và đi pha trà mời khách. Hứa cư sĩ là người kể chuyện và dẫn chúng tôi đến đây ra ngoài tìm Chu Tú Hoa. Khi ông Ngô đi pha trà thì cháu vợ ông, một thanh niên khoảng 20 tuổi bảo:

-Khi dì ba tôi bị bệnh, tôi giúp dượng ba săn sóc dì. Có lúc dì khóc, có lúc lại lẩm bẩm nhưng chúng tôi không hiểu dì nói gì ? Có lúc dì nhỏm dậy chúng tôi cố ghì dì xuống nhưng không thể được mà còn bị dì xô ra. Một người phụ nữ không thể nào khỏe như thế, có lẽ dì có bạn giúp sức. Khi chúng tôi biết dì là người khác thì chỉ đành để dì dưỡng bệnh. Mới đầu dì dường như không quen. Khi dượng ba tôi kêu dì là A Cương thì dì bảo:

-Tôi tên Chu Tú Hoa, không phải là A Cương.

Khi bà ngoại và dì hai tới, dì cũng không nhận ra.

-Tôi không biết các người, các người là ai?

Dĩ nhiên là hàng xóm của chúng tôi dì cũng đều không nhận ra. Nói đến đây, cậu liếc mắt vào bên trong sợ ông cậu đi ra, hạ giọng kể:

-Dượng ba là một người có trách nhiệm với gia đình, nhưng với dì ba cũ (Lâm Cương Yêu) không hợp. Tuy nhiên ông không có lăng nhăng với bà nào khác. Khi ông làm việc ở Hải Phong Đảo có nhiều công nhân nói thấy bên cạnh ông luôn có người con gái. Lúc tán gẫu thường đem chuyện này ra nói, khen ông có số đào hoa. Mỗi lần dượng nghe nói, đều phủ nhận, nhưng chẳng ai tin.

Cậu lại thêm:

-Làm công việc xây cất thường hay xẩy ra tai nạn, không lớn thì nhỏ khiến công nhân bị thương. Nhưng lần làm việc ở Hải Phong đảo này thì rất thuận lợi, như là có người phù hộ.

Lúc đó ông Ngô bưng trà ra mời khách. Cậu cháu nói:

-Nói quý vị không tin, nhưng khi dì hơi khỏe, nói có khách đến chơi, bảo chúng tôi lấy ghế và đốt thuốc. Chúng tôi chỉ thấy dì cười cười, nói nói và ghế tre có tiếng cọt kẹt như có người ngồi trên di động vậy. Ít lâu sau thì không có khách nào tới thăm nữa. Khi dì hoàn toàn khỏe mạnh rồi thì dì thay đổi hẳn. Lúc trước, thịt cá gì dì cũng ăn, nhưng giờ thì hoàn toàn ăn chay. Lúc trước, thổi cơm, làm bếp là công việc của dì nay dì không làm nữa, nói là không biết. Nhưng những việc khác thì dì làm được cả. Lúc trước dì mù chữ, nay có thể coi việc sổ sách, làm ruộng, làm những việc nặng nhọc đều được cả.

Cậu lại chỉ lên bàn thờ Phật:

-Lúc trước, dượng tôi chỉ thờ cúng ông bà, nay dì mới xin thờ Phật.

Tới đây thì Hứa cư sĩ đi tìm Chu Tú Hoa về, ông nói:

-Cô ấy không chịu về, chỉ khóc.

Tôi cùng một chị bạn bèn ra ngoài mời; khi chúng tôi tìm đến thì cô đang đứng dựa vào cột, 2 mắt nhắm lại, 2 dòng lệ chẩy dài xuống má. Tôi nghĩ cô đứng đây khóc đã lâu. Chúng tôi đến an ủi và mời cô về nhà. Có lẽ chúng tôi đến phỏng vấn khiến cô nhớ đến Kim Môn nên bị cảm xúc. Hôm đó cô chỉ cho chúng tôi biết sơ lược cô tên Chu Tú Hoa, sống ở Kim Môn, cha cô là Chu Hải Thanh, mẹ cô là Sái Diệp. Năm đó cô 18 tuổi, vì Kim Môn bị pháo kích, lúc hỗn loạn cùng nhiều người khác xuống thuyền đánh cá ra khơi lánh nạn. Về sau vì thuyền mất phương hướng, hết lương thực, nước uống, nhiều người chết đói, chết khát. Sau thuyền trôi đến Đài Tây, được lay tỉnh nhưng ngư phủ đoạt hết tiền bạc trên thuyền rồi xô cô xuống biển. Nói tới đây, cô ôm mặt khóc chạy vào trong nhà. Chúng tôi định hỏi thêm nhiều nữa nhưng không tiện, đành cáo từ ra về, hẹn lần sau sẽ đến tặng cô một chưỗi tràng hạt. Khi đưa chúng tôi ra bến xe, Hứa cư sĩ kể thêm:

-Gia đình ngư phủ cướp của giết người đó, không lâu theo nhau mà chết, chỉ còn lại một đứa con bị bệnh thần kinh. Khi Chu Tú Hoa khỏe mạnh rồi, có người dẫn đứa nhỏ bị bệnh thần kinh ấy đến gập Tú Hoa. Thực lạ, Chu Tú Hoa ngăn không cho vào nhà, lại mắng:

-Người nhà mày hại tao chưa đủ à ? Mày còn đến đây làm tao thương tâm nữa sao?

Lúc trước Lâm Cương Yêu chưa bao giờ đến Đài Tây, và đứa trẻ điên đến nhà cũng không ai biết trước, vậy mà Tú Hoa lại biết.

Mấy tháng sau, nhân Năng cư sĩ đến Hổ Vĩ để dạy các liên hữu xướng Phật tán, chúng tôi lại theo cư sĩ đến Mạch Liêu. Năng cư sĩ đã từng ở Kim Môn một khoảng thời gian, cho nên ông biết nhiều về phong tục, tập quán, kiến trúc ở Kim Môn. Hôm đó trời mưa phùn nên khi đến nhà Chu Tú Hoa thì cô ở nhà không ra làm ruộng. Vì nhóm chúng tôi có vài người nên cô hơi do dự mãi mới chịu ra. Gập chúng tôi cô gật đầu mỉm cười. Chúng tôi đưa tặng cô sâu chuỗi rồi nói chuyện gẫu. Vì có kinh nghiệm lần trước nên chúng tôi chỉ nói về Phật sự. Chu Tú Hoa nói:

-Từ nhỏ tôi đã tin Phật, ăn trường chay. Bây giờ dù bận mấy, sớm chiều tôi đều lễ Phật. Tôi biết Phật nói không sai. Mọi người phải làm việc lành, đừng làm việc ác, làm ác sẽ bị ác báo.

Tôi đã nghe nhiều người nói cô chăm lễ Phật, có lẽ cô được sống trở lại cũng là do nguyên nhân này. Tôi nhân cơ hội hỏi :

-Cô nói cô tin Phật, vậy ở Kim Môn có niệm Phật đường không?

-Tôi không biết, nhưng nhà tôi có thờ Phật, tôi chỉ lễ Phật ở nhà.

-Bây giờ cô còn nhớ chuyện gì ở Kim Môn không?

Cô thở dài:

-Nhớ thì nhớ được, nhưng chuyện qua rồi còn nhắc lại làm gì?

-Nếu có người tìm giùm cha mẹ cô thì cô có chịu không?

-Đương nhiên, nhưng mà ai giúp tôi, nhưng dù có giúp sợ rằng cha mẹ tôi cũng không nhìn ra tôi. Thân tôi bây giờ không phải là thân tôi khi lìa Kim Sơn.

Nói tới đó mắt cô đỏ lên, nhưng cô giữ không khóc. Tôi chỉ Năng cư sĩ ngồi bên cạnh:

-Đây là Năng cư sĩ, ông cũng tin Phật, đã từng ở Kim Môn, ông hãy còn nhiều bạn bè ở đấy, có thể giúp cô dò hỏi tin tức. Như quả tìm ra cha mẹ cô thì cô có nhận ra họ không?

-Đương nhiên rồi ! Nhưng lúc đó cô có dám theo tôi tới Kim Môn không?

Cô hỏi lại và đợi tôi trả lời.

-Dám chứ.

(Về sau, ông Ngô có nhờ bạn đến Kim Môn dò tìm tin tức song thân Chu Tú Hoa theo địa chỉ cô nói, người bạn về cho biết quả có gia đình Chu Thanh Hải thật, nhưng sau khi cộng quân pháo kích thì toàn gia đã thất tích. Do đó Chu Tú Hoa không cách gì về Kim Môn nhận người thân nữa).

Tôi lại nhân cơ hội hỏi cô khi lìa Kim Môn như thế nào ? Cô nói:

-Sự tình phát sinh năm đó, tôi không biết là năm nào. Lúc đó tôi 18 tuổi, có người nói quân đội định rút lui, do đó dân chúng đều đổ xô xuống thuyền đánh cá để trốn. Tôi cũng theo người ta xuống thuyền.

-Cha mẹ cô không đi cùng sao?

-Không ! Vì lúc đó rất hỗn loạn, cộng quân pháo kích, nhà chúng tôi là nhà buôn bán, không có thuyền, tôi theo mọi người xô đẩy mà xuống thuyền, lạc cha mẹ không ngờ lại là vĩnh biệt. Bữa đó cộng quân pháo kích rất dữ, mọi người xuống thuyền cũng chẳng biết đi đâu. Bình thời dân chài cũng chỉ đánh cá ven bờ. Khi ra biển lớn chẳng biết phương hướng gì, về sau cứ mặc cho sóng biển đưa đẩy. Qua bao ngày, nhiều người chết đói, chết khát. Một hôm thuyền trôi đến hải đảo, có một thuyền ngư dân cập vào. Có người phát hiện ra tôi, họ lay tôi tỉnh lúc đó tôi mới biết đã đến Đài Tây của Đài Loan. Họ hỏi tôi nguyên nhân ra biển. Tôi kể thật cho họ hay, về sau . . .

Nói tới đó cô thổn thức không ra lời. Tôi bèn góp lời:

-Nghe nói họ cướp tiền của cô, lại xô cô xuống biển. Về sau cả nhà họ bị chết, chỉ còn lại một đứa con dở điên, dở khùng có phải không?

-A! thì ra cô đã nghe nói rồi ! Sự thực không phải vậy. Tiền của không phải hoàn toàn của tôi, tôi chỉ có một phần, còn là của tất cả những người trên thuyền. Họ cướp tiền và cả nhà họ chết là sự thực. Tôi tuy thấy họ không có lương tâm, nhưng tôi là người tin Phật, tôi không muốn kết oán thù. Đó là những người cùng thuyền bất bình mà thôi.

-Trước khi cô đến ở nhà ông Ngô thì cô ở đâu?

-Tôi ở Hải Phong Đảo, chỗ đó cây xanh, biển xanh đẹp lắm.

-Cô có thích chỗ đó không ?

-Thích, tôi ở đó ít lâu. Khi bị ném xuống biển thì hồn du Hải Phong đảo, quanh quẩn ở đó chừng 10 ngày thì bị Trương Lý Mạc Tam Phủ Vương Bang thâu làm môn hạ. Vương Bang công cho biết thọ mạng của tôi chưa hết, có thể mượn thây của vợ Ngô Thu Đắc để hồi dương, hãy tạm trú ở Vương Bắc miếu. Không lâu, may gập Ngô Thu Đắc đến Hải Phong Đảo làm việc, liền theo Ngô Thu Đắc. Khi Ngô Thu Đắc làm xong việc về nhà nhà bèn về theo chờ cơ hội. Được vài hôm Lâm Cương Yêu bệnh tình trầm trọng, hồn về Ly hận thiên, tôi liền thừa cơ mượn thây hoàn hồn. Nhưng mượn thây không phải là dễ. Để vào nhục thể người khác là một việc rất khổ não, may có Vương bang công giúp đỡ, khoảng 20 ngày sau mới hoàn thành.

-Cảm giác cô lúc ấy thế nào?

-Rất tự nhiên, nhưng không được quen mấy (ám chỉ lúc trước là một thiếu nữ, nay là phụ nữ có chồng).

-Mạch Liêu so với Kim Môn như thế nào ?

-Kim Môn toàn nhà gạch, đường xá ngay hàng thẳng lối, chứ không lộn xộn như ở đây, cái thò ra, cái thụt vào.

Năng cư sĩ đồng ý với những gì cô nói, theo như ông tính thì đó là năm Dân quốc 43. Nhiều người thấy quân đội vận chuyển súng đạn đi tưởng quân đội rút lui, nên xuống thuyền di tản.

Lần trước chúng tôi đã biết ông Ngô đối với vợ cũ (Cương Yêu) không hợp lắm, nay đối với Tú Hoa thì rất hợp. Cô săn sóc con của Cương Yêu như con mình vậy. Hơn nữa từ khi Tú Hoa đến nhà, gia cảnh càng ngày càng khá hơn. Cô vốn quen buôn bán nên cô bảo buôn bán thứ gì, không buôn bán thứ gì đều đúng cả.

-Cô ở Mạch Liêu gần 2 năm đã quen chưa?

-Cô nghĩ coi, tôi ở căn nhà cũ có quen không? Không những thế còn phải chăm sóc con cái, làm việc nhà . . . Lúc chưa đến đây tôi còn là con gái, nay là vợ là mẹ người ta. Tôi từng bảo ông Ngô để tôi ở Niệm Phật đường, nhưng ông không chịu.

-Nghe nói mẹ chồng và các con đều khen cô.

-Đúng rồi ! Họ đối xử tốt với tôi, làm sao tôi không tốt với họ cho được?

Cô đỏ hồng đôi má. Nếu tính tuổi thì cô mới chừng mười mấy đôi mươi lại có con sấp sỉ cùng tuổi kêu mẹ, thật khó mà quen. Lúc từ biệt ra về, tôi cầm tay cô:

-Mọi người đối với cô tốt, cô cũng nên quên đi chuyện cũ. Phật giáo nói tất cả đều là nhân duyên. Cô và Ngô gia có duyên, vì vậy mới từ nơi xa xôi là Kim Môn mà tới đây chung sống.

Cô gật đầu.

-Hơn nữa, mỗi ngày cô đều niệm Phật. Dù ở đâu cũng thế thôi, cần gì phải ở Niệm Phật đường. Phật giáo chủ trương lợi tha rồi mới cầu tự lợi. Cô vì gia đình họ khó nhọc là làm công đức đấy.

Cô im lặng nghe. Tôi lại thêm:

-Nếu cô thích đến Niệm Phật đường thì khi nào rảnh tôi sẽ dẫn cô đến Hổ Vĩ. Hy vọng từ đây cô an tâm không còn thấy khổ não nữa.

Cô cảm kích nắm tay tôi cảm tạ. Khi từ biệt thì Ngô Thắng Ngạn, con trai của ông Ngô Thu Đắc đưa chúng tôi ra bến xe. Vừa đi tôi vừa hỏi anh nghĩ gì về mẹ anh. Anh nói:

-Mẹ tôi sanh trưởng ở Mạch Liêu, chưa hề đi Đài Tây hay Kim Môn bao giờ. Khi khỏi bệnh trở thành một người khác. Sự thực tôi không tin. Tuy xác thân là mẹ nhưng bà cương quyết không nhận là Cương Yêu, thân bằng quyến thuộc bà đều không nhận biết. Tôi thật không biết sao.

-Bây giờ thì sao?

-Dĩ nhiên tôi vẫn kêu bà là mẹ.

-Anh có tin chuyện mượn xác hoàn hồn không?

-Lúc trước thì tôi không tin, nhưng khi tham dự trại họp bạn Hướng Đạo ở Phi Luật Tân, trong đoàn có một anh người Kim Môn, có giọng nói y hệt khi mẹ tôi khỏi bệnh. Do đó, tôi tin bà là người Kim Môn.

Trích Những Chuyện Nhân Quả
Dịch Giả: Dương Đình Hỷ
Theo Nhân Quả Dữ Luân Hồi

  • Lời bình:
Những ai không tin vào sự luân hồi chuyển kiếp xin hãy lấy đây làm gương mà phản tỉnh. Con người khi chết đi, thân xác bị tan rã nhưng thể vía (thần hồn, linh hồn) vẫn còn tồn tại không bao giờ mất. Luật nhân quả rất công bằng: làm lành hưởng quả lành, gieo nhân ác sẽ gặp quả ác. Đừng trách người hay than trời không mắt, bất minh. Nhân quả họa báo đều do chính bản thân ta tự tạo cả.