Cuộc Trợ Niệm Hy Hữu Giúp Người Lâm Chung Vượt Lên Thượng Phẩm Nơi Trời TâyThời gian ông Dương học Phật chỉ có 7 năm, nhưng nhờ có thiện căn sâu dày, vừa quen biết chúng tôi thì ông lập tức phát tâm nghiêm trì giới luật, thệ dứt tuyệt đồ mặn, ăn chay trường. Ở trước mặt tôi chân thành phát lộ những lỗi lầm sát, đạo, dâm, vọng… đã tạo trong quá khứ, thật lòng ăn năn sám hối. Đúng ra ông sắp bị mổ tim, nhưng nhờ tu tập theo Phật mà được miễn trừ, nên càng tăng thêm tín tâm tu học kiên định.

Sáu năm sau, ông cùng vợ là bà Trương đồng phát tâm Bồ đề, “chuyển gia vi tự”, biến nhà thành đạo tràng, siêng tu tinh tấn không lười. Họ thường phản tỉnh, luôn kiểm điểm sám hối mọi lỗi lầm từ thân, khẩu, ý mình đã phạm qua. Một lòng cầu thoát ly tam giới, vãng sanh Tịnh độ.

Hàng ngày, cứ mỗi buổi sáng và tối, cả hai cùng đi công viên tản bộ, họ cùng niệm Phật (dùng máy đếm) tự định khóa trình thế này: Trên đường đến công viên thì niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát” ngàn tiếng, tại công viên vừa vận động vừa niệm “Nam mô A Di Đà Phật” ngàn tiếng, trên đường về nhà thì niệm “Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát” ngàn tiếng. Về tới nhà, ăn sáng xong, họ nghỉ ngơi nửa tiếng rồi bắt đầu tụng khóa sáng. Hai người mặc áo tràng, kẻ cầm khánh đi trước, người cầm quyển kinh đi sau, họ tụng niệm, nhiễu Phật từ hai đến ba vòng quanh sảnh phòng, chừng một tiếng thì xong khóa công phu sáng.

Lúc chuông điểm công tác thì hai người bắt đầu học kinh và nghiên cứu… có lúc vì một câu pháp mà xảy ra tranh luận. Nếu không ai phục ai thì đánh dấu số trang ghi trên bàn, đợi gặp tôi nhờ giải dùm. Nếu tôi tán thành quan điểm của ông thì ông hoan hỷ mỉm cười, bà cũng vui vẻ khen và lập tức học tập theo. Nếu tôi khen bà đúng thì bà mừng vui nghinh đầu, vỗ tay, mặt mày hớn hở tươi tắn, nhìn hồn nhiên khả ái như trẻ thơ. Mỗi khi thấy bà biểu lộ tính dịu hiền, nhẫn nhịn giỏi, tôi thường xấu hổ thầm, vì tính tôi rất nóng nảy, cho dù đã lưu tâm sửa nhiều, nhưng so với bà Trương thì tôi vẫn còn thua xa.

Trước mùa xuân năm 2000, tôi (tức Quả Khanh – cư sĩ có túc mạng thông, thiên nhãn thông, có thể thấy được nhiều cõi giới siêu hình) đến thăm ông Dương, vừa ngồi xuống thì bà Trương hướng về tôi kể lể và sám hối:

Tôi tình cờ thấy trên đỉnh cửa sổ có một điểm đen, nhìn kỹ là con ruồi bèn kêu chồng:

– Ông ơi, mau cầm quạt tới đây. Ông hỏi:

– Trời lạnh thấy mồ, bà còn đòi đem quạt tới làm chi?

– Trên tường có con ruồi kìa, hễ tôi mở cửa, là ông cầm quạt xua nó bay ra nhen.

Ông phê bình liền:

– Nè , bà tu hành kiểu gì mà trời lạnh cắt da lại muốn đuổi con ruồi ra ngoài? Làm vậy chẳng phải bà muốn nó bị chết cóng hay sao?

Bà nghe ông nói giật mình, biết mình đã sai bèn thú nhận:

– Ôi chao, quả là tôi tu hành còn kém xa ông, vì không có chút từ tâm. A Di Đà Phật, con xin sám hối, xin sám hối! Ông nè, chúng ta hãy cùng quy y cho con ruồi nhé.

Thế rồi hai người chắp tay hướng về con ruồi, quy y cho nó, họ đồng niệm: “Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng. Quy y Phật không đọa địa ngục, Quy y Pháp không đọa ngạ quỷ, Quy y Tăng không đọa súc sanh. Xin chú nguyện cho ruồi đời sau được mang thân người, gặp Phật pháp mà tu hành đắc đạo”.

Ba ngày sau, bà Trương thấy con ruồi vẫn còn ở chỗ cũ không động đậy. Bà kêu chồng:

– Này ông, mau cầm quạt tới đây!

– Đem quạt tới làm chi?

– Đã ba, bốn ngày rồi mà con ruồi không nhúc nhích, mình quạt cho nó bay xuống ăn gì đi chứ, nếu không nó chết đói làm sao?

Khi họ dùng quạt đuổi con ruồi, thì nó rơi ngay xuống đất. Hóa ra nó đã chết, thác sinh vào cõi lành rồi. (Việc này do Cư sĩ Quả Khanh có túc mệnh thông nhìn thấy được).

Từ lúc phát tâm học Phật, thệ ăn chay niệm Phật rồi, thì ông Dương không bị bệnh gì, ăn uống rất ngon miệng. Hồi chưa biết đạo, mỗi năm ông phải đi bệnh viện 1-2 lần, bởi vì “linh kiện” toàn thân ông đều vướng bệnh.

Nhưng cách đây tám tháng, bao tử ông phát đau khó chịu, các con bèn đưa cha đi kiểm tra, phát hiện bao tử ông có khối u. Sau khi uống thuốc trị ung bướu rồi thì bạch huyết cầu hạ, ông ngưng thuốc thấy có đỡ hơn nên quyết định không dùng thuốc nữa. Sau đó ông xuất viện về nhà, chỉ uống chút thuốc duy trì.

Lúc con gái ông Dương gọi điện báo tin thì tôi đang ở Thượng Hải. Tôi bảo cô hỏi xem cha mình có từng ăn qua thịt lừa hay không? Ông Dương lúc đó ở cạnh bên, nghe liền đáp:

– Tôi chưa từng ăn qua.

Tôi bảo: “Ông hãy chịu khó nhớ kỹ lại xem”.

Một lát sau, tôi nghe ông kể: “Vào năm 1950 ông được phân công tác gần một nơi có tiệm bán thịt lừa, lúc đó sống một mình nên ông thường mua ăn.”

Tôi bảo với ông: “Trước đây ông phát bệnh, toàn là do lừa đến quấy phá. Sau khi ông học Phật, ăn chay tụng kinh, niệm Phật rồi thì lừa nó cũng minh lý, không còn theo báo oán ông nữa. Nhưng ông lại quên tuốt việc mình đã ăn thịt chúng, nên chẳng biết sám hối, cầu siêu cho chúng. Do vậy mà chúng đang hành hạ khiến ông sinh bệnh khó chịu. Một là để cảnh tỉnh ông, hai là muốn ông tụng kinh Địa Tạng siêu độ cho chúng. Còn nữa, ông có các chiến hữu bị chết trận trong thời kỳ chiến tranh, cũng có một số người là bạn mới kết giao. Sau khi chết rồi, họ bị rơi vào ác đạo, do biết ông tu hành tốt nên đồng tìm đến muốn nhờ ông siêu độ cho họ thoát khổ. Ông hãy ráng nhớ ra tên của họ, hoặc nếu đã quên thì chỉ cần nghĩ tới việc đem công đức tu học Phật nhiều năm hồi hướng ban cho họ, hãy vì họ mà phóng sinh, tụng kinh, niệm Phật thì rất tốt.”

9 giờ sáng ngày 10 tháng 7, ông Dương đang ngủ được mấy tiếng, bỗng mở bừng đôi mắt, thấy bạn bè và con cái đang ở bên mình, ông lộ vẻ hớn hở bảo:

– Vừa rồi Bồ tát ban cho tôi hoa sen, còn chúc mừng tôi, tôi cũng đảnh lễ Bồ-tát. Rồi ông nhìn các con và nói:

– Các con nhớ cùng mẹ chăm chỉ tu, niệm Phật kiên định tinh tấn nha. Nhớ là phải luôn tỉnh giác đó!

Nói xong ông nhắm mắt, mọi người đều cho rằng ông nghỉ ngơi, nào biết rằng ngay trong khoảnh khắc đó, lúc đầu ông nghẹo sang phải là ông đã vãng sanh rồi.

Đó là vào tháng 7 năm 2007, Dương cư sĩ từ trần, hưởng thọ 83 tuổi. Khi bà Trương gọi điện báo tin cho tôi hay chồng mình mất, bà còn hỏi thêm:

– Hiện đám con không tin Phật của tôi đang muốn lập tức thay y phục tắm rửa cho cha nó, tôi phải làm sao?

Tôi nói:

– Bà phải ngăn chúng lại ngay, vì ông nhà đã vãng sinh thế giới Cực lạc, hiện ở quả vị “Trung phẩm trung sinh”. Do nhờ lúc lâm chung tâm ông không điên đảo, một lòng tha thiết niệm Phật nguyện vãng sanh Tây Phương nên đã cảm ứng được Chư Phật, Bồ-tát đến rước về Lạc bang rồi. Bà đừng để ông phải chịu ảnh hưởng kiểu thế tục thường tình. Linh cửu ông nên để ở nhà bốn ngày, ngăn cấm không cho đốt giấy tiền vàng bạc, thậm chí thời nào cũng không được khóc.

Sau đó, tôi cùng các liên hữu ở tại Phật đường, đồng niệm Phật lớn tiếng để hỗ trợ cho ông Dương, âm thanh vang rền lấn áp mọi tiếng ồn nơi phòng khách. Hôm đó, một người con trai không tin Phật của ông Dương thừa lúc rảnh rỗi cũng vào Phật đường tụng niệm theo, khiến tôi rất hưng phấn. Âm thanh niệm Phật chân thành cũng có thể giúp cảm hóa người mê đến với Phật đường, tiếng niệm Phật nghe thật lớn, đúng là xuyên thấu trời cao. Đột nhiên, Đằng cư sĩ hớn hở bảo mọi người: “Tôi thấy có nhiều Bồ tát và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni thân đắp cà sa đều đang chắp tay đứng xung quanh chúng ta niệm Phật. Tây Phương Tam Thánh đứng ở phía trên, mỉm cười nhìn chúng ta, đồng phóng hào quang năm sắc phủ khắp tỏa chiếu đến những người niệm Phật.”

Hôm đó trước khi ra về, tôi bỗng nhìn thấy rõ ràng: Đài sen của ông Dương đang bay lên “Trung phẩm thượng sinh”. Về nhà rồi, tôi bèn gọi điện thảo luận cùng hai pháp lữ ở các nơi khác. Họ đều xác nhận là cũng thấy ông Dương đã thăng lên “Trung phẩm thượng sinh”. Điều này khiến tôi càng phấn chấn thêm khi hiểu ra rằng: Tín tâm của người trợ niệm, cũng gây ảnh hưởng lớn đến phẩm vị vãng sanh của người mất. Thế là tôi quyết tâm: hôm sau sẽ niệm lớn tiếng, dốc lòng tha thiết chí thành niệm Phật và giải thích cho mọi người hiểu: Ngay lúc niệm Phật phải nhiếp tâm chánh định, có lòng tin kiên cố để tạo ra nguồn hỗ trợ mạnh mẽ, giúp ông Dương thăng lên phẩm vị cao hơn nữa.

Mấy ngày sau, có rất đông con cháu ông Dương cùng vào Phật đường niệm Phật, trưởng tử ông trong lúc trực đêm còn ráng tụng thêm kinh Địa Tạng hồi hướng cho cha. Khi tôi trở lại đám tang ông, đến đặt hoa tươi trên thi thể ông, cúi chào vĩnh biệt thì nước mắt bỗng tuôn không cầm được, xem như từ nay về sau tôi không còn thấy người bạn già từ thiện hiền lương, chí đồng đạo hợp này nữa rồi.

Đang bùi ngùi, bỗng tôi nhìn thấy hồn ông Dương xuất hiện trên không trung, ông đang quỳ trên một hoa sen to lớn, hướng về tượng Tây Phương Tam Thánh đảnh lễ giữa tiếng Phật nhạc ngân vang hòa cùng âm thanh “Nam Mô A Di Đà Phật!” đang niệm liên tục, không ngừng vang vọng vào lỗ tai tôi (vì lúc đó nghi lễ cáo biệt đang tiến hành).

Cảnh mình vừa thấy khiến tôi phấn chấn, nhưng tôi chỉ có thể chia sẻ niềm vui này bằng cách nói nhỏ vào tai nữ liên hữu Quả Năng: “Chèn ơi, Dương lão đã “Hoa khai kiến Phật, ngự ở vị “Thượng phẩm ̣thượng sinh” rồi!” Thế là tôi khuyên mọi người trong vòng 49 ngày này, cố gắng vì ông Dương mà niệm A Di Đà Phật, tụng kinh… cần phải hành trì liên tục để tiếp tục hỗ trợ ông thăng lên phẩm vị cao hơn.

Sở dĩ tôi viết lại câu chuyện này là mong chia sẻ kinh nghiệm quý giá có thực cùng độc giả. Ắt hẳn sẽ có người phê bình tôi thuyết giảng chẳng đúng pháp, nhưng tôi tin chắc không nghi, bởi Phật từng thuyết: “Ứng hiện pháp giới tánh, tất cả duy tâm tạo”. Do vậy mà tôi mạnh dạn kể lại tình huống Dương cư sĩ vãng sinh cho các bạn đồng tu tham khảo. Hi vọng sẽ có nhiều người thu được lợi ích.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Trích: Nhân Quả Phụ Giải Lương Hoàng Sám
Biên soạn: Cư sĩ Quả Khanh
Dịch giả: Hạnh Đoan