Trong quá khứ, khi giảng học, tôi thường khuyên lơn, khích lệ các đồng học, đối với Tứ Hoằng Thệ Nguyện(*), trong thế gian này chúng ta chỉ học hai nguyện đầu, hai nguyện sau chúng ta chưa làm được. Chúng ta chỉ học hai nguyện trước, hai nguyện sau đến thế giới Cực Lạc mới viên mãn, đến thế giới Cực Lạc học rộng nghe nhiều. Chưa tới thế giới Cực Lạc, ta cứ thâm nhập một môn. Ta nhờ vào một môn để ổn thỏa, thích đáng giữ lấy thế giới Cực Lạc; sau khi thân cận A Di Đà Phật mới bèn học rộng nghe nhiều. Hiện thời đừng nên làm [như vậy]; nếu trong hiện tại mà học rộng nghe nhiều , quý vị sẽ tự khiến chính mình bị lỡ làng!
Nếu quý vị phân tâm, tinh thần, tinh lực, và thời gian sẽ chẳng đủ dùng. Điều thứ hai là quý vị đã bị phân tâm, chẳng thể tập trung tinh thần, ý chí. Nói cách khác, một môn vẫn chưa học tốt đẹp, đáng tiếc lắm! Chẳng thà trong một đời này, chúng ta thâm nhập một môn, trường thời huân tu, chính mình quyết định có thành tựu, đến thế giới Cực Lạc rồi mới học rộng nghe nhiều, ổn thỏa, thích đáng, phương pháp này tốt đẹp lắm! Hãy học theo Liên Trì đại sư, Ngài đã nói hai câu rất tuyệt diệu: “Tam Tạng thập nhị bộ, nhượng cấp biệt nhân ngộ” (Tam Tạng mười hai bộ loại, nhường cho người khác ngộ). Ta không làm, nhường cho người khác làm. “Bát vạn tứ thiên môn, diệc nhượng cấp biệt nhân hành” (tám vạn bốn ngàn pháp môn cũng dành cho người khác hành), chính chúng ta chỉ đi theo một con đường. Trong một đời này, chỉ theo một con đường, một phương hướng, một mục tiêu, chết sạch so đo, khăng khăng chấp trì danh hiệu, cầu sanh Tịnh Độ. Đấy là đúng, sẽ thành công. Cần gì phải chuốc lấy lắm nỗi phiền phức như thế? Khiến cho cái tâm được định, tự tư, tự lợi, tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn thảy đều buông xuống. Phải biết những thứ ấy chướng đạo, không chỉ chướng ngại quý vị chứng quả, mà còn chướng ngại quý vị khai ngộ, cũng như chướng ngại quý vị vãng sanh. Không buông những thứ ấy xuống, quý vị sẽ bị thiệt thòi to lớn.
Chúng ta học Phật, nếu muốn thành tựu trong một đời này, quyết định phải biết điều này. Phải học theo Văn Thù, học theo Phổ Hiền, quý vị thấy những vị Bồ Tát này: Văn Thù Bồ Tát là thầy của bảy vị Phật, học trò đều thành Phật cả rồi. Học trò của Địa Tạng Bồ Tát lão nhân gia thành Phật chẳng thể đếm xiết. Trong pháp hội tại Đao Lợi thiên cung chúng ta thấy: Chư Phật đến từ mười phương đều là học trò của Ngài. Điều này đã tạo lòng tin cho chúng ta.
Trích: Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(*)Tứ hoằng thệ nguyện, tứ hoằng thệ nguyện là bốn lời thề nguyền của những người tu hành theo Bồ tát đạo thuộc về các tông phái Đại thừa.
- Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ—Tức là Nguyện giải thoát vô số chúng sinh.
- Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn —Tức là Nguyện đoạn tuyệt với vô vàn phiền não
- Pháp môn vô lượng thệ nguyện học —Tức là Nguyện tu học Phật pháp nhiều vô lượng
- Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành —Tức là Nguyện đạt thành đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác
Tôi muốn hỏi mỗi ngày hai thời chỉ tụng Kinh A Di Đà. Còn lại niệm Phật ít thì có thể vãng sanh không?
A Di Đà Phật
Gửi bạn Viên Ứng
1.Bạn hỏi trực tiếp Đức Phật A Di Đà để có câu trả lời chính xác nhé.Trong kinh Đức Phật trả lời cho bạn rồi mà
Nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Phật thập phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn sanh về cõi nước tôi nhẫn đến 10 niệm, nếu không được sanh, (trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp), thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
2.Tiếp theo là bạn hỏi chính mình là mình có thực sự tin đại nguyện thứ 18 này không.
Đây là hai nơi chính để bạn hỏi,còn người khác không mấy ai dám khẳng định cho bạn được đâu,người ta chỉ góp ý thôi.
-Bạn có thể xem chú giải kỹ đại nguyện thứ 18 của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ và Thiện Đạo Đại Sư để biết thêm nhé.
-Quang minh Phật chiếu soi bình đẳng khắp nơi,tùy vào thiện nghiệp của chúng sanh mà cảm ứng thọ dụng sâu cạn sai khác.Tuy có đồng nghiệp chung là cùng tu tịnh độ nhưng mỗi người vẫn có biệt nghiệp riêng nên hành trì mỗi người có khác nhau là chuyện bình thường.
-Bạn đang tu chánh nghiệp niệm Phật và trợ nghiệp là tụng kinh A Di Đà là rất gần Phật,đừng lo lắng quá.Đến lúc đủ duyên bạn sẽ niệm Phật nhiều dần lên thôi.
-Bạn nghe Niệm Phật Kính của đại sư Thiện Đạo khoảng 300 lần trở lên là cũng sẽ dần chuyển hướng sang niệm Phật nhiều dần thôi.
A Di Đà Phật
Xin chia sẻ với bạn, nhưng chú ý rằng đây là ý kiến cá nhân của tôi vì vậy nếu có sai sót xin lượng thứ, bạn chỉ nên tham khảo thôi nhé.
1. Hạnh hành trì để vãng sinh ở trong kinh Vô Lượng Thọ, Phẩm 24 – Ba bậc vãng sinh đều nói phải “Phát tâm Bồ đề, Nhất hướng chuyên niệm (danh hiệu A Di Đà Phật)”. Như vậy thì theo lý bạn phải lấy việc niệm danh hiệu A Di Đà Phật làm chính hạnh, còn lễ lạy, xưng tán, đọc tụng kinh điển, tu các công đức khác là trợ hạnh mà thôi.
2. Đối với kinh điển, cốt yếu là phải “Thọ trì – Đọc tụng” chân thật mới có lợi ích.
“Thọ trì” là tin nhận và thực hành theo lời dạy trong kinh, như Kinh A Di Đà cũng dạy phải Niệm A Di Đà Phật, vậy nếu bạn “Thọ trì kinh A Di Đà” thì bạn phải thực hành niệm A Di Đà Phật chăm chỉ cầu sinh Cực Lạc Tịnh độ, còn bằng không chuyên niệm A Di Đà Phật thì bạn mới chỉ là đang “đọc tụng” thôi chứ chưa “thọ trì”.
Còn việc “đọc tụng” phải đạt tiêu chuẩn nào mới được công nhận là “đọc tụng”? Đó là bạn phải đọc tụng được toàn kinh với tâm thanh tịnh không nổi lên vọng niệm, hay nói các khác là bạn cũng phải “đọc tụng thành phiến”, “đọc tụng thành khối”, “đọc tụng nhất tâm bất loạn”. Điều này khó quá vì kinh dài, khó mà giữ được tâm không nổi vọng niệm trong một biến kinh. Như vậy thì niệm A Di Đà Phật dễ thành tựu hơn nhiều, trong một lần niệm danh hiệu A Di Đà Phật không khởi vọng niệm là điều có thể làm được với sức của phàm phu chúng ta. Vậy thì càng nên lấy việc niệm A Di Đà Phật làm chính hạnh bạn ạ.
3.Niệm A Di Đà Phật có thể niệm cả ngày, bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu, đi đứng nằm ngồi đều niệm Phật được, nhưng bạn không thể làm như vậy với tụng kinh. Do vậy niệm Phật tiện nghi hơn nhiều.
4.Giả sử bạn “đọc tụng – thọ trì” kinh A Di Đà thành tựu viên mãn, đem công đức đó hồi hướng vãng sinh thì kết quả tốt nhất đạt được cũng chỉ là vãng sinh Cực Lạc, bằng với việc niệm danh hiệu A Di Đà Phật vãng sinh Cực Lạc, trong khi niệm Phật thì hành trì dễ dàng và tiện lợi hơn, lại đúng lời Phật dạy. Giữa việc dùng cách khó hơn, ít đảm bảo hơn, chỉ là phụ hạnh để cầu vãng sinh thì sao không chọn cách chính, đơn giản hơn, tiện lợi hơn, chắc chắn hơn để hành trì?
Chúc bạn và gia đình mọi điều tốt lành!
A Di Đà Phật!
Chào bạn Cong (Trí Tấn Bửu)
Nếu mà bạn có thể vừa niệm Phật mà vứa nói chuyện mà cũng còn nghe câu niệm phật xen vào thì cũng mặc kệ nó thôi. Chỉ lắng nghe câu chuyện mình nói và câu niệm phật mà thôi. Ban đầu thì hơi khó đó nhưng nếu bạn có thể chú ý được 100% thì còn gì bằng. Vừa nói chuyện mà câu niệm phật vẫn khởi lên một cách tự động khi bạn không niệm thì công phu cũng khá lắm rồi,lâu ngày bạn sẽ quen thôi. Nhưng mà vẫn phải tiếp tục niệm phật đừng có buông lơi. Còn nếu bạn không muốn nghe câu niệm phật thì chỉ chú ý vào công việc và câu chuyên mình đang nói mà thôi. Niệm phật có nhiều cách bạn có thể uyển chuyển chọn ra cho mình một phương pháp lúc ban đầu rồi cứ theo đó mà làm đừng có thay đổi. Có công mài sắt có ngày nên kim. Chúc bạn thành công.
Xin chào các bạn
Mình có vài điều muốn hỏi lúc hồi hướng và phát nguyện thì nghi thức và trình tự ra sao vậy ạ? Ví dụ như đi học về mình mặc đồng phục chải tóc tai rửa mặt sạch sẽ lạy Phật có được gọi là chỉnh tề kính trọng Phật không ạ? Với lại em thường mặc đồ ngủ ở nhà vậy mỗi lần lạy Phật đều phải niệm thầm à? Lễ Phật với lạy Phật cũng giống nhau đúng không ạ? Với lại mình niệm Phật vẫn còn vọng tưởng có hồi hướng với phát nguyện được không ạ? Xin giải đáp giúp em với.
Với lại dạo gần đây em cũng có nằm mơ về những chuyện tình cảm em với ai đó trong mơ nói chung những gì liên quan tới ái trong đó cũng có ngôn tình và những thứ dục cho em hỏi nữa có phải là do oan gia trái chủ không ạ?
Em cảm thấy như bắt đầu có cái gì đó không ổn xin mấy bạn giải đáp thêm giúp mình đc không ạ?
A Di Đà Phật
Gửi bạn Kelly Kelly
Bạn hỏi nhiều ý nhưng mình chỉ chia sẻ được 1 ý thôi:
Như nước từ trong biển chảy ra các ao,sông,mương,…rồi lại từ các dòng nhánh này chảy ngược về biển.Vì thế khi niệm Phật thì ngay lúc đầu cũng nương vào bản nguyện mà niệm Phật,rồi lại trở về nhập vào bản nguyện
Phật A Di Đà có nguyện độ sanh khắp pháp giới,nguyện này chảy vào trong tâm của bạn,gia bị khua động khiến cho tâm của bạn khởi lên rồi qua miệng phát ra âm thanh A Di Đà Phật .Bạn phải biết mình niệm Phật là do Phật lực làm tăng thượng duyên,còn nếu chỉ tự mình không thể niệm được.Mỗi một câu,một chữ đều phải biết đó là ân đức của Phật gia trì,thì niệm ấy mới là nương vào bản nguyện.
-Bạn niệm Phật mà có vọng tưởng là chuyện bình thường,giống như ánh sáng chiếu vào căn phòng tối thì sẽ soi thấy bụi trong đó,quang minh của Phật sẽ chuyển dần hết những bụi phiền não thành bồ đề giác ngộ.Cho nện không vì mới đầu thấy nhiều bụi mà sợ,chỉ sợ không niệm Phật kiên trì bền lâu thôi.
-Cho nên có vọng tưởng cũng hồi hướng,đến khi thành tựu vọng tưởng cũng thành bồ đề.
-Dù niệm thầm hay niệm tiếng thì quan trọng là phải nghe rõ ràng.
A Di Đà Phật
Bạn hãy theo hướng dẫn này mà hành trì hàng ngày nhé.
Nghi Thức Niệm Phật Hằng Ngày
Lạy Phật tức là lễ Phật. Lúc lạy Phật không nên mặc đồ ngủ. Còn lúc niệm Phật thì niệm thầm hay niệm ra tiếng cũng được (lúc thay đồ hay ở trong nhà vệ sinh thì nên niệm thầm). Việc nằm mơ thấy nhiều thứ là điều bình thường. Bạn chuyên niệm Phật nhiều thì theo thời gian hiện tượng ấy sẽ bớt lại.
A Di Đà Phật.
A DI ĐÀ PHẬT…
Kính gởi sư huynh Thiệ̣n Nhân, và sư đệ Hãy Niệm A Di Đà Phật:
Nhờ huynh, đệ lý giải dùm câu:
– Nhất niệm bất giác mà có vô minh???
– Vô minh bất giác sanh tam tế???
Xin chân thành cảm ơn sư huynh đã phúc đáp lần trước.
Cảm ơn huynh, đệ (HNADDP) lý giải dùm cho.
A Di Đà Phật………
A DI ĐÀ PHẬT
Gửi huynh Tịnh Độ,
TN xin được chia sẻ.
*Nhất niệm bất giác mà có vô minh???
Kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật nói với Ngài A Nan như sau: „A Nan! Thầy nên biết, diệu tánh Chân-như vốn tròn đầy sáng chiếu, xa lìa mọi danh tướng, bản lai không từng có thế giới và chúng sinh. Nhân một niệm tối sơ vô minh vọng động mà thấy có sinh, rồi nhân sinh mà thấy có diệt, cho nên cả sinh và diệt đều gọi là vọng; diệt vọng gọi là chân“ (Kinh Thủ Lăng Nghiêm).
Tâm Phật và chúng sanh vốn đồng một thể; Phật vì tâm luôn giác nên có thể nhìn thấu tâm chúng sanh; chúng sanh vì tâm luôn mê nên chẳng thể cảm ứng tâm Phật. Để giúp chúng sanh phá mê, khai ngộ, lìa khổ, được vui Phật chỉ chúng ta pháp niệm Phật.
Phật=Giác. Nay dùng hồng danh A Di Đà Phật=vô lượng giác. Chúng ta cần hiểu sâu một chút: nhất thời mê nên phải mượn phương tiện để khắc chế tâm mê, tức giúp tâm giác hiện tiền (mượn ngoại giác để thấy nội giác). Đó là lý. Đi vào sự (hành), chúng ta niệm được vài 3 hồng danh, hoặc vài 3 phút thì không có vấn đề, nhưng vượt quá vài 3 phút thì niệm mê (vô minh) bắt đầu khởi.
VD: chúng ta đang niệm A Di Đà Phật thì niệm ăn chay khởi lên. Lý do khởi? vì hôm nay chúng ta phải ăn chay. Khi niệm ăn chay khởi, đồng nghĩa niệm kế đó là ra chợ, siêu thị để mua đồ chay – chọn đồ chay – chế biến, chiên, xào, nấu nướng… đồ chay. Vậy là miệng thì vẫn A Di Đà Phật, thân vẫn nghiêm trang trước bàn thờ Phật, nhưng tâm thì móng khởi đủ thứ chuyện xung quanh bữa chay trong ngày, cũng vì thế mà tất cả những gì có liên quan tới việc ăn chay của chúng ta đã hiện đầy đủ trong tâm (thế giới-chúng sanh hiện).
Người niệm Phật có đôi chút định lực, khi niệm ăn chay khởi, ngay lập tức phải nhận biết đó là vọng niệm, rồi dùng A DI ĐÀ PHẬT để khắc chế. Niệm ăn chay khởi là niệm (vô minh) sanh; niệm A Di Đà Phật khắc chế khiến “ăn chay niệm” không thể khởi tức niệm vô minh diệt. Nếu cả buổi công phu sanh-diệt-diệt-sanh không ngừng dứt, tức buổi đó niệm trong vọng. Nhưng nếu ngay niệm đầu khởi, giúp nó tiêu bặt, chỉ còn niệm duy nhất là A Di Đà Phật, tức đang giác. Làm chủ được niệm này kể như đã có chút công phu rồi, nhưng khi niệm giác còn luôn móng khởi, tức còn chấp chới giữa lằn ranh mê-giác (còn có vọng-chân). Điều này Phật nói đó chưa phải là giác thực sự mà chúng ta còn trụ trong niệm giác. Hễ có trụ ắt có phiền não khởi. Vì vậy, chúng ta tiếp tục niệm nhưng tâm không còn móng khởi ta đang niệm Phật để khống chế mê=niệm chân bắt đầu xuất hiện=vô minh tạm thời không khởi. Niệm chân này giữ vững, duy trì trong suốt buổi công phu=chân niệm Phật=vô minh tạm tiêu trừ. Đạt được đến tầm này thực đã chẳng dễ.
(TN sẽ chia sẻ tiếp)
A DI ĐÀ PHẬT
TN xin chia sẻ tiếp câu thứ 2:
*Vô minh bất giác sanh tam tế???
Trong A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa PS Tịnh Không giảng năm 1984 có đoạn:
“(Diễn) Bất giác hữu kỳ niệm giả.
(演) 不覺有其念者。
(Diễn: Bất giác có ý niệm là….)
“Bất giác tâm khởi nhi hữu kỳ niệm” (Tâm bất giác dấy lên bèn có ý niệm): Tâm bất giác là tâm mê hoặc, là vô minh. Đấy gọi là “vô minh bất giác sanh tam tế”. Vô minh đứng đầu trong ba tướng Tế.
(Diễn) Luận vân: “A Lê Da thức hữu nhị chủng nghĩa, nhất giả giác nghĩa, nhị giả bất giác nghĩa”.
(演) 論云:阿黎耶識有二種義,一者覺義,二者不覺義。
(Diễn: Khởi Tín Luận viết: “A Lê Da thức có hai nghĩa: Một là nghĩa giác, hai là nghĩa bất giác”).
Chúng ta tu hành phải nương vào nghĩa Giác, phải tách lìa nghĩa Bất Giác. Có thể nói là Quyền Giáo Nhị Thừa, ngoại đạo, phàm phu đều dùng nghĩa Bất Giác trong A Lê Da thức (A Lại Da thức); do vậy, mê hoặc, điên đảo, đúng như kinh Địa Tạng đã nói: “Khởi tâm động niệm vô bất thị nghiệp” (Khởi tâm động niệm không gì chẳng phải là nghiệp), bởi lẽ, họ khởi tâm động niệm đều dựa theo cái tâm Bất Giác.
Tiếp theo đó, sách Diễn Nghĩa chú giải thế nào là Giác và Bất Giác, nhất định phải hiểu rõ ràng, đây là chỗ để chúng ta tu học.
(Diễn) Sở ngôn giác nghĩa giả, vị tâm thể ly niệm.
(演) 所言覺義者,謂心體離念。
(Diễn: Nghĩa giác như vừa mới nói [trong câu trên] chính là: Tâm thể ly niệm).
Bốn chữ này phải nhớ thật kỹ. Giác là gì? “Tâm thể ly niệm” là giác. Hiện thời, phiền phức nhất là chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối khởi lên ý niệm, chẳng thể tách rời ý niệm. Nói cách khác, có ý niệm là chẳng giác. Chẳng giác nên mới khởi niệm! Giác rồi sẽ không còn ý niệm nữa. Ý niệm càng nhiều thì quý vị mê càng sâu. Khi nào không còn ý niệm nữa thì là giác. Đấy chính là tướng trạng biến hiện của giác và mê, chúng ta nhất định phải nhận biết. Tướng trạng của giác là trong tâm không có ý niệm, tướng trạng của mê là có ý niệm; bất giác sẽ có niệm, còn giác bèn không có ý niệm. Khi giác thì….
(Diễn) Tức thị Như Lai bình đẳng Pháp Thân.
(演) 即是如來平等法身。
(Diễn: Chính là Pháp Thân bình đẳng của Như Lai).
“Tâm thể ly niệm” thì quý vị chứng đắc Pháp Thân thanh tịnh. Chứng một thứ, hết thảy đều chứng. Đã chứng được Pháp Thân thanh tịnh thì đương nhiên Báo Thân viên mãn liền hiện tiền. Báo Thân viên mãn do trí huệ thành tựu, Giác là trí huệ, trí huệ hiện tiền. Giác khởi tác dụng là ngàn trăm ức Hóa Thân. Chỉ cần quý vị có thể thật sự làm được “tâm thể ly niệm” thì sẽ chứng trọn ba thân. Phật và phàm phu khác nhau ở chỗ này. Do vậy, hễ suốt ngày từ sáng đến tối khởi tâm động niệm, khởi vọng tưởng thì chẳng phải là chuyện tốt đẹp!
Vì thế, học Phật, tôi nhắc lại lần nữa, Phật pháp chẳng phải là học thuật thế gian. Nói cách khác, dùng phương pháp của học vấn thế gian để học Phật pháp là hỏng rồi! Phương pháp được áp dụng trong học vấn thế gian đều là bất giác, có ý niệm; quý vị áp dụng phương pháp ấy để học Phật pháp thì làm sao vào cửa Phật cho được? Cổ đức nói rất hay, trong buổi giảng chúng tôi nhắc lại một lần nữa, hy vọng mọi người hãy nhớ kỹ và lại còn biết áp dụng: Nghe kinh phải “tiêu quy tự tánh”. Tiêu quy tự tánh là tâm thể ly niệm, trở về với tự tánh. Do tự tánh không có ý niệm, nghe từng câu rõ ràng, rành mạch, trọn chẳng có một tí phân biệt, chấp trước, vọng tưởng thì mới gọi là “tiêu quy tự tánh”. Nếu quý vị nghe xong, điều gì cũng ghim chặt trong lòng, đấy là bất giác, có ý niệm, sẽ biến thành pháp thế gian, nhất quyết chớ nên như vậy! Học Phật kiểu đó thì trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp cũng chẳng thể thành tựu, mà vẫn là phàm phu.
Giống như kinh Kim Cang đã nói, đại chúng tham dự pháp hội giảng kinh này, mỗi một vị đều là thiện căn sâu dầy, trong đời quá khứ đều đã thân cận vô lượng vô biên chư Phật Như Lai. Thân cận chư Phật Như Lai nhiều như thế mà nay vẫn là phàm phu, vẫn một mực hồ đồ là do nguyên nhân nào? Là vì quý vị chẳng biết tiêu quy tự tánh, hoàn toàn ghi nhớ ngôn ngữ, ghi nhớ văn tự, chấp vào tướng ngôn thuyết, tướng danh tự, khởi tâm động niệm chấp vào tướng tâm duyên, chẳng lìa niệm. Do vậy, chẳng thể thành tựu. Nay đã thật sự hiểu rõ căn bệnh này, đau đáu sửa đổi lỗi trước, đó là “cải tà, quy chánh”. Tà là gì? Hữu niệm! Bất giác có ý niệm, đấy là căn cội to lớn của hết thảy tà tri kiến. Chúng ta tu hành phải tu từ căn bản, trị bệnh phải trị từ căn bản, phải dốc sức từ chỗ này.
Có đồng tu bảo tôi: Trong khoảng thời gian này, kinh này được giảng rất sâu, nghe không hiểu! Dẫu nghe hiểu cũng không thể áp dụng vào cuộc sống thường nhật được! Áp dụng không được cũng phải nghe, vẫn phải tích cực nghe, không nghe không được! Nghe nhiều là huân tập, nghe lâu sẽ biết dùng. Bản thân tôi cũng đã từng trải qua chuyện này. So ra, lúc tôi mới học còn gian nan hơn quý vị. Khi ấy, những thứ thầy giảng cho tôi không được rõ ràng như tôi giảng [hiện thời], nhất định phải thấu hiểu, phải có lòng nhẫn nại! Thưa quý vị, tôi nhập cảnh giới này, gần như là học Phật hai mươi năm mới nhập cảnh giới này. Dùi mài nhiều năm như thế, không bỏ, không buông lung ngày nào. Lúc mới đầu nghe kinh, thầy cũng thường nói “tiêu quy tự tánh”, “chuyển Thức thành Trí”, tôi cũng nói được, nhưng chẳng biết cách “tiêu quy” như thế nào, cũng chẳng biết cách chuyển ra sao, đâm ra chỉ biết nói như vậy mà thôi, sau đấy mới dần dần hiểu được đôi chút”.
Lời bàn: Hàng ngày chúng ta sống với tâm bất giác=niệm niệm khởi=vô minh. Nay muốn chuyển hoá tâm bất giác chúng ta phải mượn hồng danh A Di Đà Phật làm phương tiện. Trong phần đầu TN có chia sẻ đó là dùng phương tiện “ngoại giác” giúp “nội giác” hiện tiền, bởi thực tế khi lấy A Di Đà Phật làm 1 niệm, kế đó là niệm niệm A Di Đà Phật=niệm niệm nối nhau không ngừng. Hiểu nghĩa thô thì đó còn là niệm bất giác, bởi phải nương nhờ hồng danh Phật, nhưng nhờ sự trợ duyên của A Di Đà Phật chúng ta sẽ dần chuyển hoá được tâm bất giác của chính mình. Khi nào chúng ta biết tâm bất giác được chuyển hoá? Lúc chúng ta niệm Phật và khi đối cảnh tiếp vật mà tâm phân biệt, chấp trước ít và không dấy khởi=tâm bất giác đã được khắc chế.
Điều này phải trải qua hành trì chân chánh và thực sự tỉnh giác mới có thể nhận ra và đạt kết quả.
TN
A Di Đà Phật …
Kính chào cư sĩ Thiện Nhân và các liên hữu. Cám ơn chia sẻ của cư sĩ Thiện Nhân. Để làm được như trình tự mà cư sĩ TN chia sẻ đối với TTB thật cũng thật chẳng dễ. Qua chia sẻ, TTB được hiểu đó là thực hiện trong quá trình công phu (tức là mình niệm A Di Đà Phật) và khi đối cảnh tiếp vật mà tâm phân biệt, chấp trước ít và không dấy khởi=tâm bất giác đã được khắc chế.
Vậy, trong quá trình sinh hoạt thường ngày (đối người, tiếp vật) mà câu A Di Đa Phật lại khởi lên xen vào thì mình làm thế nào ạ? rất mong nhận được chia sẻ kinh nghiệm của các liên hữu, vì nhiều khi như vậy (câu A Di Đà Phật xen vào công việc) cũng làm ảnh hưởng đến các việc khác, nhiều lúc “gồng mình” giữ câu A Di Đà Phật thì mỏi mệt; điều hòa niệm thầm câu A Di Đà Phật thì nhìn vào như mình bị lạc lõng với người bên cạnh (vì không hiểu sao lúc ấy mình cứ im im, mặt nhìn thì như bị đơ đơ ấy)
A Di Đà Phật …
A DI ĐÀ PHẬT
Gửi bạn Trí Tấn Bửu,
*Bạn hiểu sai và có phần quá cứng nhắc khi hành pháp của Phật rồi. Niệm Phật=niệm giác, tức không mê trong mỗi niệm. Mê thì tạo hành ác, tạo nghiệp; giác thì hành thiện, không tạo nghiệp. Chúng ta phải dùng pháp niệm Phật là do tâm chúng ta quá mê=”khởi tâm động niệm là không chi không tạo ác” (Kinh Địa Tạng), vì thế phải dùng pháp đó để khắc chế tâm mê. Khi bạn làm việc nếu tâm bạn chuyên nhất, không thị phi, nhân ngã, không bàn tán chuyện vô bổ (tạo nghiệp)=tâm bạn đang niệm Phật. Hoàn toàn không phải bạn phải vừa làm việc, vừa “gò mình” để niệm Phật, làm vậy là chính bạn đang tạo nghiệp, bởi tâm niệm Phật không chuyên nhất, tâm làm việc cũng không chuyên nhất=vọng tâm=tạo nghiệp.
*Chúng ta phải khéo léo quán chiếu lời Phật dạy: niệm Phật hiểu sâu xa là không làm ác, chuyên hành thiện và giữ tâm thanh tịnh. Nếu tâm không hành ác, chỉ hành thiện và không chấp thiện=tâm thanh tịnh=chúng ta đang niệm Phật. Chẳng phải miệng phải luôn niệm Phật thì mới là niệm Phật. Nếu chúng ta không khéo léo tư duy và thực hành thì rất dễ biến pháp niệm Phật trở thành dị dạng pháp của thế gian mất.
TN
A DI ĐÀ PHẬT…
TTB cám ơn góp ý của liên hữu Tìm Về Nhà Xưa và cư sĩ Thiện Nhân. Có lẽ TTB cần quán chiếu thêm trong thời gian tới.
A DI ĐÀ PHẬT…
A DI ĐÀ PHẬT
Gửi huynh Tịnh Độ,
TN xin được chia sẻ về đề tài huynh đặt ra:
“Vô khởi tưởng niệm, tham kế thân giả”,
*Vô khởi tưởng niệm:
Tổ Huệ Năng dạy về vô niệm như sau: “Không nhiễm nơi bất cứ cảnh nào, gọi là vô niệm. Lìa cảnh ngay chính nơi niệm của mình, thì niệm sẽ lập tức không sinh nơi pháp”.
Tâm chúng sanh của chúng ta như trong Địa Tạng Kinh đã nói: “hễ khởi tâm động niệm không chi là không tạo nghiệp, không chi không tạo ác”.
Muốn kiểm chứng chúng ta chỉ cần làm chắc nghiệm nhỏ khi niệm Phật.
Khi không niệm Phật hầu như chúng ta đều nghĩ tâm không có vấn đề, nhưng khi niệm Phật thì đủ mọi cảnh giới hiện lên. Thực tế không phải vậy. Khi không niệm Phật, thường ngày chúng ta niệm niệm đều sống với những vọng niệm (phiền não) – những chủng tử này huân tập từ vô thỉ tới nay và chúng ta coi đó là thường. Nay khởi tâm niệm Phật, tức chúng ta dùng một niệm khác – niệm A Di Đà Phật=khác với niệm thường ngày (phiền não) nên ngay lập tức chúng ta nhận ra rõ ràng những niệm phiền não đang khởi và hoặc là hoảng sợ, hoặc là tìm mọi cách chống lại hay trừ diệt nó.
Tịnh tâm quán sát một chút: vọng niệm là niệm của chúng sanh tâm chúng ta, nó vốn dĩ luôn tồn tại trong suốt 3 thời quá khứ-hiện tại-vị lai đều vậy, nay cớ gì chúng ta lại nói là có khởi và không khởi? Do vậy trong trường hợp vọng niệm khởi chúng ta không cần hoảng sợ và cũng không cần tìm cách đế đối kháng hay bỏ chạy khỏi chúng, bởi làm vậy chúng ta đã bị nhiễm cảnh và bị cảnh chi phối. Thế đó chúng ta chỉ cần dùng A Di Đà Phật niệm và niệm niệm không rời tâm (tâm này là tâm không chạy theo cảnh), tất ngay đó không có pháp sanh.
Tại sao lại nói pháp sanh? Ví thử: khi niệm Phật, niệm huỷ báng Tam Bảo, niệm tà dục khởi, thay vì hoảng sợ, thay vì tìm cách đối phó, chúng ta chỉ cần nhận biết: đó là vọng, kế đó nhiếp tâm vào Phật hiệu không để cho vọng len vào Phật hiệu, tất pháp ác, pháp bất thiện không thể sanh. Nhưng nếu không làm được chuyện đó các pháp ác sẽ lập tức trỗi dậy: bất kính, đoạ địa ngục, hoảng sợ, ngưng niệm Phật, không dám niệm Phật…khi bất thiện pháp khởi kề đó thiện pháp sẽ đồng khởi: Huỷ báng Tam bảo, tà dục chúng ta cho là bất thiện; niệm Phật chúng ta cho là thiện. Ngay một niệm khởi lên thôi hai pháp thiện-bất thiện đồng khởi và đã đối kháng lẫn nhau. Để khắc chế niệm này Tổ dạy: không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay lúc đó cảnh giới của chân như tự tánh hiện tiền (còn gọi là bản lai diện mục tức chân tâm thanh tịnh). Như vậy chúng ta có thể thấy sở dĩ khi niệm Phật tâm chúng ta luôn bất an, phiền não luôn khởi là do chính chúng ta đang khởi niệm chấp các pháp mình đang hành trì. “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” = không để tâm bám chấp vào bất cứ nơi nào (vô trụ tâm) ắt không có phiền não khởi. Để làm được điều này là khó, đòi hỏi chúng ta phải có sự huân tập chân chánh trong mọi thời, mọi khắc khi đối cảnh tiếp vật chứ không phải riêng khi chúng ta ngồi niệm Phật. Thực tế thì chúng ta mới chỉ để tâm khắc chế vọng niệm khi đối trước bàn thờ Phật, nhưng rời nơi đó, ngay lập tức chúng ta lại sống với tâm phiền não thường nhật. Đó là sai.
Vì thế Tổ mới dạy tiếp: “Này các thế nhân, hãy xa lìa các kiến chấp và đừng sinh khởi vọng niệm. Nếu như không có niệm, vô niệm cũng chẳng thể thành lập được. “Vô” là “vô” cái gì? “Niệm” là “niệm” vật gì? “Vô” là lìa xa nhị tướng khởi trần lao. “Niệm” là niệm chơn như bổn tánh. Chơn như là thể của niệm, niệm là dụng của chơn như. Nếu khởi niệm từ tự tánh, thì tuy có kiến, văn, giác, tri, cũng vẫn chẳng hề bị vạn cảnh nhiễm mà vẫn luôn luôn tự tại”.
Chúng ta niệm A Di Đà Phật thực tế là có niệm (phải nương vào hồng danh tức vô lượng giác niệm). Ngay niệm này chỉ cần nhiếp tâm, đừng để phát khởi đó là niệm thiện hay niệm giác, bởi hễ khởi hai niệm này lập tức niệm đối kháng là bất thiện và mê sẽ đồng khởi=chúng ta đang trụ trong thiện,giác-bất thiện, mê=kẹt trong niệm đó. A Di Đà Phật chính là pháp thân Phật, pháp thân này Phật nói vốn có sẵn trong tự tánh của mỗi chúng ta. Khi niệm Phật chúng ta ráng đừng để niệm Phật (giác) – chúng sanh (mê) dấy khởi= đang niệm mà vô niệm.
Đó chính là ý: đừng sanh khởi vọng niệm!
(TN sẽ còn chia sẻ tiếp ý thứ hai)
Cảm ơn 2 bạn đã giải đáp cho mình
Thưa bạn Niệm Phật Dzui Làm Sao cho mình hỏi cái nghi thức hành trì có nhất thiết là buổi sáng sớm không hay lúc nào tiện thì hành trì?
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Xin tán thán công đức bố thí pháp của bạn Hãy Niệm A DI ĐÀ PHẬT. Nguyện tất cả chúng sinh sớm tốc xả mê đồ ,nguyện sinh và vãng sinh Tây Phương Cực Lạc .
NAM MÔ HOAN HỈ TẠNG BỒ TÁT MA HA TÁT?♀️?♀️?♀️
Chuyện sư cụ vãng sinh – Thời nay biết chữ chỉ thêm loạn tâm thôi!
Tôi xin kể về một ni sư đã vãng sinh ở gần nhà tôi. Vì một vài lý do tế nhị tôi xin không công khai danh tính cụ, mà thực sự cái chúng ta cần là bài học từ cuộc đời tu hành của cụ, còn việc biết cụ là ai bây giờ không phải là điều quan trọng nữa.
Hồi đó, khi tôi đến thăm chùa thì cụ đã vãng sinh vài năm, cảnh chùa đơn sơ, trong nhà tổ chỉ có di ảnh cụ kèm theo một tờ lịch xé ra gắn trong khung ảnh ghi nhớ ngày cụ quy Tây. Trên ban thờ, có bức hoành phi (nếu có thể gọi là như vậy) làm từ mấy thanh gỗ tạp đóng thùng hàng ghép lại, sơn màu xanh đề 4 chữ “Tổ Ấn Trùng Quang”. Không thể nào đơn sơ hơn! Tôi thầm nhủ khi có điều kiện mình sẽ công đức một bức hoành phi hẳn hoi, nhưng lần sau tôi đến thì đã có vị nhanh tay hơn rồi, thật tiếc cho mình kém may mắn.
Tôi được nghe kể cụ trụ trì ở đó đã lâu, tuy nhiên cảnh chùa vắng vẻ vì cụ không xem ngày, không đi cúng và không dâng sao giải hạn, không làm lễ cắt duyên, vv…, nên dân xung quanh chẳng ai đến chùa, cũng có những người coi thường cụ. Cụ không biết chữ và điều đặc biệt hơn là cụ không cho ai trong chùa học chữ, cụ nói thời nay biết chữ chỉ thêm loạn tâm thôi.
Một hôm, cụ đưa cho người trong chùa (chỉ có 1, 2 vị ni cô hay sãi, một người hình như bị khuyết tật) một rổ tràng hạt rồi dặn rằng: “Nếu tôi đi thì không được báo cho giáo hội ngay, qua hôm sau hãy báo; nếu người nhà tôi đến thăm thì bảo họ đừng khóc, đưa cho mỗi người một tràng hạt bảo niệm Phật cho tôi”. Ni cô ở chùa kể nửa đêm bỗng nghe thấy chuông điểm một tiếng rõ to nên dậy xem ai đánh chuông nhưng sân chùa vắng tanh không một bóng người, cổng cửa vẫn đóng, ni cô sợ quá chạy về phòng trùm chăn không dám ngủ. Sáng dậy, qua phòng cụ thì thấy cụ đã quy Tây rồi, bèn xé tấm lịch giấy trên tường để vào khung ảnh ghi nhớ ngày cụ vãng sinh.
Lần khác tôi đến thăm một sư cụ trụ trì một ngôi cổ tự gần đó. Cụ là bậc chân tu khổ hạnh nên tôi rất kính trọng, thấy cụ đã cao tuổi tôi muốn khuyên cụ niệm Phật liền kể cho cụ nghe về ni sư đã vãng sinh, hai cụ cũng biết nhau, nhưng chắc do khác môn tu hoặc không đủ duyên nên cụ không tin việc vãng sinh, cụ còn nhắc tôi về một vụ ồn ào vừa xảy ra ở nước ta hồi đó liên quan đến việc một vị ngộ nhận cảm ứng khi niệm Phật khiến chính quyền can thiệp. Lúc đó tôi liền hiểu vì sao ni sư trước khi quy Tây đã dặn đệ tử không báo ngay cho giáo hội trong vùng. Một vị ni sư quê mùa không biết chữ, chỉ chuyên niệm A Di Đà Phật trong ngôi chùa vắng mà lại có thể biết trước ngày vãng sinh và quán được cả thời cơ, đúng là đại trí như ngu! Sau này tôi đọc trên một trang web của Trung Quốc về hòa thượng Hải Khánh, tôi liền liên tưởng ngay đến cụ, tuy hai thời khác biệt, hai xứ cách xa nhưng hai vị thị hiện thật giống nhau. Người đời ai cũng mong gặp Bồ tát, vậy mà ngày ngày Bồ tát ở trước mắt nhưng chẳng ai nhận ra, còn khinh rẻ các ngài.
Câu chuyện này tôi giữ trong lòng mình như một bài học và hơn lúc nào hết tôi thấy bài học này vô cùng cần thiết. Bởi thời nay không phải là thời để học rộng nghe nhiều, môi trường thông tin đã quá ô nhiễm, tự do ngôn luận nên ai cũng là chuyên gia, đua nhau tuyên truyền thuyết nhảm, xàm ngôn lộng ngữ. Trong giới tu học Phật giáo cũng đại loạn, phái này nhận mình đúng nói phái kia ngụy tạo, nói chư tổ sư bịa đặt, đến cả danh hiệu “A Di Đà Phật” cũng có ý kiến cho là sai cần sửa đổi. Phải chăng mười mấy đời tổ sư và các vị tiền bối đã vãng sinh đều tu lầm lẫn mà thành tựu? Trên các diễn đàn người cựu tu tranh cãi, người mới tu hoang mang, không biết nương tựa vào đâu nữa!
Tôi từ bé chỉ thích đến chơi cảnh già lam nhưng không có ai chỉ điểm cho tu học, một lần tình cờ thấy cuốn kinh Phật trong hàng sách cũ, cầm lên đọc tâm liền cảm động mãnh liệt từ đó không còn ham mê xem môn nào khác. Vì thế, có lúc tôi tự tin nghĩ rằng mình có tín tâm kiên cố nơi Phật pháp, không ai lay chuyển được nên thả cho tập khí tham đọc, tham xem khởi lại, rảnh rỗi liền vào các diễn đàn, xem bài viết, diễn giảng của nhiều đồng tu, học giả, pháp sư,vv… nói về Phật pháp. Được một thời gian thì tâm liền bị nghi hoặc, có lúc đang đọc dở bài nào đó phải bỏ ngay không dám xem tiếp vì sợ chướng ngại, không sao làm tâm mình tịnh như trước được. Phải thường sám hối xin chư Phật gia trì cho chẳng mất tín căn.
Vậy mới biết căn tính của mình kém lắm mới sinh ở đời này, tuy may nhờ căn lành đời trước nên được gặp Phật pháp nhưng nếu không hộ trì lục căn cẩn thận e sẽ rơi vào tà kiến, đoạn mất pháp duyên. Phật pháp chẳng thể dùng thế trí biện thông mà thâm nhập được.
Nhiều lúc tôi mong mình có được thiện căn, phúc đức sâu dày như những cụ già chất phác ở quê, bảo cụ niệm A Di Đà Phật là cứ thế niệm A Di Đà Phật đến trọn đời rồi thanh thản ra đi. Ngàn kinh muôn luận các cụ đều chẳng biết, thậm chí kinh Vô Lượng Thọ , kinh A Di Đà cũng chẳng từng đọc qua, nói gì cũng hoan hỷ gật đầu, ấy vậy mà lại dễ vãng sinh làm sao. Còn những người hữu danh, đa trí thời nay thì e lại khó được dự phần. Những lúc thế này tôi lại nhớ lời sư cụ “Thời nay biết chữ chỉ thêm loạn tâm thôi!”
PMNP
Nguồn:
https://phapmonniemphat.wordpress.com/
Các bạn bây giờ mình đang cần được giúp đỡ
Mình tính ra niệm Phật còn rất nhiều vọng tưởng thực sự mà bây giờ mình cảm thấy lo cho mẹ mình. Mình vẫn còn rất nhỏ mình rất muốn khuyên nhủ ba mẹ mình niệm Phật vãng sanh nhất là mẹ mình bây giờ nhưng nghĩ tới khả năng của mình bây giờ niệm Phật còn chưa xong, vẫn còn quá non nớt giờ mà mở miệng khuyên nhủ chưa chắc gì mẹ mình nghe có khi còn bị la. Mình không phải không tin vào Phật A Di Đà nhưng mình sợ mẹ mình nghiệp lực thắng nguyện lực là sa vào ác đạo. Mình cứ không yên.
Các bạn giúp đỡ mình được không?
Mà mình cũng sợ nếu không khuyên mẹ là có tội kiểu như thấy ác mà không lên tiếng vậy. Mình nên làm gì bây giờ?
Tại em nghe nói lúc lâm chung có thể thành tâm sám hối niệm phật 10 niệm có thể vãng sanh nhưng người đó phải là người có thiện căn phước đức sâu dày trog quá khứ nên em mới băn khoăn lỡ đâu mẹ em khôg riêg kiếp này mà cả những kiếp trc tạo ác quá nhiều lỡ đâu khôg đc? Kiểu như bản thân chúng ta đã gây quá nhiều tội ở quá khứ kiếp này may mắn gặp pháp môn này là phải cần kiên trì nhất tâm,tâm chí thành tha thiết chứ đâu phải là bình thg niệm còn chưa xong lúc lâm chung 10 niệm mà vãg sanh đâu có dễ vậy? Em nghĩ nếu thế thì cần gì chúng ta phải hàng ngày cố gắng thiết tha? Đâu thể quá coi thg tội nghiệp như vậy đc.
Em vẫn còn vô minh lầm lẫn em hi vọng nhữbg lời em vừa ghi ra không phải phỉ báng hay tội lỗi gì ạ. Em chỉ thấy và nghĩ sao nói đó với lại em lo cho mẹ.
Nam Mô A Di Đà Phật
Trước tiên NĐ xin tán thán thiện niệm của bạn, lo lắng, muốn khuyên nhủ cha mẹ là việc rất tốt.
Tuy nhiên, việc học Phật bạn cũng đừng khởi tâm cưỡng cầu vì tất cả pháp đều tuân theo lý duyên sanh và luật nhân quả, Mỗi chúng sanh đều có những thiện căn, phước đức và nhân duyên không đồng nhau nên việc tiếp nhận Phật pháp cũng theo đó có vạn sự sai biệt. Cũng chính vì thế Đức Phật mới cần dùng tới 84000 pháp môn để có thể độ thoát cho hết thảy chúng sanh. Trong nhà Phật có câu “tuỳ chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” tức là tuỳ theo tâm của chúng sanh mà ứng cơ nói pháp. Đối với một người nào đó muốn họ phát tâm học Phật cũng dựa theo pháp này, tức là khi nhân duyên chín muồi thì việc độ chúng sẽ thuận lợi.
Việc bây giờ là bạn phải phát tâm học phật, tinh tấn tu học, niệm phật. Thâm nhập, chuyên tu học một bộ kinh Tịnh Độ. Xong thực hành các pháp chánh hạnh và trợ hạnh của tịnh độ tông trong đó lấy việc niệm Phật làm chánh hạnh, trì giới, tu tập công đức như ăn chay, phóng sanh, bố thí cúng dường… là trợ hạnh. Cứ thế đến khi đã thành tựu công đức học phật rồi thì lo gì không khuyên giải được bố mẹ. Hay giả như do nghiệp lực bố mẹ không nghe thì quyết tâm niệm phật, công phu đạt rồi, Phật A Di Đà đến tiếp dẫn hào quang tỏa khắp, hương thơm, nhạc trời hiện lên vô cùng trang nghiêm thù thắng lúc đó thì không những cha mẹ mà những người chứng kiến đều thấy mà phát tâm học, niệm phật. Như vậy là đã lấy chính chúng ta làm biểu mẫu rồi.
Lại nữa, cổ nhân có câu: “Nhất nhơn thành đạo, cửu huyền thăng” Có nghỉa là khi một người thành đạo có thể cứu được cha mẹ, ông bà nhiều đời, nhiều kiếp của mình. Nếu bạn vãng sanh TPCL thì không những cha mẹ mà Cửu Huyền Thất tổ đều được sanh về cảnh giới lành. Vậy công phu niệm phật không những giúp chúng ta một đời này liểu thoát sanh tử luân hồi mà còn có thể cứu được cha mẹ, ông bà nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta.
“Hòa Thượng thường hay nói rằng, khi chúng ta vãng sanh về Tây-Phương thì ngày đó là ngày ông-bà, cha-mẹ, cửu-huyền thất-tổ của chúng ta thoát được cảnh tam ác đạo. Người ta đang chờ từng giây từng phút cái ngày chúng ta vãng sanh để cho họ thoát khổ. Tôi không nói là họ đi về Tây Phương, mà họ thoát được ba cảnh khổ. Mình biết rằng không phải ta chỉ có một ông cha, hai ông cha, ba ông cha, mà có tới vô lượng vô biên ông cha, vô lượng vô biên đứa con, vô lượng vô biên ông nội bà nội… họ thoát được. Cái công đức này lớn vô cùng lớn.” trích Làm Thế Nào Để Báo Hiếu Cha Mẹ Cửu Huyền Thất Tổ Một Cách Trọn Vẹn Nhất? (http://www.duongvecoitinh.com/index.php/2013/01/lam-the-nao-de-bao-hieu-cha-me-cuu-huyen-that-to-mot-cach-tron-ven-nhat/)
Vì vậy đừng nên quá mong cầu, chớ cưỡng mong cha mẹ học phật pháp. Hãy gắng sức tinh tấn tu học, khi đã thành tựu học phật, đã đầy đủ tri kiến rồi quay lại khuyên giải cha mẹ. Cùng lắm thì ta lấy chính ta làm biểu mẫu, hiện điềm lành để cha mẹ thấy được tận mắt mà làm theo.
Tinh tấn niệm phật, làm nhiều việc thiện, phóng sanh, bố thí cúng dường,… hồi hướng công đức đó cho bố mẹ sơm được tỏ ngộ, thoát li sanh tử.
Có đôi điều như vậy hy vọng có ích cho Unknown
Chúc Unknown tu tập tinh tấn đạt được lợi ích.
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Bạch Y Quán Thế Âm Bồ Tát
Mình giờ vẫn còn sống phụ thuộc vào cha mẹ mình vẫn chưa thực sự trì giới một cách trọn vẹn tại mình còn ăn thịt như vậy có sao không? Với lại mình cũng hay thường ở nhà với lại có những lần ba mẹ mình thấy mình lạy sám hối trước ngài Quán Thế Âm Bồ Tát thì ba mẹ mình mặc dù chỉ khuyên mình nên làm ít đi tại nghĩ mình mê muội nhưng mình vẫn hiểu họ ngấm ngầm không muốn mình có những tư tưởng đó nữa. Nên mình thắc mắc ở nhà mình có thể thực hiện những gì để lấy làm trợ duyên đây?
Chào bạn Unknown,
Bạn hãy tinh tấn niệm Phật chân thành và tôn kính lễ lạy Phật Bồ tát, sau đó hồi hướng cho ba mẹ bạn, cầu xin Phật Bồ tát gia trì cho ba mẹ bạn chuyển tâm tin Phật, phát tâm niệm Phật cầu vãng sanh. Có thể với tâm chí thành, chí hiếu của bạn sẽ cảm ứng Phật, Bồ tát các Ngài sẽ dùng phượng tiện khéo để phát khởi thiện căn từ kiếp trước của ba mẹ bạn được thành tựu sớm.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Xin chào các bạn cho mình hỏi: Khi mình đọc Lá thư Tịnh Độ của Ngài Ấn Quang thì có nói như công việc đa đoan không rỗi rảnh,nên định vào buổi sáng sớm sau khi súc miệng rửa mặt, có bàn Phật thì đến trước lễ 3 lạy rồi đứng thẳg chắp tay niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” hết 1 hơi là 1 niệm… thì cho mình hỏi 4h30 sáng mình làm đuợc không ạ?
Cảm ơn VP một bài pháp thân giáo. Có lẽ những bài như này nên phát huy càng nhiều càng tốt. Cô đọng sâu sắc làm hơn là nói.
A Di Đà Phật…
Kính gởi sư huynh Thiệ̣n Nhân:
Xin sư huynh lý giải dùm cho đệ:
“Vô khởi tưởng niệm, tham kế thân giả”.??
Xin chân thành cảm ơn sư huynh đã phúc đáp cho đệ lần trước.
A Di Đà Phật………
Thưa mọi người cho con hỏi. Đạo Phật là đạo giải thoát và mọi hành động tu tập, cúng kiến thì tuyệt đối không được hiến tế sinh mạng của động vật. Nhưng tại sao dù ông bà con là Phật tử đều đã có pháp danh mà còn tin vào những điều như “cúng tổ” thịt heo quay ạ? Con không phê phán đức tin của họ nhưng con thấy điều này không hề tốt chút nào. Mong các vị cao nhân chỉ giáo
A Di Đà Phật
Chào bạn Phúc Trần!
MD không phải là cao nhân, chỉ là người học Phật cầu sanh Tây Phương Tịnh độ. E câu hỏi của bạn sẽ bị trôi qua trong list theo dõi nên chia sẻ vài dòng ngắn ngủi:
Đạo Phật là đạo giải thoát song người tu hành tại sao lại không thể đặng giải thoát? Nói riêng về Tịnh độ, người niệm Phật nếu mười phần thì vãng sanh không được một phần. Sỡ dĩ như vậy vì họ chỉ tu trên hình thức không tu nơi tâm, miệng niệm Phật nhưng tâm họ không niệm. Muốn đạt giải thoát= giác ngộ triệt để, hai chữ triệt để này nghĩa là đến nơi đến chốn. Người tu hành không đến nơi đến chốn mặc dù bản thân họ có giác vô thường, có cầu thoát ly sanh tử nhưng niệm niệm chưa thoát được trần ai, dù chỉ còn một niệm mê thời không thành tựu. Như cư sỹ nọ một đời niệm Phật, đến giờ phút cuối Phật đến tiếp đón nhưng lại khất hẹn vì luyến con cái, đã bỏ qua cơ hội được về đất Phật- vị này giác ngộ không triệt để.
Trở lại vấn đề người Phật tử đã quy y, sao còn sát sanh cúng tế? Cái này cũng vậy, chính tự thân họ quy y nhưng họ không hiểu. Rõ ràng trong buổi lễ quy y, vị thầy đại diện ba ngôi Tam bảo đã truyền tam quy, ngũ giới. Người Phật tử đã nghe nhưng tâm họ không có tiếp nhận, thọ giới nhưng không trì giới. Và thực sự những người này không phải là Phật tử, pháp danh cùng bảng quy y có khi còn khiến tội nghiệp của họ càng thêm nặng. Bởi họ mang danh “Phật tư” nhưng không làm biểu pháp, sát sanh hại mạng, khiến người đời khi nhìn vào họ mà có cái nhìn lệch lạc rồi chê bai Phật pháp.
Cho nên người khi muốn quy y Phật- Pháp- Tăng nên cân nhắc: quy y hay không quy y? Khi đã quy y rồi thì nhất nhất phải giữ giới nghiêm.
Nam Mô A Di Đà Phật
Cúng mặn trong ngày giỗ là làm theo tín ngưỡng dân gian chứ chẳng phải là đạo Phật. Bạn nên tham khảo thêm bài: Sát Sanh Để Cúng Tế Vong Linh Là Làm Hại Người Chết
Các phần phúc đáp bên dưới cũng rất có ý nghĩa, bạn nên đọc hết sẽ hiểu nhiều hơn nhé. 🙂
A Di Đà Phật.
Xin các đồng hữu giải đáp
Mình hay niệm hồng danh 4 chữ A DI ĐÀ PHẬT nhưng mình niêmp lâu dọng mình không còn rõ nữa thành ra tuy niệm danh ngài nhưng mình không cảm thụ được có ai trong đây bị giống mình không và có cách khắc phục không
Và có điều này nữa..mình hay bị vọng niệm dữ dội dính mắc khó ra mà mình đôi lúc hay vọng niệm lời phật day hoặc lời kinh kệ nhưng có 1 điều lạ là trong đầu mình hay khởi lên những tiếng báng bổ khó nghe lúc đó mình chợt tỉnh giác thì quá muộn có đồng hữu nào biết cách khắc phục không xin giúp đở
Nhà Bác Học Einstein Hiện Đang Ở Địa Ngục Vì Đã Phát Minh Ra Bom Nguyên Tử
Hôm qua ở trong nước có một vị đồng học truyền cho tôi một cái tin tức, một đại khoa học gia thời cận đại là Albert Einstein, nhập thân (linh hồn nhập vào một người) sám hối việc ông ta phát minh bom nguyên tử, sau khi chết rồi đọa vào địa ngục. Cái địa ngục này xưa nay chưa từng có tiền lệ, chân chánh là địa ngục thống khổ nhất, địa ngục gì? Địa ngục hạch bạo, chính là địa ngục nổ bom nguyên tử. Cái trạng huống đó chính là bom nguyên tử không ngừng nổ tung ở trên đầu của ông ấy, quả thứ nhất nổ tung xong rồi thì sau đó quả thứ hai lại nổ tung tiếp, liên tục không ngừng, khổ không thể tả. Lúc trước chúng ta đã nhiều lần báo cáo qua, hết thảy các hiện tượng đều là giả, từ tâm tưởng sanh, trong tâm ông ấy đúng là hạt nhân nổ tung, cho nên ông ấy ở trong cái địa ngục này. Nói về đời quá khứ ông ta đã từng học Phật, ông là người xuất gia, đối với Đại Thừa Phật Pháp biết được rất nhiều, cho nên ông ấy có trí huệ, cũng là không có phát nguyện cầu sanh Tịnh độ. Suy nghĩ trong tâm coi như không tệ, luôn nghĩ thay cho nhân dân, xã hội làm ra một việc tốt, thật không ngờ hậu quả là phát minh ra bom nguyên tử, dẫn đến hôm nay nhiều người có dã tâm ngày ngày đã và đang muốn phát triển thêm nhiều lọai vũ khí mới, với tham vọng có thể chinh phục thế giới. Đây đều là mộng tưởng, bởi vì chiến tranh võ khí hạt nhân thì đồng với tận thế, con người sẽ không có khả năng sống tại thế gian. Cái võ khí này khiến cho mỗi một người sinh sống trên địa cầu đều đang sống trong sợ hãi, cái áp lực này Albert Einstein phải phụ trách nhiệm.
Cho nên ông ấy rất đáng thương, ông đến nhờ siêu độ, quá khứ có chút thiện căn nhân duyên phước đức, ông mới có thể tạm thời thoát khỏi địa ngục, nhập thân lộ ra cái tin tức. Người trên cái địa cầy này nhất định phải hoàn toàn đình chỉ việc chế tạo võ khí hạt nhân, không được làm nữa, giác ngộ mau, đem hết thảy võ khí hạt nhân hiện có hủy bỏ hết, ông ấy mới có thể ra khỏi địa ngục. Mọi người chúng ta ngẫm nghĩ xem có khả năng không? Nói một cách khác, ông vĩnh viễn không thể thoát khỏi địa ngục, ông vô cùng đáng thương. Ông khẩn khoản nói với mọi người, hiện tại đang phát triển võ khí hạt nhân, chế tạo võ khí hạt nhân, tương lai sử dụng võ khí hạt nhân, bất luận là người ra lệnh chỉ huy, hoặc là người chấp hành, hậu quả về sau đều giống như ông ấy vậy. Tội gì mà làm? Tội gì gây trở ngại chính mình? Ông ấy hy vọng cái thế giới này vĩnh viễn hòa bình, trên thế giới này không còn có chiến tranh nữa. Phải nhờ vào cái gì? Albert Einstein là người ngoại quốc, phải nhờ văn hóa truyền thống Trung Quốc, phải nhờ Phật pháp. Trong quá khứ cũng có duyên với Phật, quyết định không chỉ là một đời, ông thông đạt đối với Kinh giáo Đại Thừa, cho nên ông có trí huệ, ông mới có nhiều phát minh như vậy. Ông cũng xem qua Tịnh Độ Tông, nhưng không có phát tâm cầu sanh Tịnh Độ, đây là sai lầm lớn nhất mà ông phạm phải, hiện tại hối hận cũng không kịp. Cũng lộ ra cái tin tức đồng dạng với sở học của chúng ta. Trong thế gian xuất thế gian câu nói thiện nhất chính là A Di Đà Phật, một câu nói tốt lành nhất chính là câu A Di Đà Phật, vì sao chúng ta lại thường quên mất câu A Di Đà Phật. Lại cứ nói lời vô ích……
[Trích Từ Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2012]
Tập 355, Thời gian: 11-07-2013
Địa điểm: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông
Lược dịch: Huỳnh Nguyễn Song Thân
Ba Điều Căn Dặn Của Một Vị Thiền Sư Trước Khi Lâm Chung
Một vị thiền sư trước khi lâm chung đã bày tỏ sự sám hối về những việc đã từng làm trong suốt cuộc đời của mình, cũng là lời cảnh báo cho tất cả những người đã và sẽ bước đi trên con đường tu luyện.
Vị thiền sư ấy là một người bạn thâm giao nhiều năm của tôi, mắc phải bệnh nan y, trong thiền định mà đối mặt với cái chết, cũng như tham ngộ về cái chết.
Vốn là bạn tốt của nhau, trước lúc ông qua đời, tôi thường xuyên đến thăm và lắng nghe những lời chỉ bảo từ ông ấy. Mỗi lần tôi đến, thấy ông luôn ngồi ngay ngắn, trên gương mặt tiều tụy luôn mỉm cười.
Chúng tôi ngồi xuống nói chuyện, ông nói: “Cả một đời của tôi đắm chìm trong hư danh. Tuy nhìn bề ngoài rất có tiếng tăm, cũng xuất bản sách, cũng có người theo tôi học Phật, nhưng tôi biết rõ, bản thân mình vốn không thật sự giác ngộ, cũng không thấy được chân ngã của mình, bây giờ nghĩ lại mới thấy tưởng thông minh lại bị thông minh hại”.
Tôi nói: “Các đấng tôn sư xưa nay, chẳng phải cũng có những người đã đắc Đạo trước lúc lâm chung hay sao?”
Ông nói: “Đó là người đại căn khí, buông bỏ vạn duyên, tâm hồn thanh tịnh, không giống loại tiểu căn khí như tôi. Cả đời này của tôi, chính vì rất thông minh, rất có tài, rất có tình, vì vậy mà có quá nhiều thứ không thể buông bỏ được.”
Tôi lại hỏi: “Thế ông gần đây tu luyện thế nào vậy? Mỗi lần tôi tới, đều thấy ông đang ngồi thiền, tôi cũng không đành lòng quấy rầy ông, chỉ đứng ở bên ngoài niệm Phật, cầu nguyện cho ông!”
Thiền sư cười nhạt một tiếng, nói: “Cảm ơn ông! Về chuyện sinh tử, khi nào chết, thậm chí kiếp sau đầu thai nơi nào, tôi đều đã biết được”.
Tôi nói: “Thế chẳng phải là ông đã tu được rất cao rồi sao, ông đã biết được khi nào sẽ chết, đầu thai nơi nào, vậy mà còn chưa khai ngộ sao?”
Thiền sư có chút hổ thẹn nói: “Đấy chỉ là chút bản sự cỏn con, không còn chút quan hệ gì với khai ngộ cả, càn không có quan hệ với việc tìm được chân ngã của mình. Từ khi 3 tuổi, tôi đã có thể nhớ lại nhân duyên đầu thai của mình. Đời này của tôi từ sớm đã biết rõ bản thân ‘sống đến từ đâu’, một đời tu hành chỉ là muốn biết được ‘chết đi về đâu’.
Bây giờ có thể biết rõ ngày chết, cũng biết sau khi chết sẽ đi về đâu, chẳng qua vẫn là luân hồi làm chúng sinh trong Tam giới. Cái kiểu tu hành qua loa này nếu đem so với việc đắc Đạo hoặc khai ngộ hoặc tìm lại được chân ngã của mình thì hãy còn xa lắm”.
Tôi hỏi: “Vậy sao gần đây ông tinh tấn tu hành vậy?”
Thiền sư nói: “Một lòng sám hối những nghiệp chướng đó, tịnh hóa từ trong tâm. Tôi là một người sắp chết, mong sao trước khi chết, thanh lọc nội tâm mình, mấy tháng nay tôi không ngừng sám hối.
Tôi sám hối cho những nghiệp chướng tôi đã tạo ra, sám hối cho những việc làm sai trái mà tôi đã phạm phải. Sám hối bản thân mình đã không tận hiếu thật sự, sám hối bản thân mình đã làm tổn thương người thân bạn bè, sám hối bản thân đã từng nói rất nhiều lời ngông cuồng, sám hối bản thân đã từng miệng nói một đằng, tâm nghĩ một nẻo, sám hối vì tôi đã làm tổn thương về tâm hồn đối với những cô gái đã từng yêu tôi, sám hối những lời dối trá đối với đồng tu…”.
Thiền sư đã nói nhiều sự tinh cần phải sám hối như vậy, lúc nói ông còn chảy nước mắt. Ông nói với tôi: “Một người, trước khi lâm chung mà thành tâm sám hối, chính là buông bỏ gánh nặng, nhẹ nhàng mà lên đường”.
Nói đến câu này, ông nở nụ cười. Ai cũng biết “lên đường” là có ý gì.
Ông muốn tôi tìm một cái thau bằng sắt thật lớn rồi mang những bản thảo trong suốt một đời của ông, cao chừng 1 mét, đốt trước mặt ông.
Giúp ông đốt bỏ ư? Tôi không đành lòng, nói: “Đây vốn là tâm huyết cả đời của ông, có bao nhiêu nhà xuất bản muốn mua bản thảo của ông, cớ sao lại muốn đốt bỏ chứ? Không phải rất tốt sao?” Tôi quả thực không muốn đốt.
Ông nói: “Ông không đốt, vậy thì tôi tự mình đốt. Những thứ này không có giá trị gì hết, không đốt bỏ đi thì dùng để làm gì? Tôi không đắc Đạo, những lời giải thích loạn bậy Phật Pháp kia, suy cho cùng đều chỉ là ma chướng, bản thân tôi vốn biết rất rõ.
Đốt bỏ những bản thảo này để tránh dẫn thế hệ sau lầm đường lạc lối, cũng là để tránh tăng thêm tội lỗi của tôi. Bản thân không có tìm được chân ngã của mình, thì hết thảy những gì mình nói ra thảy đều là “chồn cáo hoang”, ông muốn tôi bị sa vào địa ngục sao?”
Ông trầm tĩnh nói: “Tôi cả đời thuyết Pháp giảng Kinh, biện luận thị phi, bởi vì không đắc Đạo, không thấy được chân tướng, nói những lời lộng ngôn cùng những luận giải bất chính, giờ đây, báo ứng tại thân, mắc bệnh tại khoan miệng, thực quản, dạ dày”.
Mặt của ông càng ngày càng gầy gò, bởi vì ngồi thiền nên tinh thần vẫn còn đỡ một chút. Tôi cùng với ông đốt từng quyển từng quyển sách một, gồm cả nhật ký của ông, khá nhiều được dùng bút lông ghi, chữ viết vô cùng ngay ngắn.
Nhìn dáng vẻ điềm tĩnh và thoát tục của ông tôi rất cảm động, cũng muốn trước khi tôi chết, sẽ giống như ông, đốt hết tất cả nhật ký, bản thảo của mình không lưu giữ những thứ tạp nham, hoàn toàn sạch sẽ, không một chút lo lắng mà rời đi. Tâm tư của tôi vừa động, ông cười, nói: “Đừng học theo tôi, học tôi không có tiền đồ gì cả”.
Nhiều lần tôi đến, thiền sư đều nói là đang sám hối nghiệp chướng, sám hối tội lỗi trong quá khứ, ông nói với tôi: “Khẩu nghiệp là điều khó sám hối nhất, trong một đời này, tôi giảng Kinh thuyết Pháp, miệng nói ra những lời xằng bậy, nói những điều không phải về người khác, khẩu nghiệp chất cao như núi”.
Ông thở dài: “Cho dù khẩu nghiệp sâu nặng, tôi vẫn là muốn sám hối cho hết để cái chết được thanh thản. Xem ra, tôi còn phải chết muộn hơn một tháng so với dự tính trước đó, một tháng này chuyên dùng vào việc sám hối khẩu nghiệp. Những người tu Đạo học Phật chỉ nói thôi cũng là tạo nghiệp, huống chi tôi tạo khẩu nghiệp, nói lời không phải, tranh giành đúng sai, nói chuyện không chính đáng, không biết một tháng này có đủ để sám hối không. Chờ tôi sám hối xong rồi, chính là ngày mà tôi sẽ rời đi”.
Ông vừa là người bạn, vừa là người thầy trong nhiều năm của tôi nên tôi rất buồn, hỏi ông: “Ông phải đi rồi, ông có lời khuyên hay cảnh báo sau cùng gì dành cho tôi không?”
Thiền sư nói: “Tôi biết con đường tương lai của ông, nhưng không thể nói ra được, nếu như nói ra thì chính là hại ông vậy. Con đường tương lai ở trong lòng của ông, nếu như vào mỗi buổi tối ông có thể tĩnh tọa nhìn vào trong tâm mình thì cũng sẽ biết được thôi.
Kinh nghiệm trong một đời này của tôi, có thể nói cho ông hay, chính là : Nếu như bản thân không có đắc Đạo, không có khai ngộ, không có thấy được chân ngã của mình thì quyết không được làm thầy người ta. Làm thầy người ta thì sẽ hại người ta, dẫn người ta đi sai lệch thì cũng chính là làm hại sinh mệnh người đó, quả báo thật nặng nề, báo ứng của tôi chính ở trước mắt ông đây, vì vậy, quyết không được làm thầy người ta.
Thứ hai, nếu như ông đã khai ngộ, tìm lại được chân ngã của mình rồi, thì vẫn cần phải giữ vững chuyện tu hành. Sau khi tu được cao rồi thì mới bước ra hồng dương Phật Pháp, dẫu cho ông đã có đệ tử, thì cũng hãy nhớ đừng nên tiếp nhận cúng dường, quyết không được ngược đãi đệ tử, những chuyện trong chốn này tôi đã thấy nhiều rồi, rất nhiều người làm thầy sai khiến đệ tử giống như là đầy tớ vậy, tội ấy rất nặng.
Thứ ba, chớ coi thường bất kỳ người nào không hiểu Phật Pháp, dẫu cho hiểu biết của họ còn non nớt, sai lệch đi nữa thì cũng đều không thể cười nhạo người ta. Tôi trong suốt một đời này đã cười nhạo rất nhiều người có kiến giải sai lệch, kết quả bản thân đã gặp phải báo ứng. Mỗi một người chưa khai ngộ đều có thể là một vị Phật trong tương lai, một khi đã khai ngộ thì chính là Giác giả, ông há có thể cười nhạo Giác giả được? Đạo lý này tôi hiểu, nhưng cái thói xấu xa, bản tính kiêu ngạo dẫn dắt đã rước lấy không ít nghiệp chướng cho mình, hết thảy những gì sám hối trong một tháng gần đây chính là sám hối tội lỗi với những người mà tôi đã từng xem thường trước đây.
Thứ tư, sau này nếu như ông có gặp người khác, cho dù là các đấng tôn sư ngoại đạo đi nữa thì cũng không nên so sánh rằng ai cao ai thấp. Tại cõi người này có vô số Bồ Tát hóa thân dạy bảo người ta, ngoại đạo lẽ nào không có được Bồ Tát giáo hóa chăng? Không nên mang theo cái tâm phân biệt và thành kiến. Ông hãy một lòng lắng nghe, nhìn vào bên trong mình, trí huệ bên trong sẽ tự sinh ra, sinh mãi không ngừng. Bản thân tôi trước đây rất thích tranh luận, rất thích tranh đấu với người ta, lấy ngòi bút làm vũ khí, kết quả bản thân mắc phải ung thư vòm họng, ung thư thực quản, tội nghiệp quả thật là sâu nặng thay”.
Miệng ông đang nói, còn nước mắt thì không ngừng rơi, đó chính là những giọt nước mắt ân hận, giọt nước mắt thức tỉnh, cũng là những giọt nước mắt khuyên răn. Ông nhìn tôi: “Đã nhớ chưa?”. Tôi nói: “Nhớ rồi”.
Trong mười năm nay tôi cũng có một chút hư danh, đôi lúc cũng có một số người tìm đến bái tôi làm thầy, tôi nhớ kỹ lời dạy của thiền sư, trước giờ chưa từng nhận qua đồ đệ. Có người quỳ xuống dập đầu bái lạy tôi, tôi cũng vội vàng quỳ xuống dập đầu bái lạy lại. Đây đều là những lời dạy bảo của thiền sư ấy.
Một tháng sau, ông nói: “Tôi phải đi rồi, vẫn là chuyển sinh ở vùng Tây Bắc, vùng đó tuy nghèo, nhưng con người thật thà chất phát, gốc rễ của tâm linh Phật, Đạo rất sâu, không giống như người Giang Nam, dùng Phật, Đạo để kiếm tiền, cũng không giống như những người Đông Bắc, thực chất bên trong vốn không hề tôn kính Phật. Tôi chuyển sinh vào vùng Tây Bắc, nếu như hai anh em chúng ta có duyên, ba mươi năm sau, còn có thể gặp lại, khi ấy ông là anh cả, tôi là em trai, ông cần phải giúp tôi đấy nhé!”
Chúng tôi đều cười. Tôi nói: “Khi tôi học thiền với ông không có thăng tiến, ông đã từng đá tôi, lúc đó cũng là lúc tôi phải đá lại ông rồi”.
Ông ấy nói: “Nếu được thì hãy cứ đá mạnh một chút, mong sao dưới một cú đá này, tôi sẽ khai ngộ ngay lúc đó”.
Ông thật sự đã ra đi vào đúng cái ngày ông nhập định, nhục thể được hỏa táng. Tôi lấy một chút tro cốt của ông mang theo lúc chuyển nhà. Có một năm, tôi phát hiện cái cây mọc ngoài cửa sổ lại chính là cây hải đường, cây thu hải đường, lúc này mới đột nhiên nhớ lại bài thơ trước lúc lâm chúng của ông: “Hải đường phong quá thiền hồn hương, mênh mông thanh thiên thị cố hương. Trở lại cầu Đạo, Đạo còn đâu? An khang phúc thọ chẳng mong cầu.”
Tôi bỗng nhiên ngộ ra, liền đem số tro cốt của ông rải xuống dưới cây hải đường bên ngoài cửa sổ. Trước đây chỗ đó vốn có cây thông, trồng được hai năm, do công việc của tiểu khu nên đã dời chuyển cây thông đi chỗ khác, trồng cây hải đường vào đó.
Được khoảng 5 năm, vào mùa hè, hải đường rậm lá, có vô số ve sầu ca hát dưới tán lá. Vào cuối thu, hoa hải đường đỏ chói, tiếng ve kêu dừng hẳn, ban đêm lại yên ắng đến lạ thường, yên ắng đến nỗi khiến người ta cảm thấy không quen với những đêm không có tiếng ve sầu, “tiếng ve ồn ào rừng muốn tĩnh, chim kêu đồi núi càng âm u”.
Người ta thường coi “phúc, thọ, an, khang, chết già” là năm cái phúc của đời người, vị thiền sư đó không cầu năm điều phúc ấy của nhân gian, mà chỉ cầu đại Đạo.
Ông ấy hiển lộ ra điều thần kì khi đoán trước nơi ở sau này của tôi, tro cốt của ông ấy sẽ thấm vào các nhánh cây hải đường. Ông nói những thứ này đều là vô thường cả, còn cách đại Đạo, cách chân ngã của sinh mệnh rất xa. Ngay đến cả tu hành như ông ấy vẫn còn chưa có thoát khỏi sinh tử, chưa có khai ngộ, chưa có tìm được chân ngã của sinh mệnh bản thân mình.
Khi viết bài này, thiền sư ấy đã viên tịch hơn mười năm rồi, nghĩ về chuyện tu hành của bản thân thì thật không khỏi cảm thấy xấu hổ. Vị thiền sư đó là ai vậy? Tôi không muốn nói ra tên của ông ấy, ông ấy đã đốt bỏ toàn bộ bản thảo của mình thì cũng tức là không muốn ai nhớ đến ông ấy nữa. Tôi tin tưởng rằng sẽ có một ngày, tôi sẽ gặp lại ông ấy giữa biển người mênh mông.
Hoàng Sâm – dịch từ Kannewyork
A di đà phật
Cho mình xin hỏi hiện mình đã quy y tam bảo và có giữ giới là không sát sinh.Nhưng khổ nỗi là mình sợ côn trùng (con gián) mà nó cứ vô nhà hoài, mình sợ lắm không có cách nào khác ngoài việc lấy cây chổi đập nó . Mình muốn khắc phục nỗi sợ nhưng không được . Và cho hỏi như vậy là mình có phạm tội sát sanh không ?
Xin quý vị hãy giúp!
A Di Đà Phật.
Nếu con gián chết thì bạn phạm tội sát sinh.Chắc phải cầu Phật,Bồ Tát giúp đỡ cho không còn sợ gián.
A di đà phật
Mình thì không muốn sát sanh mà cứ sát sanh thấy tội lỗi vô cùng.
Xin cám ơn bạn sứ giả Như Lai.