Hết thảy chúng sinh, vì vọng động từ vô thỉ kiếp mà có vô minh, mê lầm đã trải qua số kiếp nhiều như cát bụi. Khởi tâm động niệm tạo biết bao ác nghiệp nên che mất Phật tánh của mình. Nghiệp chướng không trừ thì Phật tánh không thể hiện tiền. Vì thế Ðức Thích Ca Mâu Ni đã tuyên dương pháp môn niệm Phật này, dạy người tiêu trừ nghiệp chướng. Kinh rằng: “Một câu niệm Phật có thể tiêu trừ trọng tội của 80 ức kiếp”. Sao niệm một câu Phật hiệu mà diệt được tội nặng nhiều đời đến thế? Ðã phát tâm niệm Phật tức đại trí huệ hiện tiền vậy. Thí như ánh sáng của một ngọn đèn, xua tan được bóng tối đã nghìn năm, niệm Phật diệt tội cũng lại như thế.
Cho dù nghiệp nặng chướng sâu đến mấy, thiết tha niệm Phật cũng có thể đánh tan. Còn nếu niệm Phật mà tâm vẫn quay cuồng trong nghiệp thức cũ, vọng tưởng tạp loạn tới tấp, đây đều do phát tâm không tha thiết, niệm lực không sung mãn, nên không địch lại nghiệp chướng. Kinh rằng: “Chúng sinh nghiệp chướng nhiều, cần phải niệm thân Phật, báo thân Phật, pháp thân Phật” (niệm Phật quán). Nếu hay nhất tâm xưng niệm thì sẽ được sự hộ niệm của chư Phật, được ánh sáng của Phật A Di Ðà phóng chiếu, tự được Minh huân gia bị (minh huân: còn gọi nội huân, là chân như trong bổn giác, minh minh huân tập vọng tâm, khiến cho phát sinh tâm Bồ đề) nghiệp chướng dần được tiêu trừ, thiện căn ngày một tăng trưởng.
Triều nhà Tấn phụng chỉ (vâng lệnh vua) đào thải Tăng chúng, vua kính mộ đức của Viễn Công ở Lô Sơn nên sắc lệnh trừ Lô Sơn ra, Tăng sĩ các nơi bắt hoàn tục hết. Thời có hai vị Tăng, một bị chột mắt, một thọt chân, đây đều là quả báo nghiệp chướng sâu nặng, sợ bị thải nên hai vị trốn vào Lô Sơn, khẩn thiết xin Viễn Công thâu nạp, y giáo tu hành cho trọn đến già. Viễn Công dạy phát nguyện rộng, tu trì pháp môn niệm Phật để tiêu trừ nghiệp chướng. Tăng chột mắt phát nguyện đời sau sinh làm đại thiện tri thức, để hoằng dương tông Tịnh độ. Tăng thọt chân phát nguyện đời sau sẽ làm vua để hưng long Phật pháp. Hai vị Tăng này chỉ nhờ vào công đức niệm Phật mà được tiêu trừ nghiệp chướng, đời sau mỗi người đều được như sở nguyện. Thân sau của Tăng chột mắt là Ðại sư Vĩnh Minh Diên Thọ, một đại cao Tăng, lấy Vạn thiện (Vạn thiện là gọi tắt của các tập sách Vạn Thiện Tiên Tứ tập, Vạn Thiện Ðồng Quy tập, Vạn Thiện Ðồng Quy giáo của Ðại sư Diên Thọ trước thuật) trang nghiêm Tịnh độ. Thân sau của Tăng thọt chân là vua nước Cao Ly, một đời tin sâu Tam bảo, hết mình hộ trì Phật pháp, sau đến Trung Quốc hộ trì pháp của Ðại sư Vĩnh Minh, pháp môn Tịnh độ thịnh hành một thời vậy.
Xưa lại có chàng đồ tể, sống bằng nghề mổ heo, người vợ tu trì pháp môn niệm Phật, thường khuyên chồng sát sinh nghiệp nặng, nhất định phải chịu ác báo, nên niệm danh hiệu Phật A Di Ðà để tiêu trừ nghiệp chướng. Người chồng lúc đầu không tin, sau nhiều lần khuyên bảo, chàng ta có chút tín kính, nhưng vì căn cơ thiển bạc nên thường hay quên, không nhớ niệm Phật. Người vợ thông minh, khéo léo nghĩ ra một cách, trên các cửa bà đều treo một cái chuông nhỏ, khi gió khua vào kêu leng keng. Bà khuyên chồng mỗi khi nghe chuông kêu một tiếng thì niệm một câu Phật hiệu, ngày ngày như thế, nghe tiếng chuông người chồng bèn nhớ niệm Phật. Mấy năm sau, người chồng bệnh chết, thần hồn bị bắt xuống vua Diêm La, theo nghiệp định tội, phạt làm súc sinh để đền trả nợ cũ, Diêm La sai quỷ tốt cho nhập vào thai heo. Quỷ tốt cầm nĩa sốc tới, vòng đồng trên nĩa rung lên kêu leng keng, chàng đồ tể vừa nghe liền niệm lên một tiếng “Nam mô A Di Ðà Phật”. Lúc ấy trên đầu mũi nĩa bỗng hóa một hoa sen, nên nĩa không chạm được vào thân, nhờ công đức niệm Phật nên được vãng sinh Tịnh độ tức thì, đây tức niệm Phật tiêu được nghiệp chướng.
Nghiệp chướng là một trong ba chướng. Nương vào hoặc chướng mà tạo nghiệp chướng, vì nghiệp chướng mà phải thọ báo chướng, chúng ta mỗi người luân hồi trong sáu đường đều đủ ba chướng. Nếu nghiệp nhiều đời được tiêu trừ, lại không tạo nghiệp mới thì sẽ không thọ quả báo. Ðức Phật dạy chúng ta niệm Phật tức là pháp tiêu trừ nghiệp cũ không tạo nghiệp mới vậy. Chuyên tâm hệ niệm, không dừng nghỉ trong câu danh hiệu A Di Ðà, niệm niệm ánh sáng tâm chiếu vào danh hiệu Phật, thời thời ánh sáng Phật đều chiếu vào người hành trì, ánh sáng tâm và ánh sáng Phật giao nhau, tâm lực với Phật lực khó nghĩ bàn, tức đây được tiêu nghiệp chướng, như ánh sáng mặt trời phá được bóng tối ngàn năm, sức gió có thể quét sạch mây đen ngàn lớp.
Những người phát tâm tu hành, không tin pháp môn Tịnh độ, không chịu niệm Phật thì cho dù có đắc năm món thần thông cũng khó tiêu trừ nghiệp chướng. Xưa có bốn anh em cùng tu hành, mỗi người đều chứng được ngũ thông. 1/ Thiên nhãn thông: Thấy được hết thảy các thế giới. 2/ Thiên nhĩ thông: Nghe được hết thảy các âm thanh trong thế giới. 3/ Tha tâm thông: Biết hết mọi ý nghĩ của người khác. 4/ Túc mạng thông: Biết được các việc trong ba đời. 5/ Thần túc thông: Có thể bay khắp mọi nơi, đi lại tự tại. Một ngày, người anh lớn biết được, ngày mai vào giờ ngọ vô thường sẽ đến viếng bốn anh em, cả bốn người đều phải chết. Người anh bèn hỏi: “Các em có biết ngày mai sẽ xảy ra chuyện gì chăng?”. Các em đều trả lời: “Ðúng ngọ ngày mai, bốn anh em chúng ta bị quỷ vô thường đến thăm hỏi”. (Vô thường là không thể thường trụ, là tên khác của cái chết). Người anh cả nói: “Phải làm cách nào để tránh?”. Các người em đáp: “Chúng ta có thần thông, quỷ vô thường chẳng làm gì ta được!”. Sau khi quyết định, người anh nói: “Anh sẽ vận thần thông trốn trên hư không”. Người em thứ hai nói: “Em sẽ trốn tuốt dưới đáy biển sâu”. Người em thứ ba nói: “Em sẽ dùng thần thông trốn trong vực núi”. Người em út: “Em sẽ vào chợ, ở đó đông người, thần chết sẽ không tìm ra em”. Hôm sau bốn anh em đều vận thần lực để trốn chết, nào ngờ nghiệp chướng chưa trừ, đúng ngọ thì bốn anh em đều mất hết thần lực. Người bay lên trời thì rơi xuống đất mà chết; người dưới biển sâu thì bị cá ăn thịt; người trốn trong vực núi thì bị hổ đói nuốt sống; người trốn trong chợ thì vì chen chúc bị đạp lên thân mà chết. Như Ðại sư Hám Sơn nói: “Cõi này vốn là nơi giả tạm, huyễn thân sao thoát khỏi vô thường. Thành tâm khuyến thỉnh mọi người, không nên tham cầu thần thông, chỉ cần thành tâm niệm Phật, nguyện sinh Tịnh độ thì nghiệp chướng ắt được tiêu trừ, lâm chung được Phật Bồ Tát cầm đài vàng tiếp dẫn, vĩnh viễn thoát khỏi vô thường và chứng được niềm vui của chân thường, như vậy há không tốt sao!”.
Sức của nghiệp rất lớn, hết thảy chúng sinh đều bị nghiệp chuyển, chỉ có niệm Phật mới tiêu trừ được nghiệp. Con sáo niệm Phật cũng còn được đới nghiệp vãng sinh. Xưa có một người nuôi một con chim sáo biết nói tiếng người, một hôm một vị Tăng đến nhà chơi, niệm Nam mô A Di Ðà Phật, con sáo liền nói theo Nam mô A Di Ðà Phật, vị Tăng niệm nữa, con sáo cũng niệm. Sau khi vị Tăng ra về, ngày nào con sáo cũng thường niệm Phật, người chủ thấy thế bèn biếu con sáo cho chùa. Vị Tăng thấy con sáo thật lạ, bèn khai thị hai môn công phu hữu niệm niệm Phật và vô niệm niệm Phật, sáo tợ như có lãnh hội. Một ngày, vị Tăng thấy con sáo sắp chết bèn trợ niệm cho nó, sau khi chết vị Tăng cũng chôn cất đàng hoàng. Vài ngày sau, trên mộ bỗng mọc lên một hoa sen, vị Tăng lập tức quật ngôi mộ lên để xem thử hoa sen mọc từ chỗ nào, thì ra hoa sen mọc ở đầu lưỡi sáo. Sau có người tụng rằng:
Có một con chim sáo
Theo Tăng niệm Di Ðà
Tăng thương nên khi chết
Chôn cất hẳn hòi a
Vài ngày sau trên đất
Mọc lên một Liên hoa
Bọn người chúng ta há không biết?
Nên biết rằng sáo chỉ là loài cầm thú, nhân học theo lời Tăng, niệm Phật còn được vãng sinh, lưỡi sinh hoa sen, đó đủ để chứng minh. Và chúng ta là con người, là vật tối linh của vạn vật, nếu không phát tâm niệm Phật thì chưa khỏi trên phụ ân Phật, dưới phụ tánh linh của mình. Cho nên La trạng nguyên nói: “Muôn vật trên đời đều mộng huyễn, chi bằng hãy sớm niệm Di Ðà”.
Trích Khuyên Tu Pháp Môn Niệm Phật
Biên soạn: Viên Anh Pháp Sư
Việt dịch: Thích Nguyên Anh
Loài Vật Báo Ân Bồ Tát
Xưa, bồ tát là một người giàu có, của cải vô lượng, thường cung phụng tam bảo và có lòng thương xót chúng sinh.
Một hôm đi qua chợ, bồ tát thấy một con ba ba bị bắt đem bán, động lòng trắc ẩn, bồ tát bèn hỏi mua.
Người bán ba ba biết bồ tát có lòng từ bi nên nói thách:
– Giá một trăm vạn tiền.
Bồ tát nói:
– Được, tôi mua.
Thế rồi, bồ tát đem ba ba về nhà, thả xuống dòng sông. Nhìn nó bơi đi mà lòng bồ tát vô cùng vui vẻ, phát thệ nguyện: “Mong cho những chúng sinh gặp nạn được an toàn như ngươi hôm nay”. Phát nguyện lớn ấy xong, ngài được các Đức Phật khen ngợi.
Vào nửa đêm hôm sau, ba ba đến gặm vào cánh cửa nhà bồ tát. Nghe tiếng lạ, bồ tát bèn mở cửa ra xem thì thấy ba ba.
Ba ba nói với bồ tát:
– Tôi mang ơn của ngài nên được bảo toàn thân mạng mà nay không biết lấy gì để đền đáp. Là loài ở dưới nước, tôi biết được sự lên xuống của nước. Nạn hồng thủy sắp xảy ra, nó sẽ gây thiệt hại rất lớn. Mong ngài mau chuẩn bị thuyền, đến lúc ấy tôi sẽ đến đón.
Bồ tát nói:
– Tốt lắm!
Sáng hôm sau, bồ tát vào cung trình bày hết sự việc cho vua nghe. Vua cho rằng bồ tát trước đây vốn nổi tiếng là người tốt nên tin lời bồ tát. Liền đó, vua ra lệnh cho di dời từ chỗ thấp đến chỗ cao.
Nước dâng cao, ba ba bơi đến, nói với bồ tát:
– Ngài hãy mau lên thuyền đi theo tôi sẽ được an toàn.
Thuyền của bồ tát liền theo sau ba ba. Đi được một đoạn, thấy có con rắn bơi đến thuyền, bồ tát nói:
– Hãy cứu con rắn.
Ba ba đáp:
– Vâng.
Đi thêm một đoạn, lại gặp một con cáo đang bị nước cuốn trôi, bồ tát nói:
– Hãy cứu con cáo.
Ba ba cũng đáp:
– Vâng!
Tiến đến đoạn nữa lại gặp một người bị nước cuốn trôi, mặt mày tái nhợt, ngửa mặt lên trời luôn gọi cứu mạng.
Bồ tát nói:
Hãy vớt người ấy lên.
Ba ba trả lời:
– Đừng vớt! Người phàm tâm dối trá, ít giữ chữ tín, ưa chạy theo quyền thế, vong ân bội nghĩa, làm chuyện phản nghịch.
Bồ tát nói:
– Loài vật ta còn cứu vớt, huống hồ là con người mà ta khinh rẻ thì sao gọi là nhân từ? Ta không thể nhẫn tâm!
Thế rồi, bồ tát vớt người ấy lên.
Ba ba nói:
– Rồi ngài sẽ hối hận!
Thuyền của bồ tát đã đến được một nước an toàn. Ba ba bèn từ biệt và nói với bồ tát:
– Ân nghĩa đã đền xong, tôi xin từ biệt.
Bồ tát nói:
– Khi thành tựu được Như Lai, Vô Sở Trước, Chí Chân, Đẳng Chính Giác, ta sẽ độ ngươi.
Ba ba đáp:
– Vâng!
Ba ba đã cáo biệt, rắn và cáo cũng tạ từ, mỗi con đi mỗi đường.
Cáo đào một cái hang để ở, chợt nó phát hiện có một trăm cân vàng ròng của người xưa chôn cất. Nó vui vẻ nói:
– Ta sẽ lấy số vàng này dâng cho bồ tát để đền ơn. Nói rồi, cáo đi đến chỗ bồ tát thưa:
– Tôi mang ơn ngài cứu giúp mà được bảo toàn thân mạng. Khi tôi đào hang để ở gặp được một trăm cân vàng. Hang này không phải gò mã, không phải là nhà. Cho nên số vàng này chẳng phải ăn trộm, cũng chẳng phải cướp giựt. Tôi xin thật lòng mang đến dâng lên hiền giả.
Bồ tát suy nghĩ: “Ta không nhận thì cũng vất bỏ một cách vô ích, chi bằng tạm nhận rồi đem chia cho những người nghèo, cứu giúp họ, chẳng phải tốt lắm sao!”.
Ngài bèn nhận lấy số vàng ấy. Người được bồ tát cứu thấy thế nói:
– Hãy chia cho tôi một nửa.
Bồ tát bèn lấy mười cân vàng chia cho người ấy. Ông ta lại nói:
– Ngài đào mồ để ăn cắp vàng, tội này phải chết, vì sao không chia cho tôi một nửa? Tôi sẽ báo quan!
Bồ tát nói:
– Ta muốn chia đều số vàng này cho những người nghèo khổ, ngươi muốn giành về cho mình, chẳng phải không công bằng sao?
Người kia đi báo quan. Bồ tát bị bắt, ngài không biện bạch, chỉ hướng về tam bảo sám hối lỗi lầm của mình, ăn năn tự trách. Với lòng từ bi ngài nguyện: “Mong cho chúng sinh sớm lìa được tám nạn, không bị oán kết như tôi ngày nay”.
Rắn và cáo họp lại bàn:
– Làm thế nào để giải quyết việc này?
Rắn nói:
– Tôi sẽ đi cứu bồ tát.
Nói rồi, nó liền ngậm một viên thuốc quý bò vào ngục, thấy bồ tát thân thể tiều tụy, trong lòng đau xót, liền nói với bồ tát:
Nay tôi trao viên thuốc này, ngài hãy mang nó bên mình. Tôi tìm cách cắn vào ngón tay thái tử, chất độc của tôi là cực độc, không ai có thể giải được. Lúc đó, ngài trình lên vua và lấy viên thuốc này xin giải độc cho thái tử thì độc liền được giải và ngài nhờ đó được thoát nạn.
Bồ tát im lặng làm theo lời của rắn.
Lúc bấy giờ, mạng sống của thái tử đang lâm vào tình huống nguy kịch, vua bèn ra lệnh:
– Nếu có ai trị được chất độc cho thái tử, ta sẽ phong làm thừa tướng và cùng ta cai trị đất nước.
Bồ tát xin vua được trị độc cho thái tử, thái tử liền hoàn toàn bình phục. Vua rất vui mừng, hỏi duyên cớ. Bồ tát kể hết sự việc cho vua nghe. Vua buồn bã tự trách:
– Ta thật ngu muội.
Sau đó, vua lệnh bắt người kia chém đầu, rồi ra lệnh ân xá cho tội nhân trong cả nước. Đúng như lời hứa, vua phong bồ tát làm tướng quốc, cầm tay bồ tát dắt vào cung, đàm luận Phật pháp. Từ đó, đất nước hưởng cảnh thái bình thịnh trị.
Đức Phật bảo các tì kheo:
– Người giàu có lúc ấy nay là Ta. Vị vua của đất nước ấy là Di-lặc; ba ba là A-nan; cáo là Xá-lợi-phất; rắn chính là Mục-kiền-liên; người sắp chết đuối ấy là Đề-bà-đạt-đa.
Bồ tát từ bi, trí tuệ thực hành bố thí ba-la-mật như thế.
Theo: Lục Độ Tập Kinh.
Người ăn chay đừng nên ăn trứng gà