Niệm Phật Là Con Đường Dễ Đi

Niệm Phật Là Con Đường Dễ ĐiTrong Phật giáo pháp môn tu hành tuy rất nhiều, nhưng tổng quát lại chỉ có hai con đường: con đường dễ đi và con đường khó đi. Nói là đường, chính là phương pháp tu hành, bởi vì phương pháp này có thể làm cho người ta giải thoát khỏi phiền não trói buộc và đau đớn bức bách mà đạt đến cảnh giới an vui tự do.

Giống như nhờ con đường mà mọi người đi được từ chỗ này đến chỗ kia vậy, cho nên gọi là con đường. Gọi là con đường dễ đi và con đường khó đi, chính là phương pháp dễ hành và phương pháp khó hành.

Con đường khó đi như tham thiền và tu quán đã nói ở trên, con đường dễ đi là niệm Phật. Bởi vì tham thiền và tu quán là hoàn toàn dựa vào sức mạnh của tự lực, mà sức mạnh tự lực của chính mình thì còn rất yếu, nếu muốn lấy sức mạnh yếu kém của mình để giải thoát những sự trói buộc của phiền não và rất nhiều sự bức bách đau đớn của thế gian thô trọng, vậy thì khó lắm! Khó lắm! Cho nên những pháp môn dựa vào sức tự lực gọi là con đường khó đi.

Pháp môn niệm Phật là pháp môn dựa vào tha lực, tha lực chính là Phật lực, Phật lực thì bất khả tư nghì, chúng ta nếu dựa vào Phật lực để cầu giải thoát thì dễ hơn. Ví như chúng ta muốn đến một nơi rất xa, nếu đi bộ thì cực mà lại lâu tới nơi; nếu đi thuyền hoặc máy bay thì khỏe lại nhanh đến. Cầu giải thoát bằng pháp môn niệm Phật thì như đi thuyền hay máy bay vậy, có thể thu được hiệu quả gấp bội lần. Cho nên pháp môn niệm Phật gọi là con đường dễ đi.

Bây giờ, lấy sự thật dưới đây để làm ví dụ chứng minh.

Ngày xưa có một người thợ rèn họ Hoàng, mọi người quen gọi ông ta là Hoàng thợ rèn. Vì cuộc sống, Hoàng thợ rèn phải vất vả từ sáng sớm đến tối mịt, vì thế ông chán ngán thân người, làm người khổ, chẳng có ý vị gì.

Một hôm nọ, có một người xuất gia đi ngang qua lò rèn ông ta, Hoàng thấy như bắt gặp được vị cứu tinh, vội vàng bỏ búa xuống chạy ra mời vào.

– “Thưa sư phụ! Con vì ba bữa cơm mà cực khổ quá, cả ngày đứng bên lò lửa, thật là chịu hết thấu! Xin sư phụ từ bi, dạy con một phương pháp giải thoát khổ đau!” Hoàng thợ rèn thỉnh cầu một cách khẩn thiết.

Nhưng vị tăng nhân không dạy ông ta phương pháp giải thoát khổ đau nào, chỉ bảo ông ta niệm Phật. Ngài nói:

– “Ông muốn tôi dạy cho phương pháp giải thoát khổ đau, dễ thôi, chỉ cần niệm Phật là được. Chẳng phải ông cả ngày đứng bên lò lửa đập sắt sao? Thế này nhé, lúc đạâp sắt, giơ búa lên ông niệm một câu “A Di Ðà Phật”, nện búa xuống lại niệm một câu “A Di Ðà Phật”, hôm nay trở đi ông cứ làm không ngừng như vậy cho tôi, chắc chắn nỗi thống khổ của ông sẽ được giải thoát.”

Hoàng thợ rèn nghe xong vui mừng khôn xiết, y giáo phụng hành ngay. Ông vừa đập sắt vừa niệm Phật không ngừng nghỉ, cả ngày đều như vậy. Mọi người thấy thế đều bảo ông ta ngu ngốc, đập sắt cả ngày đã mệt lắm rồi, nay lại thêm niệm Phật nữa, làm gì thế cho thêm cực, bèn khuyên:

– “Ông đập sắt chẳng phải là đã quá cực rồi sao? Sao lại phải niệm Phật để cho cực thêm? Thấy sức khỏe của ông, tôi nghĩ hay là ông đừng niệm Phật nữa.”

Hoàng thợ rèn cười nói: “Các ông không biết thần diệu của niệm Phật, các ông biết không, lúc chưa biết niệm Phật, làm việc tôi luôn cảm thấy quá nhọc nhằn, nhưng sau khi niệm Phật, thì tôi không thấy mệt nhọc nữa, ngược lại còn cảm thấy sung sướng!”

Vậy thì vì lý do gì? Bởi vì Hoàng thợ rèn lúc chưa biết niệm Phật, khi đập sắt ông ta luôn nghĩ đến đập sắt, cho nên mới thấy mệt. Hôm nay biết niệm Phật rồi, tuy vẫn làm công việc cũ, nhưng tận cùng đáy lòng ông luôn nghĩ đến Phật, đặt hết niềm hy vọng trên cõi Tây phương, vì thế tinh thần vô cùng phấn khởi, cho nên quên hết nhọc nhằn.

Sau này Hoàng thợ rèn vãng sinh bên lò lửa! Khi lâm chung ông ta nói kệ rằng: “Bon bon beng beng, luyện lâu thành thép, bình yên đã tới, tôi về Tây phương.” Nói xong nhắm mắt thị tịch.

Phương Hiếu (Theo Chùa Thành)

Câu Chuyện Nhân Duyên

Câu Chuyện Nhân DuyênHữu duyên thiên lý năng tương ngộ,Vô duyên đối diện bất tương phùng. Âu đó cũng là sự thường, để mọi người đến được với nhau, để mọi sự đến được với mọi sự và người người hữu duyên với mọi sự. Giống như câu chuyện tôi sắp kể dưới đây,đều bắt đầu từ duyên.

Mỗi buổi sáng ngày Tết nguyên đán, có một vị khách viễn xứ về thăm quê nhà. Vị khách đã đến chùa Kim Liên (Nghi Tàm, Hà Nội) lễ Phật, vãn cảnh chùa. Trong sân chùa, một bé trai nhỏ đang ngồi trên chiếc xe bé xinh chơi cùng mẹ như để hưởng được phúc ấm đầu năm. Bỗng đâu, một bé gái cùng đi lễ với gia đình, bước vào cửa chùa. Thấy có em bé, cô bé chạy ùa tới rồi đẩy chiếc xe nôi chạy chơi quanh sân chùa. Trong sáng, hồn nhiên như những thiên thần, chúng vui đùa với nhau như thể đã thân từ nhiều năm trước. Đó chẳng là duyên sao? Vị khách thấy cảnh đó bất chợt thốt lên: “Hai đứa bé này thật có duyên với nhau. Không biết sau này chúng có gặp lại nhau không nhỉ?”.

Nghe thấy vậy, bỗng tôi nhớ về câu chuyện cách đây hơn 30 năm, khi tôi còn rất trẻ. Năm đó tôi mới chừng đôi mươi.

Phải nói thêm rằng, từ nhỏ tôi cũng đã có chút nhân duyên với Đạo Phật, thường xuyên được đi chùa với bà ngoại, theo bà đi làm những việc công đức nhà chùa, ngồi tụng kinh cùng bà….Về duyên, thì như vậy tôi cũng đã bắt đầu được tạo nhân đạo Phật trong tâm trí từ ngày ấy. Thế rồi, khi đã có chút nhận thức, có chút lý lẽ trong đầu, mọi chuyện đã không còn đơn giản. Cuộc sống thực tế khách quan đã tác động tới trực giác của tôi, khiến nhiều thắc mắc về Đạo phật nảy sinh.

Nếu chẳng phải duyên, thì sẽ chẳng có sự trở lại của người thứ hai để “dẫn dắt” tôi đến với Đạo Phật, điều mà cho đến hôm nay, sau 31 năm tôi mới nhận ra. Dạo đó, sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi cùng với bố vào TP.Hồ chí Minh (ngày ấy vẫn còn mang tên Sài gòn) thăm các bác (anh ruột của bố). Trong số các anh chị em, có một người anh họ, người mà tôi luôn yêu quí và kính trọng, đã khai tâm cho tôi ít nhiều về Đạo Phật. Ông đã nghiên cứu, thực hành Đạo Phật và Thiền nhiều năm, nên kiến thức thừa đủ để giải thích cho đứa em mới “nứt mắt” như tôi. Và câu chuyện của anh em tôi với Đạo Phật bắt đầu từ đó.

Bố tôi, xa gia đình bên nội đã lâu, còn tôi lần đầu tiên gặp họ, đáng lẽ có khối chuyện để nói với nhau, nhưng quả thực, tôi không biết từ đâu khiến câu chuyện lại dẫn anh em tôi đến Thiền và Đạo Phật. . . Anh tôi nói rằng, Đạo Phật là giúp cho con người ta thoát khỏi mọi nỗi khổ. Ông giải thích cho tôi mọi điều. Nào là nhân – quả, nào là duyên sinh, luân hồi… ông còn khuyên tôi, nếu có ai đó không tốt với mình, có thể mình không giao thiệp với họ nữa, mà lòng không thù hận gì, khi ấy mình sẽ thấy thanh thản vô cùng. . . Rồi anh tôi nói rằng, con người ta vì cảm nhận được cái ngon, cái đẹp mới đem lòng mê đắm và từ đó mới sinh lòng tham muốn chiếm hữu thành của mình, thế mới có giành giật, đánh giết lẫn nhau để mà chiếm hữu, mới sinh lòng căm ghét, thù hận… vân vân. Nếu bây giờ mình thấy đẹp nhưng chẳng màng, thấy ngon chẳng thèm. . . , thì đâu cần phải tranh giành làm chi. Khi đó làm gì có chiến tranh, như thế sẽ sống thoải mái, nhẹ nhàng sung sướng. Sống ở cuộc đời mà tựa Niết bàn đó. Thế nên Đức Thế Tôn mới dạy: Không tận diệt năm uẩn (là sắc, thụ, tưởng, hành, thức) sẽ không đoạn tận được khổ đau.

Tôi đã không cho là như vậy và thắc mắc: Đã không chơi với người ta, có nghĩa là mình thù hận rồi còn gì, làm sao lại nói là không. Và rằng người ta không tốt với mình, hà cớ gì mình cứ phải nhịn, phải tốt với họ; Hay như phàm đã là con người thì phải có cảm xúc; Phải có yêu, có ghét, có tham vọng và phấn đấu . . . Rất nhiều thắc mắc nảy sinh đối lập với những gì anh tôi đã giải thích. Ngày đó tôi đã khẳng khái nói với ông rằng: Em thấy đạo Phật không tích cực chỉ toàn khuyên con người ta sống thụ động mà thôi. Khi đó ông nói: chừng nào cô thấy không còn “thắc mắc nữa, và cô nhận ra, tin tưởng rằng đạo Phật hoàn toàn đúng. Ấy là cô đã theo được Đạo Phật rồi đó.

Nghe anh tôi nói vậy, nhưng tôi chẳng để tâm. Và dẫu vẫn năng đi chùa với bà,với mẹ, nhưng để nhất tâm đến với Phật thì quả là chưa thể.

Thời gian thấm thoắt quan đi. Khi mái tóc đã điểm sương, và cuộc đời đã cho tôi thấy nhiều điều hơn, giao du rộng hơn và đặc biệt thực tế khách quan cũng được đập vào trực giác tôi nhiều mầu sắc, nhiều hoàn cảnh hơn…thì tôi đã nhận ra rằng anh tôi nói đúng.

Cuộc đời thật khó dự đoán. Tôi chợt nhớ tới một câu hát của Jay Livingston and Ray Evans: “Que sera sera? Que’ sera’ sera’? What ever will be, will be. The futures not ours to see…” – ( lời dịch) Biết ra sao ngày sau? Đời luyến lưu vui cười, khổ đau…Vì sắc duyên là sóng bể dâu… Nào ai biết ngay sau”..

Tôi đã hiểu ra nhiều. Theo giáo pháp của Đức Phật, thì con người ta sống ở đời tất thảy đều là nhân duyên. Và như vậy, là trong mỗi chúng ta, ai ai cũng đều hội tụ 12 nhân duyên: Vô Minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thụ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão và cuối cùng là Tử. Chiêm nghiệm từ câu chuyện của mình, tôi đã cảm nhận được điều đó.

Ví như cái duyên đã dẫn tôi sớm đến với Đạo Phật. Song vì Vô minh, nên đã chẳng nhận ra cái đúng của Đạo là vị tha, là xả, mà chỉ thấy cái dở của đời là chấp ngã, nên trong lòng luôn thấy bức xúc, bực bội. Thấy người ta không công bằng với mình thì đem lòng oán hận; thấy mình không được may mắn như người ta thì lấy làm phiền não; Luôn tự phụ, cho mình là giỏi hơn người nên đem lòng khinh miệt…

Từ sự Vô minh ấy mà hành không thuận, tạo nên ác nghiệp cho mình. Bởi luôn cảm thấy bất bình, cộng với bản tính cương trực, nên lời ăn tiếng nói không biết dung hoà. Kết quả là suốt một thời gian dài làm việc trong một cơ quan, tôi đã không được xem là người tiến bộ và không được hưởng những gì đáng lẽ mình được hưởng. Nhưng rồi mọi chuyện đã qua đi. Một cơ may, và cũng lại là nhân duyên đưa tôi sang một bước ngoặt khác trong cuộc đời. Đó là thời điểm tôi chuyển nghề. Tôi đã tưởng mình nằm mơ khi sang làm công việc mới, công việc mà suốt một thời trẻ tôi ngưỡng vọng, ao ước. Đến bây giờ tôi mới lý giải được vì sao tôi gặp được cơ duyên đó, âu cũng là nhân – quả mà thôi. Thân thiện, cư xử tốt với mọi người, đến khi mình cần, sẽ có người giúp đỡ.

Ở công việc mới, tôi có nhiều điều kiện đi đây, đi đó, học hỏi nhiều, mắt thấy tai nghe cũng lắm. “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” là thế. Thêm nữa, mỗi độ tuổi, con người ta cũng có những thay đổi, nhận thức cũng khác, và dần dần tôi đã bớt sân hận, bớt đòi hỏi và đã biết thoả hiệp với cuộc đời… Có thể, vì đã nhận thức được lẽ đó, mà cuộc sống của tôi thật vui vẻ, thoải mái và cảm thấy lòng mình nhẹ nhàng hơn.

Và rồi mỗi ngày, duyên đến với Đạo Phật như càng gần với tôi, được lân mẫn với các vị tăng, ni để trao đổi, học hỏi; gặp gỡ nhiều Phật tử, được giới thiệu, thậm chí có cư sỹ còn tặng những cuốn sách quí về Đạo Phật… Đọc, chiêm nghiệm đã giúp tôi nhìn nhận lại mình rõ ràng hơn.

Cuộc sống thật khó khăn. Chẳng thể ngày một ngày hai mà đến được với Đạo Phật, chẳng phải đã đến rồi mà theo được. Theo rồi chưa chắc đã giác ngộ được …Tất thảy còn phải do duyên nghiệp mà nên. Ấy mới cần phải tu hành, và quan trọng hơn cả phải nhất tâm tin tưởng con đường mình chọn là đúng đắn, tin tưởng rằng, con đường ấy dẫu “xa” hay “gần” thì kiên trì sẽ tới đích. Đó chính là điều tôi nhận ra sau 30 năm, kể từ ngày hai anh em tôi trò chuyện với nhau về Đạo Phật.

Giờ đây, dẫu tôi chưa hiểu Đạo Phật bao nhiêu, và càng chưa tu tập được gì nhiều, bởi cuộc sống còn quá nhiều gian truân buộc mình phải đối mặt. Song, có một điều tôi đã thấy rất rõ ràng, trong cuộc sống hàng ngày, càng xả được nhiều, mình càng thanh thản và thấy cuộc sống có nhiều ý nghĩa.

Thích Châu Triêm

Con Đường Tu Tắt: Pháp Môn Tịnh Độ

Con Đường Tu Tắt: Pháp Môn Tịnh ĐộLời Phi Lộ

Tôi được một đạo hữu mến mộ pháp môn Tịnh Độ cho xem cuốn Con Đường Tu Tắt và yêu cầu sửa chữa để tái bản, ấn tống.

Tôi đã đọc và xén bỏ những đoạn rườm rà, trùng phức nhưng cuốn sách vẫn chưa phải đã hoàn bị, nhất là về phương diện chính tả và ngôn từ. Song, nếu sửa sẽ phải đánh máy lại tất cả. đó là việc vượt quá sức đảm đương của ngườI ấn tống, mặc dù họ rất muốn thế.

Tuy vậy, bên cạnh các khuyết điểm vừa kể, cuốn Con Đường Tu Tắt đã nói lên được đôi phần ách yếu của pháp môn Tịnh Độ. Hơn thế, cái tinh thần chí thành chí thiết được lồng vào trong lời văn chất phác, mộc mạc của soạn giả và điều đáng kể nhất là niềm tin son sắt vào cảnh Cực Lạc được thể hiện qua hành động tích cực, vô vị lợi, bằng cách chỉ muốn truyền rao pháp môn Tịnh Độ khắp nơi nơi của hai Phật tử ấn tống đã khiến tôi vô cùng cảm động, nên viết mấy dòng này để tỏ tình tùy hỉ, tán dương.

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo

Los Angeles, mùa Phật Đản 2531 – 1987
Giám đốc Nhà Xuất Bản Phú Lâu Na
Tiến sĩ Thích Chánh Lạc

Tiểu Tựa

Đức Phật Thích-Ca vì một sự đại nhân duyên mà ra đời, tức là ngài muốn cho tất cả chúng-sinh thành Phật như ngài. Nhưng vì căn-cơ trình-độ của chúng-sinh trong buổi đầu tiên học đạo còn non kém nên ngài quyền-biến tạm lập ra ba thừa; Thinh-Văn, Duyên-Giác, và Bồ-Tát. Đến lúc các vị Tỳ-kheo kham lãnh đạo vô-thượng bồ-đề, Ngài bèn gom ba thừa qui vào Phật-thừa.

Đối với các pháp-môn tu-trì, hàng nhị thừa phải trải qua mười kiếp A-tăng-kỳ mới thành Phật. Còn đối với Đại-thừa, ít nhất cũng phải ba kiếp A-tăng-kỳ. Như vậy vấn đề thành Phật không pháp môn nào tu lẹ cho bằng pháp môn niệm Phật. Người được vãng sanh không cần phải trải qua nhiều kiếp A-tăng-kỳ. Tại sao vậy? Bởi vì chúng sanh tại nước Cực-lạc, do nguyện lực của Đức Phật A-Di-Đà, ai ai cũng có sáu phép thần thông. Chúng-sinh tại đây dùng phép thần thông đi khắp mười phương Phật để cúng dường, nghe Pháp, thành ra người nào cũng mau thành Phật. Hơn nữa tại Tây-phương Cực-lạc quốc, chúng-sinh không cần bận tâm đến vấn đề ăn, mặc, ở. Cái gì cũng do thần thông của Đức Phật A-Di-Đà hóa hiện. Muốn ăn cái chi, tự nhiên đồ ăn hóa hiện ra trong chén dĩa bằng thất-bảo. Sau khi ăn, không cần dọn rửa, tự nhiên chén dĩa biến mất.

Sở dĩ chúng sinh tại Tây phương mau thành Phật là vì muôn sự muôn vật cần dùng không phải lo nghĩ. Tâm trí rảnh rang, lại thêm được làm bạn với các vị Đại-Bồ-Tát để tu học, do đó mà quả Phật chóng thành hơn các thế giới khác.

Theo các pháp môn, người tu hành phải dứt hết phiền não, nhiễm ô, dứt hết nghiệp quả tộI chướng mới được giải thoát, chứng quả Niết-bàn. Trái lại, pháp môn niệm Phật còn nghiệp quả mà cũng được vãng sinh. Trong kinh Phật gọi là ỏđới nghiệp vãng sinhõ. Đới nghiệp vãng sinh nghĩa là người tu hành còn mang nghiệp quả chưa dứt khoát trọn vẹn mà cũng được vãng sinh. Chẳng khác nào như hòn đá tự nó lướt qua bể cả không được, nhưng nếu có thuyền bè chở qua biển, dù bao nhiêu hòn đá cũng vượt bể khơi được như thường.

Cái hay của pháp môn niệm Phật là bất luận già, trẻ, bé, lớn, kẻ ngu người trí gì cũng đều tu được cả. Bởi pháp môn niệm Phật rất dễ tu, dễ chứng, dễ thành nên mười người niệm Phật được vãng sinh hết chín, còn các pháp môn khác mười người tu chỉ chứng được một hai người mà thôi.

Pháp môn niệm Phật sở dĩ mệnh danh là pháp môn tu tắt vì pháp môn này mau thành công hơn các pháp môn khác. Đời mạt pháp nếu chúng ta không tu theo pháp môn niệm Phật thì không có pháp môn nào tu cho kịp hội Long Hoa. Vậy chúng ta còn chần chờ gì nữa mà không mau mau tu theo pháp môn niệm Phật. Nếu bỏ lỡ dịp này, sợ e thân này sau khi tan rã, chừng đó có muốn tu hành cũng không còn kịp để mà tu. Sách Phật có nói rằng: nhơn thân nan đắc, nghĩa là thân này khó được, đã được thân này mà không lo liệu tu hành cho sớm, có phải là uổng một kiếp sanh ra làm người chăng?

Nguyên Nhân Nào
Phật Giảng Pháp Môn Niệm Phật

Trong kinh Đại Bổn Di Đà có nói : Một ngày kia, nơi pháp tọa, dung nhan của Đức Thế Tôn hiên ra nhan sắc một cách phi thường. A-Nan là thị giả của Phật thấy vậy mới thưa rằng:

Bạch Đức Thế Tôn: Đệ tử đã từng theo hầu Phật lâu năm, đệ tử chưa lần nào thấy dung nhan của Đức Thế Tôn khác lạ như ngày hôm nay. Chẳng biết nguyên nhân nào sắc mặt của Đức Thế Tôn hiện ra như vậy, xin Đức Thế Tôn vì chúng đệ tử mà khai thị để hiểu rõ lý do.

Này A-Nan! Hay thay, quí hóa thay lời hỏi của ngươi. Dù cho có người nào đó đem hết năng lực ra cúng dường tất cả các bậc Thinh-Văn, Duyên-Giác trong một cõi thiên hạ và bố thí cho hết thảy cõi Trời, cõi người cùng các loài bò, bay, máy, cựa, trải đến kiếp nọ sang kiếp kia, cũng không thể nào bì kịp cái công đức cái câu hỏi của ngươi xấp đến trăm ngàn vạn ức phần. Bởi vì do câu hỏi của ngươi, tất cả chư Thiên và vua chúa trong nhân gian cho đến những loài bò, bay, máy, cựa cũng nhờ câu hỏi của ngươi mà được độ cho thoát vòng luân hồi sanh tử khổ ải.

Này A-Nan! Ta có một pháp môn tu tắt, khó mà nói ra quá, bởi vì pháp môn này đòi hỏi người nghe phải có đức tin một cách quả quyết mới có thể tu trì được. Trái lại, nếu thiếu đức tin, long còn do dự thì khó mà thành công đối với pháp môn này.

Trên đây là lý do khởi nguyên Đức Thế Tôn giảng nói pháp môn niệm Phật. Thực vậy, dù là pháp môn nào đi nữa cũng phải đòi hỏi hành giả phải có đức tin thật kiên cố mới mong thành công được. Theo lời Đức Thế Tôn nói với A-Nan, thì pháp môn này có thể độ được loài côn trùng nữa nhưng vì chúng ta là thai phàm mắt thịt, không thấy được loài côn trùng được độ bằng cách nào. Riêng đối với loài chim, loài sấu, ai có xem sự tích vãng sanh đều thấy rõ. Loài sấu khi tu hành, chúng không còn lội đi chỗ này chỗ nọ để săn thịt mà sống, chúng nó trầm sâu dưới đáy sông, nhiều khi chỗ đó thành cồn thành bãi mà chúng vẫn kiên trì nằm mãi một chỗ. Còn như loài chim nhờ chủ nhà dạy cho niệm Phật, chúng nhái theo, đến khi chết chủ đem chôn, một ít lâu chỗ chôn xác chim mọc lên một đóa hoa sen. Chủ nhà thấy vậy đào lên thấy hoa sen từ trong mỏ con chim mọc ra. Chủ nhà biết rằng con chim đã được vãng sanh tịnh độ. Hoa sen là tượng trưng cho pháp môn niệm Phật, người vãng sanh được hóa thân trong liên hoa, vì vậy Tịnh độ tông cũng gọi là Liên tông. Hoa sen là biểu hiện của pháp môn niệm Phật vì đó mà chủ nhà quyết đoán rằng: ỏõ Con chim của ông ta nuôi, được vãng sanh tịnh độ.õõ

Nhiều sự tích vãng sanh rất ly kỳ, xin xem phía sau sẽ thấy. Nhứt là các sự tích vãng sanh, trong đó có kể sự tích đời nay để làm bằng cớ, chẳng phải hoàn toàn kể chuyện đời xưa, nên không có gì mà khó tin.

Sự Tích Đức Phật A-Di-Đà

Kinh Đại Bổn Di-Đà nói: Không biết bao nhiêu kiếp trước, có ông Phật ban sơ ra đời là Thế Tự Tại Vương Phật đi dạy độ người hướng Tây nhằm nước Đại Quốc, ông vua Đại Quốc cũng đến nghe giảng, tỉnh ngộ mộ đạo. Vua giao ngôi cho đông cung cai trị, theo thầy tu hành. Thầy đặt pháp danh là Pháp Tạng. Khi ấy ông Pháp Tạng bạch với thầy mình nguyện bốn mươi tám điều độ tận chúng sanh mà đền ơn thầy. Ngài tu hành tấn tới thành bậc Bồ Tát. Trong thời kỳ tu luyện ngài làm phước, thông hiểu nghe thấy biết hết việc thế gian. Ngài nhập vô thai theo các loài người, loài vật độ chúng nó tu luyện cho thành mà rước hồn về Tây phương cho trọn lời thề nguyện cao cả.

Tuy đã thành Phật mà vẫn giữ hạnh Bồ Tát, chẳng hưởng thanh nhàn, không nài cực khổ. Trải qua mười triệu kiếp, nhập thai độ đủ các loài người và vật các nước khác, đem hồn về Tây phương nhập vô bông sen (liên hoa hóa thân như Na Tra) chúng sanh tại nước Cực lạc không đầu thai nữa và cũng không chết mà cấp dưỡng vì biến hóa y phục phẩm thực mà bảo dưỡng làm âm nhạc nghe cho vui. Hóa cung đền, đồ cần dùng thượng hang cho người ở nước mình vừa ý, vui lòng mà tu luyện cho lên chức Phật. Phụ nữ tu hành cũng cho liên hoa hóa thân trai. Từ đấy đặt tên là nước Cực-lạc nghĩa là rất vui. Sau rước nhiều hồn người và vật tu thành đem về Cực lạc mà nuôi nên xưng một hiệu nữa là nước An-dưỡng (nghĩa là nuôi cho an lòng). Đủ lời nguyện-y bốn mươi tám điều, ngài mới chịu thành Phật ở cõi Cực lạc, cứ lo tiếp dẫn chúng sanh niệm danh hiệu mà theo phép, thời lâm chung đi tiếp dẫn về Cực lạc cho liên hoa hóa thân nuôi dạy tu luyện tham thiền cho thành Phật. Vì cớ rước hồn người tu, nên ngài xưng Tiếp Dẫn Đạo Sư.

Tại sao ngài xưng hiệu A-Di-Đà? Kinh Đại Bổn và Tiểu Bổn giải: bởi hào quang Phật chiếu khắp mười phương, sống lâu không biết ngần nào, người trong nước cũng vậy và phước đức lớn nên xưng hiệu A-Di-Đà. ỏAõ là sống lâu. ỏDiõ là sáng lòa. ỏĐàõ là phước đức. Ngụ ý là Phật bất tử, hào quang sáng lòa, phước đức đứng trên bực.

Thế Giới Cực Lạc

Kinh Đại Bổn và Tiểu Bổn Di Đà nói: Đức Phật Thích Ca nói với ông Xá Lợi Phất rằng: ỏ Từ đây đi qua phương Tây cách mười muôn ức cõi Phật, có nước Cực lạc, Đức Phật nước ấy hiệu là A-Di-Đà đương giảng dạy cho chư Bồ Tát, Duyên Giác và Thinh Văn tu theo tịnh độ.

Tại nước Cực lạc, những nhà cửa đều dùng bảy món báu làm ra, tốt hơn chỗ ở của Thiên Đế cõi trời gấp trăm lần. Dân nơi đây muốn một món chi thì có món ấy hiện tới. Suốt ngày nghe âm nhạc vang rền khắp đó đây. Duy khác một điều, ai gắng công tu nhiều thì được lâu đài cao lớn, ai tu ít thì nhà cửa không được cao lớn nhưng không thiếu tiện nghi.

Khắp nơi nơi có ao suối và có một hai món báu nơi ấy. Vàng thì nhiều như cát, còn bạc thì ở dưới đáy nước lấp lánh trông rất đẹp. Ao thủy tinh thì quanh ao là cát báu, dưới đáy ao có lưu ly phản chiếu. Nước trong ao thì quí báu vô cùng; uống vào được hưởng tám điều quí (bát công đức) 1.- Trong sạch. 2.- Mát. 3.- Ngon ngọt. 4.- Thơm nhẹ. 5.- Thông trơn cổ. 6.- Khỏe. 7.- Hết khát khỏi đói. 8.- Giúp cho lục căn được thanh khiết. Nước này tánh chất cao quí chẳng khác chi nước Cam lộ vậy.

Lại có hàng trăm thứ kỳ hoa dị thảo, mỗi nhành có muôn ngàn hoa lá đủ sắc thắm tươi xen nhau trổ tỏa mùi hương thơm làm cho lòng người lâng lâng khỏe khoắn.

Đường đi dựa mé sông, hồ ao đều có cây Chiên đàn thơm ngát. Bông và trái kiết tường thơm ngào ngạt. Trong hồ ao có bông sen năm sắc khoe màu. Lại có cây có bảy thứ báu, mỗi cây đều có một hay hai món báu. Cây nào toàn một món báu thời rễ gốc, nhành lá, bông và trái đều một màu. Cây nào hai món báu hiệp lại thì có hai sắc bông trái. Những cây ấy mọc ngay hàng và giao cành cùng nhau, bông trái cùng đối diện nhau. Khắp cùng cả nước đều một cảnh ấy xem đẹp vô ngần.

Dưới đất nơi nào cũng có vàng, ngày đêm giờ nào cũng có bông Thiên mạn, bông Đà la rơi xuống như mưa, mùi thơm không thể tả mỗi lần mưa hoa, ngập đầy cả mặt đất, chân đi êm như nệm gấm. Tuần tự trước sau hoa ấy héo dần rồi biến mất, mặt đất trở lại sạch sẽ. Ngày đêm có sáu lần cảnh tượng ấy. Người trong nước sáng ra lượm hai thứ bông đó (Thiên mạn và Đà la) đem cho dân nghèo đói ở các nước khác ăn thay cơm vì mùi thơm ngon và có hiệu lực làm cho hết đói. Sau khi đi thí hoa rồi, về nước Cực lạc độ cơm giờ ngọ.

Tới giờ ăn cơm ai cũng dùng chén bát thường bằng đồ thất bảo. Muốn ăn món chi đều hiện đủ cả. Sau khi dùng xong chén bát tự nhiên biến mất khỏi rửa. Tới bữa khác muốn dùng món chi cũng có y như hôm trước.

Cảnh sắc của nước Cực lạc thực là thoát tục. Nơi đây mỗi khi có gió thì bảy vòng cây rào ngoài (cây báu lưới báu) đều khua nhau nghe như muôn ngàn tiếng nhạc hòa lẫn rất êm tai. Vì thế mà khởi sanh tánh thiện thường vui hay nghĩ đến niệm Phật, ham nghe pháp.

Ở Cực lạc có riêng ao báu lớn để tắm. Ai xuống tắm muốn nước sâu, cạn, nóng, lạnh độ nào tùy theo ý muốn. Tắm xong trên mình tỏa ra hương thơm, nghe tiếng nhạc trỗi du dương, xem hoa khoe màu trước gió. Nếu ai không muốn nghe, tiếng nhạc tự nhiên không vào tai.

Tóm lại, ai muốn điều gì cũng được toại nguyện cả.

Nước Cực lạc có nhiều thứ chim sắc khác nhau; Hạc trắng, chim công, Anh võ, Xá lợI, Ca lăng, Tăng già, Cọng mang. Bảy thứ ấy thứ ấy nhiều vô kể. Ngày đêm kêu hót tiếng giống như ngâm kệ, giảng kinh. Tiếng thanh lảnh lót, ai nghe cũng nhớ mà niệm Phật. Các chim ấy do Phật A Di Đà dùng thần thông hóa hiện để nhắc nhở người nước ấy tinh tấn, phát tâm tu niệm chớ không phải là chim thật.

Trong nước mọi người đều hiền lành. Sống đời đời, kiếp kiếp ở xa bao nhiêu cũng thấy, nói chuyện đều nghe. Mỗi người đều không đau ốm bệnh hoạn. Có sắc diện xinh đẹp, không xấu như hồi còn xác phàm. Người thì khỏe mạnh thông thái, cả nước không ai ngu dốt. Trong lòng thường tưởng việc đạo đức, nói ra những điều chánh lý nên dễ yêu thương nhau, không ai ganh ghét, đều biết tiền căn muôn kiếp, lại biết việc quá khứ, hiện tại và vị lai ở thế gian. Trong lòng người nào tính chuyện chi ta đều biết trước. lại biết kẻ bị đọa chừng nào đầu thai làm người. Người chừng nào đắc quả vị Phật. Sở dĩ biết trước được như vậy là vì người nước Cực lạc đều có lục thông

Niệm Di Đà Không Xao Lãng,
Chắc Chắn Được Vãng Sanh

Kinh Tiểu Bổn có nói: ỏõ Nếu có trai lành gái tín nào nghe danh hiệu Đức Phật A Di Đà tin tưởng mà niệm danh hiệu Ngài từ một nhẫn đến bảy ngày đêm, lòng không xao lãng (tức là không lo tính việc khác) thì Đức Phật A Di Đà sẽ hiển ứng chứng minh. Lúc lâm chung vẫn niệm danh hiệu ngài không mê muội, chắc chắn Phật cùng Thánh chúng đến tiếp độ về Cực lạc chẳng sai (về nước ấy được liên hoa hóa thân không còn sanh tử nữa).

Chúng tôi xin dẫn chứng câu chuyện sau đây: Chàng Oánh-Khoa, một người chỉ biết đến rượu thịt, không kể đến đạo đức, Phật pháp là gì. Vậy mà sau khi xem truyện vãng sanh chỉ có một lần liền ngộ, bỏ cả rượu thịt, phát tâm niệm Phật. Chàng niệm rất chí thành. Vỏn vẹn được bảy ngày đêm, tự nhiên thấy Phật hiện ra trước mặt nói rằng: ỏõ Ngươi còn sống mười năm nữa phải tinh cần niệm Phật, ta sẽ đến tiếp độ ngươiõõ. Nghe xong chàng nói: ỏõCõi ta bà là cõi ác trược, dễ mất chánh niệm, con xin nguyện sớm sanh tịnh độ giúp việc Thánh chúng.õõ Phật bảo: ỏõNgươi chí thành, ba ngày nữa ta sẽ đến độ ngươi.õõQuả thật ba ngày sau chàng được vãng sanh.

Đức Thế Tôn Dặn Dò Các Môn Đồ Sau Cùng

Kinh Tiểu Bổn Di Đà nói: ỏõĐức Phật Thích Ca nói với ông Xá Lợi Phất rằng: ỏõNếu có ai đã phát nguyện rồi, hoặc mới phát nguyện ngày nay, hay sẽ lập nguyện (tu Tịnh độ), khi lâm chung đều được vãng sanh Cực lạc. Nếu có ai tu hành tấn tới, về Cực lạc sẽ thành ba phẩm Phật nhỏ: Tôn chứng, Thinh văn và Thượng thiện Nhơn. Này Xá Lợi Phất! Các ngươi hãy tin lời ta mà tu Tịnh độ rất dễ thành Phật. Các chư Phật khác cũng đều nói như ta vậy. Người tu tịnh độ, bất cứ tại gia hay xuất gia gì cũng đều được về nước Cực lạc cả.

Người ở trong cõi trần như bị vây trong thành, mau kiếm ngõ ra mới thoát khỏi, hầu về tới quê nhà. Người tu theo Tịnh độ cũng vậy, cầu cho được giải thoát khỏi bể khổ luân hồi.

Chính vì lòng từ bi thương xót chúng sanh nên Phật mới chỉ dạy pháp tu Tịnh độ là con đường tắt duy nhứt mau đến chỗ giải thoát, ngỏ hầu tiến đến quả vị Phật.

Sơ Lược Các Sự Tích Vãng Sanh

Từ xưa tới nay, muôn ngàn người ăn ở hiền lành, phần đông trước khi chết đều bị mê muội, không ai biết trước ngày giờ chết để tắm gội sạch sẽ, tỉnh táo niệm Phật hoặc biết có mùi thơm hay nghe tiếng nhạc trên không. Duy chỉ có những người tu Tịnh độ khi mãn phần có những điều dị thường như trên thì biết chắc hồn về Cực lạc.

Nay tôi xin kể lại sơ lược một vài sự tích vãng sanh xưa và nay tại nước Tàu và Việt Nam ta để quí vị Đạo Tâm rộng đường suy xét hầu tu theo Tịnh độ. Chẳng những người tu có kết quả mà loài thú biết niệm Phật cũng đặng vãng sanh nữa.

1.- Đời Đường bên Tàu, Cư sĩ Minh Chiêm tuổi già mới tu Tịnh độ. Ông rất tinh tấn ngày đêm niệm Phật chẳng dứt. Có kẻ nói: ỏõÔng tu muộn quá e không kịp vãng sanhõõ. Ông Minh Chiêm nói: Niệm Phật từ một tới mười câu còn thấy Di Đà, ta lo chi không đặng vãng sanh. Sau vì bị bệnh nên ông vào chùa Hưng Thiên, lúc quá Ngọ, ông ngồi chắp tay xây mặt qua hướng Tây mà niệm Phật. Giây lâu ông nói rằng: Phật với Quan Âm, Thế Chí đều đến rước ta. Nói xong bái rồi hết thở.

2.- Đời Tống, ba cha con của Ngụy thế Tử với một quận chúa đều tu theo Tịnh độ, trừ ra phu nhân là ăn mặn. Sau quận chúa chết yểu: sau khi liệm xong, quàn lại bảy ngày bổng nghe tiếng la từ trong quan tài ỏõNgộp lắmõõ nội nhà mừng quá cạy nắp quan tài ra, cùng lúc ấy tiếng nhạc trên không trung trổi lên. Quận chúa bước ra thưa với mẹ rằng: Thưa mẹ, nước Cực lạc rất vui, trong ao Thất Bửu có nhiều bông sen búp lớn gần bằng bánh xe, ngoài cánh sen, cái thì nêu tên cha, hai bông nọ còn có tên hai anh nữa, con kiếm cùng không có tên mẹ nên con xin phép Đức Phật Di Đà về đây báo tin và khuyên mẹ mau tu Tịnh độ thì sẽ có một bông sen mọc ra dành cho mẹ cũng như của cha, của hai anh và của con vậy. Phật sẽ đem tòa sen ấy rước mẹ về cho Liên hoa hóa thân, ở cung đền rất cao. Muốn mặc y phục gì thời có hiện tới. Muốn ăn vật chi đều có món đó, đựng trong bát thất bảo hiện tới trước mặt, dùng xong bát biến mất khỏi rửa. muốn nghe nhạc chi thì nhạc ấy vào tai, bằng không muốn nghe thì nhạc liền dứt. Mỗi người đều có hào quang, muốn dùng một hương nào có mùi hương nấy. Được dạo xem trăm thứ hoa thơm. Muốn ăn trái cây chi liền hiện tới khỏi hái, Ngự tửu. Phong cảnh xinh đẹp hơn thế gian trăm bề. Vả lại không có Nhật Nguyệt Tinh Tú, chỉ có hào quang sáng hơn ban ngày thập bội. Có bảy thứ chim tốt lạ; có năm sắc lông, tiếng kêu êm ái như tiếng kệ kinh. Lại mát mẻ như mùa xuân, không có mùa nực và mùa lạnh. Học đặng Lục thông, thành bậc La Hán, đi dạo trên khắp thế gian.

Tòa sen bay lẹ như nháy mắt nên con đi về đây mau tợ khảy móng tay đã tới. Việc ở Cực lạc khoái lạc mười phần kể sao cho xiết. Xin mẹ ráng tu, sau lâm chung Phật rước về đó mà thấy đủ điều. Con không dám trễ phép, cúi xin bái tạ cha mẹ con lên tòa sen về nước Cực lạc. Quận chúa tạ xong rồi bước vô quan tài mà nhắm mắt. Mùi sen thơm ngát, hào quang chiếu sáng xẹt về hướng Tây, tiếng nhạc trên không cũng trỗi lần về hướng ấy.

Từ đấy phu nhân mới tinh tấn trường chay, tu theo Tịnh độ niệm Phật hơn chồng con. Sau mỗi người lâm chung đều biết ngày giờ trước. Đến ngày Liễu đạo, phu nhân ngồi day mặt về hướng Tây, niệm Phật chưa đủ mười câu đã nghe tiếng nhạc trên không, thấy Phật rước mình đông lắm. liền khi ấy, bà xuất hồn về cùng chư Phật. Bốn người lâm chung như vậy thiệt cả nhà có phước, sống hưởng lộc, thác được vãng sanh.

3.- Đời Tống, Dương Kiệt ở Châu Vô Vi, xưng hiệu Vô Vi Tử, thi đỗ sớm làm quan. Đi điểm tội nhân ở tỉnh Chiết Giang, vì mộ đạo Phật nên học kỹ phép tham thiền, xem kinh nhiều lắm. Ông nói với bạn rằng: ỏõChúng sanh nhiều người tối dạ, tham thiền không đúng uổng công. Trừ ra tu Tịnh độ dễ hiểu, dễ tu. Dầu bao nhiêu kẻ dốt, tu cũng được vãng sanh.õõ Người có viết Thiên Thai Thập Nghị Luận và Tịnh Độ Quyết Nghi Tập; giảng rõ phép tu tịnh độ. Tuổi già, ông vẽ tượng Di Đà cao 16 thước mộc thờ lạy. Đến lâm chung, Phật định ngày rước hồn, ngài ngồi mà viên tịch.

4.- Đời Tùy, có ông Tống Mãn ở Phủ Thường Châu, niệm Phật một câu; để một hạt đău đen vô hộc. Lâu năm lường được cỡ 15 giạ. Khai Hoàng niên hiệu thứ tám, tháng chín đãi trai tăng, các sãi ăn rồi ngồi niệm Phật đến hết thở. Người ta thấy trên trời sa xuống mùi hương thơm một cách lạ lùng. Có tiếng nhạc trời trên không lần qua hướng Tây hồi lâu mới dứt.

5.- Đời Đường, có ông Trịnh mục Khanh, và cả nhà đều niệm Phật. Niên hiệu Khai ngươn, ông bị bệnh nặng, có người khuyên trở đũa (ăn mặn), ông không chịu. Tay bưng lư hương niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ. Xảy ngửi mùi thấy hương thơm nức. Người ông liền xuất hồn. Cậu là Tô Đỉnh, làm chức thượng thư, chiêm bao thấy ông ngồi trên bông sen lớn.

6.- Đời Minh Liên, Hoa thái Công là người nước Việt, thiệt thà ngày đêm niệm Phật chẳng ngớt. Đến lúc mãn phần liệm vô quan tài chưa kịp đem chôn, bổng nhiên một cánh bông sen mọc trên quan tài, xóm giềng khen ngợi, mới tin ông không biết chữ mà tu tịnh độ cũng được vãng sanh.

7.- Ông Trịnh Sanh là bà con bên vợ của ông Châu an Sĩ (Tác giả quyển Tây Qui Trực Chỉ), tuổi nhỏ học hay, thói quen hay kiêu ngạo, không tin Phật cho lắm. Ngày kia có bệnh, thấy quỉ đến, cao lớn dị thường, xưng là oan cừu đời trước. Trịnh Sanh sợ điếng mới niệm Phật hẳn hòi, cầu vãng sanh cực lạc. Hễ niệm Phật thường thì thôi, nếu hở ra thấy quỉ nên Trịnh Sanh ráng niệm tới mòn hơi. Người nhà thấy không biết cái gì mà mờ mờ như mây khói bay lần qua hướng Tây. Tuy không thấy điềm biết trước và không có mùi hương cùng Thiên nhạc, song cứ lý chắc đặng vãng sanh bởi vì ông ít khi niệm Phật nên không đặng linh hiển đó thôi.

8.- Tô kỳ Sơn tự Khởi Phụng, ở Côn Sơn, tuổi thơ quyết chí tham thiền, tìm nhiều thầy thông thái, nên nghe rành Tịnh độ không dám sát sanh. Tuổi già tu tịnh độ theo bốn thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu tụng nhựt khóa không lơi. Mùa đông trời lạnh ôm mền mà ngồi.

Khương Hy năm Kỷ Mão, ngày 26 tháng 11 giờ Ngọ, ông nói vớI cháu tên Điện Phương rằng: ỏõÔng tu Tịnh độ đã thành công, Phật mach bảo giờ vãng sanh đã ba bữa trước, ông không muốn khoe cho chúng biết đêm nay tới giờ Tý ông sẽ được vãng sanh.õõ Lúc canh hai ông mặc áo dài ngồi trước bàn hương án bảo người nhà niệm Phật tiếp với mình, qua canh ba tiếng ông niệm Phật nhỏ dần cho tới hết thở.

9.- Ngô kính Sơn ở cùng xóm với Tô kỳ Sơn. Tuổi ông đã bảy mươi nhưng ông lại muốn học thêm phép tham thiền. Tô Điện Phương nói với ông: ỏõTuổi ông đã già rồi ông nên tu tịnh độ cho mau mà chắc vãng sanh hơn tham thiềnõõ. Ông vâng lời niệm Phật ngày đêm chẳng dứt. Thời gian chưa đầy một năm, bà con ông Ngô kính Sơn đến nói với ông Tô điện Phương hay rằng: ỏõHồi sớm mai này Ngô kính Sơn thấy ông hộ pháp hiện hình, tiếp dẫn vãng sanh nên dặn tôi coi chừng ông tắt hơi rồi thì qua cho ông hay mà tạ ơn khi trước đã khuyên ông tu tịnh độ. Dặn rồi ông ngồi day mặt qua hướng Tây niệm Phật đến hết thở.õõ

10.- Đời Đường, thầy Duy Ngạn tu Tịnh độ rất siêng năng. Thấy Quan Âm, Thế Chí hiện trên không thầy mừng muốn họa chân dung hai vị Bồ Tát, liền khi ấy hai vị hiện đến xin vẽ rồi biến mất.

Thầy Duy Ngạn nói với các đệ tử rằng: ỏõ Ta bữa nay được vãng sanh, đứa nào muốn theo ta cho có bạn?õõ Có một trò nhỏ xin theo, thầy bảo về cho cha mẹ hay, nếu bằng lòng thì lạy tạ rồi đi cho mau. Cha mẹ đồng tử tưởng nó nói chơi nên cười mà bảo rằng: ỏõTự ý con theo thầy về Tây phương đặng thì cha mẹ cầu lắm.õõ Đồng tử tắm gội thay áo lại ngồi gần thầy niệm Phật mới có mười câu rồi hết thở, chết ngồi. Cha mẹ sững sờ hết nói chi được. Thầy Duy Ngạn cũng lấy làm lạ, đặt bài kệ khen đồng tử rồi ngồi tịch theo.

11.- Họ Ngô ở tỉnh Chiết Giang, ông cha đều là tú tài dưới triều Thanh, Thuận Trị năm đầu. Binh tới vây thành, cha mẹ ông bà đều chạy trốn hết. Ông họ Ngô ấy bị bắt sống dâng cho Trương tướng quân thâu làm lính hầu mới mười ba tuổi. Nghĩ rằng mình con nhà học trò, nay làm hèn hạ cũng tội báo tiền căn. Ông liền giác ngộ xin vào chùa lạy Phật ăn chay trường. Mỗi đêm ông tụng một cuốn kinh Kim Cang và niệm Phật. đến năm 16 tuổi, Trương tướng quân đem bạc phát lương cho lính, họ Ngô nhín tiền lương của mình mà thỉnh tượng Đức Phật Di Đà rồi mua đèn hương về cúng lạy niệm Phật và tụng kinh Di Đà. đến năm Đinh Dậu ngày 22 tháng 10, họ Ngô bẩm với Trương tướng quân rằng: ỏõTôi muốn về Tây phươngõõ. Tướng quân mắng rằng nói láo. Bữa sau họ Ngô đến dinh quan đề đốc xin nghỉ phép, Đề đốc giận giao cho tướng quân đánh đòn 15 roi mà ông không hề than; lại từ giã các quan đinh rằng: ỏõMùng 1 tháng 11 tôi sẽ về Tây phương.õõ Đến ngày ấy ông tắm gội sạch sẽ, lúc canh năm mặc đồ xong thắp hương đèn lạy Phật rồi tạ Trương tướng quân trong thuyền đặng về theo Phật. Trương tướng quân tức giận sai lính đi tới chỗ chất củi làm giàn thiêu. Họ Ngô lạy hướng Tây ba lạy rồi lên ngồi trên đống chà bổi niệm Phật rồi ngâm một bài kệ, liền hả miệng ra phun lửa thiêu mình. Quân lính báo tin, quan tướng các dinh đều tựu lại đưa. Trương tướng quân kính phục, từ đấy nội nhà ăn chay, tu Tịnh độ theo cách họ Ngô giảng khi trước.

12.- Ông Thẩm thừa Tiên ở Côn Sơn, tại chợ Tuyên Hóa làm nghề thợ mộc. trên bảy mươi tuổi ăn trường chay niệm Phật tu tịnh độ. Tuy tay không hở đục và rìu búa mà niệm Phật chẳng ngừng. Đến năm Khương Hy thứ mười, tháng ba ông biết ngày Phật rước. Trước ba bữa giã từ bà con bạn hữu và nói ngày giờ mình vãng sanh. Từ giã rồi sao không thấy rước khác nữa. Ông nói với con dâu rằng: ỏõMai là rằm cha sẽ vãng sanh Tây phươngõõ. Rạng ngày gội tắm thay áo, ngồi xây mặt về hướng Tây, trước mặt để ghế thắp hương rồi niệm Phật. Ban đầu niệm lớn, dần dần nhỏ đến khi mòn hơi.

13.- Đời Đường, vợ của ông Ôn tịnh Văn ở Tinh Châu, bệnh nằm liệt giường đã lâu. Chồng khuyên niệm Phật, vợ vâng lời nằm niệm cả năm. Ngày kia chiêm bao tỉnh giấc thưa với chồng rằng: ỏõ thiếp thấy Phật mach bảo tháng sau sẽ vãng sanhõõ, và dặn cha mẹ chồng ráng niệm Phật sau chắc vãng sanh như mình. Tới kỳ ngồi dậy niệm Phật bỏ xác.

14.- Đời Tống có Cung Thị ở huyện Tiền Đường, ngày đêm niệm Phật tụng kinh Di Đà. Sau có bịnh rước thầy giảng kinh. Giảng chưa rồi, bà ngồi chắp tay hết thở. Có người thiếp già cũng niệm Phật không ngớt. Đêm nọ Cung Thị về báo mộng, mach bảo rằng: ỏõ Ta đã về Tây phương Cực lạc, bảy ngày nữa người cũng vãng sanhõõ. Đến ngày ấy, bà thiếp đang mạnh mà chết ngồi.

15.- Đời Tống, có bà Trương thị Nữ ở quận Phần Dương, bệnh đui cặp mắt. gặp người ta khuyên niệm Phật bà liền nghe theo. Ba năm sau mắt bà sáng lại như cũ. Sau thấy Phật và Bồ Tát đem phướng và Bảo Cái đến rước, liền ngồi mà mãn phần.

16.- Trào Thanh có bà Hạo Thi ở huyện Ty Lăng, là vợ của ông Phan hướng Cao, cũng là cư sĩ. Vợ chồng đồng tu Tịnh độ, tụng kinh Kim Cang. Hôm mai tụng nhật khóa niệm Phật y phép.. .Khương Hy năm Canh Thân tháng 7 có bệnh, biết trước ngày 27 giờ Ngọ tạ thế. Bà nói trước cho con cháu hay. Đến kỳ, con đến mời các đạo hữu đến niệm Phật tiếp và ngồi niệm Phật đến mãn phần.

Những Kẻ Dữ Cũng Được Vãng Sanh

17.- Đời Đường, Trương thiện Hòa làm hang bò, trâu. Lúc lâm chung thấy trâu bò đến cả bầy nói tiếng người đòi thường mạng. Ông sợ hối vợ rước sãi đến tụng kinh sám hối. Sãi nói: ỏõKinh Thập Lục Quán có nói: ỏõLâm chung thấy quỷ dữ, nếu lòng thành niệm Phật cũng đặng vãng sanhõõ. Trương thiện Hòa nói: ỏõMa quỉ tới nhiều lắm, đợi lấy lư hương chắc không kịpõõ. Tay mặt cầm đèn, tay trái thắp hương, xây mặt về hướng Tây rồi niệm Phật, chưa đủ mười câu vùng nói lớn: ỏõPhật đến rước ta rồiõõ, nói rồi ông tắt thở chết ngồi.

18.- Đời Đường, Trương chung Quỳ hay làm thịt gà và bán. Ngày kia bịnh nặng thấy người mặc áo đỏ lùa bầy gà đến mổ thịt và mổ cặp mắt ông chảy máu, mang bịnh rên la. Người nhà liền rước sãi đến tụng kinh Di Đà, sãi bảo y niệm Phật mãi. Tới chừng nghe mùi thơm một cách lạ, Trương chung Quỳ hết la nhức và chết một cách êm nhẹ.

Chung Quỳ và Thiện Hòa đang bị oan hồn theo đòi nợ, nhờ chí thành niệm Phật, Đức A Di Đà cảm động cho các oan hồn trâu bò kia đầu thai hưởng phước, chúng nó mới buông tha. Xem hai sự tích này, các ông già bà cả có lỡ sát sanh trâu bò gà vịt rồi thì đừng lo sợ tu không kịp. Quý vị còn trẻ sợ không tin. Nhớ tin theo phương pháp đây thì tu chắc chắn có quả vị. Hai người làm hàng thuở nay không biết sợ tội chút nào, đến lâm chung thấy oan hồn địa ngục trước mắt kinh hãi. May có phước gặp sãi giải rành niệm Phật trối chết. Giây phút địa ngục hóa ra bông sen. Bởi Đức Phật Di Đà có nguyện: ỏõ Ai lâm chung, niệm Phật mười câu ngài sẽ rước về Tây phươngõõ. Huống chi quí vị gặp kinh này hãy mau ăn năn, lập nguyện, tụng niệm nhiều ngày, lo chi Phật không rước.

29.- Sãi Huýnh Kha đã xuất gia mà còn ăn mặn, nhậu rượu. sau khi ăn năn nghĩ rằng mình đã làm sãi mà như vậy, lúc lâm chung đọa địa ngục làm sao. Ông liền cậy các sãi đem chuyện vãng sanh đọc cho mà nghe. Ông ngồi xây mặt về hướng Tây nghe đọc hết các sự tích rồi đứng dậy lạy một lạy và niệm Phật. Khi đọc hết, Huýnh Kha liền niệm Phật suốt ba ngày đêm, bỏ cơm, ngủ gục chiêm bao thấy Phật bảo rằng: ỏõSố ngươi còn sống mười năm nữa phải ráng mà tuõõ. Vía ông lạy Phật bạch rằng: ỏõCõi thế gian độc ác con tu sao nổi mười năm, xin Phật rước con về Cực lạc rồi tu và hầu hạ các Bồ Tátõõ. Phật nói ỏõNgươi tình nguyện như vậy, thời niệm Phật ba ngày nữa ta sẽ qua rước hồnõõ. Huýnh Kha nhịn ăn luôn, niệm Phật cho đủ ba ngày đêm và cậy các sãi tụng kinh Di Đà đưa mình. Một lát nói lớn rằng: ỏõPhật với các Bồ Tát đã đến rước taõõ. Nói rồi quỳ lạy xong xây mặt về hướng Tây niệm Phật mà chết.

20.- Đời Tống, có Trọng Minh ở huyện Sơn Âm chùa Báo Ân, không giữ ngũ giới, lúc bịnh nói với bạn tu là Đạo Ninh rằng: ỏõ Nay ta loạn tâm, thuốc chi trị được?õõ Đạo Ninh nói: ỏõCứ niệm Phật mãiõõ. Trọng Minh y lời niệm Phật ròng bảy ngày hơi đã đuối quá, Đạo Ninh bảo hãy tưởng tượng Đức Phật Di Đà trong tâm. Trọng Minh y lời tưởng tượng mãi thấy hai vị Bồ Tát và Phật Di Đà rồi nhắm mắt mà chết ngồi.

Người dữ cầu vãng sanh niệm Phật phải bằng trăm phần người hiền. Nếu lo ra xao lãng, tưởng việc khác, Phật không rước ắt sa địa ngục. Xin quý vị Hòa thượng, Yết ma, Giáo thọ, Thủ tọa và bổn đạo, ráng trường chay niệm Phật, tinh tấn tụng kinh Di Đà ít năm hoặc ít tháng cho tới lâm chung, lo chi Đức Phật A Di Đà không rước về Tây phương, ngồi chín phẩm sen vàng. (Niệm 30 vạn biến vãng sanh, chắc chắn thấy Phật).

Nhứt là những vị trường chay, những vị tu lâu năm thường niệm Phật tụng kinh nhựt khóa thì công quả càng lớn lo chi không được về Cực lạc, liên hoa hóa thân, ngồi trên chín phẩm tòa sen.

Sự Tích Vãng Sanh Ở Nước Việt Nam

21.- Ông Trần Phong Sắc tại chợ Vũng Gù (bây giờ gọi là Long An). Ông trường chay lúc 10 tuổi và thờ Tam giáo, Nho, Thích, Đạo. Vào khoảng năm 1920, ông làm giáo học dạy chữ Nho tại trường tỉnh Long An. Ông xem kinh Đại tạng gần 30 năm mới gặp pháp môn Tịnh độ. Lúc đó ông trên 50 tuổi và bắt đầu tu theo pháp môn này. Ông có viết quyển Lão Nhơn Đắc Độ và dịch quyển Tây Quy Trực Chỉ của ông Châu an Sỹ. Cơn lâm chung, ông biết trước ngày về Tây phương, do đó ông có làm bài kệ khuyên người tu Tịnh độ (xem Tây Quy Trực Chỉ).

22.- Vào khoảng năm 1958, một cô giáo ở chợ Lớn 19 tuổi, quy y với vị Hòa Thượng Thích Khánh Anh (về sau Hòa thượng được làm pháp chủ hội Phật Giáo Tăng Già Nam Việt). Cô giáo được đặt pháp danh là Diệu Tâm, cô ăn chay trường, nuôi mẹ góa, sớm chiều công phu niệm Phật. Ngày 14 và 30 cô thường đến chùa lạy sám hối. Đến năm 21 tuổi bị bệnh cô nhờ rước thầy của cô đến tụng niệm. Đến giờ lâm chung, cô bảo đỡ ngồi dậy vì Quan Âm Bồ Tát đến rước. Lúc ấy hào quang sáng rực trên nóc nhà. Lối xóm tưởng nhà cô giáo cháy, chạy tới chữa lửa.

23.- Ông chủ Thìn làm nghề trồng rẫy ở An Hội quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định. Năm 1927 ông bắt đầu tu theo pháp môn Tịnh độ. Đến năm 1930, ông biết trước ngày giờ quy Tây nên làm saün một cái bia ghi ngày tháng như vầy: ỏõNgày 14 rạng mặt rằm tháng 2 năm 1930õõ Đồng thời ông ra nghĩa địa chôn saün một cái lu, đến ngày lâm chung, ông tụng kinh niệm Phật trước bàn Phật rồi đến nghĩa địa xuống lu ngồi niệm Phật lớn vài tiếng rồi tắt thở.

24.- Năm 1890, có một ông thầy thuốc ở tỉnh Gia Định. Ông thường hay làm phước, nhứt là thí thuốc. đi đâu ông cũng mang một cái túi dùng để lượm miểng chai, và một cái chày để đóng những cây lồi lên mặt đất làm cản trở lối đi. Năm sau cùng, ông tu theo pháp môn Tịnh độ. Ông biết ngày giờ chết trước ba tháng. Ba ngày trước khi chết, ông ngồi xếp bằng và niệm Phật trước bàn Phật. Mỗi ngày chỉ ăn vài chén cháo trắng. Đến 12 giờ ngày cuối cùng, ông tắt thở.

Loài Vật Biết Nói Tiếng Người Đặng Vãng Sanh

25.- Đời Đường niên hiệu Trinh Ngươn, tại quận Hà Đông có nàng Bùi Thị nuôi một con két lớn ( Tàu kêu Anh Võ). Bởi biết nói tiếng như sao sáo, bắt chước niệm Phật. Thường quá giờ Ngọ thời chẳng ăn. Rốt lại niệm Phật mười hơi mới chết. Chủ đốt thử coi, được mười mấy hột Xá Lợi sáng ngời như hột châu chói mắt. Sãi Huệ Quang thấy vậy xây tháp nhỏ, đựng những hột Xá Lợi vào hộp nhỏ để trong tháp gọi là tháp Anh Võ. Có dựng bia khắc chữ thuật sự tích nó.

26.- Đời Đường, núi Huỳnh Nham, chùa Chánh Đẳng, ông họ Quan có nuôi một con sao sáo, niệm Phật không ngừng. Ngày kia con sáo chết đứng trong lồng. Chủ đào lổ chôn nó. Không bao lâu mọc lên một nhánh bông sen đỏ sậm. Moi thử coi, gốc nhánh sen trong miệng nó (chắc là cái lưỡi hóa sen).

27.- Huyện Đàm Châu, có người nuôi một con cưỡng, nó thường niệm Phật. Khi nó chết, chủ lấy một hộp mỏng đựng mà chôn. Sau cũng mọc lên một nhánh bông sen hường. Moi thử gốc sen, chính cái lưỡi nó (thiệt thổ liên hoa).

Liên Trì đại sư nói: ỏõNgười ta bây giờ hay dạy con keo (Anh ca) với sáo niệm Phật chơi. Nó cũng niệm ít tiếng như nhái chớ không niệm thường nên chẳng thấy con nào vãng sanh nữa! Ôi! Ví như người tin mà niệm hết lòng, còn kẻ niệm cầm chừng lấy có nên cũng thời niệm Phật có người chẳng đặng vãng sanh so với keo, sáo, cưỡng kia cũng thế.

TÍN-NGUYỆN-HẠNH

Pháp môn Tịnh độ lấy Tín, Nguyện, Hạnh làm tông như cái đảnh có ba chân, thiếu một tất không đứng vững.

1. TÍN là căn bản của người tu. Nếu còn nghi thì hoa không nở.

Thứ nhứt: Phải tin chắc chắn rằng, vì lòng từ bi, Đức Phât Thích Ca dạy cho chúng ta những lời trong kinh đều chân thật. Lo cho mình không tu niệm, lo chi Phật Di Đà, Thích Ca nói gạt. Rất đỗi phàm tục những người ngay thẳng còn không nói dối đặt chuyện gạt ai, huống chi luật Phật cấm vọng ngữ, lẽ nào ngài gạt đời làm chi.

Thứ hai: Phải tin chắn chắn rằng: Ngoài thế giới chúng ta vẫn sống đây, chắc chắn có thế giới Cực lạc, có nhiều điều vui do Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ.

Thứ ba: Phải tin chắc chắn rằng; ta là phàm phu nhiều nghiệp chướng, không thể chỉ nương cậy vào sức mình để thoát sanh tử ngay trong một kiếp này, phải nhờ Phật giúp.

Thứ tư: phải tin chắc chắn rằng: Đức Phật A Di Đà có lời thệ nguyện rộng lớn, nếu chúng sanh nào niệm danh hiệu Ngài, cầu nguyện về nước Ngài, khi chết chắc chắn sẽ được Ngài tiếp dẫn vãng sanh Cực lạc.

b)�-NGUYỆN nghĩa là thệ nguyện. Tu tịnh độ mà không dám nhứt tâm thệ nguyện cầu vãng sanh Tây phương Cực lạc thì khó mà thành công. Nếu thệ nguyện một lòng một dạ không dời đổi chí nguyện vãng sanh của mình mới bền vững.

Lòng thệ nguyện phải cho bền chặt. Dù ai nói pháp nào hay, dù ai nói sẽ cho mình thành đạo tại thế, hoặc chứng Niết Bàn hiện tiền, mình cũng không tin, không bỏ chí nguyện vãng sanh của mình. Người có thệ nguyện là người có lập trường vững chắc, là người kiên tâm Bồ Đề, là người dám thệ rằng dù nghèo giàu sang hèn, bệnh hoạn, tật nguyền chi chi cũng không thay đổi chí hướng theo Phật Di Đà về nước Cực lạc.

Sức thệ nguyện càng lớn càng thâm thì đạo tâm mới kiên cố.

Nguyện lìa cõi trần này sanh về Cực lạc như tù nhân mong ra khỏi ngục, như người đi xa nhớ quê hương. Nếu chưa được vãng sanh Tịnh độ, dù cho kiếp sau làm vua ở cõi trời cũng không thích vì còn phải luân hồi, chỉ muốn lâm chung được Phật rước về Tây Phương mà thôi. được như thế thì nguyện của ta mới cảm đến Phật và thệ nguyện của Phật mới có thể nhiếp thọ ta. Đức A Di Đà tuy thệ nguyện độ sanh nhưng nếu chúng sanh không cần ngài tiếp dẫn, ngài cũng không biết làm sao. Muốn sanh Tây phương phải tin sâu, nguyện thiết. Thiếu hai điều này, dù có niệm Phật đến đâu cũng không thể cảm ứng với Phật; chỉ được phước báu ở cõi người hoặc cõi ngườI và gieo nhân giải thoát về sau mà thôi. Nếu tín nguyện đãy đủ thì muôn ngườI vãng sanh không sót một. Ngài Vĩnh Minh bảo ỏõMuôn tu muôn người vềõõ, là chỉ cho ai có tín nguyện đầy đủ. Ngài Ngẫu Ích Đại Sư nói: ỏõĐược sanh cùng chăng toàn do tín nguyện có hay không, phẩm sen cao thấp đều bởI do trì danh sâu hay cạn.õõ Đây là một luận án sắt dù ngàn Phật ra đời cũng không thay đổi.

Bình sanh không tín nguyện, lúc lâm chung khó được nhờ sức Phật tiếp dẫn. Cổ Đức bảo: ỏõTâm nghiệp rất nhiều, ngả về một mối nặng như người mắc nợ, chủ nợ mạnh kéo điõõ. Lúc lâm chung nghiệp lành dữ đều hiện, nếu không tín nguyện, nghiệp lực lôi cuốn mất sự tự chủ. Nếu chỉ nương cậy sức mình, dù nghiệp còn mảy tơ cũng không thoát khỏi sanh tử. niệm Phật đến nhứt tâm mà không tín nguyện, trong vô số người may mới có một vài người được vãng sanh. Dùng lòng tín nguyện chơn thiết thì không luận nghiệp nặng hay nhẹ, đều được nhờ từ lực vãng sanh. Ví dụ một hột cát nhỏ để vào nước liền chìm, trái lại tảng đá dù nặng ngàn cân được chở trên thuyền to cũng có thể đem đi nơi khác. Kinh Hoa Nghiêm nói: ỏõNgười ấy khi gần lâm chung, trong sát na tối hậu, tất cả các căn đều bại hoại, tất cả các thân thuộc đều xa vời, tất cả các uy thế đều tan rã, chỉ còn nguyện nương là hằng còn theo dõi hướng dẫn trước mắt, trong một khoảnh khắc liền được vãng sanh thế giới Cực lạcõõ.

Sự tích sau đây cho ta thấy tầm quan trọng của sự phát nguyện. Bà Thái Sương vợ một Hoa Kiều ở Qui Nhơn, tu tịnh độ và phát nguyện rằng: ỏõNguyện vãng sanh Cực lạc nhằm ngày vía Đức Phật A Di Đà (tức là 17 tháng 11 Âm lịch). Bà mất năm 80 tuổi. đầu tháng11, bà nhờ thầy Bạch Sa tụng một bộ kinh Thủy Sám và một bộ kinh Pháp Hoa để kịp đến ngày 17 bà về chầu Phật. Đến ngày 17 bà con và đạo hữu hay tin ấy đến nhà bà để thỏa mãn tánh hiếu kỳ. Buổi sáng hôm ấy bà vẫn mạnh khỏe như thường. Đúng 10 giờ, bà bảo người nhà đem cơm lên cúng Phật rồi ăn. Ăn xong bà súc miệng rửa mặt và thay quần áo. Đúng 12 giờ trưa bà chào tất cả mọi người rồi ngồi xếp bằng, hai tay chắp trước ngực mà hóa một cách vui vẻ trước sự kinh ngạc của mọi người. Năm ấy ở Quy Nhơn, thiên hạ bàn tán xôn xao về cái chết của bà.

Xem đó đủ biết sự phát nguyện vãng sanh Cực lạc là một điều tối cần thiết cho người tu pháp môn Tịnh độ. Người tu phép này, hàng ngày hôm sớm phát nguyện vãng sanh về Cực lạc, không quên mỗi tháng có một giờ trong một ngày, đọc bài phát nguyện trước đây lạy đúng hướng có Phật Di Đà cùng chư Phật mườI phương chứng minh.

c)�-HẠNH là ta phải chí thành khẩn thiết niệm câu NAM MÔ A DI ĐA PHẬT mỗi thời khắc đừng để tạm quên. Ngoài thời khóa tụng, bất cứ lúc nào đi đứng nằm ngồi đều niệm thầm, nhất là nằm chưa ngủ, niệm thầm hoài cho tới ngủ quên. Thức giấc cũng niệm chuyền như vậy, lâu ngày thời thấy sự linh nghiệm của Phật Di Đà. Bất cần ngày chay hay ngày mặn, ở trần, nằm nghiêng, nên niệm thầm, tiêu rồi bước ra cũng niệm luôn.

Muốn sắm chuỗi lần cũng tốt, niệm không cũng tốt. Bậc hạ phải có chuỗi lần mà buộc lòng, lâu ngày quen niệm tự nhiên như kinh không chữ, miệng niệm tai ghi nhớ rõ ràng lần lần vọng niệm tiêu dứt. Nếu làn sóng vọng tưởng nổi trào quá mạnh, nên dùng phép thập niệm ký số như sau: Niệm Phật phải ghi nhớ rõ ràng từ một đến mười câu không dư không thiếu, rồi trở lại một, cứ thế mãi trong vòng mười câu thôi không được hai chục hoặc hơn. Cách này không nên dùng chuỗi, dùng tâm ghi nhớ. Nếu niệm một hơi từ một đến mười thấy khó thì phân làm hai (từ 1 đến 5 rồi từ 6 đến 10) hoặc làm ba ( từ một đến ba, từ bốn đến sáu rồi từ bảy đến mười). Lựa cách nào hợp với mình, không nên thay đổi. (Phép này của ông Ấn Quang Pháp Sư dạy, và áp dụng có kết quả.)

Niệm Phật quí tại tâm, nhưng cũng không nên bỏ sự đọc tụng ra tiếng và lạy trước bàn Phật vì thân, miệng, ý giúp đỡ lẫn nhau. Dù tâm có ghi nhớ, song nếu thân không lễ kính, miệng chẳng trì tụng thì cũng khó được lợi ích. Người đời khi khiêng đồ vật nặng còn phải nhờ tiếng giúp sức. Với hạng phàm phu, tâm hay bị xao lãng, nếu không nhờ sức thân lễ, miệng tụng, khó được nhứt tâm. Kinh Đại Tập nói: ỏõNiệm lớn thấy Phật lớn, niệm nhỏ thấy Phật nhỏõõ.

Phật Di Đà dạy niệm cho khỏi vọng ra ý ác, tu luyện tâm thanh tịnh, lâu ngày phát ra ý thiện, theo công quá cách thời công hạnh mới nhiều. Chớ lầm Phật Di Đà cần cầu mị mà buộc tôn sùng Ngài đâu. Phật rước những người không tà niệm ý ác mà thôi.

Thờ tượng Phật Di Đà trong lòng tin tưởng như thật chơn dung đó, đừng tưởng hình giả, tuy hình vẽ mà lòng mình tưởng như có ngài hiện xuống nhập vô đó, thời thiên nhãn Ngài chiếu xuống cũng thấy. Như thiệt lòng thành và cung kính thời cảm động (như động mối dây thép này, thời đầu kia động) vì tâm mình thường niệm đã hiệp với tâm Phật rồi. Nếu thuộc chú vãng sanh, gặp ai sát sanh, thời niệm Di Đà mười câu với mười câu dài (NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC.. .PHẬT) rồi niệm ba biến vãng sanh mà cứu độ nó. Gặp con chi mới chết, đương chết cũng niệm vậy. Nói chi tới lúc đưa đạo hữu lâm chung, thời niệm hoài cho đến chung cuộc.

Trong khi niệm Phật, bất cứ làm công đức gì nhỏ hay lớn, như bố thí một đồng hay cứu mạng một con kiến, hoặc xỏ dùm một lổ kim. Sau khi làm xong, tưởng tượng Phật Di Đà trước mặt đọc thầm “Tôi làm công đức này nguyện sanh về thế giới Cực lạc của ngài”.

Tại Sao Tu Theo Tịnh Độ Gọi Là Tu Tắt

Đức Phật Thích Ca đặt ra 84.000 pháp môn tu mà độ chúng sanh tùy theo căn cơ. Nếu chỉ do sức mình tu hành không nhờ nguyện lực của Phật như những người tham thiền hay luyện đơn hoặc tụng kinh niệm Phật mà không cầu vãng sanh về Cực lạc, chỉ mong đàn áp vọng tưởng quí vị khởi sự tu ít nhứt vài kiếp mới đắc được quả Tu Đà Hoàn. Ủắc được quả này cũng còn phải luân hồi, nhưng có thể thôi chớ không chắc nhớ lại kiếp tu trước của mình. Tiếp tục tu nữa, ít nhứt vài kiếp mới đắc quả A La Hán mới hoàn toàn giải thoát khỏi phải luân hồi rơi vào cuộc đời sanh, lão, bệnh, tử này. Nếu muốn luân hồi độ chúng sanh, thì tùy ý mình. đức Phật Thích Ca khi xuống thế quên kiếp trước mình còn phải có người nhắc.

Nếu do tự lực (chỉ do sức mình) kiếp này tu, kiếp sau có chắc mình nhớ lại để mà tu nữa hay bị say đắm cảnh trần này: tửu sắc, tài khí bủa giăng mà quên rồi bị đọa khó được thân người. được làm người, ai nói pháp cho nghe, có nghe cũng khó tin.

Sự tích sau đây chứng minh: Hoàng Đế Khương Hy bên Tàu, sanh ra có mười chữ nơi vai ỏõ Việt Nam Quang Minh Tự, Sa Môn Tỳ Kheo Tăngõõ. Đến khi có một vị lễ bộ thượng thơ người Việt Nam là Nguyễn Cương đi sứ hai lần sang Tàu, vua hỏi ra mới biết rằng có một vị Tỳ Kheo là Nguyễn Hoàng trụ trì tại chùa Quang Minh, ở tại làng Hậu Bổn huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương nước Việt Nam. Trước khi chết bảo đệ tử ghi mười chữ son trên vai rồi làm lễ trà tỳ. Vị Hoàng Đế này có tiếp tục tu nữa không?

Nếu tu tịnh độ nhờ sức nguyện Phật Di Đà giúp, mình mới bắt đầu tu chỉ trong ít tháng, nhiều năm càng tốt. Lâm chung Phật rước về Tây phương làm dân Phật tu thêm nữa. biết mình không chết nữa tu lần lên cho có quả vị gọi là ngôi bất thối. Không sớm thì muộn cũng đến quả Phật. Nhờ hoàn cảnh mình làm bạn với người lành, khỏi lo ăn lo mặc. Chim rừng thuyết pháp nên dễ tu tiến. Nếu tự lực có khi hằng trăm kiếp chưa giải thoát nổi. Ngài Ấn Quang Pháp Sư nói ỏõHai đời không bị đọa rất hiếm cóõõ. Nếu bị đọa không biết chừng nào thoát khỏi nẻo luân hồi.

Phép Tu Tịnh Độ

Sớm mai hoặc đầu hôm mỗi ngày, thắp đèn hương trên bàn Phật, rót 5 chén nước lạnh tụng trước bàn Phật nhựt khóa sau đây, đứng ngồi quì tùy theo mình mạnh yếu, gấp thời bái xá. Còn như đi lỡ đường hoặc ở nhà không thờ Phật Di Đà, day mặt về hướng Tây niệm thầm mà xá cũng đặng. Lòng thành dù không phải ngày chay cũng lạy tụng.

NHỰT KHÓA

Đệ tử (thiện nam, tín nữ) Họ tên
Pháp danh (không có thì thôi) tu tịnh độ cầu vãng sanh Cực lạc (xá cặm hương bái)
Nam Mô Ta Bà Thế Giới Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (đọc 3 lần 3 lạy)
Nam Mô Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhất Thiết Chư Phật (1 lạy)
Nam Mô Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhất Thiết Tôn Pháp (1 lạy)
Nam Mô Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhất Thiết Hiền Thánh Tăng (1 lạy)

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Tam Thập Lục Vạn ức, Nhứt Thập Nhứt Vạn, Cửu Thiên Ngũ Bá, Đồng Danh Đồng Hiệu, Đại Từ Đại Bi, Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật (lạy 10 lạy, gấp niệm 3 lần 3 lạy)

Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát (3 lần 3 lạy)
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (3 lần 3 lạy)
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (3 lần 3 lạy)
Chúng Sanh Vô Biên Thệ Nguyện Độ (Xá nguyện độ hết chúng sanh)
Phiền Não Vô Tận Thệ Nguyện Đoạn (Xá nguyện trừ hết phiền não)
Pháp Môn Vô Lượng Thệ Nguyện Học (Xá nguyện học vô lượng pháp môn)
Phật Đạo Vô Lượng Thệ Nguyện Thành (Xá thề nguyện tu tới thành Phật)

Nam Mô A Di Đa Bà Dạ, Đa Tha Dà Đa Dạ, Đa Điệc Dạ Tha, A Di Rị Đô Bà Tì, A Di Rị Đa, Tất Đam Bà Tì, A Di Rị Đa, Tì Ca Lan Đế, A Di Rị Đa Tì Ca Lan Đa, Dà Di Nị, Dà Dà Na, Chỉ Đa Ca Lệ Ta Bà Ha.

(Tối niệm 108 lần càng quí, niệm nội 59 chữ vãng sanh từ Nam Mô A Di Đà..tới Ta Bà Ha). Thần chú vãng sanh, hưỡn niệm nhiều, gấp niệm ít, để tối niệm nhiều mà đếm.

NHỰT KHÓA THẬP NIỆM
(Ai gấp việc ban mai niệm bấy nhiêu đây)

Đệ tử (thiện-nam, tín-nữ) họ tên pháp danh tu Tịnh-Độ thập-niệm pháp môn cầu vãng-sanh Cực-lạc.
Nam mô Ta bà Thế Giới Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (1 lạy)
Nam Mô Tây-Phương Cực-Lạc Thế-Giới, Tam Thập Lục Vạn ức, Nhứt Thập Nhứt Vạn Cửu Thiên Ngũ Bá Đồng Danh Đồng Hiệu, Đại-Từ Đại-Bi Tiếp Dẫn Dạo-Sư A Di-Đà Phật (1 lần 1 lạy�-10 lần 10 lạy)
Nam Mô Quan-Thế-Âm Bồ-Tát (1 lạy)
Nam Mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát (1 lạy)
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-Tát (1 lạy)
Nam Mô Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ-Tát (1 lạy)
Niệm ỏNam Mô A-Di-Đà Phậtõ 10 hơi, mỗi hơi đặng mấy câu cũng được. Có thuộc lòng 16 câu hồi hướng càng tốt.

Kẻ gấp việc hay kẻ dốt dùng phép Thập niệm nầy; hoặc mỗi sớm mai, thắp hương niệm 5 hiệu Phật mà lạy; rồi niệm mười hơi Di-Đà, lạy rồi ra cũng đủ. Tối nên lạy vậy. Ráng học vãng-sanh niệm đủ 30 vạn biến thời có Di-Đà ứng điềm bảo-hộ.

Phật muốn độ tận chúng sanh nên dạy tu Tịnh độ dễ quá. Tuổi còn nhỏ hoặc kẻ ăn chay trường chưa nổi thời ăn hai ngày, lần sáu đến mười ngày, trong một tháng mà tập lần lên trường trai. Ngày nào ăn chay niệm Phật hoặc niệm vãng sanh được đếm. Ngày ăn mặn cũng niệm mà xả. Tuy ngày ăn mặn nhưng ăn tam tịnh nhục: khô mắm thịt chợ. Dầu tôm cá sống cũng không cho sát sanh trong nhà. Gà vịt cũng vậy, vật chi khỏi giết trong nhà thời khỏi sát sanh. Còn thịt chó, trâu hay bò cày cũng phải cữ tuyệt vì hai thú đó có công lớn với đời. Nếu ăn, Phật không rước. Nếu mua đồ chợ làm saün mắc hơn, vì ham rẻ mà chịu tội thời coi tiền bạc trọng hơn phần hồn, lâm chung Phật không rước, uổng công tu. Dù của nhiều thác khó đem theo. Luật cữ sát sanh nghiêm cấm như vậy, vì loài tứ sanh và con chi biết bò, bay, máy, cựa cũng có chủng tử Phật. Phật cũng độ lên tu cho thành Phật, không cho giết nó, ăn nó mà bổ mình; mạnh hiếp kẻ yếu. Vì lòng từ bi thương xót như vậy nên Ngài buộc trường trai.

Nếu biết thấu hai chữ tánh mạng, thời trường trai dễ như chơi. Chỉ đẹp miệng xác phàm vài năm, lúc lâm chung Phật không rước uổng biết dường nào.

Ở thành thị dễ cữ sát sanh. Muốn ăn thịt cá ra chợ mua khỏi phải giết con chi trong nhà. Trái lại ở thôn quê khó cữ sát sanh vì phần đông nuôi gà vịt hay bắt cá tôm tép cho đỡ tốn tiền nhưng dễ phóng sanh (bằng cách lấy đất sét bao trứng cá đừng cho dính múi, bỏ xuống ao hồ; hay cứu kiến khi nạn lụt ngập). Nếu sát sanh, những oan hồn tụ tập trong nhà chờ báo oán.

Nhứt là cơn có bịnh phải ăn chay trường. Nếu ăn chay không nổi nên nhịn đói chớ đừng ăn mặn. Cần niệm Di Đà cho lắm. Nếu số phần tới, thời lúc ngặt mình đừng nhớ việc chi hết; bảo người nhà đỡ ngồi dậy, day mặt về phía mặt trời lặn, niệm vài chục câu ỏNam Mô A Di Đà Phậtõ cho lớn rồi niệm thầm. Nếu tới số thấy Phật Di Đà qua rước chẳng sai. Nếu chưa tới số, thiệt mạnh chắc chắn, ăn trường trai không đặng, cứ trở lại lục hoặc thập trai như xưa. Tới bệnh lại cũng ăn trường như vậy. Nội nhà lập nguyện giữ phép mà tu. Nếu ai có bịnh, cũng biết dự phòng ăn trường cho đến mãn phần, thời Di Đà rước hẳn.

Nhứt là dặn người nhà, lúc ngặt mình, người bịnh niệm Phật, nội nhà niệm tiếp, cấm khộng cho kêu khóc. Nếu kêu khóc, thời Phật Di Đà trở về không rước, rất uổng công tu. Có việc chi cần thì trối trước, đừng để lúc đó làm rộn cho người bịnh, loạn tâm xao lãng sự niệm Phật, khó vãng sanh. Cách này là độ tận chúng sanh, không bỏ sót ai hết. Tu Tịnh độ như vậy, muôn người lâm chung vãng sanh đủ muôn người, không phải khó như tham thiền hay luyện đơn (tu tiên).

Chớ người tu tịnh độ trường trai 24 tháng, niệm Di Đà đủ 30 vạn câu, người giỏi nữa niệm thêm 30 biến vãng sanh, thời có Phật ở trên đầu phò hộ. Quả vị cao, tòa sen lớn, giữ theo công-quá-cách chừa dữ làm lành. Mỗi tháng nhớ ngày giờ sám hối cầu nguyện. Mỗi ban mai tụng nhựt khóa hoặc thập niệm lúc không rảnh. Thời lâm chung biết ngày giờ Phật sẽ rước mình. Nếu ai làm phước bố thí nhiều, thời không bịnh hoạn, ngồi chắp tay day mặt về hướng Tây mà xuất hồn. Ai có công khuyên độ nhiều người về Cực lạc trước, khi Phật rước hồn, nghe tiếng nhạc hoặc có mùi thơm lạ. Nếu phước lớn, thấy hào quang chiếu sáng. Như vậy làm cho đời thấy nhãn tiền tin chắc tu theo.

Chừng vãng sanh về Tây phương, học đủ lục thông (6 phép thần thông) làm Phật La Hán, xin phép Phật đi độ ông bà và cha mẹ về Cực lạc để báo ân như Phật La Hán Mục Kiền Liên đi cứu bà mẹ là Thanh Đề vậy.

Nếu ai may còn ông bà cha mẹ, thời lạy mà giảng tu tịnh độ. Mình ráng nuôi cơm chay cho cha mẹ tu thành trước quí hơn. Mình nguyện niệm phụ, tu phụ cho chắc thành. Nếu ông bà cha mẹ yếu sức vì già cả, đến lâm chung Phật rước ông bà cha mẹ nhãn tiền có điềm linh hiển. ông bà cha mẹ ngồi tòa sen trước mà đợi mình, thời khỏi lo tuần tự tụng kinh siêu độ mà tốn nhiều tiền. Nên để số tiền ấy ấn tống kinh hay bố thí cho kẻ nghèo và hồi hướng công đức ấy vãng sanh Cực lạc.

Nếu rủi cha mẹ đã mãn phần trước, mình muốn báo hiếu cho mau thời chọn ngày sám hối lập nguyện niệm Phật thế cho cha 30 vạn câu, cho mẹ 30 vạn câu và nguyện phóng sanh bao nhiêu mạng, thí kinh bao nhiêu, bố thí mấy chục đồng, phải làm tất số mà cầu vong hồn cha mẹ tên họ chi, siêu thăng về Cực lạc. Niệm đến khi nào Phật ứng mộng mới thôi. Nếu giàu có muốn tụng kinh niệm Phật cầu cho cha mẹ mình cũng phải niệm thế, ít nhiều mới cảm động; chớ ỷ có tiền mướn tụng niệm thôi thì vong hồn chỉ đầu thai hưởng phước chớ không siêu thăng đặng. Còn sự nguyện thí kinh, phóng sanh, bố thí tùy theo giàu nghèo mà nguyện. Trong kinh Hồi dương lời vua Nhứt Điện Tần Quảng Vương phán rằng: ỏNhà nghèo bố thí một đồng sánh bằng nhà giàu bố thí ngàn đồng.õ Tùy theo sức mà làm, đừng sợ bố thí ít không siêu, phải vay cho mắc nợ tới chết trả không nổi phạm khoảng du đạo Phật không rước. Nếu có nhiều tiền nên bố thí nhiều.

Nếu ông bà cha mẹ tuổi đã quá cao hay bệnh già quá yếu, năng lực của thân và tâm đều kém yếu, mình lạy mà giảng tu tịnh độ và dung phương pháp trợ lực sau đây:

Tất cả con cháu trong nhà nhất là chính mình nên thay phiên nhau ở bên ông bà cao tiếng niệm Phật, mỗi phiên độ nửa giờ. Mỗi ngày cứ luân phiên nhau như thế, đừng để cho tiếng niệm hở dứt. Ông hay bà có thể niệm theo càng tốt, bằng không chỉ khuyên người nhiếp tâm nghe kỹ, cũng như niệm thì cũng được thường không rời Phật. Những người trợ niệm chẳng mấy gì phí sức mà lại gieo được nhân lành giải thoát về sau. Nếu có tiền, mua một máy ghi âm thu bài giảng về thế giới Cực lạc trước đây, 48 điều nguyện của Phật Di Đà hoặc bài giảng nghĩa kinh Di Đà trong cuốn Lão Nhơn Đắc Độ và tiếng niệm Phật cho rõ ràng để phát hằng ngày liên tục cho ông bà nghe thì cũng có thể vãng sanh về Cực lạc. Nên nhớ lúc ông hay bà ngặt, mình cứ niệm NAM MÔ A DI ĐA À PHẬT mà thôi. Phương pháp trên đây cũng có thể áp dụng cho ngườI bệnh yếu gần chết.

NÊN NIỆM THÁNH HIỆU QUAN THẾ ÂM BỔ TÁT

Bồ Tát Quan Thế Âm có nhân duyên rất lớn với chúng sanh cõi Ta Bà này. Tuy thường hầu cận Đức Phật A Di Đà nhưng vì thệ nguyện rộng sâu và lòng từ bi, Ngài hiện thân khắp nơi tìm tiếng cứu khổ. Chúng sanh nào gặp những tai nạn lâm nguy như: đao binh, nước lửa, đói kém, cào cào, ôn dịch, khô hạn, cướp bóc, oan gia, thú giữ rắn độc, ác quỉ, yêu mị, kẻ tiểu nhơn ám hại, bệnh khổ, v.v…nếu chí thành khẩn thiết niệm danh hiệu ngài thì nhứt định sẽ được sức từ bi ủng hộ của Ngài tránh tai qua nạn khỏi.

Trong Phẩm Phổ Môn nói: ỏChúng sanh nào nhiều dâm dục, giận hờn, ngu si, nếu thường niệm cung kính Ngài sẽ được xa lìa các nghiệp ấy.õ Phải dùng hết tâm lực đừng nghi ngờ thì cầu việc gì cũng được.

Người tu tịnh độ ngoài việc hôm sớm lễ Phật A Di Đà nên niệm thêm Bạch Y Thần Chú và lễ niệm Đại Sĩ sẽ được gia bị trong âm thầm, có thể đổi họa làm phước, gặp rủi ro hóa may mà chính mình không biết.

Người đàn bà khi sắp sanh thường bị đau khổ, có khi vài ngày sanh không được hoặc chết vì sản nạn. Có người tuy sanh được nhưng lại bị huyết băng và nhiều bịnh nguy hiểm, đứa con sinh ra thì bị các chứng kinh phong v.v.. cho nên người đàn bà lúc sanh nên chí thành khẩn niệm ỏNAM MÔ QUAN THẾ ÂM BỔ TÁTõ. Khi niệm cần phải to tiếng, không nên niệm thầm vì niệm thầm do tâm lực kém nên sức cảm ứng cũng kém. Đang dùng sức sanh đứa bé ra, nếu niệm thầm thì nín ép hơi phải mang bịnh. Nếu chí thành khẩn thiết mà niệm quyết không có sự đau đớn, khó sanh, huyết băng, đứa con sẽ khỏi bị kinh phong hoặc bị các chứng bịnh nguy hiểm khác. Dù gặp trường hợp khó sanh có nguy hiểm đến tánh mạng, sản phụ cùng những kẻ hộ sanh cũng phải đồng to tiếng niệm Quan Âm. Người quyến thuộc tuy ở nơi khác đều phải vì sản phụ niệm giúp. Như thế trong giây phút sản phụ liền được yên ổn mà sanh. Có nhiều bà lão niệm Phật, xem sanh sản là việc đáng sợ, cho đến dâu con mình sanh không dám qua săn sóc huống chi là bảo niệm Quan Âm; Bồ Tát không sự khổ nào chẳng cứu vớt, không tai nạn nào chẳng giúp đỡ xót thương, đâu có lý đối với hạng sản phụ mà bỏ sót. Lúc sanh sản tuy lõa lồ không sạch nhưng đó là việc dĩ nhiên. Trong cảnh ngộ không thể tỏ bày sự cung kính, chỉ chí thành nơi tâm. Nếu ở trường hợp làm được mà không làm thì thật là có tội. Lúc sanh sản khó, nên niệm Ngài, chẳng những không tội lỗi mà khiến cho mẹ con sản phụ gieo trồng căn lành. Người đàn bà khó sanh, khi có thai nên chí thành niệm danh hiệu ngài, cầu nguyện hằng ngày cũng được như ý muốn.

Vào khoảng năm 1929, có một viên trung úy hải quân ngườI Pháp tên Robert Taie. Ông này có vợ người Việt Nam. Một hôm ông đi tàu biển gặp một trận bão tố không hy vọng thoát chết, ông sực nhớ lại bà mẹ vợ và vợ ông đạo Phật thường khuyên ông niệm danh hiệu Đức Quan Thế Âm lúc nguy biến. Trong lúc thập tử nhứt sanh, ông ngồi xếp bằng nhắm mắt lại, niệm danh hiệu ngài. Sau đó nửa giờ, ông mở mắt ra, thấy chiếc tàu trôi giạt, khuất sau một hòn đảo nhỏ. Thuyền trưởng và mọi người trên tàu hết sức vui mừng, cho là phép mầu nhiệm và thấy cử chỉ ông trung úy lấy làm ngạc nhiên. Ông bèn thuật lại cho mọi người nghe và đề nghị với viên thuyền trưởng lập một chùa để nhớ ơn Ngài cứu độ. Chùa này dựng trước thành Ô Ma pháo thủ gọI là chùa Quan Thế Âm hiện nay vẫn còn.

Bài Vấn Đáp Cho Khỏi Nghi

Hỏi: Có kẻ tu lâu, gần lâm chung ngã mặn thôi tu, kế chết Phật rước chăng?

Đáp: Kẻ ấy như người đến bến đò, chờ lâu ngã lòng đi chơi, đò qua sông không hay, làm sao Phật rước đặng? Nhưng vị này lúc bịnh ráng nguyện lại, trường trai theo phép, niệm Phật gia bội ít ngày Phật rước mau lắm. cũng như người đến bến đò đã lâu, bỏ đi chơi nay kịp chuyến đò. Quí vị ngã mặn đã lâu, vì nghi ngại tu không kịp để thác như để hụt đò. Uổng quá! Tiếc thay!

Hỏi: những vị nào hồi tâm muộn quá, đôi ngày kế thác có đặng vãng sanh không?

Đáp: Quí vị lúc gần lâm chung, có thiện căn mới được. Song phải phát nguyện, xuất của bố thí tức thời, hoặc dặn con bố thí thế cho mình. Nghèo thời dặn con trường trai trong ba năm tang. Niệm Phật tụng kinh Di Đà cho mình. Đại nguyện như vậy, lòng phải chí thành niệm Phật nửa ngày hoặc ít giờ, Phật cũng rước về làm dân tu thêm cho khỏi phải luân hồi.

Hỏi: Ai ăn người nấy no, con tu thế cho cha mẹ đặng sao?

Đáp: Sao không, vì máu thịt cha mẹ chia ra tuy thác như sống, trối tu như vậy thời thành, song e con cháu không chịu tu thời vong hồn tu thêm tại Tây phương, lâu ngày cũng có quả vị. Quí vị lúc lâm chung có Phật rước thời đặng thành.

Hỏi: Người phàm nhiều kiếp đến nay, làm tội dữ vô số, gần chết niệm Phật mười câu sao mà đặng vãng sanh dễ như vậy?

Đáp: Người ấy đời nay không tu sớm mà kiếp trước có công tu nhơn tích đức mộ đạo Phật, nay lỡ mê trần nên không tỉnh ngộ. Nếu kiếp trước không tu thời nay chết như thế thường, đâu có may gặp người biết phép Tịnh độ chỉ điểm lúc lâm chung, niệm Phật hết lòng cho Phật rước. Người không có thiện căn dầu hết lòng chỉ điểm cũng không tin mà niệm Phật có đâu ăn năn đắc ngộ mà sám hối tội lỗi xưa, bỏ hết các việc vọng tưởng ỏquyết một đường qua Cực lạc, không mơ ngõ khácõ lòng chí thiết không xao lãng như vậy, niệm Phật một câu bằng ngàn câu: mười câu bằng muôn câu, lẽ nào Đức Phật Di Đà không cảm động qua rước. Kinh Thập Lục Quán nói: ỏ Lòng thanh tịnh chí quyết, niệm 10 hơi cũng đủ tiêu tội 80 ức dư kiếp trướcõ. Nếu quả lòng thành như vậy, nhờ có công tu kiếp trước, Đức Phật Di Đà qua rước chẳng sai.

Hỏi: Nếu còn tội mà ăn năn tu niệm chí thành, cũng đặng vãng sanh về Tây Phương tu thêm mới thành Phật. Vậy thời vội tu sớm làm chi, để hưởng mùi đời cho phỉ tình, đợi gần chết ăn không đặng sẽ trường trai, tu niệm Tịnh độ ít ngày mà theo Phật như mấy người ác vãng sanh đó, tội gì mà tu sớm thiệt thòi lắm.

Đáp: Phật quí tại tâm, những ác nhơn vãng sanh là thuở nay không biết phép Tịnh độ mà tu, nay gần lâm chung có người chỉ điểm nên hồi tâm niệm Phật, ấy là làm ác bấy lâu mà vô tâm, nay sám hối hồi tâm Phật mới rước, chớ tiềm tâm làm ác, tính điếm đàng xảo quyệt, Trời Phật thua trí người sao? Trời Phật chuộng những người chân thật. Kẻ dữ được vãng sanh vì có căn tu kiếp trước nên Phật thương tình mà xui người chỉ điểm lúc lâm chung. Muôn người mới có một. Có mười hạng người khi lâm chung niệm Phật không đủ mười câu; Một là lúc lâm chung không gặp người biết tu tịnh độ mà chỉ điểm. Hai là oan báo theo mình cản trở không cho niệm Phật. Ba là bịnh á khẩu hoặc tắt tiếng. Bốn là mê sảng không biết gì. Năm là bị chết chìm chết thiêu. Sáu là bị hùm tha sấu bắt, rắn cắn trào đờm. Tám là trúng thực nhiễm gió bất tỉnh nhơn sự. Chín là tử trận. Mười là té cây đụng xe gẫy chân. Mười sự chết đó dễ gì tỉnh táo mà niệm mười câu cho minh bạch lòng không loạn tâm, hoặc niệmPhật mà còn tưởng vợ chồng con cái, nhớ của chôn lo trối trăn hậu sự dễ bị xao lãng, có đâu lòng biết ăn năn giữ thanh tịnh niệm cho đủ số. Hoặc lòng còn nuối kẻ nọ, trông có thuật hoàn sanh, chồng khóc vợ kể, con cháu theo kêu cho rầy tai, loạn tâm lãng trí, trong lòng bối rối như tơ, khó sửa lòng thanh tịnh mà niệm đủ 10 câu cho Phật rước. Chớ đợi đến già mới niệm Phật

Thiếu chi mồ trẻ đã qua đời

Khuyên niệm Phật than mình chưa rảnh

Đợi bắt hồn rắp việc cũng theo!

Nhứt là thờI buổi giặc giã chiến tranh, người ta bị bom đạn chết một cách bất ngờ. Đâu có ai chắc mình sống đến ngày mai. Ai biết trước số mấy mươi mà thác, đừng tin thầy coi số coi tướng nói bốc bướng mà lầm. Thừa lúc chưa già chưa bịnh, chọn ngày sám hối lập nguyện tu lần cho có căn. Bác thợ rèn vừa đập sắt vừa niệm Phật. Vừa làm công việc hàng ngày để nuôi vợ con vừa tu, hoàn cảnh nào cũng tu được cả. Chớ bảo có thời giờ mới tu được, hay là còn trẻ, dại gì tu để hưởng mùi đời cho phỉ tình rồi sẽ hay. Tử thần đến, công việc gì gấp cũng phải buông, trẻ cũng không tha.

Nếu xảo quyệt tính cho lắm, e bị sự rủi, đầu thai kiếp khác không chắc làm người hay mang lông đội sừng. Dẫu may làm người, e không ai nói pháp cho mà nghe, không dễ gì gặp người khuyên tu tịnh độ theo con đường tắt; Dẫu có người khuyên chưa chắc tin. Mất thân người muôn kiếp khó tu mới là khổ. Cũng bởi tính già hóa non.

Hỏi: Người phàm dễ bị bó buộc phạm nhiều tội lỗi, các điều phiền não chưa dứt, một mảy phước đức chưa tu. Còn như Tây Phương Cực Lạc trên ba cõi thiên tiên quí hơn cõi thiển đường bực Thiên Đế bá hội. Lẽ nào mới niệm Phật mà đặng về Cực Lạc?

Đáp: nhờ Phật Di Đà rước, không phải nhờ sức mình tham thiền mà qua nổi Cực Lạc ở luôn. Thí dụ: Con kiến lẩn thẩn cả đời đi không bao xa, còn sợ bị cóc liếm giữa đường, nếu đeo vào áo một người đi du lịch bằng máy bay, trong vài giờ đến xứ khác như không. Còn tu Tịnh Độ, Phật Di Đà tiếp dẫn cũng như vậy. Nếu người tu hành cứ ỷ tham thiền hay luyện đơn, tại cõi trần thời đầu thai hoài tu không biết mấy kiếp mà cũng không giải thoát khỏi sanh lão bịnh tử có đâu thành Phật. Kiếp này tu kiếp sau chắc gì mình tu nữa không, hay hưởng phước giàu sang phú quí quên tu. Về Cực Lạc khỏi phải luân hồi, lo gì không thành Phật La Hán. Như con mọt trong cây gần gốc, nếu bò lên đục từ mắt đục lần cho tới ngọn thời lâu biết chừng nào. Ấy là thí dụ cách tham thiền hay luyện đơn khổ mà lâu vô cùng, e không thành nữa. Như con mọt chưa ra khỏi ngọn tre mà chết. Còn tu tịnh độ thiệt tắt dễ nên ví như con mọt ấy, đục dựa ống tre không bao lâu đã ra khỏi. Nên tu tịnh độ gọi là hoành xuất tam giới, đi ngay rất mau, lo chi phàm tục không đặng vãng sanh Cực Lạc.

Hỏi: Trong chín phẩm tòa sen, bực thấp từ thứ bảy cho đến thứ chín, để dành cho kẻ mới tu ít phước. Nhứt là tòa sen thứ chín, nhiều kẻ ác mới tu, may phước đặng vãng sanh như tích Trương Thiện Hòa, sãi Huýnh Kha, tôi e kẻ ấy về đó còn thói tà dữ, chi cho khỏi con sâu làm rầu nồi canh chăng?

Đáp: Lo không đặng vãng sanh, lo chi về đó mà còn làm dữ là vì có năm cớ: một là có Phật gìn giữ, hai là muốn chi có nấy không lòng tham, ba là chim linh giảng kinh trên cây báu cũng đủ hồi tâm ăn năn mà sửa lòng, bốn là ở gần Bồ Tát, bạn lành không ai rầy rà gây oán thù, năm là sống hoài tu mãi trở nên lòng Phật; gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, xung quanh mọi người tu thời mình cũng tu theo. Nên về Cực Lạc kiếp này cũng đặng thành Phật không thối chí nữa.

Hỏi: Kinh nói tại thế gian, có kẻ lòng thành phát nguyện tịnh độ, thời trong ao thất bửu cõi Cực Lạc có mọc một cây sen trổ ra một bông. Lúc lâm chung, Phật rước hồn người tu ngồi bay về Cực Lạc cho Liên Hoa hóa thân ngồi tòa sen ấy. Nếu lúc sống tu tấn tới, bụi sen mau ra bông, búp sen mau lớn bằng bánh xe, có nêu tên họ người tu bên ngoài. Tới số Phật Di Đà ứng điềm, định ngày tiếp dẫn. Còn ai thối chí ngã lòng, bê trễ việc tu thời sen ấy héo dần. Tới thôi tu thời sen ấy rụng. Sau tu lại, sen này chồi lên bông khác, nếu bỏ đạo đến chết thời bụi sen cũng chết khô. Chẳng hay lời ấy có đáng tin chăng?

Đáp: Việc ấy dễ hiểu. như cái kiếng lớn, vật nào chiếu vào thời cũng thấy bóng y như vậy. Cõi Cực Lạc của Phật Di Đà rất linh, thế gian có người tu tịnh độ, cõi Tịnh độ mọc sen thêm; sen ấy tùy theo người tu siêng năng hay bê trễ mà tươi héo gọIi là giống sen Bồ Đề, mà cũng có Đức Phật Di Đà chủ trương trong đó, là lý chắc tự nhiên, lẽ nào Đức Phật Thích Ca đặt chuyện huyễn hoặc mà nghi ngại? ỏ Người tu sen Phật lên, người thành sen Phật trổõ ấy là nhơn quả tự nhiên.

Hỏi: Tại sao niệm Phật Di Đà cầu vãng sanh về nước Cực Lạc. Thiếu chi các vị Phật khác mà buộc niệm Di Đà mãi?

Đáp: Một là bao nhiêu công đức của Chư Phật mười phương, Đức Phật A Di Đà đều có đủ, nên niệm Phật A Di Đà cũng như niệm đủ các vị Phật mười phương. Hơn nữa mỗi tháng Phật Di Đà hội chư Phật tại hướng nào mình có lạy sám hối phát nguyện, chư Phật mười Phương chứng minh đâu có thiếu sót vị nào đâu.

Hai là không cầu quyết một chỗ, khó nhứt tâm dễ bị xao lãng.

Ba là các cõi Phật khác không như cõi Cực Lạc, dẫu vị đó thành Phật thời hưởng tiêu diêu một nơi, chứ chư dân trong nước đều khổ não.

Bốn là Phật A Di Đà Phát 48 nguyện, quyết tiếp dẫn chúng sanh niệm Ngài, dầu phạm tội ngũ nghịch biết ăn năn hối cải ngài cũng độ hết. Nên ai ở cõi này, có niệm Phật thời phần đông niệm Di Đà nhiều hơn.

Đức Phật Thích Ca dạy nhiều phép tu luyện rất khó, trừ phép tịnh độ rất dễ vì biết trước đời sau chúng sanh phước mỏng, nghiệp chướng nặng nề, đạo Phật đã mỏn, các kinh lạc hết mà Kinh Di Đà còn soi dấu cả trăm năm. Bởi dễ nên ít ai tin nên mỗi lần Ngài giảng kinh Di Đà, Ngài có mời chư Phật Như Lai mười Phương đến chứng minh cho đủ tin chắc.

Hỏi: Nước Cực Lạc cách xa cõi trần mười muôn ức thế giới xa xôi dường ấy lẽ nào người phàm đi tới?

Đáp: Xác phàm đi xa như vậy không đặng, chớ phần hồn có khó gì! Vì lòng thành niệm Phật, Phật rước hồn đi không phải xác. Thí dụ: chiêm bao đi tới nước khác ngàn muôn dặm, nghe ai kêu thời tỉnh thức dậy liền. Có phải chiêm bao thấy đi gần thời tỉnh mau, đi xa thời tỉnh chậm sao?

Hỏi: Kinh nói ỏ ai ăn chay niệm đủ 30 vạn biến vãng sanh, thời Phật Di Đà hằng chiếu giám trên đầu, bảo hộ tai qua nạn khỏi, để làm ăn mà tu, đợi lâm chung cho biết ngày rước hồn về Cực Lạc. Người tu Tịnh Độ ai thấy khoảng đó mà không ham vì niệm thêm 30 vạn có khó chi. Di Đà có một ông chiếu giám sao cho xiết, hơn nữa cả mười phương thế giới có biết bao nhiêu người vãng sanh cùng một lúc làm sao rước cho kịp?

Đáp: Rất đỗi mặt trời mặt trăng là nhỏ còn chiếu khắp trên đầu thiên hạ, huống chi là hào quang Phật. Còn thần thông Đức Phật A Di Đà ba mươi sáu triệu một trăm mười chín ngàn năm trăm ông (36.119.500). hơn nữa Phật còn biết bao nhiêu đệ tử thành Phật đều đắc lục thông. Lo mình không tu, lo chi Phật rước không kịp.

Hỏi: Nay muốn vãng sanh Cực Lạc Tây Phương phải làm công hạnh chi? Phát tâm làm sao? Vả lại kẻ ở thế có vợ chồng con cái, chưa dứt đường dâm dục, kế lâm chung niệm Phật, Phật có rước không?

Đáp: Phật cũng rước hết. Muốn vãng sanh cứ niệm Di Đà. Cư sĩ ở nhà có vợ chồng sanh đẻ không có tội chi miễn giữ giới kỳ cho nghiêm thời khỏi tội. Nếu khuyên vợ chồng con cháu tu theo sau cũng vãng sanh về Cực Lạc sum họp một nhà. Mình còn khuyên người khác tu lẽ nào để con cháu luân hồi đọa lạc sao. Lòng phát tâm có ba cách: một là nhàm cõi trần, hai là mộ Cực Lạc, ba là phát tâm Bồ Đề.

Cõi trần như chông gai, vì sự ăn mặc mà cực khổ cả đời. Vì chữ danh lợi mà bôn chôn mạt kiếp. Có người khổ nhiều có người khổ ít. Nghèo thời lo ăn lo mặc. Giàu thời lo giữ của giữ tiền sợ ăn cướp, song ai ai cũng không khỏi bốn điều là sanh, lão, bệnh, tử.

1. Sanh Khổ: Còn trong bụng mẹ không đặng thong thả, ở nơi không sạch, ăn

uống huyết nhơ. Chịu gần ba trăm ngày, gần bằng 20 năm khổ não. Đến lúc sanh ra ép gần móp mình, nhứt sanh nhứt tử giếtmẹ trong một khắc. Sanh rồi bị huyết dơ tống theo, lại tiểu tiện dầm dề không biết hổ thẹn. Dầu sang giàu thánh hiền cũng vậy. Lớn lên muốn không đặng cũng khổ, ly biệt cũng khổ, oán thù giận cũng khổ. Hưởng sự vui sướng có một, bị việc tru phiền hơn tám chín. Làm quan ngay thẳng gặp đứa gian cũng oán ghét. Ít có ngày nào vui trọn. Gặp sự bất bình trái ý luôn luôn. Nằm đêm xét kỹ lại, nhờ có thê thiếp con cái làm cho khuây khỏa vài mươi năm rồi cũng già.

2. Lão Khổ: Cảnh già khổ lắm. Chân mỏi gối chùn, mắt mờ tai điếc, răng rụng nhai đau,tinh thần hao tổn, ăn không ngon, ngủ không được, bịnh hoạn luôn. Trở trời trong mình đã đau nhức khó chịu. Giàu có khó mua được sức khỏe như lúc còn xuân, ngày tháng thấm thoát như cá cạn nước lần lần.

3. Bịnh Khổ: Ai cũng trải qua thời kỳ bệnh hoạn thời biết bịnh như thế nào. Nằm nhà thương hay vào thăm ai nằm nhà thương thời thấy rõ khỏi nhắc lại.
4. Chết Khổ: TớI lúc chết, giựt mình, mắt trợn tròng, tay chân co quắp dễ sợ. không biết chết rồi đi về đâu. Trừ ra ngườI tu Tịnh độ mừng mình được bỏ xác phàm hôi thúi này.

-Mộ Cực Lạc như vầy: Cực Lạc hơn Thiên Đàng thập bội khỏi luân hồi. Lòng ao ước trông mãn phần về Cực Lạc thảnh thơi.

-Phát tâm Bồ Đề: Bồ Đề tâm là lòng làm lợi ích cho người. Khi phát tâm này như đồ máy được gắn điện có năng lực mạnh mẽ. Những công đức bình thường không thể sánh kịp. Nhứt là long từ bi thương xót chúng sanh luân hồi khổ sở, hết lòng nguyện độ và khuyên mọi người tu như mình.

Có người hỏi thiên như lão nhơn ỏVĩnh Minh Thọ Thiện Sư là thầy đứng đầu Trung Quốc, ai cũng nhường là bậc thầy về việc tham thiền mà sao còn tu Tịnh Độ, thường hay đọc bài kệ giảng dạy đệ tử và bổn đạo như sau:

Bài Kệ Nôm
Tham thiền không Tịnh Độ, một chục chín người khổ
Tịnh Độ chẳng tham thiền, tu muôn thành đủ số.
Cứ theo bài kệ chẳng là chê ép phép tu tham thiền mà bào chuốt tôn trọng, khen ngợi cách tu Tịnh Độ thái quá chăng?

Lão Nhơn đáp: Không phải Vĩnh Minh Đại Sư khen phép tu Tịnh Độ thái quá. Thiệt phép Tịnh Độ rất rộng lớn, cách tu rất tiện dễ, sao gọi là phép rộng lớn? Bởi hết thảy phép tu đều rút tóm rút vào đủ, trừ bực thượng là Phật, bậc trung là Bồ Tát, bậc hạ là Thinh Văn, Duyên Giác, bậc dưới chót là kẻ dốt hoặc phạm tội ngũ nghịch, thập ác, nếu chịu ăn năn chừa dữ tu theo Tịnh Độ, không cần lâu mau, không đợi trường trai 24 tháng, cơn lâm chung niệm Phật không xao lãng; Phật cũng rước về Cực Lạc. Còn tiện dễ là: không có học chi khó, làm chi mệt, kẻ sáng dạ niệm thêm 30 vạn biến vãng sanh, kẻ tối dạ không thuộc vãng sanh cứ niệm ỏNam Mô A Di Đà Phậtõ cho đủ 30 vạn câu thì đủ. Sau dư tu thêm lâm chung niệm Phật 10 câu, Phật Di Đà cũng rước. Về Cực Lạc lien hoa hóa thân, tu thêm cho tớI thành Phật. Hỏi thử có phép tu nào dễ mà mau thành Phật như vậy chăng? Nếu ai không trí huệ như Vĩnh Minh Thiền Sư thời cũng không lo tu thêm Tịnh Độ và khuyên người tu Tịnh Độ như mình.

Hỏi: Hòa thượng Đại đức đã thông hiểu tham thiền kiến tánh thành Phật cũng đủ, phải tu thêm Tịnh Độ làm chi?

Đáp: Quí vị thông thái muốn tu thêm Tịnh Độ như Vĩnh Minh Thiền Sư thời nôn và nóng theo Tịnh Độ, sức muôn con trâu kéo cũng không thèm trở lại hốt vàng rồi sẽ tu thêm Tịnh Độ. Nếu thông phép tham thiền mà chắc sẽ thành Phật, thời các vị Đại Bồ Tát trước khi tham thiền đã sáu bực nhiều kiếp mà chưa thành còn phải tu thêm Tịnh Độ mới thành Bồ Tát.

Kinh Tam Muội nói ỏVăn Thù Bồ Tát thuật chuyện cũ của mình; gọi mình nhờ niệm Phật mới thành chánh quảõ. Phật Thế Tôn làm dấu trên đầu nói rằng : Ngươi nhờ niệm Phật mà đặng vãng sanh Cực Lạc, chớ có nói tham thiền giỏi đâu. ỏKinh Hoa Nghiêm nói: Phổ Hiền Bồ Tát lấy mười điều nguyện lớn mà dạy Thiện Tài Đồng Tử cũng tu Tịnh Độ, cho Phật rước vãng sanh là quí hơn hết. Kinh Lăng Già nói ỏPhật Thế Tôn thọ ký cho Long Thọ Bồ Tát mới vãng sanh Cực Lạc. Ngũ Thông Bồ Tát người nước Thiên Trúc tu luyện tham thiền, xuất hồn qua Cực Lạc ra mắt Phật Di Đà bạch rằng: Tôi là chúng sinh cõi Ta bà nguyện vãng sanh Tịnh Độ, nay xin Phật hiện hình rước có nghi tiếtõ. Ấy cũng phải tu thêm Tịnh Độ mà Phật rước nào chỉ lấy sức tham thiền đặng lên cảnh Phật mà ở luôn sao? Thử hỏi được bao nhiêu vị tham thiền xuất hồn đến cảnh giớì Cực Lạc?

Phật Độ Những Người Có Căn Duyên

Giả tỉ như mình bị bịnh tả mấy ngày rồi, vợ rước một ông thầy quen ở gần đến coi mạch doán rằng: bịnh bị tiện bế, bón đã vài ngày không đi đại, phải xổ cho mau kẻo chết. Mình lấy làm lạ bảo vợ rước một ông thầy quen khác chẩn mach cũng nói như vậy. Lần lần rước tới 5 thầy đều đoán quyết bịnh bón phải xổ mới sống. Mình khai thiệt: tả hết ruột; mấy thầy thuốc cãi rằng: không phải tả, mạch bón rõ ràng. Vợ dốt nói mình đau nói mê, sao bằng 5 thầy coi mach nói hiệp nhau là chắc. Lật đật đem tiền đi lấy thuốc xổ. Ở nhà thời may có lương y lạ du phương ghé xin nước. Mình hỏi ra mới biết thầy thuốc, cậy chẩn mach thử. Lương y coi mach nói: bịnh kiết tả cả ngày rồi, tì vị liệt gần ngay ruột, phải uống thuốc chỉ tả mà cầm cho mau kẻo khốn, liền biên toa cho mình rồi kiếu đi. Thế khi cũng chẳng tin toa ấy nên không uống. Vì ông thầy lạ mới đến nói một cách khác hơn mấy ông thầy mình tin cậy lâu nay đã khắng vào tim rồi, đợi vợ đem thuốc xổ về sắc mà uống đó chăng?

Vô duyên như vậy Phật độ cũng không đặng. Phật độ những người có duyên có phước biết nghe mà tỉnh hồi mới đắc ngộ tu mau thành Phật. Kinh Phật dạy tới 84.000 cách tu khác nhau mà rút một phép tu Tịnh Độ là tu tắt. Dễ mà mau thành, quí báu như mình rồng có một hột châu, non con có ngọc thượng hạng, như thái tử quí hơn quần thần. Vì dạy nhiều nên kinh chất cả đống như núi; ai vô duyên xấu phước thời khiến làm biếng mà không xem; kẻ ít phước không duyên phần xem cả trăm cuốn thấy dạy tham thiền khó lắm, tụng niệm nhiều quá cũng đã thèm, nhắm mắt không tu nổi, có ráng xem trọn bộ cho thất công mấy chục năm cũng vô ích. Vì vậy mà bỏ qua, coi chưa gặp cuốn Tịnh Độ mà học rủi biết chừng nào? Còn kẻ thiện căn có phước duyên phần, mới xem một hai cuốn may gặp Tịnh Độ pháp môn tin và mừng, vì tu dễ mà mau thành Phật rõ ràng, thiệt là tu tắt không tới hai năm mà đặng ngồi tòa sen thành Phật. Dầu trăm sợi dây cột kéo lại bảo hốt mấy muôn cân vàng mà cất rồi tu Tịnh Độ cũng không thèm. Vì tu tại gia làm cư sĩ dễ lắm. Ai có duyên phần thiện căn phước đức không tu kẻo trễ ngày giờ uổng lắm, vì tử thần đến, làm việc gì cũng phải ngưng, trẻ cũng không tha.

Con Tằm Ở Ồ Kén

Con tằm kéo tơ làm kén, vấn tả vấn hữu, bao dưới bao trên, kéo hết tơ chỉ trong ruột ra, quyết làm nên ổ mà ở trong cho an phận; nào hay kéo hết ruột cực hết sức lộn ra nhộng, trói mình cho chặt đặng chúng ươm trong nước sôi mà lấy tơ. Ý nó tưởng ráng sức giữ mình, nào hay người ta vì sự ráng sức của nó mà hại nó. Mấy muôn muôn triệu triệu tằm khờ lộn nhộng, con nào mà khỏi trụng nước sôi, làm cho người đặng lấy tơ và ăn gỏi nhộng thảm biết chừng nào. Vậy mà con cháu nối dòng cũng noi theo nghề đó, buộc mình cho lợi chúng mới là thảm thay!

Người ráng lo cho nên sự nghiệp của tiền có khác chi đâu. Rang hết sức bình sanh quyết để sự nghiệp cho vợ con giữ đời nên mới gây oán thù nhiều chỗ. Gầy vừa xong cơ nghiệp thời đà lộn nhộng bỏ mình rồi. Coi lại muôn muôn ngàn ngàn người có ai khỏi trả nợ đời, khỏi bị báo oán mà con cháu cũng noi theo kiểu ấy luôn luôn, thiệt cũng lạ lắm! Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: người vì vợ chồng con cái buộc trói quá hơn xiềng tỏa trong đề lao, nhưng mà tội tù cầm cọng còn ân xá, vợ chồng con cái trói buộc chẳng buông tha.

Cái Đăng Có Đặt Lờ

Người bắt cá ví đăng (nò) ngoài vàm rạch khôngcho cá nhảy ra. Trong lại thả cỏ rong rêu nổi đầy như cặm chà, cho cá ngỡ có chỗ núp. Ngoài miệng đăng lại đặt cái lờ dưới nước. Trong miệng lờ có cái hom; chun vô thời ra xuôi ngược không đặng mắc kẹt. Bầy cá đua nhau chun vô lờ tưởng là chỗ kín đáo như ở hang, giống tôm vô cái rộng.

Sông Mê cũng có nò đặt lờ như vậy. Lúc lành mạnh vô sự thời ở yên, vợ hiền con thảo cũng như lúc chưa chun vô cái lờ. Mảng vui này không lo tu Tịnh Độ, càng ngày chun vô riết lờ Ái Hà. Nhằm lúc vua Minh Vương đương giở lờ lên, dù vợ thương con mến cũng không biết làm sao mà kéo ra cho đặng; Chẳng bao lâu vợ con cũng chun vô cái lờ Minh Vương nữa. Muốn cho khỏi vô lờ Minh Vương thời lôi lên cho khỏi Ái Hà là Sông Mê, mau mau niệm Di Đà tu theo phép Tịnh Độ thời sau đặng vãng sanh Cực Lạc cả nhà.

Bốn Hạng Ngựa

Ngựa có bốn hạng; hạng thứ nhứt thấy bóng roi thì chạy không đợi đánh vô mình. Hạng nhì đánh một roi thời chạy luôn luôn không đợi đánh nữa. Hạng ba đánh ít không chạy, đánh nhiều mới chịu chạy. Hạng chót đánh bao nhiêu cũng không chịu chạy, đợi dùi đâm vô thịt chảy máu mới chịu chạy.

Con người cũng có nhiều hạng: Trí tuệ hạng nhứt mau tỉnh ngộ. Nghe có người ở xa trăm dặm mãn phần thời giựt mình lo rằng ỏngười ở xa trăm dặm thác rồi mình cũng loài người sao cho khỏi thác. Mau tu Tịnh Độ cho kịp 24 tháng mới chắc vãng sanh ngồi liên đài. Cũng như ngựa ký thấy bóng roi thời chạy trước. thứ nhì nghe bà con thác thời giựt mình lo tu. Thứ ba thấy người trong xóm thác thời giựt mình đắc ngộ. Hạng chót đợi người trong nhà thác hoặc mình già bịnh mới giựt mình tỉnh ngộ mà tu Tịnh Độ ngày đêm. Cũng như ngựa bị dùi đâm thấy máu mới chạy. Nếu già bịnh còn chưa tỉnh ngộ mà tu thời hết bực rồi; khác nào con ngựa bị dùi đâm mấy vết máu chảy dầm dề cũng không chịu chạy; chủ phải làm hàng mà bán như heo lấy tiền mua con ngựa khác mà dùng. Con người tới già bịnh mà chưa bươn bả tu Tịnh Độ hết lòng cho Phật rước thời còn đợi cho cặp quỉ vô thường tiếp dẫn.

Chồn Cáo Ăn Vụng

Chồn cáo cộc tối lén vô bếp ăn vụng no quá ngủ mê. Rạng đông chủ tớ xuống nhà bếp. Chồn tỉnh giấc mở mắt thấy đông người sợ ví bắt nên không dám chạy, giả chết đợi chúng xách mà ném sẽ dông êm. Đứa đầy tớ nói chồn ăn vụng phát ách mà chết để tôi xách bỏ đi kẻo thúi. Thằng con lớn chủ nhà nói để tôi chặt đuôi phơi làm chổi rồi chú sẽ xách đi. Nói rồi lấy mác chặt đuôi, chồn cắn răng không dám động đậy. Thằng em nó nói chú khoan xách đợi tôi cắt hai cái tai nó để chơi; chồn nằm nghĩ thầm rằng ỏráng ráng chịu đau cho thằng yêu nhỏ cắt hai tai không tới nổi chếtõ. Thằng nhỏ lấy dao lại cắt hai tai rồi bà chủ nhà nghe rõ bước xuống cản rằng khoan xách đã, bởi cái áo da dê của ông rách khó kiếm da mà vá, may lắm mới gặp da chồn cáo cộc lớn thiệt quí, để lột da phơi mướn thuộc mà vá áo dương cầu. Chồn nghe hoảng hồn nghĩ rằng ỏnếu lột da thời trước phải chặt đầu cứa cổ chết đi còn gì, thà vùng chạy cầu may, chẳng hơn giả chết nằm lì cho chúng giết.õ Nghĩ vậy vùng dậy nhảy nai chạy đại mà khỏi, vì ai cũng không ngờ nó giả chết mà đề phòng, ơ hờ nó chạy khan nhảy đi, theo rượt bắt không kịp. May thay cho chồn cáo cộc.

Con người ở cõi thế gian như chồn vô nhà bếp. Ai cho khỏi thác một lần. Trừ ra tu Tịnh Độ mới đặng vãng sanh cũng như giựt mình chạy liều mạng mà thoát khỏi. Hết lúc xuân xanh mạnh khỏe ví như chồn bị chặt đuôi, mới già như chồn bị cắt thêm tai. Già quá bịnh nặng như chồn bị hăm lột da mà chưa chịu nhảy nai cho khỏi chết như người già bịnh mà chưa chịu phát nguyện tu Tịnh Độ mau mau; ngày đêm tụng niệm cho kịp lâm chung mà vãng sanh mới khỏi quỉ vô thường tiếp dẫn. Cứ lôi thôi đợi chết sẽ ra mắt Minh Vương mà thử kinh nói địa ngục thiệt có hay không cho biết; kẻo vội tin tu theo Tịnh Độ mà uổng công. Thời khác nào chồn nằm lì, coi thiệt quả lột da vá áo hay là nói nộ; như vậy cũng đáng khen hồ ly đa nghi quá quắt, can đảm lạ thường.

Đổ Thừa Tại Lỗi Vua U Minh

Lão kia mãn số hồn xuống âm ty, Minh Vương xử án định tội. Hồn lão tâu rằng: Phải hay sớm thiệt có địa ngục chắc chắn như vầy, thời tôi đã tin kinh Phật, tu Tịnh Độ vãng sanh, khỏi nhọc công đại vương xử đoán. Phải chi đại vương mở lòng quảng đại nhắn tin cho tôi biết trước mà tôi không lo sớm đến nay hành tội mới ưng. Té ra chẳng dạy mà giết, ức biết ngần nào. Xin châm chế tội lỗi lần thứ nhứtõ. Minh Vương phán rằng: trẫm thông tin nhiều lần lắm; tóc ngươi muốn trổ hoa râm là tin thứ nhất. Răng ngươi lung lay là tin thứ nhì. Sức ngươi suy yếu là tin thứ ba. Mắt ngươi lờ quá là tin thứ tư. Lỗ tai ngươi muốn điếc là tin thứ năm. Bịnh nhiều là tin thứ sáu. Sao trách trẫm chưa cho biết trước? Có hồn đứa trai nghe rồi quì lạy khóc mà tâu rằng ỏông già ấy đặng tin sáu lần mà không lo trước đã ưng. Còn tôi chưa đặng tin nào xin đại vương xét mà thứ tộiõ. Minh Vương phán rằng: tên nọ một tuổi với ngươi bị thời khí mà chết ấy là một tin. Tên trẻ kia một cỡ với ngươi năm nọ bị thắt họng là hai tin. Tên trẻ khác bị chết trôi là ba tin. Tên trẻ ở gần bị rắn cắn chết là bốn tin. Bạn hữu ngươi chết yểu là năm tin. Thấy một cỡ với ngươi chết yểu giựt mình mà lo tu đều là hay tin trước, đợi trẫm kêu tên mà nói với ngươi sao? Dầu ngươi sức mạnh vỡ núi trùm đời, tài cao nâng trời vạch đất, cũng không khỏi ra mắt trẫm sau lúc lâm chung tắt hơi. Trừ ra tu Tịnh Độ có Đức Phật Di Đà rước hồn mới khỏi quyền trẫm xử. Sau thành Phật dạo đến đây, trẫm phải cung kính tiếp nghinh theo lễ khách.

Bươm Bướm Ngã Vô Đèn

Bươm bướm nhào vô đèn mà chết không phải vì đèn mà chết, chết tại chỗ thấy của nó; gọi là sáng trưng vui vẻ. Nó thấy chắc rõ ràng không lầm, người tu thương mà đuổi đi vì biết chỗ thấy của nó còn sái; song nó chẳng biết ơn lại còn giận rằng: ỏ Tức vì thấy chỗ sáng muốn đáp vô mà chơi cho vui, bị họ cà nanh ngăn trở.õ Nên rình hở mà nhào vô cho đặng. Bởi chắc ý chỗ thấy của nó là phải không lầm nên hăm hở đua nhau vô chết cả lũ.

Người vì tiếng dâm sắc đẹp, rượu ngọt khói thơm, sự lợi bài bạc mau làm giàu, cậy mình học giỏi, chỗ thấy không lầm, hưởng khoái lạc một đời cho chí tử thì hết chuyện. Không tin còn hồn ma, sợ luân hồi quả báo. Dầu ai giảng chánh lý thế nào cũng chê mãi không tin. Đều tại chỗ thấy trước của mình là chắc ý hơn hết nên sấn tới cho đến chết mới thôi; gọi là hưởng phong lưu một đời đã thích chí. Con người ăn học còn thế này, trách chi bươm bướm đáp đèn là vật mọn. nếu thấy gương ấy biết ăn năn đắc ngộ mới mau thành.

Ruồi Bay Vào Cửa Song

Có loài ruồi kia khờ quá, saün trớn bay lọt vô cửa song. Cứ ngó tới bay riết vào vách tường, tìm lỗ mà ra không đặng. Ráng sức bay qua tả, bay lại hữu cả ngày mệt quá mà không đường ra. Tức mình kêu la lào xào cả lũ. Tại ngó tới không chịu ngó lui, coi trước mặt còn rộng chắc chỗ thấy nó không lầm, ráng sức mà bay hoài phải ra khỏi vì ỷ tài ỷ tận, tấn tới không chịu thối lui mới gọi là ruồi khờ. Chớ chi biết nhắm trước xem sau, biết mình thấy lầm mà bay vào nhầm chỗ hẹp hòi tù túng. Nay ăn năn ngó lại, quay lùi ra khỏi chỗ lầm trước, thời trời cao đất rộng mênh mông. Cõi trần như nhà vách kín bịt bung, đóng kín cửa mở song cho sang, dễ gạt bầy ruồi lằn khờ ngỡ rộng mà bay vào tù túng biết bao nhiêu. Nếu chui ra bay về hướng Tây, thiệt là mau mà rộng thinh, khoái lạc hết tù túng nữa.

Bốn Phép Trị Ngựa

Trong lúc Phật Thích Ca đang thuyết pháp gặp người Mã Sư tập ngựa rất thiện nghệ. Phật hỏi: ỏngươi dùng mấy phép mà tập ngựa đặng hay nên danh như vậyõ. Mã Sư đáp rằng ỏcó bốn phép: thứ nhứt ơn, thứ nhì oai, thứ ba trước oai sau ơn, thứ tư trước ơn sau oaiõ. Phật hỏi: ỏNếu dùng bốn phép ấy mà tập con ngựa nào không đặng thời phải làm sao?õ Mã sư nói: ỏKhông đặng thời làm hàng bán thịt lấy tiền mua con khác, vì để cũng vô dụng. Còn Phật dạy chúng sanh mấy phép?õ Phật nói: ỏcũng dùng bốn phép như ngươi: thứ nhứt ân là giảng dạy tu hành, về cõi Cực Lạc. Thứ nhì oai, nói người làm dữ sẽ sa tam đồ; nước lửa, gươm, đao và bị luân hồi lục đạo. Thứ ba ân trước oai sau; giảng việc tu Tịnh Độ vãng sanh Cực Lạc, rồi giảng lành dữ độ luân hồi khổ sở. Thứ tư trước oai sau ân; trước giảng sự làm dữ bị hành tội cho mà nghe, sau giảng phép tu Tịnh Độ để vãng sanh Cực Lạc cho mà độ.õ Mã sư nói: ỏBạch Phật nếu bốn phép ấy chúng sanh nghe mà không chịu tu, Đức Phật mới độ cách nào? Phật nói: ỏTa cũng giết đi!õ Mã sư thất sắc hỏi rằng: ỏNhư Lai hiền lành thương mọi chúng sanh, sao lại giết người? Phật Thích Ca nói: ỏDạy đủ bốn phép mà không nghe là người không duyên phần, có giảng hoài độ cũng không nổi, nói dai vô ích nên không nói nữa. Không nói nữa thời để cho quỉ vô thường bắt hồn hành tội, thời cũng như giết.

Thánh Phàm Hai Thể Khác Nhau

Phật Tiên Thần Thánh đều có ăn, song ăn thời biết mùi ngon ngọt thơm tho, ăn rồi đồ quí tiêu hóa ra hơi thơm tan hết, không tiêu tiểu nhơ uế như cõi phàm. Giáp cữ mới ăn nữa, như các vị ở cõi thiên đường ăn nhiều món ngon như Thiên tu đà.

Ba cõi trên thế gian chia ra như sau đây: Một là dục giới thiên, hai là sắc giới thiên, ba là vô sắc giới thiên.

Dục Giới Thiên: tại đây chúng sanh hữu tình, còn dâm dục. Cõi này có cả thảy sáu cảnh giới gọi là Lục Dục Thiên.

Sắc Giới Thiên: không còn dâm dục, ăn uống. Song còn màu sắc, thân hình nên gọi là sắc giới. Tại cõi này có hai mươi từng. Từ Phạm thiên đến Đại Tự thiên.

Vô Sắc Giới Thiên: tại cõi này chư Thiên không có thân thể và hình sắc nên gọi là vô sắc. chỉ còn cái tâm thức ở trong thiền định mà thôi.

Về hạng thần (A Tu La Đao) có hai hạng. Hạng ác thần hưởng huyết nhục, hạng kiết thần hưởng chay lạt.

Nhưng dù hạng nào đi nữa, hưởng hết phước đức thì phải luân hồi. (Như ông cả Trước ở Trảng Bàng Tây Ninh lúc còn linh hiển, bắt bối vác lái chèo đứng hoài nơi cửa miếu chờ chủ lấy lại mới đi đặng. Vùng đó thấy linh hiển nên cữ tên kêu bằng đi ỏtrácõ. Sau hưởng mấy chục năm; mãn phước đã luân hồi nên hết linh nữa). A Tu La ác đạo là ăn mặn nhờ ngay thẳng mà thành hung thần hưởng huyết thực, mau luân hồi. Nếu ăn chay thành kiết thần gọi A Tu La thiên đạo thời lâu đọa làm thần ít trăm năm, không tu thêm về Cực Lạc cũng phải bị luân hồi xuống thế mà hưởng giàu sang. Trừ ra thiên đạo tiên chậm luân hồi hơn, hưởng phước mấy ngàn năm. Nếu tu theo Phật về Tây Phương thời khỏi luân hồi. Dù giàu sang cho mấy cũng phải luân hồi mang xác phàm. Muốn đặng liên hoa hóa thân mà sống đời thời phải tu theo phép Tịnh Độ.

Chín Hạng Đều Đặng Vãng Sanh Cực Lạc

Chín loại chúng sinh là: 1. Thai sanh (sanh bằng thai nghén), 2. Noãn sanh (do sanh trong trứng), 3. Thấp sanh (do sự ẩm ướt sanh ra), 4. Hóa sanh (do loài này hóa ra loài kia như sâu hóa bướm), 5. Loại hữu sắc (loại có màu sắc như trời sắc giới), 6. Loại vô sắc (loại không có màu sắc như trời vô sắc giới), 7. Loại hữu tưởng (như cõi trời vô sắc, tuy không có thân hình mà có tư tưởng), 8. Loại vô tưởng (như cõi trời Tịnh Phạn vì mãi ở trong cảnh giới thiền định nên không có tư tưởng), 9. Loại phi hữu tưởng (như cõi thứ tư trong vô sắc giới thiên, chẳng phải có tư tưởng, chẳng phải không tư tưởng). Tất cả chín loại chúng sanh trên đây, ai niệm Phật cũng được vãng sanh cả.

Tầm thường là loài người (nhơn đạo) có vui cũng có khổ. Khổ hơn hết là ngạ quỉ (ma đói) súc sanh, địa ngục. Trên loài người các cõi trời là vui hơn hết. Song thiên thần dù hưởng thọ đến đâu hết phước rồi cũng sa lần cho tới luân hồi. Sao bằng Cực Lạc khỏi phải luân hồi nên ông Châu Sĩ An (tác giả Tây Qui Trực Chỉ) thường dưng hương Miếu Văn Xương Đế Quân với Đông Nhạc Đại Đế lạy vái rằng: ỏXin Đế quân qui y theo Phật mà về làm Bồ Tát cõi Tây Phươngõ. Có khi dưng hương chùa Ngọc Hoàng lạy rồi cũng vái như vậy.

Chúng ta may gặp cửa Tịnh Độ mà không bước vào cho đặng vãng sanh Cực Lạc thiệt uổng và rủi vô cùng. Vì tu Tịnh Độ không khó chi, ai làm cũng đặng, vừa làm vừa tu không bỏ công ăn việc làm hàng ngày, nhọc công hai năm thời đủ. Còn sống tu thêm cho quả vị lớn, tới lâm chung Phật cho biết ngày vãng sanh. Nếu không kịp hai năm, Phật cũng rước về Tây Phương làm dân tu thêm cho có quả vị. Khó nhọc là tham thiền luyện đơn hết hơi mà không thoát khỏi nẻo luân hồi. Nhiều vị thức trọn gần hai năm không ngủ để tham thiền, kết quả chẳng đi đến đâu. Nếu quí vị ấy tu Tịnh Độ ít nhứt tòa sen bực trung. Nhiều vị trường trai đã saün tu thêm Tịnh Độ rất lẹ thập bội. Trong ít tháng cũng đủ, sao không chịu tu thêm cho đủ Tam giáo, chắc đặng vãng sanh, bỏ trống liên đài, uổng quá, tiếc thay!

Niệm Phật Không Uổng Công

Việc chi ở đời làm không kết quả thờ uổng công chớ tu Tịnh Độ dù sai chạy cũng không mất công chút nào. Xưa có lão tiều gặp cọp sợ quá leo lên cây niệm Phật mà khỏi chết. Sau chết đầu thai kiếp khác tỉnh ngộ đi tu mà thành. Niệm Phật một hồi còn đặng thiện căn như vậy huống chi tu Tịnh Độ mãn đời. Dầu kiếp này mới tu không mấy ngày còn làm nhiều tộ lỗi, trong lòng xao lãng không đặng vãng sanh, kiếp sau có lúc tỉnh ngộ tu cũng thành có uổng công đâu. Chẳng phải như ở đời đi buôn không lời lại lỗ vốn, làm ruộng mất mùa mang nghèo, học không đậu uổng công.

Lý Nhân Quả Thông Cả Ba Đời.
Gặp Việc Buồn Cũng Ráng Niệm.
Tâm Mình Có Thể Cải Tạo Hoàn Cảnh.

Nhiều người mới làm lành chút ít, tụng kinh niệm Phật đã mong được hưởng phước lớn. khi gặp cảnh khổ; bịnh hoạn, nghèo nàn, tai nạn v.v.. liền cho rằng làm lành mắc họa rồi từ đó ngã lòng chê bai Phật pháp. Những kẻ ấy không hiểu ỏlý nhân quả thông cả ba đờiõ và tâm mình có thể cải tạo hoàn cảnh. Xưa nay ai đạo đức hơn Đức Khổng Tử mà còn phải bị vây nơi đất Khuông; ngài tuyệt lương nhịn đói bảy ngày mà vẫn đờn ca như thường. Kế đó vua Sở đem binh giải vây mới khỏi. Còn vua Văn Vương bị vua Trụ cầm ngục thành Dũ Lý bảy năm mới tha. Sau con Võ Vương đặng làm thiên tử. Huống chi người thường sao khỏi thời vận. Xem tích ông Khương Tử Nha thời đủ hiểu. Cứ làm lành tu niệm mãi, tự nhiên tai qua nạn khỏi, dữ hóa lành.

Nhân quả thông cả ba đời là thế nào? Như đời này làm lành hoặc dữ, đời này hưởng phước hay mang họa đó là hiện báo. Đời này làm lành hoặc dữ, đời sau hưởng phước hay mang họa là sanh báo. Đời này làm lành hoặc dữ, đời thứ ba, thứ tư, thứ mười, trăm ngàn muôn đời sau mới hưởng phước hay mắc họa gọi là hậu báo. Hậu báo thì sớm muộn không định, đã gây nhân tất có quả đó là lẽ tự nhiên.

Tâm mình có thể cải tạo hoàn cảnh là thế nào? Ví như mình có người kiếp trước gây nghiệp ác nặng, kiếp này chịu nhiều điều khổ dữ, ngườI ấy biết tội lỗi do kiếp trước làm, ăn năn sám hối, đổi dữ làm lành, tụng kinh niệm Phật tự tu và khuyên người tu cầu sanh về Cực Lạc. Do sự hối cải ấy, nghiệp trước kia liền tiêu bớt, đổi thành quả khổ nhẹ trong đời này như: bị khinh rẻ, hoặc đau bịnh, nghèo nàn cùng gặp những điều không vừa ý. Chịu đựng những khinh báo như thế xong người ấy có thể thoát đường sanh tử. Kinh Kim Cang có nói: ỏNếu có người thọ trì kinh này mà bị kẻ khác khinh chê, người đó đời trước gây tội, nghiệp đáng đọa vào ác đạo. Do đời này bị sự khinh chê nên tội trước liền được tiêu diệt, sẽ chứng quả vô thượng bồ đềõ.

Người đời khi gặp tai nạn, nếu không oán trời tất cũng trách người, ít ai nghĩ đến sự trả nghiệp mà sanh lòng ăn năn chừa cải. Phải biết trồng cây dưa được dưa, trồng đậu được đậu là lẽ tự nhiên. Làm dữ mà vẫn hưởng phước là đời trước vun bồi cội phước đã dày, nếu không làm dữ thời phước còn lớn hơn. Làm lành mà hay bị tai nạn là đời trước trồng gốc tội đã sâu. Nếu không làm lành tụng kinh niệm Phật, họa càng lớn hơn nữa. Ví như người phạm tội nặng chưa kịp hành hình lại lập được công nhỏ, vì chưa có thể hoàn toàn ân xá nặng thành nhẹ. Nếu lập công mãi đến khi công to không những trừ hết tội trước lại được giải thoát nữa.

Lập Cách Độ Tận Chúng Sanh

Cách này trừ ra người không tin, không tu theo Tịnh Độ thời thôi, nếu tin mà tu, bất cần gái trai già trẻ biết niệm Phật Di Đà, câm thời niệm thầm, dầu tu mấy triệu, chết cũng đặng vãng sanh Cực Lạc, không sót một người nào luân hồi đọa lạc.

Nhà nào có duyên phần, có phước, miễn một người đọc đặng cuốn kinh này, giảng cho cả nhà nghe chung chắc ai cũng muốn khi chết Phật Di Đà rước hồn về Tây Phương liên hoa hóa thân cho hết khổ. Ráng ăn trường trai, nếu không nổi tập lần lục trai, thập trai. Tệ quá thì ăn chay ngày mồng một và ngày rằm. Tuy không cấm việc vợ chồng cưới gả, song phải giữ giới kỳ cho nghiêm. Rảnh noi theo luật ỏcông quá cáchõ làm lành sửa mình, làm đặng chút nào đỡ chút nấy. Nhứt là nội nhà tuy còn ăn mặn, mà cữ tà dâm sát sanh cho nghiêm. Không nên uống rượu loạn tánh. Dùng khô mắm, thịt chợ, cá tôm chết saün, không giết con chi tại nhà bếp mình. Cữ huyết thịt trâu bò cày và thịt chó. Không cần đến chùa hay tìm thầy. Hãy coi ngày giờ chư Phật hội tại hướng nào, thời đặt bàn hương án nội nhà lập nguyện. Nhớ mỗi tháng y như vậy. Thỉnh tượng Di Đà thờ, mỗi ngày tụng nhật khóa, dốt niệm sáu chữ ỏNam Mô A Di Đà Phậtõ cũng đủ.

Ngày sám hối đặt bàn hương án nội nhà lập nguyện:

Tôi. . . họ. . tên. . ở làng. . .hạt. . phát tâm nguyện kể từ ngày nay, cải ác tùng thiện, ăn năn chừa lỗi. Giữ theo qui luật công quá cách, đặng bao nhiêu hay bấy nhiêu, nhứt là cữ sát sanh, uống rượu, tà dâm, gian giảo, nói dối và nguyện ăn chay (trường) (thập) (lục) (sóc vọng). Mà mỗi ngày niệm Di Đà tới đủ 30 muôn câu, đặng nhờ ơn Phật chứng minh ứng mộng, đem họ tên vào liên hoa. Sau lâm chung Phật cho biết ngày rước hồn về Cực Lạc, hóa thân theo Phật cho khỏi luân hồi lục đạo. Lạy bốn lạy, niệm Phật đếm đủ 108 câu, gọi một trăm. Đem tượng Phật thờ tại bàn nào thọ trì tự ý. Từ ấy sắp sau, đi đứng nằm ngồi đều niệm thầm. Ngày đêm đếm cộng đủ 30 muôn, sẽ thấy điềm Di Đà cho biết. (Trừ ra nằm hoặc ở trần thì niệm thầm mà xả không được ghi số). Đến cơn bịnh đừng sợ tốn, sắm đồ chay cho người bịnh ăn trường, niệm Phật ngày đêm cho tới lâm chung thời thấy Phật rước. Mấy ngày cũng đủ, nhiều tháng quí hơn. Hai năm thời thấy điềm cho biết trước ngày Phật rước hồn, có tòa sen.

Nếu chưa tới phần, mạnh lại như xưa, giữ trường chay không nổi ăn lại theo lệ cũ cũng không tội gì, đừng nghe họ hăm mà sợ sái, khi khác đau cũng vậy. Đừng ơ hờ, lơ lỏng uổng công. Nhớ đến cơn ngặt mình (gần tắt hơi) niệm ra tiếng mười câu, Di Đà hiện xuống rước liền. Người nhà nên niệm Phật giúp hoặc niệm vãng sanh, đừng nên khóc cho người bịnh động lòng, loạn tâm xao lãng sự tưởng niệm Di Đà. Không phải kêu khóc mà khỏi chết trong lúc mãn phần số.

Cách này độ vớt hết, từ con nít biết nói, biết niệm sắp lên, nó chưa biết nguyện, cơn lập nguyện để sau rốt. Người lớn bảo nó nói theo. Còn ai biết chữ thời đọc bài lập nguyện trước đây.

Tôi cứ theo phép Tịnh Độ trong kinh Đại Tạng lập ra mà độ giúp vớI Phật ỏđộ tận chúng sanhõ. Nếu bày huyễn hoặc, gạt đời cho mất công vô ích, tôi thề bị hủy hết công tôi trường chay 46 năm, thác bị cầm hồn tại địa ngục, 30 muôn năm mới được đầu thai làm ong kiến. Tôi ước nhiều vị khuyên độ tận tâm như tôi.

Tận Tâm Cư Sĩ Trần Phong Sắc thệ cáo.
(bài này trích trong Lão Nhơn Đắc Ngộ)

Bỏ Đường Tắt Tây Phương Chín Cõi Chúng Sanh Khó Thể Được Tròn Nên Quả Giác
Rời Cửa Mầu Tịnh Độ Mười Phương Chư Phật Không Vẹn Toàn Độ Khắp Hàng Mê

Trích trong Tây-Qui Trực-Chỉ và Lão-Nhơn Đắc-Ngộ
Đôi Liễn Ấn-Quang Pháp-Sư
Soạn Giả: Cư Sĩ Thiện-Tâm

Khuyên Tu Pháp Môn Tịnh Độ

Khuyên Tu Pháp Môn Tịnh ĐộĐạo hữu nghe được nhiều bài giảng Phật Pháp của Thầy thì rất tốt, nhưng bên cạnh đó mình nên chọn cho mình 1 pháp môn Tu để sau này mình được nhiều lợi ích hơn. Đồng ý là nghe nhiều thì có Trí huệ và Công Đức. Bên cạnh đó nếu mà chỉ nghe mà không chọn pháp môn tu thì khó có thể giải thoát khỏi sanh tử. Giống như 1 miếng bánh rất thơm ngon nếu chỉ ngửi mùi thôi thì mình không biết vị ngon ngọt thế nào, đến khi mình ngửi và ăn thì mới biết bánh đó thật sự ngon như thế nào. Cũng vậy, nếu mình chỉ nghe Phật Pháp mà không chọn pháp môn Tu thì cũng giống như ngửi bánh ngon mà không được ăn vậy. Mình nên có Văn, Tu và Chứng. Nếu chỉ có Văn (tức là nghe Pháp) mà không tu làm sao Chứng biết được vị của Giải Thoát. Hồi đức Phật còn tại thế, có 1 vị đệ tử là Ngài A Nan, Ngài nghe Phật nói Pháp tới đâu là Ngài nhớ tới đó. Ngài là thị giả của đức Phật bởi thế nghe rất nhiều về Phật Pháp. Nhưng khi Phật còn ở trần thế, Ngài vẫn chưa tu giải thoát cho chính mình, vì Ngài A Nan nghe nhiều mà không lo tu. Đến khi Đức Phật qua đời, thì Ngài A Nan tinh tấn tu hành sau này mới chứng quả Thánh thoát khỏi sanh tử luân hồi. Có đệ tử Phật lúc Phật còn tại thế, Ngài nghe Phật giảng 1 bài Pháp, sau đó tu liền thời gian sau liền chứng quả vị Thánh trong hiện đời. Bởi vậy đạo Phật không chủ trương nghe Pháp để giải trí hay nghe chơi cho vui hay nghe để lấp khoảng thời gian trống. Đạo Phật chủ trương nghe Pháp để có trí huệ và nương theo pháp môn Tu để tu thoát khỏi sanh tử. Nếu mà chỉ nghe Pháp không mà không chọn cho mình pháp môn Tu hành thì khó có thể thoát khỏi luân hồi đau khổ.

Theo đạo Phật, được thân người là rất khó, gặp được Chánh Pháp lại còn khó hơn, gặp Chánh Pháp mà tu theo được Chánh Pháp lại còn rất khó. Đạo hữu đã được nghe Thầy giảng thì đạo hữu cũng đã có nhiều duyên lành với Phật Pháp từ nhiều kiếp trước. Nếu mình có duyên lành thì mình nên bắt lấy cơ hội quý báo này để chọn cho mình pháp môn Tu để giải thoát sanh tử luân hồi. Sanh tử là khổ, chỉ 1 đời này mình gặp nhiều điều khổ (1) như sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ… huống chi nhiều đời nhiều kiếp sanh đi tử lại thì cái khổ phải nói là rất khổ và rất nhiều. Nếu biết cõi đời này là Khổ, sao mình không tu chẳng lẽ mình thấy Khổ mà vẫn chui đầu vào, như thấy tối mà đi vào tối. Không phải đạo Phật nói Khổ để bi quan mà nói Khổ để cho mình thức tỉnh tìm cách giải thoát. Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết tới hay Vô Thường tới (không thường còn mà hay thay đổi), lúc đó đã quá muộn rồi. Cõi này Vô Thường: thân vô thường (sanh, lão, bệnh, tử), tâm vô thường (buồn, giận, thương, ghét…) và hoàn cảnh vô thường (thành, trụ, hoại, không). Thân này rất mỏng manh, nó ví như là bọt biển có thể vỡ bất cứ lúc nào. Người có trí huệ nên dùng thân giả tạm này như chiếc bè để tu hành qua đến bờ Giải Thoát. Đừng để cuộc đời mình trôi đi qua theo năm tháng già bệnh chết một cách uổng phí. Như có Thầy nói, người sống trăm tuổi không biết tu thì không bằng người sống 1 ngày mà biết tu. Đúng như vậy, sống trăm tuổi mà chỉ biết ham mê ngũ dục, ăn ngủ và dục lạc… Đến khi chết không biết đi về đâu hoang mang sợ hãi và khi chết rồi đi tái sanh lại còn khổ hơn. Sống như thế hiện tại không được an lạc mà tương lai mờ mịt, sống như thế không có ý nghĩa và lợi ích cho mình. Hiểu cuộc đời này là vô thường, thân này là giả tạm, luân hồi là đau khổ, cõi này là cõi khổ thì mình chọn cho mình 1 pháp môn tu liền ngay lập tức đừng để cái Chết hay Vô Thường đến trước khi mình bắt đầu tu? Vậy Tu như thế nào và tu theo pháp môn gì?

Đạo Phật rất hay, hay ở chổ là nói Pháp cho mình có trí huệ và có duyên lành rồi sau đó mình tỉnh thức và nương theo pháp môn để tu. Pháp môn tu thì có rất nhiều gồm 84000 pháp môn. Tùy theo căn cơ và hoàn cảnh của chúng sanh mà chọn pháp môn tu cho phù hợp mỗi cá nhân. Tu đây không có nghĩa là bắt buộc phải Tụng Kinh, vào chùa cạo đầu. Mình tu tại gia thì mình tu theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Có nhiều pháp môn tu trong đạo Phật. Tùy theo căn cơ, trình độ, điều kiện và hoàn cảnh của mỗi người mà chọn pháp môn tu cho phù hợp. Pháp môn mà nhiều người tu (kể cả tại gia và xuất gia) là pháp môn Tịnh Độ (pháp môn niệm Phật). Sở dĩ pháp môn niệm Phật phổ biến và nhiều người tu vì nó không giới hạn mình trong 1 khuôn khổ nhất định nào và dễ tu đạt nhiều lợi ích. Như tu theo Thiền, mình nên có thời gian và môi trường yên tĩnh. Như pháp môn niệm Phật, đi, đứng, nằm, ngồi hay làm chuyện gì mình cũng có thể niệm Phật được. Mục đích và hướng đến của người tu Tịnh Độ là Vãng Sanh Cực Lạc. Muốn vãng sanh Cực Lạc gồm có 3 điều kiện: Tín, Nguyện và Hạnh. Như trong Kinh Phật A Di Đà, Phật Thích Ca nói cách đây mười vạn ức cõi Phật hướng về Phương Tây có 1 thế giới tên gọi là Cực Lạc, vị giáo chủ cõi Cực Lạc là Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp tại đó. Mình nên tin Phật Thích Ca nói vì Ngài không bao giờ nói dối và Ngài ra giới luật không nói dối cho đệ tử Ngài cũng như hàng xuất gia và tại gia. Mình chưa có khả năng thấy biết được Thê Giới Cực Lạc và Phật A Di Đà là giáo chủ cõi Cực Lạc, nhưng qua khả năng thấy biết của Thích Ca Mâu Ni Phật và Ngài nói lại mình nên tin như thế. Như trước đây khi không có kính thiên văn, người ta nghĩ chỉ có 1 trái đất này tồn tại, nhưng sau thời gian nhà khoa học khám phá ra được ngoài trái đất này có rất nhiều hành tinh khác nhau. Cách đây hơn 2500 năm, đức Phật đã nói có nhiều cõi nước khác nhau trong vũ trụ này bởi vậy Phật đã nói đúng với khoa học.

Thứ nhất tu theo pháp môn Tịnh Độ phải có Tín. Bất cứ tu theo pháp môn nào cũng đòi hỏi Tín nếu không tin làm sao tu theo được. Tin vẫn là căn bản thiết yếu trong hết thảy mọi pháp môn tu. Tin là mẹ đẻ ra tất cả những Công đức. Vậy người tu Tịnh Độ nên tin những gì: Tin có Phật A Di Đà, tin có cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, tin Nhân Quả, Tin rằng kiếp sống này ngắn ngủi mạng người như hơi thở ra vào, tin 48 (2) lời nguyện của Phật A Di Đà là hoàn toàn chân thật

Thứ 2 là phải nên có Nguyện, nếu không có Nguyện làm sao Vãng Sanh Cực Lạc được. Giống như người đi từ điểm A tới điểm B, nếu người đó nói Tôi muốn đi tới điểm B mà tâm ý không muốn đi tới điểm B thì không bao giờ tới được. Khi mình có Nguyện thì Phật A Di Đà có tha tâm thông (3) mới biết mình muốn Vãng Sanh Cực Lạc thì Ngài mới giúp mình Vãng Sanh được. Mình vẫn còn là phàm phu không có khả năng vãng sanh được nhưng nhờ có Phật Lực giúp cho mình Vãng Sanh. Đạo hữu nên Nguyện như thế này: Nam Mô A Di Đà Phật, con tên gì…sanh năm mấy…bao nhiêu tuổi…con nguyện vãng sanh Cực Lạc sau khi con bỏ thân mạng này. Nguyện nhiều hay ít hoặc nguyện 1 hay 2 lần cũng được tùy theo mỗi người và Đạo hữu nguyện trong tâm hay nguyện ra tiếng hay đứng trước hình Phật hay không đứng trước cũng được. Tại sao mình phải nguyện về Cực Lạc, Cực Lạc là gì? Cực nghĩa là rất, Lạc là vui. Cực Lạc là rất vui. Trong Kinh Phật A Di Đà có nói đến đoạn “Tại sao gọi là Cực Lạc? Vì cõi đó không có những sự đau Khổ chỉ hưởng thụ những sự vui sướng mà thôi”. Vui sướng đây không có nghĩa là Vui sướng với dục lạc, ngũ dục hay vui tạm bợ của thế gian…Vui sướng đây là vui được thường nghe Phật Pháp, vui không phiền não, vui không già, bệnh, chết, vui không đau khổ, vui được bực Thượng Thiện Nhân (Bồ Tát) được ngồi chung nghe Pháp, vui với Công Đức Trang Nghiêm của Cực Lạc và không có những điều Khổ và không có những tiếng Khổ và không có những điều ác và những điều vui khác…Bởi thế nên Nguyện Vãng Sanh Cực Lạc để được nhiều lợi ích cho chính mình.

Thứ 3 là nên có Hạnh tức là trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Trì đây có nghĩa là mình nên niệm Nam Mô A Di Đà Phật nhiều mỗi ngày tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật có nhiều cách: hoặc là trì Nam Mô A Di Đà Phật ra tiếng, hoặc trì thầm, hoặc lần xâu chuổi hoặc trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật trong tâm… Cách nào cũng được miễn sao phù hợp với khả năng và hoàn cảnh mỗi người. Đi, đứng, nằm, ngồi hay làm chuyện gì cũng trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cũng được. Như trong Kinh A Di Đà có nói “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói về Đức Phật A Di Đà, cố gắng chuyên trì danh hiệu Ngài: hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm chẳng loạn, thì người ấy khi lâm chung sẽ được Đức Phật A Di Đà cùng các bậc Thánh, hiện ra trước người ấy, người ấy trong khi chết tâm không điên đảo, liền được sinh sang cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Đà”. Nếu muốn niệm Phật được sớm Nhất Tâm Chẳng Loạn thì nên trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật không xen tạp nghĩa là sao? Nghĩa là niệm Phật không nên để vọng tưởng, suy nghĩ phân biệt xen vào tức là đừng để tâm phân biệt tốt, xấu, phải, quấy, hơn thua, đúng, sai… Chỉ để tâm tập trung vào câu niệm Phật mỗi câu rõ ràng, mỗi niệm phân minh, niệm Phật với tâm thanh tịnh thì được phẩm vị Vãng sanh cao (4). Trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật còn nói “Muốn vãng sanh Cực Lạc chỉ cần trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là đủ”. Bởi thế mình tu theo pháp môn Tịnh Độ chỉ cần có Tín, Nguyện và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là đủ.

Theo như Kinh Niệm Phật Ba La Mật có nói “Vãng Sanh Cực Lạc thì không còn ở địa vị phàm phu thân xác ngũ uẩn nữa” (tức là thoát khỏi sanh tử luân hồi). Vãng Sanh Cực Lạc mình được rất nhiều lợi ích là chứng được quả vị Bất Thối Chuyển (không còn thối chuyển ở quả Vị Phật), thọ mạng lâu dài sống rất lâu (trích trong Kinh A Di Đà), không phiền não, bệnh, già, chẳng những thế mà không khổ còn hưởng những điều vui, và còn có điều kiện tốt, môi trường và hoàn cảnh tốt, bạn tốt để tu hành tiến tu lên tới quả vị Thánh. Khi mình tu hành lên tới quả vị Bồ Tát, nếu mình tu tiếp lên tới quả vị Phật, mình phải trở lại những Cõi, độ giúp những chúng sanh khác giải thoát. Bồ Tát lấy lợi ích cho chúng sanh làm sự nghiệp của mình. Bởi thế Bồ Tát muốn thành Phật thì phải độ giúp rất nhiều chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi.

Đới nghiệp vãng sanh là vãng sanh mang theo nghiệp nghĩa là mặc dù mình có Nghiệp (Nghiệp Thiện hay Ác) nhưng mình vẫn được vãng sanh. Không có nghĩa là mình tạo tội hay điều ác mà mình tránh được Quả Báo. Nhân Quả thì đúng ba đời Quá Khứ, Hiện Tại Và Vị Lai không sai. Mình vãng sanh cõi Cực Lạc thì không lãnh Quả báo nhưng khi mình ở quả vị Bồ Tát trở lại độ giúp chúng sanh thoát khổ, lúc đó Quả Báo từ nhiều kiếp trước của mình đến với mình. Lúc đó mình có năng lực lãnh Quả báo 1 cách an nhiên, chứ mình không đau khổ lãnh Quả báo như còn phàm phu. Còn những tập khí: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…Những tánh xấu đó khi mình Vãng Sanh Cực Lạc mình sẽ tiêu trừ nó lần lần đến diệt đi. Mình Vãng Sanh Cực Lạc thì mình có nhiều cơ hội điều kiện tốt để diệt trừ đi những tâm xấu của mình. Nếu nói như thế thì những người ác nếu Vãng Sanh Cực Lạc thì cõi đó sẽ trở nên phức tạp sao? Không. Người ác nếu mà hồi đầu mà tu theo pháp môn Tịnh Độ, nếu có Tín Nguyện Hạnh, hoặc trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật trước khi lâm chung đủ 10 niệm. Thì người đó vẫn được vãng sanh nhưng mà ở phẩm vị thấp. Nếu ở phẩm vị vãng sanh thấp thì hoa sen rất lâu nở và lâu thấy cõi Cực Lạc. Khi hoa sen nở sẽ thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát hay Đại Thế Chí Bồ Tát thuyết pháp cho chúng sanh đó nghe. Còn những chúng sanh nào mà tội ít, làm lành nhiều, niệm Phật nhiều thì hoa sen của người đó mau nở và mau thấy được cõi Cực Lạc.

Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ có nói “mỗi câu niệm Phật trừ được 80 ức kiếp (1 ức bằng 100000) tội sanh tử?” Nam Mô A Di Đà Phật là gì? Nam Mô (nghĩa là Quy Y) A Di Đà (Vô Lượng Thọ hoặc Vô Lượng Công Đức) Phật (Giác Ngộ). Trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật được rất nhiều Công Đức. Trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật trừ đi được nhiều vọng tưởng. Trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật làm thân, khẩu và ý của mình từ từ trở nên thanh tịnh, như thế mình hạn chế hoặc không tạo ra Tội và Nghiệp xấu. Và niệm Phật được nhiều lợi ích khác (muốn biết thêm xin đọc cuốn Kinh Niệm Phật Ba La Mật có nói nhiều về lợi ích của trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật)

Đặc điểm của Pháp môn niệm Phật là: tự lực và tha lực. Tự lực là tự nỗ lực chính mình tu hành trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Còn tha lực nghĩa là nhờ Phật Lực giúp mình được Vãng Sanh Cực Lạc. Không như pháp môn Thiền, chỉ có tự lực mà không có tha lực nghĩa là tự khả năng mình tu hành mà không có tha lực.

Đạo hữu nên có công phu niệm Phật mỗi ngày tức là mình nên có thời khóa biểu niệm Phật, tùy theo khả năng và hoàn cảnh của đạo hữu. Ví dụ như, sáng dậy sớm đạo hữu niệm Phật 1 tiếng hay 2 tiếng…trước khi đi làm, ăn xong lên niệm Phật 1 hoặc 2 tiếng….trước khi đi ngủ nên dành thời gian ra niệm Phật khoảng 1 hay 2 tiếng…Số lần công phu niệm Phật mỗi ngày của đạo hữu có thể hơn số đó nữa. Tùy theo hoàn cảnh của đạo hữu mà có thời khóa niệm Phật riêng cho mình như thế nào. Mỗi lần niệm Phật vậy đạo hữu nên ngồi niệm Phật (tốt hơn nằm niệm Phật) vì làm mình dễ tập trung niệm Phật và làm mình không ngủ gục. Lúc mình công phu niệm Phật đừng để vọng tưởng suy nghĩ phân biệt xen vào nghĩa là đừng để tâm phân biệt tốt, xấu, phải, quấy, hơn thua, đúng, sai… Chỉ để tâm tập trung vào câu niệm Phật mỗi câu rõ ràng, mỗi niệm phân minh. Nếu trong lúc công phu niệm Phật nếu đạo hữu trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT ra tiếng được thì tốt (còn nếu không được thì niệm Phật thầm ra tiếng hoặc niệm Phật trong tâm…). Vì nếu niệm Phật ra tiếng sẽ giúp tâm đạo hữu dễ dàng theo tiếng niệm Phật và vọng tưởng suy nghĩ phân biệt cũng khó phát khởi hơn. Bên cạnh thời khóa niệm Phật riêng cho mình, đạo hữu đi, đứng, nằm, ngồi hay làm công chuyện gì… đạo hữu cũng nên trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

Còn việc Vãng Sanh Cực Lạc thì có người đã Vãng Sanh hay chưa? Đã có rất nhiều người đã vãng sanh Cực Lạc, những người tại gia và xuất gia đã vãng sanh rất nhiều, có những video, tài liệu sách vở, hình ảnh lưu xá lợi, và những vị Thầy kể lại. Những điều này mình nên tin vì những bằng chứng ghi lại hay kể lại này đều là Phật tử tại gia hay xuất gia. Phật tử thì không được nói dối cho dù tại gia hay xuất gia. Có nói có, không nói không, không có thì không nói. Nếu phạm tội nói dối là phạm vào giới luật của đạo Phật. Một trong những giới luật căn bản của người Phật tử tại gia hay xuất gia là không được nói dối. Nếu người này phá giới nói dối, tội người này nặng hơn người không giữ giới. Tức là tội nói dối cộng thêm với tôi phá giới.

Tôi tình cờ đọc được bài viết “CON ĐƯỜNG TU TẮT-PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ” (soạn giả: Cư Sĩ Thiện-Tâm) và biết được sự vãng sanh của ông Cố tôi là Trần Phong Sắc đã được ghi lại trong bài viết này trong phần sự tích vãng sanh ở nước Việt Nam. “Ông Trần Phong Sắc tại chợ Vũng Gù (bây giờ gọi là Long An). Ông trường chay lúc 10 tuổi và thờ Tam giáo, Nho, Thích, Đạo. Vào khoảng năm 1920, ông làm giáo học dạy chữ Nho tại trường tỉnh Long An. Ông xem kinh Đại tạng gần 30 năm mới gặp pháp môn Tịnh độ. Lúc đó ông trên 50 tuổi và bắt đầu tu theo pháp môn này. Ông có viết quyển Lão Nhơn Đắc Độ và dịch quyển Tây Quy Trực Chỉ của ông Châu an Sỹ. Cơn lâm chung, ông biết trước ngày về Tây phương, do đó ông có làm bài kệ khuyên người tu Tịnh độ (xem Tây Quy Trực Chỉ)” (Trích trong “CON ĐƯỜNG TU TẮT-PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ” soạn giả: Cư Sĩ Thiện-Tâm)

Tôi có nghe người nhà nói nhiều về ông Cố và nói ông Cố có viết quyển “Lão Nhơn Đắc Độ”. Ông Nội tôi là con của ông Trần Phong Sắc và hiện giờ vẫn còn sống và đang ở Long An. Hiện giờ, ông Nội và bà Nội tôi vẫn tinh tấn tu theo Pháp Môn Tịnh Độ và đã tu được mấy chục năm rồi. Tôi nói đây không phải là khoe khoang, mà xác nhận việc vãng sanh của ông Cố tôi là sự thật và đúng như bài viết “CON ĐƯỜNG TU TẮT-PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ”. Đây là 1 trong những bằng chứng trong nhiều trường hợp vãng sanh là có thật. Đạo hữu nên tin những gì tôi nói trên. Tôi cũng là Phật tử tại gia, thọ trì 5 giới cấm (trong đó có giới cấm không nói dối, bởi thế tôi không được nói dối). Vãng sanh Cực Lạc là có thật, rất nhiều chúng sanh đã vãng sanh Cực Lạc được ghi lại. Tôi tu theo pháp môn Tịnh Độ nhiều năm và tôi đã có Tín, Nguyện và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cũng được nhiều năm rồi. Đạo hữu nên tu theo pháp môn Tịnh Độ, có Tín (nghĩa là lòng tin chân thật, tha thiết, bền vững), Nguyện tha thiết, Hạnh (nghĩa là chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT nhiều mỗi ngày và giữ trọn đời không thay đổi). Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, thì đạo hữu chắc chắn vãng sanh Cực Lạc của Phật A Di Đà sau kiếp này. Vãng Sanh Cực Lạc tức là đạo hữu thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ.

Khi mình tu theo pháp môn niệm Phật, khi cái chết đến với mình mình không hoang mang, lo sợ hay đau khổ vì mình biết hướng đi của mình, mình biết sẽ về đâu vì có sự giúp đỡ và sự tiếp dẫn của Phật A Di Đà để giúp mình Vãng sanh Cực Lạc thì mình không còn gì phải lo sợ. Còn nếu mình không biết tu, khi cái chết đến mình rất hoang mang, đau khổ, hoặc mình thấy những oan hồn oan gia trái chủ đến đòi nợ, và mình thấy những tội ác mình làm trước và thấy những cảnh ghê sợ hiện đến và sự đau đớn của thể xác sắp tan rã trong nội tạng. Sau khi chết mình bị Nghiệp (5) (là hành động tạo tác của thân, khẩu và ý) dẫn đi luân hồi sanh tử, và thần thức (hay linh hồn) không biết sẽ tái sanh đi đâu và không biết có vào tam ác đạo (địa ngục, ngạ Quỷ và súc sinh) hay không. Mình không định hướng cho mình đi tái sanh, chỉ có Nghiệp Thiện và Nghiệp Ác của mình quyết định hướng tái sanh cho mình. Có 4 Nghiệp sẽ tác động đến khi luân hồi là: Cận Tử Nghiệp (Nghiệp trước giờ lâm chung, nghiệp xấu như giận dữ …), Cực Trọng Nghiệp (Nghiệp rất nặng: như giết cha mẹ…), Thường Nghiệp (nghiệp tốt hay xấu mình làm thường trong khi còn sống), và Tích Lũy Nghiệp (Nghiệp nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ). Thầy có nói là mình là chủ nhân của Nghiệp và mình cũng chính là thừa tự của Nghiệp. Mình tạo Nhân gì thì mình gặt Quả đó không trốn chạy đi được. Mình tạo Nhân tốt, được Quả tốt, mình tạo Nhân xấu, được Quả xấu. Như Phật nói khi Quả đến cho dù mình có chui vào hang, trốn trong lòng đất cũng không thoát khỏi cái Quả. Nhân Quả là đúng ba đời (Quá Khứ, Hiện Tại và Vị Lai). Bởi thế khi sắp lâm chung Nghiệp sẽ quyết định ta luân hồi vào cõi tốt hay xấu. Bởi thế sanh tử luân hồi là rất nguy hiểm và đau khổ. Bởi thế lúc còn sống mình nên tạo Thường Nghiệp tốt như trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là một ví dụ để trước khi chết mình có Cận Tử Nghiệp là vẫn niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì khi lâm chung mình chắc chắn vãng sanh Cực Lạc. Khi còn sống nếu không tạo Thường Nghiệp tốt tức là không trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, trước khi lâm chung rất khó khăn trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Mặc dù biết rằng trước khi lâm chung trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật mười niệm vẫn được Vãng Sanh Cực Lạc (trích trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ), nhưng rất là khó vì có người khi lâm chung bị nhiều thứ chi phối (như thân thể đau đớn, tâm sợ hãi lo sợ, hình ảnh xấu hiện trong tâm, hoặc thấy oan gia trái chủ…) rất khó mà trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật đến mười niệm. Mình còn sống thì nên chuẩn bị Thường Nghiệp trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cho nhiều để mình tạo thói quen và tạo cái Lực thật mạnh, để khi lâm chung thói quen niệm Phật đó sẽ giúp mình nhớ đến niệm Phật và cái Lực sẽ tác động mình trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật 1 cách dễ dàng.

Đạo hữu nên tin những gì tôi nói trên. Tôi cũng là Phật tử tại gia và tu theo pháp môn Tịnh Độ nhiều năm và tôi đã có Tín, Nguyện và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cũng được nhiều năm rồi. Tôi không nói dối gì cả, tôi đọc nhiều Kinh Phật, sách Phật Pháp cũng như xem nhiều tài liệu Kinh Phật về pháp môn Tịnh Độ, và qua đó nghe nhiều bài giảng của Thầy về Phật Pháp và pháp môn Tịnh Độ. Nếu đạo hữu muốn tìm hiểu thêm về pháp môn Tịnh Độ cũng như tìm hiểu thêm về Công Đức Trang Nghiêm của cõi Cực Lạc, 48 lời nguyện của Phật A Di Đà, nói Tín, Nguyện và Hạnh, hay tả về cõi Cực Lạc rất đẹp và vi diệu như thế nào thì có thể tìm đọc: Kinh Niệm Phật Ba La Mật, Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Kinh Vô Lượng Thọ Phật. Đó là 4 Kinh Phật chính nói về pháp môn Tịnh Độ (hay pháp môn niệm Phật) qua đó có thể tham khảo thêm. Hoặc có thể nghe những bài giảng của Thầy về Pháp môn Tịnh Độ và xem đĩa của những người vãng sanh hoặc đọc sách của Cư Sĩ Tịnh Hải biên soạn (có nhiều hình ảnh lưu xá lợi của những người đã vãng sanh và có những câu chuyện thật của những người vãng sanh).

Tôi viết những điều này cũng mong rằng đạo hữu tu theo pháp môn Tịnh Độ liền, đừng để những nghi ngờ, hay những chướng duyên nào đó hay bị cuộc sống mình cản ngăn. Đừng để tâm mình biện minh, tại này tại nọ hay hẹn này hẹn nọ hay lý do này lý do nọ là tôi không tu được theo pháp môn niệm Phật. Chẳng lẽ mình đi theo những nghi ngờ này nghi ngờ nọ hay lý lẽ này lý lẽ nọ hay lý do này lý do nọ mà đánh đổi cơ hội quý báo thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ này sao. Như thế không đáng chút nào. Pháp môn này rất dễ tu ai ai tu cũng được. Đi, đứng, nằm, ngồi hay làm công chuyện mình vẫn có thể trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật hoặc là niệm Phật ra tiếng, hay niệm Phật thầm hay niệm Phật trong tâm cách nào cũng tốt…Đạo hữu nên bắt đầu ngay từ bây giờ, đừng đợi thời gian sau làm. Mình đâu biết cái chết có thể đến với mình 1 giờ sau hay qua ngày mai đâu…Cái chết không biết đến với mình bất cứ lúc nào, không biết sống nay chết mai, và nó không phân biệt khoẻ mạnh, ốm đau, già trẻ, lớn bé, nam hay nữ…Bởi thế, giờ còn sống ngày nào nên tu theo pháp môn Tịnh Độ: có Tín, Nguyện và Hạnh đầy đủ là chắc chắn được vãng sanh Cực Lạc. Mình đừng nên để lý lẽ lý luận làm chướng ngại cho đường tu hành của mình. Tu theo pháp môn Tịnh Độ là lợi ích cho mình và lợi ích cho nhiều chúng sanh khác hiện tại và sau này nữa. Nếu mình vãng sanh Cực Lạc sau khi bỏ thân mạng này, mình về cõi Cực Lạc tinh tấn tu hành, sau này trở thành Bồ Tát, trở lại sớm độ giúp nhiều chúng sanh thoát luân hồi. Tất cả mọi thứ điều Vô Thường, Thân Vô Thường, Tâm cũng Vô Thường, Hoàn cảnh cũng Vô Thường, vui buồn, mừng giận, thương ghét, thành bại, khổ đau, vui sướng…những điều này cũng bị luật Vô Thường chi phối những tâm trạng đó có rồi mất không thường còn với mình. Mình chết là sẽ bỏ lại tất cả những tài sản của cải vật chất, người thân, thân mạng mình và những Tâm vui buồn… Mình chỉ mang đi cái Nghiệp Thiện và Ác của mình tạo ra. Nếu mình có tạo nghiệp Thiện, nếu có sanh về cõi trời đi nữa, khi hưởng phước đã hết thì vẫn luân hồi và vẫn đau khổ trở lại. Chi bằng, nay mình biết pháp môn Tịnh Độ, nương theo Tín, Nguyện, và Hạnh mà tu thì mình thoát khỏi sanh tử luân hồi một cách dể dàng nhờ Nguyện Lực, Tha Lực và Lòng Đại Từ Đại Bi của Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc. Đã có nhiều người đã vãng sanh, đừng để mình là một trong những người không được vãng sanh thế thì rất tiếc. Đừng để mình tụt lại phía sau những chúng sanh khác. Đừng để mình phải tiếp tục chịu khổ trong luân hồi và trong khi đó nhiều chúng sanh đã vãng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi hết đau khổ. Những người có trí huệ thấy khổ người ta tìm cách thoát khổ, chứ không phải thấy khổ mà vẫn vui trong khổ, đó là si mê. Mình nên nương theo người trí huệ đừng nương theo người si mê để rồi phải chịu nhiều đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác từ đời này sang đời khác. Mình nên tu theo pháp môn Tịnh Độ để đặt dấu chấm hết cho sự luân hồi đau khổ cho chính mình và ráng tu theo pháp môn Tịnh Độ để kiếp sống này là kiếp cuối cùng của mình trong sanh tử luân hồi. Già, trẻ, nam, nữ, khỏe mạnh, người tốt, người xấu, người bệnh, ngu si, thông minh gì…cũng tu được pháp môn niệm Phật này, chủ yếu mình có tu hay không thôi. Nếu mình có Tín Nguyện Hạnh đầy đủ thì Phật A Di Đà chắc chắn giúp mình vãng sanh Cực Lạc và Ngài không bỏ sót bất cứ chúng sanh nào cả không luận người đó ở địa vị gì, hoàn cảnh thế nào, thân thế ra sao, tốt hay xấu…miễn tu theo pháp môn niệm Phật thì Ngài sẽ giúp cho vãng sanh Cực Lạc chắc chắn là thế.

Mình tu theo pháp môn Tịnh Độ và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là mình có rất nhiều thiện căn phước đức từ nhiều kiếp trước. Nhiều kiếp trước mình đã gieo duyên lành nhiều với Phật Pháp, tạo Nhân tốt nhiều và tu hành nhiều. Nên nay mình tu theo pháp môn Tịnh Độ và được trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật đây là Quả thoát khỏi sanh tử luân hồi sau khi bỏ thân mạng này là điều tất yếu. Bởi thế mình nên nắm lấy Quả tốt này đừng nên phân vân để rồi Cái Chết đến với mình và mình mất duyên thoát khỏi sanh tử luân hồi. Đừng nghĩ đợi kiếp sau mình sẽ gặp Phật Pháp rồi mình tu hành thoát khỏi sanh tử luân hồi sau. Theo đạo Phật, đây là thời Mạt Pháp, sau thời Mạt Pháp này qua rồi. Phật Pháp bị diệt phải đợi rất rất rất lâu thì Phật mới ra đời. Nếu mình đánh mất cơ hội tu theo pháp môn Tịnh Độ cuộc đời này, mình sanh tử luân hồi lại rất là đau khổ và nguy hiểm, cho dù ở cõi Người đi chăng nữa lúc đó ngoại đạo, những người ác, những cái ác và cái xấu sẽ rất nhiều và lẫy lừng trong xã hội. Lúc đó không gặp Phật Pháp thì làm sao mình thoát khỏi sanh tử luân hồi tới lúc đó mình rơi vào Tam Ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh rất là dễ.

Nếu có người hỏi tại sao Phật A Di Đà không tiếp dẫn tất cả những chúng sinh? Phật A Di Đà muốn tiếp dẫn tất cả những chúng sinh, nhưng chúng sinh đó phải có duyên với Ngài. Không có duyên Ngài không độ giúp được. Nếu người ta không muốn về mình không bắt ép người ta được, như thế dẫn đến hậu quả không tốt. Người đó không nguyện vãng sanh Cực Lạc thì làm sao đưa người đó về Cực Lạc được, họ vẫn còn si mê cho rằng cõi này vui và họ còn tham chấp yêu thích cõi Khổ này và họ không muốn vãng sanh. Và có người họ không biết pháp môn Tịnh Độ thì làm sao họ nguyện mà về được. Không phải họ không muốn biết và tu theo pháp môn Tịnh Độ, mà họ không có duyên lành với Phật Pháp và họ không có thiện căn phước đức để có duyên gặp pháp môn Tịnh Độ. Bởi thế, mình có duyên gặp được pháp môn Tịnh Độ này là mình có duyên lành tốt và thiện căn phước đức nhiều. Nay mình nên tạo duyên với Phật A Di Đà bằng cách tu theo pháp môn Tịnh Độ, có Tín (nghĩa là lòng tin chân thật, tha thiết, bền vững), Nguyện tha thiết, Hạnh (Theo Kinh Niệm Phật Ba La Mật “nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào, đủ lòng tin thì chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT, suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi”. “Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, lập tức vào Phổ-đẳng Tam-muội của đức A-Di-Đà được Phật tiếp dẫn về Tịnh-độ Tây-phương. Vĩnh viễn xa lìa các đường ác, không còn luân hồi sanh tử.”)

Luân hồi đau khổ

Khổ không sao nói cho hết

Khổ thân rồi đến khổ tâm

Khổ từ đời này sang đời khác

Khổ từ kiếp này sang kiếp khác

Người trí huệ tìm cách thoát khổ

Kẻ si mê thấy khổ vẫn vui

Vui trong đau khổ khổ hoài khó ra

Tịnh Độ là dứt luân hồi đau khổ

Tịnh Độ là vui

Vui không sao nói cho hết

Vui được nghe Pháp vui gần Thượng Thiện Nhân

Vui cảnh vật Trang Nghiêm cõi Cực Lạc

Vui trong tu hành giải thoát

Vui không sanh tử luân hồi

Vui không sanh, tử, bệnh, già

Vui không phiền não vui thiệt là vui

Khuyên ai gắng sức lo tu

Tu theo pháp môn Tịnh Độ một đời

Vãng Sanh Cực Lạc thoát khỏi phàm phu

Tu liền chớ nên đợi chờ

Thân người mong manh như bọt biển

Vô Thường không phân biệt nữ nam

Đừng để cái chết gần kề

Đừng chờ đừng đợi đừng kẻo hoài nghi

Hãy tu liền mau kẻo muộn

Pháp môn Tịnh Độ dễ lắm ai ơi

Người nào tu cũng được vãng sanh

Vãng Sanh Cực Lạc sướng chừng biết bao

19/09/2008

Chú thích:

(1) Khổ: có 8 cái khổ là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ái biệt ly khổ (người mình thương xa cách là khổ), oán tắng hội khổ (kẻ thù gặp nhau là khổ), cầu bất đắc khổ (cầu muốn điều gì mà không được là khổ), năm ấm hưng thạnh là khổ.

(2) 48 lời nguyện: tức là 48 lời nguyện của Pháp Tạng Tỳ Kheo trong quá khứ, nay là Phật A Di Đà. 48 lời nguyện của Ngài là tạo nên cõi Cực Lạc hiện nay và nguyện tiếp dẫn những chúng sanh mười phương chí tâm, tin, ưa muốn vãng sanh cõi Cực Lạc và niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. 48 lời nguyện của Phật A Di Đà đã thành tựu và Ngài đã thành Phật đến nay đã được 10 kiếp.

(3) Tha tâm thông: khả năng biết tâm chúng sanh muốn gì, suy nghĩ gì, nguyện gì…

(4) Phẩm vị vãng sanh: Cõi Cực Lạc có 9 phẩm vị vãng sanh: Thượng Thượng, Thượng Trung, Thượng Hạ, Trung Thượng, Trung Trung, Trung Hạ, Hạ Thượng, Hạ Trung va Hạ Hạ.

(5) Nghiệp: là hành động tạo tác của thân, khẩu và ý. Nghiệp có hai loại: Nghiệp Thiện và Nghiệp Ác. Nghiệp Thiện là hành động tạo tác thiện của thân, khẩu và ý. Nghiệp Ác là hành động tạo tác ác của thân, khẩu và ý

SỰ VÃNG SANH CỦA ÔNG CỐ TÔI

Tôi tình cờ đọc được bài viết “CON ĐƯỜNG TU TẮT-PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ” (soạn giả: Cư Sĩ Thiện-Tâm) và biết được sự vãng sanh của ông Cố tôi là Trần Phong Sắc đã được ghi lại trong bài viết này trong phần sự tích vãng sanh ở nước Việt Nam. Tôi từng có nghe người nhà nói nhiều về ông Cố và nói ông Cố có viết quyển “Lão Nhơn Đắc Độ”. Ông Nội tôi là con của ông Trần Phong Sắc và hiện giờ vẫn còn sống và đang ở Long An. Hiện giờ, ông Nội và bà Nội tôi vẫn tinh tấn tu theo Pháp Môn Tịnh Độ và đã tu được mấy chục năm rồi. Tôi nói đây không phải là khoe khoang, mà xác nhận việc vãng sanh của ông Cố tôi là sự thật và đúng như bài viết “CON ĐƯỜNG TU TẮT-PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ”. Đây là 1 trong những bằng chứng trong nhiều trường hợp vãng sanh là có thật. Các bạn nên tin những gì tôi nói trên. Tôi cũng là Phật tử tại gia, thọ trì 5 giới cấm (trong đó có giới cấm không nói dối, bởi thế tôi không được nói dối). Vãng sanh Cực Lạc là có thật, rất nhiều chúng sanh đã vãng sanh Cực Lạc được ghi lại. Tôi tu theo pháp môn Tịnh Độ nhiều năm và tôi đã có Tín, Nguyện và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cũng được nhiều năm rồi. Các bạn nên tu theo pháp môn Tịnh Độ, có Tín (nghĩa là lòng tin chân thật, tha thiết, bền vững), Nguyện tha thiết, Hạnh (nghĩa là chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT nhiều mỗi ngày và giữ trọn đời không thay đổi). Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, thì các bạn chắc chắn vãng sanh Cực Lạc của Phật A Di Đà sau kiếp này. Vãng Sanh Cực Lạc tức là các bạn thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ. Nếu bạn nào chưa biết gì về Pháp Môn Tịnh Độ hoặc chưa tu theo Pháp Môn Tịnh Độ. Các bạn có thể tìm đọc những Kinh Phật (như Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ Phật…) hay những bài viết về Pháp Môn Tịnh Độ (tức là Pháp Môn Niệm Phật) của những Thầy trong mục “Tịnh Độ” trong những mạng Phật Giáo hay bạn có thể đọc bài viết “Khuyên Tu Pháp Môn Tịnh Độ” của tôi viết. Qua đó giúp các bạn tu theo Pháp Môn Tịnh Độ liền, nhằm được nhiều lợi ích cho mình và nhiều chúng sanh khác. Hầu giúp mình và nhiều chúng sanh khác tất cả đều vãng sanh Cực Lạc của Phật A Di Đà sau kiếp này và thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ. Bạn nào hiện đang tu theo Pháp Môn Tịnh Độ hãy nên Tín sâu hơn, Nguyện thiết hơn và trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT tinh tấn hơn. Để các bạn được vãng sanh Cực Lạc ở phẩm vị cao hơn, về cõi Cực Lạc tu hành tinh tấn hơn, sớm lên quả vị Bồ Tát, trở lại những Cõi độ vô lượng chúng sanh sớm thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ và tu hành thành Phật.

Trong Kinh Ðại Tập, Phật có nói: “Ðời mạt pháp, ức ức người tu hành, ít người được đạo, duy chỉ có nương theo pháp môn niệm Phật mới được độ”. Hiện tại, đây là thời Mạt Pháp muốn thoát khỏi sanh tử sau kiếp này chỉ có 1 con đường duy nhất là tu theo Pháp Môn Tịnh Độ. Ngày nay, các bạn tu theo Pháp Môn Tịnh Độ là làm đúng lời Phật dạy thì chắc chắn các bạn, 1000 người tu 1000 người đều vãng sanh Cực Lạc và hơn thế nữa. Không luận là các bạn bao nhiêu tuổi và hiện giờ đang ở đâu trong nước hay ngoài nước, vẫn ở tại nơi chốn của mình mà vẫn tu theo Pháp Môn Tịnh Độ và các bạn vẫn được vãng sanh Cực Lạc sau kiếp này. Hẹn tất cả các bạn ở cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà ở Tây Phương.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Dưới đây là những mạng kết nối, các bạn nhấn vào những mạng kết nối dưới đây để đọc để tìm hiểu về Pháp Môn Tịnh Độ (hay Pháp Môn Niệm Phật)

KINH A DI ĐÀ (Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch)

http://www.quangduc.com/tinhdo/13kinhdida.html

CON ĐƯỜNG TU TẮT-PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ (soạn giả: Cư Sĩ Thiện-Tâm)

http://www.thuvienhoasen.org/conduongtutat.htm

Khuyên Tu Pháp Môn Tịnh Độ (Cư Sĩ Thiện Thông)

http://www.tangthuphathoc.net/tinhdo/khuyentutinhdo.htm

Dưới đây là vài mạng kết nối hữu ích để giúp đạo hữu đọc những bài của nhiều Thầy, qua đó biết cách trợ niệm vãng sanh như thế nào cho những người khác trong gia đình, bà con, quyến thuộc…trước khi lâm chung hay sau khi mất trong vòng 49 ngày. Hầu giúp nhiều chúng sanh sớm được vãng sanh Cực Lạc của Phật A Di Đà thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ. Những bài này cũng giúp cho đạo hữu hiện đang tu theo Pháp Môn Tịnh Độ (hay Pháp Môn Niệm Phật) biết những điều quan trọng mình nên tránh và nên làm trước khi lâm chung để vượt qua những chướng duyên, giúp cho đạo hữu chắc chắn vãng sanh Cực Lạc sau khi bỏ thân mạng cuộc đời này.

Trích trong “Rốt Cùng Của Cuộc Đời” của Đại Sư Hoằng Nhất “Cho dù người nào lâm chung có duyên lành được thiện hữu trợ niệm mọi việc diễn ra đều như pháp, nhưng bản thân thường ngày phải có công phu tu trì mới có được lâm chung an nhiên tự tại. Tôi xin có lời khuyên các bậc hiền giả, tốt nhất là khi còn sống chuẩn bị tư tưởng vãng sanh mới là thoả đáng”.

Nghĩa là mình nên tu theo Pháp Môn Niệm Phật lúc còn sống, có Tín sâu, Nguyện thiết và Hạnh tinh tấn (tức là trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT) để khi lâm chung thói quen niệm Phật đó sẽ giúp mình nhớ đến niệm Phật và cái Lực sẽ tác động mình trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật 1 cách dễ dàng. Đừng nên chờ trước khi lâm chung mới bắt đầu Niệm Phật. Mặc dù biết rằng trước khi lâm chung trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật mười niệm vẫn được Vãng Sanh Cực Lạc (trích trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ), nhưng rất là khó vì có người khi lâm chung bị nhiều thứ chi phối (như thân thể đau đớn, tâm sợ hãi lo sợ, hình ảnh xấu hiện trong tâm, hoặc thấy oan gia trái chủ…) rất khó mà trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật đến mười niệm. Đừng nên nghĩ mình đợi tới lúc lâm chung trông cậy vào Ban trợ niệm hay người nhà mình trợ niệm thì lúc đó mình mới bắt đầu niệm Phật. Mình đâu biết lúc mình lâm chung có Ban trợ niệm hay người nhà mình trợ niệm ở đó hay không. Bởi thế, lúc còn sống mình nên tu theo Pháp Môn Niệm Phật, có Tín (nghĩa là lòng tin chân thật, tha thiết, bền vững), Nguyện tha thiết, Hạnh (nghĩa là chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT nhiều mỗi ngày và giữ trọn đời không thay đổi). Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, thì cho dù lúc mình lâm chung có Ban trợ niệm hay người nhà mình niệm Phật ở đó hay không thì mình vẫn trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT thì mình chắc chắn vãng sanh Cực Lạc sau khi bỏ thân mạng cuộc đời này.

Trích trong “Những Điều Cần Biết Khi Lâm Chung” (Tác giả: Pháp Sư Thế Liễu, Việt dịch: Thích Tâm An)

Hỏi: Người tu niệm Phật vào giờ phút lâm chung thế nào gọi là đầy đủ nhân duyên có thể vãng sinh Cực Lạc?

Ðáp: Như có hạng người có căn cơ rất lớn, lúc bình thường hết sức tin sâu nguyện thiết niệm Phật, tín nguyện lại tha thiết, công phu niệm Phật lại thuần thục, đến giờ phút lâm chung không cần người trợ niệm, mà tự họ có thể tín nguyện niệm Phật như bình thường, không có một mảy may tưởng khổ vui… làm xao động, mà niệm niệm luôn an trụ vào hồng danh, A DI ÐÀ PHẬT vì vậy trong Kinh A Di Ðà Phật nói: “Nhất tâm bất loạn, tức được vãng sinh” là vậy (“nhân” của tâm niệm tự lực cảm ứng với “duyên” cảnh giới của Phật) đây là ý nghĩa đầy đủ nhân duyên vậy.

Bởi thế mình nên khuyên người nhà, bạn bè hay quyến thuộc… lúc còn sống nên tu theo Pháp Môn Niệm Phật, có Tín sâu, Nguyện thiết và trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT tinh tấn. Đến lâm chung họ có người trợ niệm hay không thì họ vẫn giữ niệm Phật. Nếu còn sống mà không có Tín, Nguyện, niệm Phật, e rằng lâm chung hay trong vòng 49 ngày sau khi chết rất khó khuyên họ niệm Phật. Thời điểm này muốn giúp họ chỉ là những hy vọng vì lúc lâm chung hay trong vòng 49 ngày họ bị nhiều thứ chi phối, rất khó mà niệm Phật theo. Nhưng mà đây cũng là những cơ hội cuối để khai thị, khuyên họ niệm Phật và trợ niệm vãng sanh cho họ, và hồi hướng những công đức niệm Phật trong vòng 49 ngày cho chúng sanh đã mất… nhằm giúp chúng sanh đó được liền vãng sanh Cực Lạc, trước khi họ có thể đi luân hồi. Bởi thế mình nên khuyên người nhà, bạn bè hay quyến thuộc… lúc còn sống nên tu theo Pháp Môn Niệm Phật, có Tín (nghĩa là lòng tin chân thật, tha thiết, bền vững), Nguyện tha thiết, Hạnh (nghĩa là chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT nhiều mỗi ngày và giữ trọn đời không thay đổi). Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau. Nếu lúc lâm chung có Ban Trợ Niệm hay người nhà trợ niệm thì giúp cho họ vãng sanh Cực Lạc ở phẩm vị cao sau kiếp này.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Đạo hữu muốn đọc Những Bài Trợ Niệm Vãng Sanh chỉ cần nhấn vào những mạng kết nối phía dưới để đọc:

Lâm Chung Tam Đại Yếu Quyết (Ấn Quang Đại Sư)

http://www.tangthuphathoc.net/tinhdo/lamchungtamdaiyeuquyet.htm

Những Điều Cần Biết Khi Lâm Chung (Tác giả: Pháp Sư Thế Liễu, Việt dịch: Thích Tâm An)

http://www.tangthuphathoc.net/tinhdo/nhungdieucanbietkhiamchung.htm

Bộ Phim: Trợ Niệm Và Chuẩn Bị Khi Lâm Chung (Tỳ Kheo Thích Nhuận Nghi biên soạn)

http://www.tangthuphathoc.net/tinhdo/troniemvachuanbikhilamchung.htm

Chúc đạo hữu tất cả đều sớm vãng sanh Cực Lạc thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Cư Sĩ Thiện Thông,

MƯỜI CÔNG ĐỨC NIỆM PHẬT

Trong kinh nói: “ Người nào chí tâm niệm Phật, được mười món công đức như sau:

1-Thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, Đức A-Di-Đà phóng quang nhiếp thọ.
2- Thường được các vị Đại Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm thủ hộ.
3- Ngày đêm thường được chư Thiên cùng Đại lực Thần tướng ẩn hình ủng hộ.
4- Tất cả Dạ-xoa, ác quỉ, rắn độc, thuốc độc đều không thể làm hại.
5- Không bị những tai nạn: nước, lửa, đao, tên, gông, xiềng, lao ngục, giặc cướp, oan gia, cùng các thứ chết dữ.
6- Những tội đã làm thảy đều tiêu diệt, những kẻ chết oan vì mình đều được giải thoát, không còn kết oán ràng buộc.
7- Ban đêm nằm ngủ thường thấy điềm lành, hoặc thấy sắc thân thắng diệu của Phật A-Di-Đà.
8- Tâm thường vui vẻ, sắc thường tươi nhuận, khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp lợi ích.
9- Mọi người trông thấy đều vui mừng, cung kính hoặc lễ bái cũng như kính Phật.
10- Khi mạng chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được Tây phương Tam-Thánh tiếp dẫn sanh về Tịnh-Độ hưởng sự an vui không cùng!”

KHUYÊN ĐỪNG ĂN MẠNG

Thầy nói “ăn mặn” xuất xứ từ chữ “ăn mạng” mà ra. Sau này “ăn mạng” người ta nói quen riết thành ra ăn mặn cho dễ nghe. Thật sự, ăn mặn tức là ăn mạng, nghĩa là ăn mạng con này con nọ như thịt, cá, đồ biển…. Trong bài này, tôi khuyên đạo hữu đừng nên ăn mặn, đạo hữu nên hiểu là đừng nên ăn mạng, chứ không phải đừng nên ăn vị mặn. Tôi khuyên đạo hữu đừng nên ăn mặn vì nhiều lý do. Thứ nhất, ăn mặn làm mình dễ bị bệnh và việc ăn mặn lại càng nguy hiểm đến sức khỏe. Mình đâu biết những xác con này con nọ có bệnh này bệnh nọ không. Thứ 2, theo đạo Phật, mình sát sanh thì sẽ mang nhiều thứ bệnh và đoản thọ, và những chúng sanh bị mình giết sẽ trở thành oan gia trái chủ của mình. Thứ 3, theo đạo Phật là những con vật, con cá, đồ biển… đều có sự sống và chúng nó cũng sợ chết như mình, nó cũng tham sống sợ chết như mình. Nếu nó không sợ chết và không biết đau, thì chúng nó không cố gắng giẫy giụa hay tìm cách thoát chết khi mình giết nó. Tuy nó hình thể khác mình, nhưng nó cũng là sự sống dưới hình dạng khác. Thứ 4, theo đạo Phật, những con vật mình sát hại hoặc ăn, mình đâu biết đó có thể là cha, mẹ, vợ, chồng, anh, em…của mình từ nhiều kiếp trước. Thứ 5, theo đạo Phật mình không ăn mặn để trưởng dưỡng tâm từ bi của mình.

Có người nói ăn chay thì không đủ chất, đều đó không đúng. Đâu phải chỉ có thịt, cá, đồ biển hay con này con nọ… mới có chất này chất nọ…Trong rau, quả, trái cây, đậu nành… cũng có những chất như trong thịt, cá… Nếu nói ăn chay không đủ chất, thì tại sao nhiều Thầy tu ăn chay trường từ nhỏ mà vẫn sống thọ và khỏe mạnh. Tôi thấy đa số Thầy tu đều sống thọ, có nhiều Thầy tu ăn chay từ nhỏ, ăn chay trường mà vẫn khỏe mạnh. Tôi có kinh nghiệm riêng, lúc trước tôi ăn mặn, tôi thường cảm thấy mệt và khó thở, đi bác sĩ vẫn không biết lý do tại sao tôi bị triệu chứng như thế. Bác sĩ cũng không biết thật sự nguyên nhân như thế nào. Thời gian sau, tôi ăn chay tự nhiên tôi cảm thấy khỏe và không bị mệt và khó thở nữa. Tôi trở lại bác sĩ và nói, tôi ăn chay và không còn cảm thấy mệt và khó thở nữa. Bác sĩ cũng ngạc nhiên và nói tốt. Có lúc tôi ăn mặn lại thì cảm thấy mệt và khó thở nữa. Và hầu như, nhiều lần sau tôi ăn mặn thì vẫn cảm thấy mệt và khó thở nữa. Nhưng khi tôi ăn chay thì không khó mệt và khó thở nữa. Bây giờ tôi đã ăn chay rồi và vẫn còn đang ăn chay. Câu chuyện tôi kể là sự thật. Tôi nghe có đạo hữu nọ nói, có người giàu kia, ăn nhiều đồ mặn và ăn tôm hùm, thời gian sau bị bệnh sau đó chuyển sang bệnh thận. Không phải có tiền mà ăn mặn nhiều là khỏe mạnh, đó là quan niệm sai lầm. Còn vấn đề mà bệnh do di truyền hay bệnh do sống dưới môi trường nguy hiểm, thì không nói tới. Bệnh có thể phát sinh ra do những gì mình ăn vào. Người ta có câu, “họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập”, nghĩa là mình mang họa cũng do miệng mình nói xấu hay ác, bệnh cũng xuất phát từ những gì mình ăn vào. Chắc đạo hữu có nghe tiếng Thầy Tuệ Hải trị nhiều người hết bệnh, thật ra là một trong những cách trị bệnh của Thầy là không có ăn mặn. Mình không ăn mặn, nhiều khi đó là thuốc hay để trị bệnh. Chứ mình ăn nhiều đồ mặn khi mà độc tố nhiều vào cơ thể thì tới lúc đó nó sẽ phát sinh ra nhiều bệnh, tới lúc đó uống nhiều thuốc hay cũng không trị được nữa. Thật ra người bệnh trên mà tôi kể đạo hữu nghe, trước đây người đó ăn đồ mặn, thời gian sau bị bệnh rồi mới uống thuốc vào, nhưng thuốc cũng là con dao hai lưỡi, nó trị bệnh này, xong phản ứng phụ của thuốc làm mình sang tới bệnh khác, như người đó trước đây bệnh khác, nhưng uống thuốc sau đó bệnh chuyển sang bệnh thận. Đó là câu chuyện thật. Nếu mình không sát sanh mà ăn đồ mặn, thì mình cũng gián tiếp sát sanh, thì tội mình cũng ít nhiều trong đó, nếu mình không mua đồ mặn ăn thì làm sao người khác sát sanh để mà bán.

Nếu mình ăn đồ mặn nhiều, nữa những chúng sinh đó cũng ăn lại mình thôi. Đạo hữu thử nghĩ đi, từ hồi mình sanh ra tới bây giờ, cái bụng chứa bao nhiêu là xác của những con vật, con cá, đồ biển…? Thì phải nói là tội mình không nhỏ. Bây giờ đạo hữu nghe tôi khuyên, nên bỏ việc ăn mặn đi. Nhân Quả ba đời Quá Khứ, Hiện Tại và Vị Lai là không sai. Mình tạo Nhân tốt, mình được Quả tốt. Mình tạo Nhân xấu, mình lãnh Quả xấu. Nếu Nhân sát sanh và ăn mặn thì cái Quả hiện tại hay tương lai cũng không tốt gì. Đạo hữu nên tin luật Nhân Quả. Luật Nhân Quả là thật sự có, Đức Phật có khả năng thấy biết được điều đó. Có thể, bây giờ 1 người tạo Nhân tốt hay xấu, tùy nhân duyên mà Quả tốt hay xấu có thể đến với người đó ở cuộc đời này, hay kiếp sau, hay nhiều kiếp sau nữa… Ví dụ: nếu người đó sát hại người thì Quả xấu sẽ là bị người giết lại hoặc mang bệnh hoặc bị đoản thọ ở cuộc đời này, hay kiếp sau hay những kiếp về sau nữa…Như đạo hữu thấy đó, có người giàu, nghèo, đẹp, xấu, sang, hèn, bệnh tật, khỏe mạnh, chết yểu, sống lâu…Tất cả đều có Nhân Quả cả, không có tự nhiên mà có những sự sai biệt như thế. Trong nhà Phật, không có gì là may rủi, hên xui với may mắn cả. Muốn biết đời trước (hoặc nhiều kiếp trước) mình như thế nào, thì xem lại Quả hiện tại mình như thế nào, nếu muốn biết Quả đời sau và những đời sau như thế nào, thì xem lại Nhân hiện tại của mình tạo.

Đôi lúc mình không có khả năng thấy biết hay chứng kiến tận mắt được Luật Nhân Quả thì không phải là không có, mà thật sự là luật Nhân Quả là có, nhưng mình chưa có khả năng hiểu và thấy biết luật Nhân Quả 1 cách toàn diện. Như đạo hữu muốn có trái đu đủ (Quả), thì phải gieo hạt giống đu đủ (Nhân). Chứ không thể gieo trái giống ổi mà ra trái đu đủ được.

Có người gieo Nhân đời này, mà được hưởng Quả đời này hoặc có thể kiếp sau hoặc nhiều đời nhiều kiếp sau mới hưởng cái Quả. Khi Nhân đã có, phải hội đủ duyên thì cái Quả mới trổ. Ví dụ, như gieo hạt giống đu đủ (Nhân), thì phải có duyên hội tụ đầy đủ là điều kiện khác, yếu tố môi trường như đất, nước, ánh sáng, người chăm sóc…khi nhân duyên đã đầy đủ mới ra trái đu đủ (Quả). Nhân Quả cũng thế. Khi đã có Nhân thì phải có đầy đủ duyên khác, khi nhân duyên đã đầy đủ lúc đó Quả đến, trong đạo Phật dùng từ là Định Nghiệp thì lúc đó có chui vào lòng đất, trốn trong hang, bay lên trời cũng không tránh được cái Quả. Cho dù trước đó là mình là phàm phu mà tạo Nhân xấu, nhưng khi mình tu tới quả vị Thánh thì vẫn trả Quả xấu mình tạo ra lúc còn phàm phu. Trong nhà Phật có câu: Bồ Tát sợ Nhân, chúng sanh sợ Quả. Bồ Tát thấy được luật Nhân Quả, nên không tạo Nhân ác để tránh Quả ác. Chúng sinh không thấy luật Nhân Quả nên tạo Nhân xấu, khi Quả xấu tới thì mình sợ. Luật Nhân Quả, mình phàm phu chưa hiểu hết luật Nhân Quả 1 cách toàn diện, nhưng trong cuộc sống, mình ít nhiều cũng thấy phần nào đó.

Không phải lúc nào mình tạo Nhân gì thì mình lãnh Quả đó. Nếu mình biết cách chuyển thì Quả xấu sẽ nhẹ hơn mức độ nào đó. Nếu mình làm nhiều điều thiện, điều lành, sám hối, bố thí, trì giới, trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT, tạo các Công Đức lành…Nếu mà Nhân xấu thì Quả xấu sẽ nhẹ hơn ở mức độ nào đó, chứ không phải là Quả xấu hoàn toàn mất tất cả. Nếu như 1 nắm muối bỏ vào tô nước, tô nước đó sẽ rất mặn, nếu cũng cùng 1 nắm muối, nếu bỏ vào hồ nước thì hồ nước sẽ đỡ mặn hơn nhiều. Cũng như thế, nếu mình biết làm nhiều điều lành, điều thiện, sám hối, bố thí, trì giới, trì danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT, tạo các Công Đức lành… Thì mình sẽ chuyển đổi cái Quả xấu mình ở mức độ nhẹ nào đó, chứ không mất hoàn toàn. Bên cạnh đó, mình đừng nên tạo những Nhân xấu, ác khác nữa. Ví dụ như: đừng nên sát sanh và ăn đồ mặn nữa…

Đạo hữu thấy không sống trong kiếp sống sanh tử luân hồi này rất nguy hiểm và đau khổ. Ví dụ như việc ăn mặn này, theo quan niệm thế gian nhiều người cho rằng ăn mặn không phải là điều xấu. Quan niệm sai lầm như thế, đã kéo nhiều người tạo Nhân xấu, mà những người đó không hề hay biết. Kết quả là những người đó phải chịu Quả Báo xấu sau này. Mình sống trong cuộc sống này khi chưa biết Phật Pháp ít nhiều gì tâm mình cũng bị nhiễm bởi những quan niệm sai lầm như những người trên như thế, và tạo những Nhân xấu như thế. Những người quan niệm sai lầm như trên thật đáng thương, họ si mê và còn đi vào trong tối, thì thử hỏi chừng nào họ mới thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ. Chúng ta biết Phật Pháp, đừng nên tạo Nhân xấu, để đừng rơi vào Tam Ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) để chịu nhiều đau khổ và khó ngày ra khỏi. Nay mình biết Phật Pháp, biết sát sanh, ăn mặn là những điều ác thì mình nên tránh.

Đạo hữu nên tu theo Pháp Môn Tịnh Độ để được vãng sanh Cực Lạc sau kiếp này. Vãng sanh Cực Lạc tức là đạo hữu không còn sanh tử luân hồi đau khổ nữa. Theo đạo Phật, đây là thời Mạt Pháp, sau thời Mạt Pháp này qua rồi, Phật Pháp bị diệt phải đợi rất rất rất lâu thì Phật mới ra đời. Nếu mình đánh mất cơ hội tu theo pháp môn Tịnh Độ cuộc đời này, mình sanh tử luân hồi lại rất là đau khổ và nguy hiểm, cho dù ở cõi Người đi chăng nữa lúc đó ngoại đạo, những người ác, những cái ác và cái xấu sẽ rất nhiều và lẫy lừng trong xã hội. Lúc đó không gặp Phật Pháp thì làm sao mình thoát khỏi sanh tử luân hồi tới lúc đó mình rơi vào Tam Ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh rất là dễ. Thêm vào đó, nếu mình tái sanh ở cõi này, nếu không gặp được Phật Pháp, tới lúc đó gặp nhiều cái ác, cái xấu, người xấu, người ác, không có thiện tri thức hướng dẫn mình tu theo Chánh Pháp (Phật Pháp), tức là bỏ cái xấu, cái ác, làm điều thiện điều lành…Thì mình rất dễ rơi vào Tam Ác Đạo (là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Tới lúc đó chịu rất nhiều đau khổ và thời hạn bị đọa cũng rất là lâu. Những điều trên tôi không nói dối vì tôi có thọ trì năm giới cấm (trong đó có giới cấm không nói dối) và những điều trên tôi nói đúng với Phật Pháp và đúng với những lời Thầy dạy

Đạo hữu nên nhớ tu theo pháp môn Tịnh Độ (tức là Pháp Môn Niệm Phật), có Tín (nghĩa là lòng tin chân thật, tha thiết, bền vững), Nguyện tha thiết, Hạnh (nghĩa là đạo hữu chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT nhiều mỗi ngày và giữ trọn đời không thay đổi). Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau. Thì đạo hữu chắc chắn sẽ được vãng sanh Cực Lạc sau khi lâm chung ở cuộc đời này. Vãng sanh Cực Lạc tức là đạo hữu không còn sanh tử luân hồi đau khổ nữa.

Chúc đạo hữu thân tâm đều an lạc và tất cả được sớm vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà ở Tây Phương.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Cư Sĩ Thiện Thông,

Đây là những phần trích trong những bài viết của những Thầy mà tôi đã trích. Đạo hữu nên đọc để hiểu thêm những điều hại và nguy hiểm do ăn mặn (ăn mạng) gây ra

Khai Thị Về Ăn Chay
Hòa Thượng Tuyên Hóa

Mỗi người đều có nhân quả báo ứng của riêng mình. Hễ tạo nghiệp gì thì chịu quả báo đó. Không những chỉ có loài người là phải chịu quả báo mà tất cả chúng sanh cũng vậy; tạo nghiệp từ xưa, ngày nay gặt quả. Ðiều đó không dễ hiểu đâu. Ví như bị đọa làm súc sinh hoặc ở nơi ác đạo thì rất khó khôi phục lại thân người; nên nói rằng:

Nhất thất nhân thân,
Vạn kiếp nan phục.

Nghiã là:

Thân người mất rồi,
Vạn kiếp khó tìm.

Trên thế gian, có hai loại nhân: một là nhân thiện, hai là nhân ác. Khi mình trồng nhân thiện thì gặt quả thiện, khi trồng nhân ác thì gặt quả ác.

Song, cái nhân ác lớn nhất là gì? Tức là sát sinh! Con người nếu phạm Ngũ Giới (sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu) thì sẽ rất dễ đọa vào ba ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) và cũng rất dễ thành kẻ đầy dẫy tri kiến sai lầm, tà vọng, không tin Phật Pháp, không kính Tam Bảo. Ðọa vào ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) rồi thì khổ không cách gì nói được.

Tội lỗi lớn nhất mà mình đã phạm là gì? Tức là sát sinh, ăn thịt. Nếu bạn ăn thịt của người thì sau đó người sẽ ăn thịt của bạn lại. Hỗ tương ăn thịt lẫn nhau, hỗ tương chém giết, rồi hỗ tương đọa lạc. Một khi đã đọa lạc thì khó mà tiến lên được, đó là điều hết sức nguy hiểm, là đi vào “hiểm lộ” vậy.

Khi mình giết súc vật thì cũng tạo ra một thứ oán hận trong tâm chúng; lúc gần chết vì quá khủng khiếp và sợ hãi nên chúng nảy sinh lòng cừu hận muốn báo thù. Bởi vậy từ nơi lòng oán hận phẫn uất ấy phát tiết ra một độc tố thấm suốt da thịt chúng, nên hễ ai ăn thịt chúng thì giống như ăn phải chất độc vậy! Lúc ăn thì không thấy hại, nhưng dần dà sẽ mắc đủ chứng bịnh kỳ quái mà chẳng có thuốc gì cứu nổi.

ĂN CHAY

Thích Thiện Hoa

2. Vì muốn tránh quả báu luân hồi

Phật dạy: “Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, cứ tạo nhân tội ác, sát hại ăn thịt lẫn nhau, nên bị ác quả, là sanh tử luân hồi mãi trong sáu đường”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Hễ giết một mạng thì hãy trả lại một mạng; tâm giết hại chẳng dứt trừ, thì không thể nào ra khỏi trần lao được.” Vậy muốn tránh oan báo luân hồi, tránh các điều tội lỗi thuộc về giới sát. Phật tử phải ăn chay. Nếu ăn mặn hoài thì không thể nào hết nợ thân mạng và nợ xương thịt, máu huyết được.

3. Vì hợp vê sinh

Không phải mới từ nay mà từ ngàn xưa, một triết gia, ông Senèque, đã nói rằng: “Mỗi bữa ăn, người ta dùng thịt là tự đầu độc, thành thử con người tự sát ngấm ngầm mà không hay biết, do đó con người bị mạng yểu, chết sớm”. Thật thế, ngày nay những nhà y khoa bác sĩ trứ danh như ông Soteyko, Varia Kiplami có nói: “Trong các thứ thịt, có nhiều chất độc rất nguy hiểm cho sức khỏe con người”. Bằng chứng cụ thể là rau cải để lâu ngày thì héo khô, hoặc ung bấy mà ít hôi; còn thịt cá để lâu ngày thì sình, ương, hôi tanh không ai chịu nổi, và khi ăn vào, ta thấy trong người rất nặng nề, mệt nhọc ,khó tiêu. Hơn nữa, các loài thú vật, thường mắc bệnh này hay bệnh khác như: bệnh lao, bệnh thương hàn v.v…,nếu chúng ta ăn vào, sẽ vướng bệnh, rất nguy hiểm.

Ðể tránh những bệnh tật, và tăng sức khỏe, chúng ta nên ăn nhiều rau cải. Các nhà khoa học, cũng như các nhà y học Ðông, Tây đều công nhận đồ ăn chay là nhẹ nhàng, thanh khiết, dễ tiêu hóa và có nhiều sinh tố rất bổ. Bởi thế, ở nước Nhật có hội “Tổ Thực Chủ Nghĩa”, ở Pháp, Ðức, Anh, Mỹ đều có “Thảo Mộc Thực Hội”.

Có nhiều người có thành kiến sai lầm rằng: ăn thịt cá, mới có đủ sức mạnh. Thật ra, người ăn thịt không có sức mạnh và sức chịu nhọc dẻo dai bằng người ăn chay trường. Chính Giáo sư Irwin Fischer ở Ðại học đường Yale, sau nhiều cuộc thí nghiệm, đã long trọng tuyên bố rằng:

” Ăn thịt hay ăn những vật có nhiều chất đạm, sẽ làm cho con người không đủ sức chịu nhọc, không khác nào như người uống rượu”.

Bà White, một bác học gia cũng đã tuyên bố rằng:

” Các thứ hột, các thứ trái cây, đậu và rau cải là những thức ăn mà thiên nhiên đã dành để nuôi chúng ta. Các thức ăn ấy nấu nướng một cách giản dị, thì rất hợp vệ sinh và rất bổ. Nó làm cho thân thể tráng kiện, tinh thần sáng suốt và tránh biết bao nhiêu bệnh tật”.

Ăn Chay, Sát Sanh và Quả Báo

Tác giả: Thích Tâm Anh

1. ăn chay được mạnh khoẻ, sống lâu

Thứ nhất: thức ăn chay không độc, thịt có độc

Thức ăn chay phần nhiều đều là rau quả, sinh trưởng lớn lên từ đất, hoặc rong biển… đã nhiều dinh dưỡng lại không có độc tố. Những thực vật này giúp máu giữ được chất kiềm – đây muốn chỉ máu ấy trong sạch. Y học gọi là kiềm tính thực vật. Thực phẩm có thịt ăn vào có thể khiến cho máu mang tính chua – đây muốn chỉ máu ấy dơ, do đó thịt được gọi là thực phẩm mang tính chua. Người ăn chay máu sạch, nên tuần hoàn nhanh, khiến cơ thể nhẹ nhõm thoải mái, hoạt bát, chịu đựng giỏi, suy nghĩ nhanh lẹ và sống lâu. Như Hòa thượng Triệu Châu, một cao tăng Phật giáo đời Đường sống đến 150 tuổi. Hòa thượng Hư Vân thời cận đại sống được 120 tuổi. Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, Đài Loan, nhờ nhiều năm trường trai, 95 tuổi mà vẫn sáng suốt. Những điều này đều là hiện thực chứng minh ăn chay mạnh khỏe, sống lâu. Lại như quán quân bơi lội Mậu-lâm-la-tư của thế vận hội Olimpic, lần đầu tiên, tốc độ của anh ta thật kinh người. Là vận động viên nổi tiếng nhất, anh ta là một người ăn chay. Theo báo cáo của Kiện Đức, một nhà hóa học trứ danh Pháp quốc, ông ta phát hiện thực phẩm thịt là một loại thực phẩm trúng độc mang tính chậm. Bởi vì xuất xứ của thịt là từ heo, dê, gà, vịt… mà động vật lúc vội vàng, giận dữ hoặc sợ hãi thì trong cơ thể sản sinh một vật tiết ra độc tố, độc tố ấy nhanh chóng truyền khắp các mạch máu vi tế và thịt trong toàn thân. Vật tiết độc chất này thông thường đều đầy trong cơ thể, tác dụng “cái mới thay đổi cái cũ” bài xuất ra ngoài, hoặc ra bằng đường đại tiểu tiện. Nếu con vật bị giết trong lúc đang giận dữ hoặc sợ hãi, bộ máy cơ thể bị đình chỉ hoạt động, vật tiết xuất độc tố này không được bài xuất ra, vẫn tồn đọng trong máu thịt. Nếu ăn vào loại thịt này, tất bị trúng độc tố ấy. Cho nên, ăn thịt bằng với trúng độc mang tính chậm. Đã từng có người thí nghiệm qua. Động vật trong lúc giận dữ hoặc sợ hãi, chất tiết độc tố mà cơ thể sản sinh ra, nếu hút ra bằng ống thủy tinh, chỉ cần độc tố bằng một cây nhang đã có thể giết chết một mạng người. May mà độc tố này khi gặp rau quả, bị hóa giải bớt một phần nào.

Thứ hai: Nhân loại nên ăn chay, chớ nên ăn thịt

Theo tiến sĩ Hàn Đinh Đốn của trường đại học Ca-luân-tỷ-á Mỹ quốc, đã từng giải phẫu phân tích đường ruột, chứng minh con người thích hợp ăn chay mà không thích hợp ăn thịt. Ông ta giải thích ruột non của động vật ăn thịt thì ngắn, ruột già thẳng và trơn nhẵn; ruột non của động vật ăn chay thì dài, ruột già cũng dài; ruột của động vật ăn thịt lẫn ăn chay dài hơn động vật ăn thịt, ngắn hơn động vật ăn chay. Ruột già của con người dài khoảng 5 – 6 mét và quằn tới quằn lui, vách ruột không láng đồng thời chồng lên một đống. Đường ruột như thế chỉ thích hợp với ăn chay, không thích hợp với ăn thịt. Bởi vì thịt ít chất xơ, sau khi tiêu hóa để lại cặn bã. Ruột của con người tương đối dài, thức ăn ở trong ruột quá lâu sẽ sinh ra độc tố, tăng thêm gánh nặng cho gan. Gan quá sức chịu đựng sẽ trở nên xơ cứng, thậm chí ung thư. Lại nữa, trong thịt có rất nhiều a xít uric, Urê, ăn vào tăng thêm gánh nặng cho tạng thận, dẫn đến bệnh thận. Vả lại, thịt ở trong ruột già, ruột non phải qua sự hấp thu quá độ không cần thiết. Và thịt vốn lại thiếu chất xơ, dễ tạo nên táo bón, dẫn đến bệnh trĩ và ung thư trực tràng. Sự phân tích đường ruột con người trên đây, đủ để chứng minh con người ăn thịt là “tự rước họa vào thân”.

Thứ ba: Thức ăn thịt dễ dẫn đến bệnh tật

Sự nguy hại lớn nhất đến sức khỏe của người già, trung niên là colesterin, mà hàm lượng colesterin tương đối có nhiều trong não, thần kinh, máu, nước mật, lòng vàng trứng và mỡ… của động vật. Colesterin là chủ thể cấu thành hocmon của tuyến thượng thận và vitamin D. Tố chất dinh dưỡng này, thanh niên, trung niên hấp thu một lượng vừa phải rất là hữu ích. Nếu trong máu của một người chứa colesterin quá nhiều, sẽ dẫn đến xơ cứng động mạch, bệnh tim, bệnh cao huyết áp… Tuổi trung niên trở lên thì cơ thể, sinh lý có chiều hướng suy dần. Tất nhiên, cần phải tránh ăn nhiều thực phẩm thịt hàm chứa phong phú chất colesterin để giữ sức khỏe cơ thể.

Lại một chứng minh nữa: nhà dinh dưỡng học Kha-lâm-tư, Mỹ quốc nói: “Nhân loại nếu có thể bỏ ăn thịt, thì sẽ thu được lợi ích vô cùng”. Ăn chay có thể giữ lâu tuổi trẻ, tinh lực dồi dào, đầu óc mẫn tiệp, da thịt mềm mại, đây là hiện tượng của tuổi trẻ. Ngược lại, thân thể mệt nhọc, thần trí hôn ám, da thịt xù xì, lộ ra dáng vẻ lão hóa. Nay lấy ba cái này làm chuẩn, so sánh giữa ăn chay và ăn mặn, nhà dinh dưỡng học Chu Tu Tuệ nói: “Ăn nhiều thực phẩm có thịt, trong y học gọi là thực vật mang tính chua, có thể làm cho máu mang tính chua, máu dơ. Lúc muốn trung hòa tính chua này, chất canxi trong máu phải tiêu hao lượng lớn. Lượng canxi mất, tế bào sẽ bị lão hóa, cơ thể mỏi mệt không sức chịu đựng, dễ đưa đến thần trí hôn ám và suy yếu. Còn ăn nhiều rau xanh, trái cây, những thực vật mang tính kiềm này, có thể làm cho máu giữ được chất kiềm, máu trong sạch, khiến cho cơ thể nhẹ nhàng, thoải mái, chịu đựng giỏi, đầu óc nhanh nhạy đồng thời có thể sống lâu”.

Trên đây, đã đối chiếu sức khỏe và tinh thần của người ăn chay và người ăn mặn, rõ ràng đã thấy: một giữ được vẻ thanh xuân, một suy yếu lão hóa. Sự láng mịn và xù xì của da, chỉ nhìn qua ta có cảm giác ngay là già hay trẻ. Cho nên, da thịt mịn màng là điều kiện chính của sự trẻ mãi. Ăn chay làm sao giữ được nước da mịn màng? Điều này cần phải nói từ thực phẩm dầu mỡ nào mà người ăn chay đã ăn. Giá trị dinh dưỡng của mỡ là: thứ nhất, cung cấp nhiệt năng. Thứ hai, duy trì nhiệt độ cơ thể, bảo vệ nội tạng và làm tươi nhuận da. Thứ ba, giúp đỡ hấp thu vitamin. Chất mỡ quá nhiều làm cho người ta mập, dễ mắc bệnh cao huyết áp, mạch máu não cho đến các bệnh tim, gan, phổi, thận… Nếu mỡ quá ít khiến cho người ta gầy gò, dễ mắc các chứng suy nhược cho đến các bệnh về da. Có hai nguồn mỡ: một là mỡ từ động vật, như mỡ của heo, dê và thịt mỡ, gọi là mỡ động vật. Hai là mỡ từ nhân thực vật, như dầu phụng, dầu đậu nành, gọi là dầu thực vật. Sự hơn thiệt của hai loại dầu mỡ này khác nhau rất lớn. Mỡ động vật là mỡ bão hòa, nhiều colesterin, dễ dẫn đến xơ cứng động mạch, cao huyết áp, bệnh tim, cũng có lợi cho việc sinh sản ung thư tế bào. Dầu thực vật không phải là dầu bão hòa, có thể thúc đẩy tăng gia bài tiết tính chua của nước mật, làm cho colesterin xuống thấp, tránh được bệnh tim và các chứng huyết quản khác. Từ đó có thể thấy, người ăn chay sử dụng dầu thực vật, quả thật là một yếu tố lớn để khỏe mạnh tươi da. Hàm lượng dầu trong thực vật, nhiều nhất là ở hồ đào, chứa 66.90%. Thứ hai là đậu phụng, chứa 48.70%. Thứ ba là mè trắng, chứa 48.23%. Thứ tư là đậu nành, chứa 20.20%. Những dầu này đều không phải là dầu bão hòa, ăn vào có ích không hại. Hàm lượng mỡ trong động vật, nhiều nhất là ở thịt heo, chứa 57.80%. Thứ hai là thịt dê, chứa 25.00%. Thịt bò chứa 13.50%. Nhưng những loại mỡ này đều thuộc mỡ bão hòa, chứa rất nhiều colesterin, dễ dẫn đến bệnh tim, bệnh huyết quản.

4. Người ăn chay tăng trưởng lòng từ bi

Ăn chay đối với nhân loại mà nói, không kể là giữ được thân thể khỏe mạnh, hay tránh được nhân quả nghiệp báo, những lợi ích khác không thể nói cùng. Lại từ một người khuếch đại đến quốc gia xã hội, khiến cho xã hội an lành, thế giới hòa bình, có thể thấy lợi ích của ăn chay thật không thể tính đếm. Trong vô lượng lợi ích, tôi cho rằng lợi ích lớn nhất của ăn chay, phải là tăng trưởng lòng từ bi.

Sát sinh ăn thịt thật là ác nghiệp, tất phải thọ báo không còn nghi ngờ gì nữa. Có điều là thọ báo tùy theo tâm giết và cách giết tàn nhẫn hay không mà có nhanh chậm, nặng nhẹ, không thể nói một cách khái quát. Nếu sau khi sát sinh, sám hối tu thiện cũng có thể chuyển hậu báo thành hiện báo, trọng báo thành khinh báo. Tôi vì muốn để cho mọi người hiểu một cách thiết thực việc ác báo sát sinh ăn thịt, không ngại hiện thân thuyết pháp.

Làm sao tránh kiếp đao binh

1. Cội gốc đưa đến chiến tranh

Chúng ta phải hiểu rõ rằng, hết thảy nỗi thống khổ của chiến tranh từ đâu mà có? Không có điều gì là không có nhân quả. Quá khứ tạo nhân bát khổ, thì hiện tại phải chịu quả bát khổ. Hiểu được quan hệ của nhân quả thì biết ngay kiếp can qua cũng là một loại quả báo. Nhưng có một số người không tin vạn pháp đều có lý nhân quả. Bởi không học Phật, cho nên họ không tin lý nhân quả. Không tin nhân quả, vậy can qua nguyên nhân do đâu? Trí tuệ của phàm phu chỉ biết được hiện tại. Cách nhìn của phàm phu thế gian và cách nhìn của Thánh nhân căn bản không giống nhau. Cách nhìn của phàm phu chia làm hai loại: thứ nhất, họ cho rằng kiếp can qua là do bọn xâm lược chủ nghĩa đến quốc gây ra, muốn chinh phục thế giới mà gây nên chiến tranh. Cách nhìn thứ hai, họ cho rằng do bọn dã tâm trong nước không giữ bổn phận, nhiễu loạn trị an nội bộ, tạo phản dẫn đến đánh nhau, nên đã xảy ra kiếp nạn can qua. Phàm phu thường tình cho hai điều này chính là nguyên nhân gây nên chiến tranh. Thật ra, đây hoàn toàn không phải là nguyên nhân chính, chẳng qua chỉ là một trợ duyên mà thôi. Kiếp can qua là duyên, vậy thì nhân của nó ở đâu? Điều này không phải là cái mà kẻ thường tình có thể hiểu được, phải là bậc Thánh trí tuệ siêu xuất mới có thể thông tỏ.

2. Trí tuệ bậc thánh có thể thấy được quá khứ
Phật Pháp vô biên. Chỉ có Phật giáo mới có thể nói rõ được nguyên nhân vì sao xảy ra chiến tranh. Chúng ta đưa ra một ví dụ: Gieo hạt giống dưa xuống đất, đó gọi là nhân. Sau hạt giống nảy mầm, lớn lên ra trái, gọi đó là quả. Trợ duyên chính là điều kiện sinh trưởng. Giống như sau khi gieo hạt giống xuống, phải tưới nước, bón phân, có ánh sáng mặt trời mới sinh ra quả. Cho nên, chắc chắn có nhân, có duyên mới có quả. Như vậy, xem ra rõ ràng hơn rất nhiều. Thấy quả thì biết ngay nhân, giống như thấy dưa thì biết ngay dưa là từ hạt giống dưa mà có. Hiện tại, sở dĩ bị quả báo chiến tranh, là do đời trước tạo nhân chiến tranh. Quý vị phải biết, quả báo của chiến tranh là chết chóc, thì nhân của nó chắc chắn phải là nhân giết chóc. Lại thêm trợ duyên của bọn dã tâm và chủ nghĩa đế quốc, nên đã xảy ra quả báo chiến tranh. Nhưng rất tiếc, phàm phu không biết được nhân này, chỉ có Phật, Bồ tát mới hiểu rõ được. Điều này không phải nói dóc hay suy đoán. Phật, Bồ tát có thiên nhãn thông, cho nên thấy rất rõ nhân quả của chiến tranh, thấy được chúng sinh từ xưa đến nay luôn tạo nghiệp sát, không ai là không sát sinh. Và sát sinh được phân làm hai: một là trực tiếp giết, hai là gián tiếp giết. Tạo hai nghiệp sát này, lâu này gặp duyên tất kết thành quả chiến tranh. Vậy thì, thế nào là trực tiếp giết và gián tiếp giết? Đồ tể trực tiếp giết heo, dê, bò gọi là trực tiếp giết. Vì ngày nào chúng ta cũng ăn thịt nên đồ tể mới giết. Vì chúng ta họ mới giết, nên gọi là gián tiếp giết. Hai loại này đều là nhân sát.

3. Thủ phạm giết chính

Mọi người đều cho rằng, tội của người giết nặng còn tội của người ăn nhẹ, điều này không đúng. Luật pháp chính phủ, phạm tội cũng chia làm hai loại, đó là chủ phạm và tòng phạm.

Chủ phạm chính là tự tay mình làm, tòng phạm là hùa theo. Vậy thì người trực tiếp giết là chủ phạm hay là người ăn là chủ phạm? Điều này không nhất định. Thí như lúc đồ tể giết heo đi bán, lúc này đồ tể chính là chủ phạm, người mua thịt là tòng phạm. Nhưng thịt không đủ bán, người mua thịt nhiều quá, đồ tể bèn giết thêm, lúc này người mua thịt trở thành chủ phạm, và đồ tể là tòng phạm. Cho nên, có nhân như thế nào thì mỗi người tự chịu quả báo như thế ấy. Người thời nay không tin lý nhân quả báo ứng bằng người xưa. Trước đây, không những dân lành sợ nhân quả, mà ngay cả kẻ đồ tể cũng sợ nhân quả báo ứng, nên lúc sắp giết heo, miệng họ luôn nói thế này: “Heo này! Heo này! Mày đừng hận tao, mày là món ăn của thế gian, họ không ăn tao không giết, mày hãy đòi nợ người ăn thịt ấy!”. Bạn xem, chẳng phải người giết heo cũng sợ heo đến đòi mạng sao? Và rốt cuộc heo đòi nợ người ăn hay là đòi nợ người giết? Tục ngữ có câu nói rất hay: “Oan có gia trái có chủ”. Cho nên ăn có quả báo của ăn, giết có quả báo của giết.

Trong kinh cũng có một bài kệ rằng: “Cho dù trăm ngàn kiếp, nghiệp tạo ra hãy còn. Lúc gặp phải nhân duyên, quả báo phải nhận chịu”. Nghĩa là: Giả sử có trải qua trăm ngàn kiếp đi nữa, một thời gian lâu dài như thế, thì những nghiệp tốt xấu mà mỗi người ra tạo cũng không mất. Nên biết, giữa nhân và quả còn có cái duyên, khi nhân gặp duyên thì mình vẫn phải chịu quả báo.

Cư Sĩ Thiện Thông

Điều Thiết Yếu Khi Niệm Phật

Điều Thiết Yếu Khi Niệm PhậtPháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ nguyên là việc trọng đại liễu sanh thoát tử nên nói niệm Phật liễu sanh tử. Nay kẻ phát tâm vì muốn liễu sanh tử do đó mà niệm Phật. Song nếu không biết gốc của sanh tử ở đâu thì tâm niệm hướng vào đâu mà tu? Nếu cái tâm dùng niệm Phật, không thể chặt phăng được gốc rễ sanh tử thì làm sao giải thoát tử sanh? Đâu là gốc sanh tử? Cổ nhân dạy: “Nghiệp không nặng không phải sanh ở Ta Bà Lòng yêu không dứt, không sanh Tịnh Độ được” (Nghiệp bất trọng bất sanh Ta Bà, Ái bất đoạn bất sanh Tịnh Độ)

Nên biết được ái dục là gốc rễ của sanh tử. Chúng sanh chịu khổ trong vòng luân hồi đều là do lòng ái dục mà ra. Truy cho cùng gốc ái dục thì nào phải chỉ mới có trong đời này, hay đã có từ 2, 3, 4 kiếp trước đâu. Nó đã có từ vô thỉ kiếp, khi sanh tử mới bắt đầu vậy. Đời đời kiếp kiếp, bỏ thân này sanh thân kia, đều do ái dục làm cho luân chuyển. Chỉ đến ngày nay, thử hỏi mình đã có một mảy may ý nghĩ tạm rời cái gốc rễ ái dục này chưa? Bởi cái hột giống, cái gốc rễ ái dục quá sâu dầy, nên sanh tử cứ vô cùng vô tận.

Nay phát tâm niệm Phật, chỉ đem lòng cầu sanh Tây Phương song le lại chẳng biết gốc sanh tử, tức là ái dục, do đó chưa từng có ý cắt đứt nó. Nếu không biết gốc rễ sanh tử, mà cứ một mặt niệm Phật thì cái gốc rễ sanh tử vẫn lớn mạnh. Như vậy thì niệm Phật và đoạn sanh tử chẳng hề dính dấp gì nhau! Thôi mặc các vị muốn niệm Phật làm sao thì niệm. Chỉ biết khi hấp hối gần chết, gốc rễ ái dục chình ình trước mắt! Lúc đó mới biết Phật chẳng giúp được. Sanh tâm oán hận rằng niệm Phật không linh nghiệm hối hận thì quá trễ rồi.

Cho nên tôi khuyên các vị niệm Phật, trước hết phải thấu rõ ái dục là gốc sanh tử. Nay niệm Phật cần mỗi niệm mỗi niệm đoạn trừ gốc rễ ái dục đó đi. Như ở nhà hằng ngày niệm Phật những chuyện mình mắt thấy tai nghe như con cái, cháu chắt, gia duyên, tài sản, công việc, làm ăn v.v…không có gì không là ái dục cả. Không có chuyện gì, không có ý nghĩ gì không là mầm móng sanh tử cả. Như thử toàn thân này chìm trong hầm lửa (ái dục) vậy. Mình chẳng ngờ rằng chính lúc niệm Phật, tâm mình chưa hề buông bỏ gốc rễ này đâu. Chính lúc niệm Phật mình chỉ lo niệm không khẩn thiết, chớ không biết rằng ái dục vẫn ngự trị lòng mình. Cho nên đó là niệm Phật ngoài da. Phật càng niệm ái dục càng tăng! Nếu ngay khi đối diện với con cái, công việc…mình có thể xoay ngược tâm lại, nhìn vào lòng mình, coi thử một tiếng niệm Phật này có thể địch lại với niệm ái dục kia chăng? Quả thật có thể chặt phăng niệm ái dục chăng? Nếu không đoạn được ái dục thì làm sao liễu sanh tử đây?

Bởi vì ái dục nhiều đời kiếp ăn sâu thành thói quen, mà mình chỉ mới phát tâm niệm Phật chưa lâu, rồi niệm cũng không khẩn thiết lắm cho nên công phu không có hiệu lực chi mấy. Bây giờ lúc còn sức mà mình không nắm đầu được ái dục, thì lúc hấp hối gần chết, nắm sao đặng nó! Cho nên tôi khuyên các vị niệm Phật rằng: Đầu tiên phải có tâm sanh tử cho khẩn thiết, phải ở nơi gốc của sanh tử mà chặt nó, ngay trong từng niệm từng niệm một. Như vậy thì mỗi niệm mỗi niệm mình đều liễu được sanh tử. Cần gì phải chờ đến ngày 30 tháng chạp mới dứt được sanh tử! Trễ quá đó! Cho nên nói:

Trước mắt mọi chuyện đều là sanh tử.
Trước mắt hiểu thấu, sanh tử là không.

Cứ mỗi niệm hết sức khẩn thiết như vậy, vung đao chặt đứt (gốc ái dục). Dụng tâm như vậy mà không thoát khỏi sanh tử thì chư Phật ắt là nói dối. Cho nên là kẻ tại gia hay xuất gia, cần biết cái tâm sanh tử thì mới đặng giải thoát sanh tử. Ngoài đây ra, còn pháp kỳ diệu nữa chăng?

Hòa Thượng Tuyên Hóa

Pháp Môn Tịnh Độ Là Gì?

Pháp Môn Tịnh Độ Là Gì?Tịnh Độ là một trong mười tông phái của Phật giáo Trung Hoa. Đây là tông phái siêu việt, với nhiều đặc thù thuộc Đại thừa viên đốn. Gọi Đại thừa bởi tông này lấy tâm Bồ đề làm nhân, lấy quả vị cứu cánh Phật làm quả. Viên, bởi tông này lý sự vẹn toàn, tóm thâu cả Tiểu thừa giáo, Đại thừa thỉ giáo, Đại thừa chung giáo và Đại thừa đốn giáo. Đốn, vì tông này không luận bàn về pháp tướng mà chỉ chuyên về chân tánh, không cần trải qua nhiều thứ lớp, tu tập trong một đời có thể chứng lên quả vị Bất thối chuyển. Đây chính là những điểm siêu xuất, đặc thù của tông Tịnh Độ.

Giáo nghĩa Tịnh Độ được y cứ trên ba bộ kinh và một bộ luận làm cơ sở nòng cốt để phát huy gồm: Phật Thuyết A Di Đà kinh, Vô Lượng Thọ kinh, Quán Vô Lượng Thọ kinh (còn gọi Thập Lục Quán kinh) và một bộ luận là Tịnh độ vãng sanh luận của Bồ tát Thế thân.

Kinh A Di Đà được đức Thế Tôn tuyên thuyết tại tinh xá Kỳ Viên thuộc nước Xá Vệ, nội dung giới thiệu vị giáo chủ và y báo trang nghiêm ở cõi Cực Lạc, khuyên chúng sanh phát nguyện sanh về thế giới ấy bằng phương pháp chuyên trì danh hiệu Phật A Di Đà, đồng thời dẫn lời tán dương và ấn chứng của mười phương chư Phật để làm tăng tiến niềm tin cho người niệm Phật.

Ở núi Kỳ Xà Quật, thuộc thành Vương Xá, Ngài tuyên thuyết kinh Vô Lượng Thọ, diễn tả quá trình hành Bồ tát đạo của Tỳ kheo Pháp Tạng (tiền thân Phật A Di Đà), trong khi tu nhân đã đối trước Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai phát bốn mươi tám đại nguyện thù thắng cao cả để trang nghiêm Phật độ, nhiếp hóa quần sanh. Kế đó nói về công đức tu hành, trí tuệ thần biến của Thánh chúng cõi ấy, khiến chúng sanh sanh tâm khát ngưỡng phát nguyện quay về.

Tại vương cung Tần Bà Sa La thuộc thành Vương Xá, do sự thỉnh cầu của hoàng hậu Vi Đề Hy, Ngài tuyên thuyết kinh Quán Vô Lượng Thọ, chỉ bày mười sáu pháp quán làm cơ sở vãng sanh Tịnh độ.

Sau này Bồ tát Thế Thân nương vào kinh Vô Lượng Thọ tạo bộ Tịnh độ vãng sanh luận, tán dương cảnh giới trang nghiêm thù thắng của Cực Lạc và xiển dương pháp tu Ngũ niệm môn (lễ bái, tán thán, phát nguyện, quán tưởng và hồi hướng) làm nhân tố cầu vãng sanh. Ngoài ba kinh và một luận trên, còn có rất nhiều kinh luận Đại thừa khác như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Bảo Tích… Đại trí độ, Đại Tỳ bà sa… cũng đều tán thán và đề cao tư tưởng cầu sanh Tịnh độ của Phật A Di Đà.

Pháp môn Tịnh độ còn gọi là pháp môn Niệm Phật. Ý nghĩa niệm Phật là đem tâm thanh tịnh mà tưởng nhớ đến danh hiệu, công đức mầu nhiệm và thân tướng trang nghiêm của chư Phật. Niệm là nhớ nghĩ, buộc tâm vào một đối tượng Chánh pháp, không rong ruổi theo niệm trần, thường tỉnh thường giác hiện rõ trước mặt. Niệm Phật là quán tưởng thân tướng hay niệm danh hiệu Phật, danh này bao trùm các công đức, trí tuệ, từ bi… của các Đức Phật. Lấy danh hiệu làm đối tượng niệm, tâm thanh tịnh làm chủ thể niệm, thường trụ vào bản tánh bất sanh bất diệt ấy tất sẽ đạt đến cảnh giới an vui chân thật.

Hành giả an trụ vào câu Phật hiệu hay quán tưởng thân tướng trang nghiêm của Phật với tâm thanh tịnh sẽ tạo thành một năng lực mầu nhiệm, quét sạch mọi vọng tưởng điên đảo, khơi dậy tự tánh Di Đà bên trong mỗi chúng sanh. Từ đây vọng tưởng quyết dứt trừ, cảnh giới an vui thanh tịnh nhiệm mầu sẽ hiển lộ. Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy: “Chư Phật Như Lai là thân pháp giới vào trong tâm tưởng chúng sanh, cho nên tâm các người nhớ nghĩ Phật thì tâm ấy là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tâm ấy là Phật. Biển chánh biến tri của Phật từ nơi tâm tưởng mà sanh, vì thế các ông phải nhớ nghĩ và quán tưởng sâu sắc thân của Đức Phật kia”.

Lập trường căn bản của tông Tịnh Độ được kiến lập trên nền tảng nhân quả, tức có tạo nhân mới mong hưởng quả. Điều này xác quyết, nếu muốn về sau làm Thánh chúng nơi cảnh giới Cực Lạc thì ngày hôm nay hành giả phải có tư cách của bậc Thánh. Vì vậy, trong cuộc sống hiện tại, cần phải thường xuyên chuyển hóa ba nghiệp thân khẩu ý hướng đến thanh tịnh. Ví như học trò đi học phải có sự tiến bộ theo thứ lớp, có như vậy mới mong có ngày thành tài đỗ đạt. Người niệm Phật cũng thế, nếu hôm nay cứ sống trong sự buông thả, không chịu nỗ lực tinh tấn tu hành, mà cứ van xin và tin rằng ngày mai Phật sẽ cứu độ; nếu tin như thế thì thật trái với lý nhân quả, chẳng khác nào luận thuyết của ngoại đạo và hoàn toàn không phù hợp với giáo lý nhà Phật.

Như vậy, người niệm Phật muốn vãng sanh Tịnh độ, ngoài năng lực hộ trì và tiếp dẫn của Phật, cần phải tự lực tu tập tức phải có chánh nhân Tịnh độ. Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, hành giả muốn được vãng sanh Tịnh độ phải hội đủ ba điều kiện: “Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, giữ lòng từ không sát hại, tu tập mười nghiệp lành. Hai là thọ trì ba pháp quy y, đầy đủ các giới không phạm oai nghi. Ba là phát Bồ đề tâm, tin sâu lý nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyên người khác cùng tu”. Ba điều trên đây gọi là chánh nhân Tịnh độ, có thể tóm thâu vào hai vấn đề chính là phát Bồ đề tâm và nghiêm trì tịnh giới.

Việc đầu tiên của người niệm Phật là phát Bồ đề tâm. Thế nào là phát Bồ đề tâm? Tức phát tâm trên mong cầu quả vị Phật, dưới nguyện hóa độ các loài chúng sanh. Người tu Phật nếu không phát Bồ đề tâm dẫu có tinh tấn tu trì thực hành các hạnh lành cũng chỉ là nhọc công vô ích. Điều này trong kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Quên mất tâm Bồ đề, dẫu tu các hạnh lành, cũng đều là nghiệp ma”. Vì vậy hành giả muốn được vãng sanh thì phải phát tâm Bồ đề, đây là điểm quan trọng không thể thiếu đối với người tu Phật nói chung và Tịnh độ nói riêng.

Thứ hai là nghiêm trì tịnh giới, tức mỗi người tu tùy theo giới luật bản thân đã thọ mà hành trì. Bất kỳ tông phái nào trong đạo Phật cũng không thể ly khai giới luật vì giới là nền tảng nhập đạo, là thọ mạng của Phật pháp. Nếu không có giới thì định tuệ cũng không thể phát sanh. Giới định tuệ đã không phát sanh thì Pháp thân huệ mạng biết nương vào đâu để thành tựu?

Có thể nói Luật tông và Tịnh Độ tông là hai tông phái hỗ tương và bao trùm và không thể tách rời nhau. Hai tông này tóm thâu toàn bộ tám tông khác của Đại thừa, như Đại sư Thái Hư nói: “Luật là nền tảng của tam thừa, Tịnh Độ là mái che chung tam thừa”. Hành giả nghiêm trì giới luật, từ đó câu niệm Phật mới hiển lộ hết công năng mầu nhiệm, như trong kinh Quán Vô Lượng Thọ có dạy: “Một câu niệm Phật có thể tiêu trừ tám mươi vạn ức kiếp sanh tử trọng tội”.

Trên nền tảng của việc phát Bồ đề tâm và nghiêm trì tịnh giới, hành giả phát tâm khát ngưỡng cầu sanh Tịnh độ. Tâm cầu sanh Tịnh độ này phải hội đủ ba đức tính quyết định là tín thâm, nguyện thiết và hạnh chuyên.

Tín là đức tin, là cánh cửa quan trọng để vào đạo, là cội nguồn của mọi công đức. Người tu Phật thiếu đức tin sẽ không thoát ly sanh tử, đạt kết quả an vui giải thoát. Bởi tất cả công đức vô lậu đều nương nơi tín mà lập và do tín mà thành. Hành giả niệm Phật ngoài đức tin trong sạch tuyệt đối với Tam bảo, với sự tìm hiểu bằng kiến chiếu của trí tuệ Bát nhã sáng suốt kiên định không ngờ vực, gia thêm lòng tin kiên cố vào pháp môn niệm Phật. Đức tin này được dựng lập trên ba điểm.

Thứ nhất hành giả tin tưởng Đức Phật Thích Ca là bậc đã thân chứng cảnh giới Tịnh độ, những lời dạy của Ngài về cảnh giới Cực Lạc và khuyên chúng sanh phát nguyện cầu sanh Tây phương là có thật. Hai là tin Đức Phật A Di Đà với bốn mươi tám đại nguyện tiếp độ chúng sanh, nếu ai có tâm mong về thế giới của Ngài thì người ấy sẽ được Phật tiếp độ. Ba là tin vào tự tánh thanh tịnh, vào khả năng giác ngộ sẵn có của mình, nếu hiện đời phát tâm niệm Phật thì mai hậu quyết định sẽ được vãng sanh Tịnh độ.

Trên cơ sở của tín, hành giả cầu sanh Tịnh độ cần phải có đủ yếu tố thứ hai là khẩn thiết phát nguyện. Trong Phát Bồ đề tâm văn của Đại sư Tĩnh Am có dạy: “Cửa chính yếu vào đạo là lấy sự phát tâm làm trước, việc cấp thiết tu hành lấy sự lập nguyện làm đầu, nguyện có lập thì chúng sanh mới độ, tâm có phát thì Phật đạo mới thành”, lời dạy ấy của Tổ sư đã cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của sự phát nguyện đối với việc tu hành.

Tâm nguyện cầu sanh Tây phương theo Thiên Thai Trí Giả đại sư gồm hai điều là yểm ly và hân nguyện. Tâm yểm ly là tâm chán lìa. Hành giả phải luôn quán niệm sắc thân này vốn là hư vọng, chỉ là tổ hợp của năm uẩn chứa đựng khổ đau và bất tịnh. Phiền não cuộc đời luôn cấu xé tâm can, như những mũi tên độc đâm vào da thịt. Nhờ thường xuyên quán sát như thế, hành giả sẽ sanh tâm nhàm chán, đối với thân xác và mọi thú vui dục lạc ở đời sẽ không sanh tâm đắm nhiễm. Tâm chán bỏ thế giới Ta Bà càng lớn thì chí nguyện cầu sanh càng mạnh. Người niệm Phật trước sau chỉ có một ước nguyện duy nhất là mong cầu sớm thoát khỏi lao tù Ta Bà hiện tại, nguyện thác sanh về Cực Lạc ngày mai chính là hân nguyện. Tâm tha thiết cầu sanh đó chẳng khác nào như kẻ tha phương trông ngóng cố hương, người xa cha mẹ mong ngày đoàn tụ, như trong Di Đà sớ sao có dạy: “Trông về Cực lạc như nhớ cố hương, ngưỡng mến Đức Từ Tôn như cha mẹ”.

Tín nguyện đã đầy đủ nhưng thiếu phần hạnh, người tu Tịnh độ cũng khó thành tựu, vì vậy cần phải chú trọng vấn đề hành trì. Đại sư Ngẫu Ích từng dạy: “Được vãng sanh đều do ở tín và nguyện; phẩm vị cao hay thấp là bởi ở chỗ hành trì có cạn hoặc sâu”. Ngoài việc tu tạo phước đức, trí tuệ và giữ gìn giới luật làm trợ hạnh vãng sanh, hành giả phải thực hành chánh hạnh. Chánh hạnh ở đây là phát tâm thanh tịnh thường trì Thánh hiệu Phật. Theo pháp môn Tịnh độ thì việc niệm Phật bao gồm bốn môn then chốt là Thật tướng niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật, Quán tượng niệm Phật và Trì danh niệm Phật.

Thật tướng niệm Phật là thể nhập vào Đệ nhất nghĩa đế, niệm tánh Phật bản lai của mình. Bản thể xưa nay vốn thanh tịnh vắng lặng, không bị phiền não cấu nhiễm. Hành giả trụ tâm vào tánh Phật bản lai đó, khiến tâm không vọng động, không chạy theo niệm trần, tâm lần hồi trong sáng thể nhập vào cảnh giới nhất tâm.

Quán tưởng niệm Phật là hành giả quán tưởng chánh báo và y báo trang nghiêm của Đức Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc, cho đến khi mở mắt hay nhắm mắt cũng đều thấy cảnh giới Cực Lạc rõ ràng.

Quán tượng niệm Phật là người tu luôn nhiếp tâm vào hình tượng của Phật A Di Đà, cho đến khi có đối trước hay không đối trước tôn tượng Ngài, hình tướng oai nghiêm của Phật A Di Đà vẫn hiện ra trước mắt.

Sau cùng là Trì danh niệm Phật, đó là niệm thầm hay niệm ra tiếng bốn chữ A Di Đà Phật hay sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật. Hành giả niệm Phật với tâm tha thiết chí thành không xen lẫn tạp niệm, chỉ chú tâm vào danh hiệu Phật, lần hồi sẽ đi vào cảnh giới nhất tâm. So với ba môn trước thì pháp Trì danh niệm Phật có phần giản dị dễ tu và dễ thành tựu. Đây quả thật là phương tiện thù thắng trong các phương tiện, là đường tắt tu hành trong mọi đường tắt.

Vấn đề quan trọng của pháp niệm Phật là trong khi niệm phải giữ tâm thanh tịnh, bởi tâm thanh tịnh là nhân tố quyết định cho việc thành tựu cảnh giới nhất tâm. Muốn đạt được điều này, theo Tổ sư Ấn Quang: “Khi hành giả đề khởi câu Phật hiệu, tai phải nghe rõ ràng từng chữ, tâm phải trụ vào câu Phật hiệu, không chạy theo vọng trần và nhiếp tâm liên tục, hành giả sẽ tiến sâu vào cảnh giới chánh định”. Chánh định hay nhất tâm sẽ làm cơ sở cho tuệ giác bùng phát, theo Đại sư Liễu Nhất: “Khi tâm chuyên chú vào câu Phật hiệu, quên cả thân tâm ngoại cảnh, tuyệt cả không gian thời gian, đến lúc vọng hoặc tiêu tan, tâm thể bừng sáng, hành giả có thể chứng được niệm Phật tam muội”.

Qua những điểm khái quát về ba yếu tố tín, nguyện, hạnh của pháp môn niệm Phật, chúng ta thấy pháp môn này có phần đơn giản, dễ thực hành mà kết quả lại cao tuyệt. Pháp môn này là thuyền từ ra khỏi Ta bà, là cửa mầu để vào Phật đạo (Xuất Ta bà chi bảo phiệt, thành Phật đạo chi huyền môn). Sự dễ tu dễ chứng so với các pháp môn khác được các bậc cổ đức đánh giá: “Tu các pháp môn khác, như con kiến bò dọc theo ống tre, hành trì môn Tịnh độ như con kiến đục thủng ống tre ra ngoài”.

Vì tính cách khế lý khế cơ ấy mà từ trước đến nay không biết bao nhiêu người niệm Phật được kết quả vãng sanh. Sự mầu nhiệm đó trong Tịnh độ thánh hiền lục đã ghi lại rõ ràng. Pháp môn này lại bao quát trên từ các bậc Đẳng giác Bồ tát, các bậc đại đức cao tăng, dưới cho đến những kẻ cùng hung cực ác, thậm chí đến những loài súc sanh cũng nhờ trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà mà được thoát ly thân cầm thú, sanh về cảnh giới Tịnh độ.

Tại Việt Nam, pháp môn Tịnh độ đã sớm truyền vào và phát triển mạnh mẽ. Từ thế kỷ XI, Thiền sư Tĩnh Lực (thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông) đã chứng niệm Phật tam muội. Cũng trong thế kỷ này, một vị tướng của Lý Thánh Tông đã dựng tượng Phật A Di Đà tại núi Lan Kha, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Thiền sư Không Lộ (mất năm 1141) đã từng dựng tượng Phật A Di Đà ở chùa Quỳnh Lâm. Thảo Đường quốc sư, vị khai tổ dòng thiền Thảo Đường của Phật giáo Việt Nam (vào thế kỷ XIII) đã khuyên đồ chúng nên tu Tịnh độ với bài “Pháp ngữ thị chúng” tuyệt vời. Huyền Quang tam tổ thiền phái Trúc Lâm cũng đã lập tháp Cửu phẩm liên đài tại chùa Bút Tháp để khích lệ tứ chúng cầu nguyện vãng sanh. Thời cận đại có các bậc cao tăng như Hòa thượng Tâm Tịnh, Hòa thượng Khánh Anh, Hòa thượng Hải Tràng, Hòa thượng Trí Thủ, Hòa thượng Thiền Tâm… đã tu tập và truyền bá pháp môn Tịnh độ, làm cho Phật pháp được hưng thạnh và lan truyền cho đến ngày hôm nay.

Thiết nghĩ, chúng sanh trong bối cảnh phước mỏng nghiệp dày, muốn đạt đến sự giải thoát cần nương vào pháp môn niệm Phật. Điều này trong kinh Đại Tập Nguyệt Tạng, Đức Phật có dạy: “Thời mạt pháp ức ức kẻ tu hành song ít có người đắc đạo, chỉ nương vào pháp môn Niệm Phật mới mong thoát khỏi luân hồi”.

Phải chăng, pháp môn này là mật ý vi diệu, là sự thể hiện tình thương bao la của Đức Phật đối với tất cả chúng sanh trong thời mạt pháp, như trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy: “Trong đời tương lai khi kinh đạo diệt hết, Ta dùng sức từ bi thương xót, riêng lưu trụ kinh này một trăm năm. Chúng sanh nào gặp được kinh này, tùy theo sở nguyện đều có thể đắc độ”. Tình thương vô bờ bến của Phật đã như thế, phận làm đệ tử chúng ta nếu không lo phát tâm niệm Phật cầu sanh Tây phương, tức đã cam tâm phụ ân tình của Ngài.

Theo Tuần Báo Giác Ngộ