Phá Trừ Mối Nghi Người Niệm Phật Chưa Đoạn Hết Nghiệp Có Thể Vãng SanhChúng sinh tạo nghiệp tất phải theo nghiệp thọ báo là điều đương nhiên. Kinh Ðịa Tạng nói rằng: “Sức nghiệp rất lớn, nó có thể ngang bằng với núi Tu Di, sâu như biển, hay làm chướng ngại thánh đạo, cho nên chúng sinh chớ khinh việc ác nhỏ mà cho là không tội. Sau khi chết phải chịu quả báo, hào tơ cũng không tránh khỏi. Chí thân như cha mẹ cũng không thay thế cho được”. Nếu còn mang nghiệp thì không thể liễu sinh thoát tử.

Như pháp sư An Thế Cao, nhiều đời xuất gia tu hành, có một kiếp làm thái tử nước An Tức, lìa bỏ ngũ dục, xuất gia tu hành, hiện kiếp đắc túc mạng thông biết được đời trước thiếu nợ mạng người, người chủ nợ ở Trung Quốc. Thế là tiền thân An Thế Cao bèn đáp thuyền đến, tới Lạc Dương, đương lúc ngang qua cánh đồng trống, bỗng xuất hiện một thanh niên trẻ, lưng đeo bảo kiếm, từ xa thấy pháp sư đã nộ khí xung thiên, đến gần không nói không rằng vung gươm chém xuống. Sau khi chết, linh hồn pháp sư lập tức đến nước An Tức đầu thai, lại làm thái tử, lớn lên cũng phát tâm xuất gia tu hành, chứng túc mạng thông, biết đời trước đến Lạc Dương hoàn mạng, nay còn nợ một mạng cần phải trả cho xong, chủ nợ cũng ở Lạc Dương. Một lần nữa An Thế Cao (thân trước) lại đáp thuyền đến Trung Quốc, vào tá túc trong gia đình người đã giết pháp sư đời trước. Vì sao trước kia giết pháp sư, mà nay lại cho tá túc? Vì mạng đã trả xong rồi vậy. Lúc dùng cơm tối, tiền thân An Thế Cao hỏi: “Ông nhận ra tôi không?”. Chủ nhân đáp: “Không”. “Tôi chính là người mà ông đã giết ngày… tháng… năm… ở ngoài đồng ấy”. Chủ nhân thất sắc. Quái! Việc này làm gì có người thứ ba nào biết, chắc ông tăng này là quỷ đến đòi mạng rồi, bèn đứng dậy định bỏ chạy. Sư kéo tay bảo ngồi xuống, nói: “Chớ hốt hoảng như thế! Tôi không phải là quỷ đâu”. Sư nói rõ sau khi bị giết, linh hồn lại trở về nước An Tức đầu thai, lần này còn nợ một mạng muốn trả cho xong: “Ngày mai tôi sẽ bị người đánh chết, vì muốn đền trả nợ cũ, xin ông hãy làm chứng giùm, thay tôi nói với quan phủ rằng: Chính tôi muốn trả nợ, quan đừng bắt tội người vô ý giết tôi”. Hôm sau, hai người cùng ra phố, An Thế Cao đi trước, gia chủ theo sau. Phía trước, một nông phu đang gánh một gánh củi nặng, quang gánh trước bỗng nhiên rớt xuống, đòn gánh bật ngược ra sau, trúng ngay đầu tiền thân An Thế Cao vừa đi tới, chết ngay tại chỗ. Anh tiều phu bị bắt ngay lập tức. Gia chủ thấy hoàn toàn phù hợp với những gì đêm qua Sư nhờ vả, bèn thuật hết đầu đuôi cho quan phủ. Quan phủ nghe xong, tin nhân quả thật sự không lầm, bèn xá tội cho người tiều phu mặt đang xanh như tàu lá. Sau khi chết, linh hồn tăng nhân đến nước An Tức, đời thứ ba lại đầu thai làm thái tử, cũng xuất gia tu hành, là An Thế Cao thời nay vậy. Nghiệm đó thì biết, nghiệp buộc rất khó trốn chạy, như pháp sư An Thế Cao, hai đời trước từng là cao tăng, biết được việc đời trước mà còn không thể chuyển nổi các nghiệp tạo từ vô thỉ ấy, huống hồ gì phàm phu chúng ta. Và pháp môn niệm Phật có thể mang nghiệp vãng sinh, thù thắng biết dường nào.

Việc đới nghiệp vãng sinh của pháp môn niệm Phật, công năng thật khó nghĩ lường, nên xưa nay biết bao người hoài nghi. Xưa có vị quốc vương hỏi Na Tiên Tỳ kheo rằng: “Người niệm Phật có thể đới nghiệp vãng sinh à? Việc này khó tin lắm”. Na Tiên hỏi: “Này Ðại vương, tảng đá bỏ xuống nước có chìm không?”. Vua đáp: “Tất nhiên là chìm”. Na Tiên lại hỏi: “Nếu muốn đá không chìm, điều ấy có thực hiện được không?” Vua đáp: “Không thể được”. “Nếu đặt tảng đá ấy lên thuyền, được không?”. Vua lãnh ngộ: “Ðược”. Nên biết chúng sinh mang nghiệp, tất phải đọa lạc, như đá tất nhiên là phải chìm vậy. Người niệm Phật, nhờ vào nguyện lực của Phật A Di Ðà tiếp dẫn vãng sinh, nương vào chiếc thuyền đại nguyện của Phật nên được đới nghiệp, giống như đá được đặt lên thuyền chở đi khắp nơi vẫn không chìm vậy.

Lại dẫn thêm một chuyện để chứng minh đới nghiệp vãng sinh. Ngày xưa Trương Thiện Hòa sống bằng nghề giết mổ trâu bò. Một ngày, Hòa lâm bệnh, khi sắp mạng chung, thấy bầy trâu bò đến đòi nợ, con thì lấy sừng móc mắt, con thì dẫm đạp lên thân, con thì húc vào bụng, Trương sợ quá gọi vợ thỉnh chư Tăng cứu độ. Một cao Tăng được thỉnh tới bảo với Thiện Hòa rằng: “Ðừng sợ! Ông đời này nghiệp sát quá nặng, không có pháp nào khác cứu được ông, chỉ có xưng niệm “Nam mô A Di Ðà Phật” mới có thể giải oan cho ông, mới có thể làm cho ông thoát khổ, hãy niệm theo tôi!”. Tăng nhân niệm lớn “Nam mô A Di Ðà Phật”, Trương Thiện Hòa cầm hương niệm theo “Nam mô A Di Ðà Phật”. Niệm được mấy tiếng, Trương Thiện Hòa nói: “Trâu đi hết rồi!”. Tăng khuyên niệm tiếp cầu sinh Tây phương, Trương Thiện Hòa lại càng khẩn thiết, một lát nói lớn: “Phật đến tiếp dẫn tôi”, bèn cắm hương, chắp tay, niệm Phật mà tịch. Ðây tức chứng minh cho việc đới nghiệp vãng sinh, thiết tha khuyên mọi người, thấy được nhân duyên niệm Phật đới nghiệp vãng sinh, nên suy xét cho kỹ, chớ có hiểu sai. Nếu bảo niệm Phật có thể vãng sinh rồi lúc sống tha hồ tạo nghiệp, ỷ lại vào Phật, đợi lúc sắp mạng chung mới niệm Phật để cầu đới nghiệp vãng sinh, nhất thiết không được có tư tưởng như vậy. Nên biết niệm Phật lúc lâm chung là việc không dễ dàng, nếu không có thiện căn nhiều đời thì lúc lâm chung tuyệt đối không thể niệm Phật. Trương Thiện Hòa một đời sát sinh tuy ác nhưng chắc chắn đời trước có thiện căn; nếu không, thì không thể bảo vợ thỉnh Tăng cứu độ, cũng không thể gặp được đại cao Tăng dạy cho pháp môn niệm Phật. Mong chư hữu, trước cần ngăn ngừa điều ác, chớ đợi sau rồi cầu Phật, thường ngày nên niệm nhiều câu Phật hiệu, chớ chờ lúc chết mới cầu siêu. Lời xưa dạy rằng: “Cho ngựa phi nước đại, đến vực mới kéo cương; làm sao còn kịp nữa, người ngựa ắt như tương. Lại nữa lái thuyền ra, đến giữa dòng sông kia; mới bắt đầu vá lủng, thân mạng có toàn không”.

Trích Khuyên Tu Pháp Môn Niệm Phật
Biên soạn: Viên Anh Pháp Sư
Việt dịch: Thích Nguyên Anh