Bốn Yếu Quyết Đưa Đến Sự Thành Công

Bốn Yếu Quyết Đưa Đến Sự Thành CôngTheo đại sư Cổ côn (đời Thanh), người niệm Phật muốn được thành công phải nắm vững bốn yếu quyết sau:

1. Người niệm Phật không cần tham cầu Tịnh cảnh

Xưa nay, có một số vị khi phát tâm niệm Phật chỉ lo ham cầu tịnh cảnh (như cầu thấy Phật hiện thân, cầu thấy cảnh giới Tịnh độ…), chứ không đặt nặng vào việc cầu vãng sanh Tịnh độ, đây quả thật là đại bịnh. Bởi cầu tịnh cảnh mà không cầu vãng sanh Tây Phương, kẻ niệm Phật đó chẳng khác cầu cát mà bỏ vàng, niệm Phật với tâm như thế không phù hợp với ý Phật “chấp trì danh hiệu Phật, một lòng cầu nguyện vãng sanh” (kinh A Di Đà), không thể đạt thành công đức vô lượng và không thể vãng sanh.

2. Người niệm Phật không cần tham thoại đầu “ niệm Phật là ai ?”

Người niệm Phật lấy cái tâm thanh tịnh bản lai của mình mà niệm đức Phật A Di Đà ở thế giới Tây Phương, rồi nhờ đức Phật A Di Đà hiển lộ cái tâm bản lai thanh tịnh của mình. Mỗi khi khởi tâm niệm Phật là tâm ta hướng về tâm Phật, tâm Phật hướng về tâm ta. Tâm ta và tâm Phật rõ ràng, tâm ta và tâm Phật là một, lý cảm ứng đạo giao bất khả tư nghì. Vì thế đương lúc niệm Phật mà đi hỏi niệm Phật là ai, tức là trên cái đầu của mình lại đặt thêm một cái đầu nữa, cỡi lừa mà lại đi tìm lừa.

3. Người niệm Phật không cần dứt trừ vọng tưởng

Ngày nay có nhiều người tu các pháp môn khác, thấy ai niệm Phật họ bèn khởi tâm chê bai : “ Người niệm Phật mà còn vọng tưởng thì không đạt thành kết quả”. Nhưng họ không biết rằng, người niệm Phật tuy còn vọng tưởng vẫn có thể đới nghiệp vãng sanh. Ngài Linh Phong dạy: “kẻ tín thâm nguyện thiết mà tâm còn nhiều vọng tưởng thì kẻ đó sẽ được Hạ phẩm hạ sanh. Tuy là Hạ phẩm hạ sanh nhưng chẳng ngại gì, vì đồng được bậc thiện nhân câu hội chung một chỗ, cùng thọ dụng pháp lạc, há không phải là đại dụng hay sao ?”.

4. Người niệm Phật không cần cầu nhất tâm

Người tán tâm niệm Phật thường ngày niệm không thoái chuyển, lâu ngày tự nhiên sẽ thành tựu sự nhất tâm. Như thế nhất tâm bất loạn là do tán niệm định số mà thành. Chúng ta niệm Phật tuy không cần cầu nhất tâm nhưng cứ tương tục niệm Phật thì nhất tâm bất loạn sẽ hiển bày.

Trái lại người nào niệm Phật chỉ lo cầu nhất tâm mà bỏ qua pháp tán niệm định số, thì chẳng khác nào kẻ không nấu cơm mà cầu có cơm ăn, không chịu khó học mà muốn thành tài giỏi… là điều không thể xảy ra.

Cho nên, đối với các bậc hữu duyên của tông Tịnh độ, chúng ta chỉ cần lập chí quyết định trì danh niệm Phật mà không cần phải tham cầu tịnh cảnh, không cần xem câu niệm Phật như một câu khán thoại đầu; không cần nghĩ đến chuyện còn vọng tưởng hay không vọng tưởng, không cần phải cầu nhất tâm bất loạn. Mà chúng ta thường ngày cứ chuyên trì Thánh hiệu Phật A Di Đà “đi, đứng, nằm, ngồi đều niệm Phật”, từ đây cho đến khi chết, chúng ta quyết định sẽ được vãng sanh.

Trích Chuẩn Bị Cho Cái Chết
Tác giả: Thích Nguyên Liên

Xác Định Cảnh Giới Tái Sanh Sau Khi Lìa Trần

Xác Định Cảnh Giới Tái Sanh Sau Khi Lìa TrầnCon người lúc sắp chết do sự diễn tiến của Nghiệp và Hiện tượng của nghiệp mà có Biểu hiện lâm chung mỗi người mỗi khác. Cũng như khi sắp chết, xác thân sẽ có những chỗ nóng ấm sau cùng. Tìm hiểu biểu hiện lâm chung và hơi nóng đi ra cuối cùng trên xác thân người chết, chúng ta có thể biết được cảnh giới họ đang chuẩn bị tái sanh.

1. Xác định dựa vào hơi nóng sắc thân

Con người khi chết toàn thân lạnh dần, chỗ nào trên cơ thể còn hơi nóng sót lại là nơi đó thần thức xuất ra khỏi thân. Chỗ nóng sau cùng trên cơ thể người chết giúp chúng ta xác định được cảnh giới tái sanh của họ. Bài kệ trong Đại thừa trang nghiêm kinh luận đã chỉ rõ cho chúng ta vấn đề này.

Đảnh sanh cõi Thánh, mắt sanh Trời
Bụng nóng Ngạ quỷ, tim nóng Người
Bàng sanh nóng ở nơi đầu gối
Nóng ở bàn chân Địa ngục thôi.

Ví như chúng ta sờ vào cơ thể người mới chết, nếu thấy toàn thân lạnh hết chỉ còn hơi nóng ở đỉnh đầu, tất biết người đó được vãng sanh Tịnh độ. Hoặc như toàn thân lạnh hết nhưng còn hơi nóng giữa hai con mắt tức biết ngưòi đó sẽ tái sanh về cảnh trời… Các cảnh giới còn lại chúng ta có thể xác biết qua hơi nóng còn sót lại nơi nào trên cơ thể người mới chết như bài kệ trên đã trình bày.

Có điều, chúng ta cần nên tránh sự hiếu kỳ quá đáng tìm kiếm hơi nóng làm động chạm cơ thể người chết, khiến họ phát sanh phiền não rất dễ đoạ lạc. Việc này nên để những vị tu cao, các Ngài có năng lực vận chuyển hơi nóng đi lên, xác định cảnh giới sắp tái sanh của người mới chết để tìm phương cứu độ.

2. Xác định theo biểu hiện lâm chung

Con người sau khi chết tùy nghiệp mà tái sanh vào cảnh giới tương ưng. Do thần thức cảm nhận cảnh giới tái sanh khổ đau hay hạnh phúc mà tâm thức có lo âu hay sung sướng, biểu hiện qua hình thức trước khi chết. Cho nên, nhìn vào biểu hiện lâm chung của người sắp chết chúng ta có thể đoán định được cảnh giới tái sanh của họ.

Đại để người nào sắp tái sanh về cõi trời… thì biểu hiện sung sướng, thân tâm thơ thới, miệng mỉm cười… Người nào sắp đọa vào tứ ác thú biểu hiện có sự run sợ, thân thể xú uế, tay chân quờ quạng… Chung quy, do cảnh giới tái sanh có khác, mà người chết có những biểu hiện lâm chung không giống nhau.

Trong kinh Pháp cú câu 253, Đức Phật dạy : “ Thân ông bây giờ như lá héo ! Sứ giả thần chết đang chờ ông ! Ông đang đứng trước ngưỡng cửa tử vong! Ông sắp phải làm cuộc lữ hành trên đường trường của cái chết. Vậy mà sao ông chưa chuẩn bị lương thực gì cả?” Chúng ta đang sống và chuẩn bị làm lữ khách trên đường trường của cái chết. Sống và chết luôn là hai việc lớn nhất của đời người, chúng ta dầu muốn dầu không cũng không thể tránh khỏi cái chết. Ai là người có chút lo xa chẳng thể dững dưng qua ngày, buông thả đời mình trong nhục dục, mà ngay bây giờ hãy chuẩn bị lương thực Tín, Hạnh, Nguyện đừng để phải rơi vào cảnh: “Tiền lộ mang mang vị tri hà vãng” (Quy sơn cảnh sách).

Trích Chuẩn Bị Cho Cái Chết
Tác giả: Thích Nguyên Liên

Té Xuống Kinh Rạch Niệm Phật Được Cứu

Té Xuống Kinh Rạch Niệm Phật Được CứuĐây là câu chuyện cảm ứng của cháu gái Trần Phi Lâm. Cô cháu họ này mới đầu cũng không tin Phật và cực lực phản đối lòng thành tin Phật của ông chú nhưng Trần cư sĩ rất từ bi, hễ gặp mặt là khuyên cô ta niệm Phật, giảng cho cô ta nghe về đời người ở thế gian khổ nhiều, vui ít, tai nạn nhiều, nghịch cảnh nhiều, phiền não nhiều, muốn lìa khổ được vui cần phải niệm A Di Đà Phật, lúc nguy cấp, sợ hãi càng phải cố sức niệm A Di Đà Phật. Nhưng cô cháu của ông cũng chỉ như đàn khảy tai trâu, không chịu nghe theo!

Mười mấy năm về trước, cháu gái của Trần Phi Lâm muốn dời nhà đến Hoa Liên kinh doanh buôn bán, cư sĩ Phi Lâm liền thỉnh tượng Tây phương Tam Thánh, lộng kiếng, tự mình đem đến bến xe Đài Đông cho cô ta. Lúc chia tay ông còn ân cần dặn đi dặn lại cô cháu phải chí tâm thành ý niệm A Di Đà Phật. Cô cháu họ Trần sau khi dời đến ở Hoa Liên kinh doanh buôn bán rất tốt, có một hôm do việc làm ăn cô đi vào làng, đến nửa đêm mới cỡi xe đạp về nhà, đi qua một con kênh bên đường lúc không để ý cả người lẫn xe đồng rơi xuống con kênh. Con kênh này chỉ sâu hơn người một chút mà thôi, tự mình rất dễ leo lên. Lúc đó cô cháu họ Trần phủi bụi đất trên mình, rồi xem lại tứ chi, không có bị thương chút nào hết, liền lo kéo chiếc xe đạp lên, lúc muốn kéo lên đó, lại rất kỳ quái, phía sau dường như có người kéo xe trở xuống. Cứ thế, hễ muốn kéo lên lại bị kéo trở xuống mấy lần. Lúc đó cô cháu họ Trần sợ đến nỗi lông tóc dựng đứng, sợ đến nỗi hồn bất phụ thể. Vào lúc tiến thối lưỡng nan, không có cách nào, liền nhớ đến việc ông chú ở Đài Đông thường dạy cô niệm A Di Đà Phật, khi gặp lúc tai nạn nguy cấp càng phải to tiếng niệm Phật. Cô cháu họ Trần liền chắp hai tay lại, cố sức to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Thành tâm thành ý niệm được khoảng nửa tiếng đồng hồ thân tâm cảm thấy an nhiên, tâm sợ hãi đã không còn nữa. Bỗng nhiên trên đường có một chiếc xe ba bánh chạy đến, người đánh xe đến trước mặt cô cháu họ Trần, liền thắng xe lại, không nói một tiếng nào, liền kéo chiếc xe đạp lên, lại mời cô cháu họ Trần lên xe ba bánh, đưa xe đạp đặt lên trên xe ba bánh, người đánh xe liền chở cả cô cháu họ Trần lẫn xe đạp về đến cổng nhà của cô.

Cô cháu họ Trần trong lòng rất cảm tạ người đánh xe trẻ tuổi mạnh khỏe nầy, sau khi xuống xe, muốn lấy tiền nhiều một chút cho anh ta, nhưng lúc quay đầu lại thì không biết đã đi đâu mất rồi! Lúc đó đã là nửa đêm, cũng không biết tìm ở đâu. Qua ngày hôm sau, sáng sớm cô vẫn cứ nhớ cái ân của người đánh xe ba bánh, muốn đưa tiền cho anh ta, liền đến bãi xe ba bánh tìm trong mấy người phu xe, hỏi tới hỏi lui cả ngày, mọi người đều nói tối hôm qua không có ai chở cả người lẫn xe ở đó. Sau đó cô liền nghĩ lại sự cảm ứng lúc đang nguy cấp cố sức niệm A Di Đà Phật mới có sự hóa hiện xe ba bánh đến cứu mình. Cô ta lại nhớ đến tượng Phật của ông chú đưa cho ở bến xe Đài Đông, liền về nhà lục tìm xem, chỉ thấy tướng hảo trang nghiệm của Phật A Di Đà rất giống với phước tướng của anh phu xe ba bánh. Lập tức treo lên, rất là cung kính mua về hương hoa quả phẩm, đèn cầy để cúng dường lễ bái. Lại nhớ đến tinh thần từ bi của ông chú, đích thật là ân sâu như biển, liền từ Hoa Liên đi về Đài Đông đến chú Trần Phi Lâm nói ra việc cảm ứng này. Câu chuyện trên đây là do chính miệng Trần cư sĩ nói với tôi.

Trích Những Chuyện Niệm Phật Cảm Ứng Mắt Thấy Tai Nghe
Tác giả: Lâm Khán Trị
Dịch giả: Thích Hoằng Chí

Nhất Quỷ Độ Tam Sư (Một Quỷ Độ Ba Sư)

Nhất Quỷ Độ Tam SưTrong kinh Kim Quang Minh trì nghiệm có kể câu chuyện: Thuở xưa, có một cô gái nghèo khổ, mẹ chết. Khi đến ngày 49, cô muốn đi rước thầy để cầu siêu độ cho mẹ cô. Nhưng cô không có tiền đành cắt mái tóc xanh đem bán, được một số tiền nhỏ để cúng lễ 49 ngày cho mẹ.

Cô đi thỉnh thầy, nhưng chùa quá xa. Cô vừa ra khỏi cổng thì gặp ba thầy đang đi đường. Cô mừng quá, liền thỉnh ba thầy vô, và nhờ ba thầy tụng kinh siêu độ cho mẹ cô. Ba thầy cũng đồng ý vào tụng kinh siêu độ.

Cô đi sang nhà ông Phật tử hàng xóm mượn chuông mõ và một cuốn Kinh Quang Minh. Ba thầy chí thành khai kinh và trì tụng. Cô quỳ ở sau, chí thành lễ bái.

Tụng kinh xong, cô dọn cơm mời ba thầy dùng và cúng dường lễ tạ. Ba thầy dùng trai tăng xong, từ giã ra đi. Đến một làng khác, ba thầy lại ghé vào quán nhậu rượu, nhưng khi sắp ăn uống thì nghe tiếng nói trên hư không, nói rằng, “Xin ba thầy đừng ăn thịt uống rượu, con sẽ bị đọa trở lại địa ngục.” Ba thầy ngó nhau, bỏ đũa, trả tiền mà ra đi.

Ba “thầy” vốn là tù nhân được phóng thích. Áo quần rách nát nên vào chùa xin đồ tu mà mặc. Không có tiền hớt tóc nên cạo đầu cho mát. Không ngờ lòng chí thành của thí chủ và phước báu của kinh, mà mẹ của cô con gái được siêu độ.

Ba vị thầy tu bất đắc dĩ, ngày hôm ấy, thấy việc siêu độ quá linh thiêng, nhiệm mầu, nên đã phát tâm xuất gia, thọ đại giới, tinh tấn tu hành, sau trở thành những thầy tu đạo hạnh được mọi người thương mến, kính yêu.

Công cha như núi ngất trời,
Tình mẹ như nước biển khơi tràn đầy.
Dù cho dâng hết thân này,
Cũng không trả được công người dưỡng sinh.

Góp Nhặt Lá Bồ Đề
Thích Tịnh Nghiêm

Nghiệp Lực Cản Trở Khiến Nhân Hết Quả Dứt

Nghiệp Lực Cản Trở Khiến Nhân Hết Quả DứtSư tỷ Trần Kiết ban trưởng ban Bát Nhã có một người em trai tên là Trần Thu Tuyền, nếu còn sống thì năm nay 48 tuổi, nhưng đây là việc của ba năm trước.

Sư tỷ nói: Em trai và em dâu của bà không có chút căn lành nào, khuyên tụi nó niệm Phật ngay một câu cũng không chịu niệm. Hai chị em có thể nói là chí không đồng, đạo không hợp, nhưng sức khỏe của nó không được mạnh khỏe, thường bị đau dạ dày, nếu không mổ sớm chắc chắn sống không lâu! Cái ngày quyết định sẽ mổ, sư tỷ Kiết với tâm từ bi cố sức thuyết phục khuyên em mình niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và nói về những sự lý trong phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ Tát có nhiều cách tầm thanh cứu khổ, nói cho anh ta nghe, khuyên anh ta phải thành kính niệm Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu Bồ Tát gia bị, chuyển nguy thành an.

Sư tỷ Kiết nói: Buổi tối Thu Tuyền mổ xong lúc nửa đêm, sư tỷ đang ngồi bên em niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cho anh ta, thì thấy anh ta đang trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, lẩm bẩm rất lớn: “Bồ Tát Quán Thế Âm, ngài đã lấy khúc ruột hơn một trượng thay cho khúc ruột hư của tôi, xin cám ơn! Xin cám ơn!”. Sư tỷ Kiết và vợ anh ta đều nghe rất rõ ràng. Khi anh ra tỉnh dậy liền nói: “Chị ơi, em nhìn thấy Quán Thế Âm Bồ Tát mặc đồ trắng, cầm một khúc ruột rất dài, mổ bụng của em ra, đổi cái khúc ruột hư đi, em còn hướng về Quán Thế Âm Bồ Tát nói cám ơn liên tục nữa!”. Từ sau khi được mổ, tất cả đều thuận lợi an toàn, sau một tuần lễ thì có thể đi bộ được, bác sĩ cũng rất vui nói: “Người bệnh này rất là nhanh chóng hồi phục, ba tuần thì có thể xuất viện được”. Có rất nhiều bà con bạn bè lăng xăng đến chúc mừng cho anh ta có thể sớm bình phục, thật không gì vui bằng.

Nhưng thiên hạ vốn vô sự, mà kẻ dung tục thì lại tự quấy nhiễu, chuốc lấy tai họa. Lúc còn khoảng ba ngày nữa xuất viện, thì một người bệnh khác cùng nằm viện nói với vợ anh: “Chồng của chị mới khỏe, cần chất dinh dưỡng, chị cần mua cá tươi về chưng với gừng xắt nhỏ cho chồng chị ăn để bồi bổ thân thể”. Sư tỷ Kiết nghe được lời này, vội vàng ngăn lại nói: “Không được! không được! Em ta là nhờ Quán Thế Âm Bồ Tát thay ruột cho nó, không giống như những người khác, từ đây về sau không được giết hại sinh vật cho nó ăn. Nếu muốn bồi bổ dinh dưỡng thì có thiếu gì, như sữa bột nè, đậu bì, đương quy, sâm Cao Ly,… (các chất bổ trong thuốc Bắc) đều là những dược phẩm có dinh dưỡng phong phú”. Sư tỷ Kiết nói một lô bao nhiêu đồ bổ dưỡng, nhưng “lời thật thì mích lòng”, em dâu nghe rồi, hình như có dáng điệu không lọt tai tí nào, nhưng nể bà chị chồng, mấy ngày sư tỷ Kiết ở bệnh viện, cô ta không dám đi mua cá tươi (cá sống), đợi lúc sư tỷ về nhà tắm, liền chạy ra chợ mua cá, thịt tươi về nấu cho chồng cô ăn, khi sư tỷ Kiết trở lại thì em cô đã ăn hết một tô. Do đây mà sự việc hỏng bét! Trời làm ra điều nghiệt ngã, còn có thể không tuân, tự mình tạo tội nghiệt, không thể sống! Em trai cô ăn tô cá đó xong, ghê gớm giống như uống phải thuốc rầy, bụng bắt đầu đau dữ dội, vết mổ lớn dài một thước (thước Tàu) đã khâu lại như bình thường, chưa đến mấy giờ bắt đầu biến đổi quái lạ, đường khâu bên trong bị toác ra! Sư tỷ Kiết nói: Chính mắt thấy như thế, sợ hãi vô cùng, da bụng banh ra giống như chiếc thuyền độc mộc, sức khỏe biến đổi xấu vô cùng, tính mạng nguy hiểm trong sớm tối, đến bác sĩ cũng bó tay không có cách gì! Sư tỷ tự nghĩ: Thật rất có lỗi với sự gia bị của Quán Thế Âm Bồ Tát, việc thế này, không dám cầu xin lại nữa, liền đổi Thánh hiệu, xưng niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát! Mong được Địa Tạng Bồ Tát phò hộ được bình an hồi phục trở lại. Liền vẫn cứ như thế, ở bên cạnh em xưng niệm Thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát. Thật là không thể nghĩ bàn! Thu Tuyền đang trong trạng thái hôn mê, lại thấy cảnh giới, trên mặt bỗng lộ nét vui, lẩm bẩm nói nhỏ, không biết nói những gì? Bỗng nhiên lại nói to lên “Ngài Địa Tạng Bồ Tát à! Ngài dẫn tôi đi chơi cả buổi, rất là vất vả, cây thiết trượng ngài đang cầm trong tay rất nặng, đưa tôi cầm dùm cho ngài được không? Đừng có khách sáo mà, đưa tôi cầm dùm cho ngài đi!”. Vợ anh ta liền hỏi: “Thu Tuyền! Anh nói những gì vậy?”. Anh ta đáp: “Ngài Địa Tạng Bồ Tát muốn dẫn tôi đến một chỗ rất đẹp, tôi đi chơi rất là vui!”.

Tối hôm đó, lúc sư tỷ như thường lệ niệm Thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát bên cạnh em trai, thì bỗng ở nhà có việc gấp, người nhà đến kêu sư tỷ về nhà. Sáng sớm hôm sau, Thu Tuyền lại tự nhiên nói với đứa con gái: “Ba rất cám ơn cô của con, bây giờ sắp từ giã cô con, ba muốn đến nhà cô con để nói lời cám ơn, nhanh nhanh kêu xe lại cho ba đi”. Nói xong thì… chết! Tội nghiệp một tráng niên mới 45 tuổi đã xong một cuộc đời! Lúc lâm chung thiện tri thức là bà chị cũng không có duyên trợ niệm cho anh ta, giúp cho anh ta có thể đới nghiệp vãng sanh!

Sư tỷ Trần Kiết nói với tôi đến đây, cảm khái muôn phần nói: “Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát đã thay ruột cho nó rồi, sức khỏe cũng đã bình thường trở lại, tại sao bất hạnh lại gặp cái người biểu ăn cá tươi kia để đến nông nỗi!”. Tôi giải thích rằng: “Người không có căn lành, không tin Phật, không niệm Phật, thì phải chịu nghiệp lực nó kềm chế dẫn dắt, không cách gì đổi lại được. Em trai và em dâu của cô đã không có căn lành, Bồ Tát Quán Âm đã thay ruột cho anh ta, đó là nhờ vào phước đức của cô. Đây là do cô chí tâm cầu niệm Phật cho anh ta mà có được, nhưng trong tàng thức của hai người, họ vẫn còn đầy dẫy những tội chướng nghiệp chủng, vì căn bản thường ngày, ngay cả một câu Thánh hiệu của Phật, Bồ Tát cũng không có niệm, một khi mạng chung, lúc chủng tử ác nghiệp khởi hiện hành, tướng luân hồi lục đạo hiện ra, nói đi liền đi, không được chần chờ! Em của cô lúc cuối cùng được kết duyên lành với Địa Tạng Bồ Tát, cũng là sự cảm ứng do cô xưng niệm Thánh hiệu Bồ Tát, van cầu Bồ Tát cứu anh ta, nhưng vì cô tối đó có việc phải về nhà, đây chính là chướng ngại của anh ta, không có duyên xưng niệm liên tục, nhân hết thì quả dứt, đâu còn nhờ vào đâu giúp đỡ vãng sanh Tây phương nữa chứ? Nhưng mà gặp được Địa Tạng Bồ Tát nắm tay dắt đi, tính ra cũng là đại hạnh trong bất hạnh!”.

Trích Những Chuyện Niệm Phật Cảm Ứng Mắt Thấy Tai Nghe
Tác giả: Lâm Khán Trị
Dịch giả: Thích Hoằng Chí

Nơi Ở Của Hung Thần Biến Thành Tốt Lành

Nơi Ở Của Hung Thần Biến Thành Tốt LànhTừ xưa đến giờ trong nhà Phật có câu thành ngữ: “Một người con trì trai thì ngàn Phật hoan hỉ, cửu huyền thất tổ được siêu sanh”. Câu này lại là sự thật. Một câu danh hiệu Phật có thể tiêu tai giải oán, nơi ở của hung thần hóa thành tốt lành. Các vị nếu không tin, tôi xin đưa ra một việc để chứng minh.

Việc này xảy ra tại Tân Trúc Văn Nhã Bố giáo sở. Đây là một đạo tràng Tịnh độ tông ở Đài Trung mà chúng tôi mở ra để các liên hữu trong liên xã hoằng pháp. Từ tháng 4 năm Dân quốc thứ 44 sáng lập đến nay, cứ cách một tuần là giảng kinh một lần, chưa từng gián đoạn. Trong hội chúng có một vị liên hữu nam, mọi người đều gọi là anh Kiềm. Có một hôm anh Kiềm này nói với những nhân viên hoằng pháp rằng: “Pháp môn niệm Phật thật là tốt, thật có thể lợi ích chúng sanh, chắc chắn có cảm ứng lớn”.

Các nhân viên hoằng pháp hỏi anh ta: “Anh niệm Phật được cảm ứng gì?”. Anh Kiềm liền nói: “Tổ tiên nhà tôi có một phần mộ rất kỳ lạ, từ rất lâu đến nay không thể nào tảo mộ, cũng không thể cúng tế được.

Nếu như cúng tế thì sau khi cúng về, không bệnh thì cũng chết! Nếu như có mục đồng dẫn trâu, dê ăn cỏ trên mộ hoặc là giẫm đạp trên mộ, mục đồng và trâu, dê đó sau khi về nhà, người và vật không chết thì cũng bệnh nặng. Vì cớ này nên dân địa phương đều không một ai dám chạm đến phần đất của ngôi mộ này”.

Đến năm Nhật Bản đầu hàng, Đài Loan được khôi phục, một người anh họ của tôi nói với tôi rằng: “Ngôi mộ kỳ lạ đó của chúng ta, hiện nay mộ bia đỏ hết phân nửa, nếu đi tảo mộ, nhất định con cháu thêm phước phát tài”. Tôi nói: “Tôi không dám nghĩ đến, tôi cũng không cần dựa vào phần mộ đó để thêm phước phát tài”. Người anh họ đó lại nói: “Chú không đi, thì tôi tự đi quét dọn cúng tế cũng được”.

Đến ngày tiết Thanh minh, người anh họ của tôi quả nhiên chuẩn bị ba thứ gia súc, rượu lễ đến trước mộ cúng tế. Việc này trải qua sau đó một tháng, ba đứa con trai của người anh họ tôi lần lượt chết hết! Các vị thử nghĩ xem việc này có đáng sợ hay không? Tôi tin rằng không có người nào từng nghe qua việc quái dị như thế!

Đến sau khi nạn lụt “bát thất” năm Dân quốc 49, lại có một người anh họ đến nói với tôi: “Ngày hôm qua tôi đi ngang qua cái nơi quái gở đó, nhìn thấy mộ bia bị nước cuốn ngã đi, đầu mộ cũng bị nước xoáy một lỗ lớn, nếu như không sửa sang, mộ này nhất định sẽ sụp tiêu đi, nếu sửa sang lại không dám động đến, do vì nếu như vừa động đến liền xẩy ra đại họa! Làm sao bây giờ?”. Tôi liền nói: “Không sao đâu, chúng ta đi sửa sang đi!”.

Người anh họ đó vui mừng nói: “Chú biết cách sửa sang cứ làm đi, tất cả tiền công, cát đá, xi măng đều do tôi lo liệu, nhưng mà chú chừng nào thì làm?”. Tôi nói “Đợi một tháng nữa”.

Tôi từ khi nghe được pháp môn Tịnh độ, mấy năm nay hai thời khóa sáng tối chưa từng gián đoạn. Từ lúc nhận lời chắc chắn sửa sang cái phần mộ kỳ lạ kia, hai thời khóa sáng tối xong, tôi liền hồi hướng cho tổ tiên của phần mộ đó, đồng thời chí tâm, khẩn thiết cầu xin Phật, Bồ Tát rằng: “Bạch Phật và Bồ Tát, xin phò hộ cho con, con sau khi biết tin Phật, bạn bè thân thích đều nói con là mê tín, lạc hậu, con lần này nhất định muốn thỉnh cầu Phật, Bồ Tát thi triển Phật pháp vô biên cho họ thấy, xin Phật, Bồ Tát phò hộ cho con, sau khi sửa sang phần mộ, đừng có xảy ra những sự việc tai hại cho người và vật.” Tôi mỗi ngày sau khi xong hai thời khóa sáng tối, đều cầu nguyện như thế.

Đêm trước tới ngày sửa sang, tôi càng khẩn thiết cầu xin, nửa đêm bèn nằm mộng, thấy phần mộ đó, có một phần mộ nằm phía Bắc hướng về Nam, mặt trước có một khe nước nhỏ, nước trong khe trong vắt, chảy về phía trước, hai bên mộ có hai cây đại thọ cao lớn, mộ bia ngã xuống, ở đầu phần mộ lộ ra một cái hang tỏ rõ sự suy sụp hoang vắng. Bỗng nhiên trong mộ xuất hiện một người con gái hung dữ, trang phục theo lối cổ, lúc đó tôi rất là sợ, liền chắp tay lại niệm “Nam mô A Di Đà Phật”…

Nam nữ đứng gần đó xem rất đông, trong đó có một ông già nói với tôi rằng “Đứa con gái này trước là một con quỷ nữ rất hung dữ, do vì con cháu đời sau của nó niệm Phật, bây giờ nó đã trở thành con quỷ lành rồi”.

Tôi nhìn thật rõ ràng, nghe cũng rõ ràng, lúc tỉnh lại thì ra chỉ là giấc mộng, trong lòng nghĩ cảnh giới này trong giấc mộng nhất định là Phật, Bồ Tát, đại từ đại bi, đại oai thần lực dẫn mình đi xem trước, để ngày mai mình có thể an tâm đi sửa sang ngôi mộ. Sáng sớm, người anh họ của tôi đến nói: “Kiềm à, tôi dẫn thợ cùng tất cả những dụng cụ như xi măng, cát đá đều đem đến cả rồi, chú đi nhanh đi!”.

Tôi mới hỏi: “Tôi xin hỏi anh phương hướng và tình trạng chung quanh ngôi mộ đó và người chôn trong mộ có phải là người nữ không?”. Anh họ của tôi kinh ngạc nói: “Chú có phải đã đi xem qua trước rồi không? Nếu không thì chú làm sao biết được?” Tôi mới nói “Đêm qua tôi mộng thấy”.

Tôi đi mua hương hoa, quả phẩm và đem theo quyển khóa tụng. Đến trước mộ nhìn xem, quả nhiên giống y như cảnh đã thấy trong giấc mộng đêm qua. Tôi mới bày các hương hoa quả phẩm ra, đốt đèn hương lên, lễ lạy nói: “Tôi hôm nay là chỉ đến sửa sang phần mộ của bà, trước sẽ tụng kinh A Di Đà, chú vãng sanh và Thánh hiệu A Di Đà Phật cho bà, bà cũng phải niệm Phật thì cũng sẽ lìa khổ được vui, nhất thiết không được hại người, chẳng những không được hại người trong nhà, cũng không được hại người khác”.

Sau khi nói xong, liền ở trước mộ tụng kinh niệm Phật, sau đó mới bắt đầu làm cỏ, ban đất, sửa sang, rửa mộ bia đá cho sạch, nhìn xem tên khắc trên mặt bia tính ra chính là bà nội của ông nội tôi. Tôi và nhóm thợ từ đó đến giờ vẫn bình yên vô sự.

Chuyện kể đến đây, chắc có người vẫn nhất định không tin. Thọ mạng của quỷ làm sao có dài như thế? Mời các vị xem trong kinh nói đây: “Đọa lạc vào cảnh giới quỷ, thọ mạng ngắn nhất là năm trăm tuổi”. Mà một tháng ở nhơn gian thì chỉ bằng một ngày ở cảnh giới quỷ thôi. Như thế tính ra thì biết thọ mạng của loài quỷ vừa dài vừa khổ! Có người vẫn còn nghi hoặc: tại sao tổ tiên lại đi hại con cháu mình? Trong kinh Phật có nói: “Chúng sanh ngã chấp ngã kiến, phải ở trong lục đạo đời đời kiếp kiếp.

Ta, ngươi tranh đoạt, ngươi giết ta, ta giết ngươi, cùng nhau gây tạo nhân quả, kết ân báo ân, kết oán báo oán, đòi nợ trả nợ, cứ như thế mãi không dứt!”. Tổ tiên của anh Kiềm cùng với cái quá khứ của ngôi mộ quái lạ kia, chắc chắn là đã kết oán thù với nhau rất nặng, không cởi mở được, cho nên mới hung ác hại người như thế, nếu như không có anh Kiềm chánh tín niệm Phật, dùng sức đại từ đại bi của Phật, thì không cách gì tiêu giải được oán cừu này. Do đây xin khuyên các vị cố gắng niệm “Nam mô A Di Đà Phật” nhiều lên.

Trích Những Chuyện Niệm Phật Cảm Ứng Mắt Thấy Tai Nghe
Tác giả: Lâm Khán Trị
Dịch giả: Thích Hoằng Chí