Sự Màu Nhiệm Và Nét Đẹp Của Niệm Phật

Sự Màu Nhiệm Và Nét Đẹp Của Niệm PhậtPháp môn niệm Phật, câu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” họăc ngắn gọn hơn “A Di Đà Phật” đã hiện hữu với dân tộc Việt Nam hơn ngàn năm nay. Lúc tôi lên tám tuổi (1950), sống ở Hải Phòng, bà nội thường kể cho nghe Hội Chảy Chùa Hương lúc bà nội còn trẻ (thập niên 1920&1930). Lúc này đường đi còn khó khăn, đường lên Chùa núi dốc quanh co.

Thế nhưng các cụ cứ chống gậy trúc mà miệng thì niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Theo lời bà kể lại thì chẳng mấy chốc mà leo tới nơi, chẳng mệt nhọc gì cả. Đòan người lên núi gặp đoàn người xuống núi, đòan người đi ra gặp đòan người đi vào. Khi gặp nhau ai nấy đều cất tiếng chào “A Di Đà Phật! ”.

Câu niệm, câu chào âm vang cả một vùng núi non hùng vĩ, biến cuộc hành hương thành một hành trình vừa linh thiêng vừa nên thơ có lẽ độc đáo nhất trên thế giới. Hình ảnh này đã được nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp ghi lại trong bài thơ Chùa Hương:

Mẹ bảo “ Đường còn lâu,
Cứ đi ta vừa cầu.
Quan Thế Âm Bồ Tát.
Là tha hồ đi mau.”

Trong đoàn người đi như nước chảy đó, giữa khói hương trầm nghi ngút, “Hương như là sao lạc” Cô gái 15 tuổi – nhân vật chính của bài thơ Chùa Hương, theo cha mẹ đi chảy hội, vì còn e thẹn cho nên:

Thẹn thùng em không nói
Nam Mô A Di Đà.

Lúc còn nhỏ thì không để ý. Nay lúc tuổi già, hồi tưởng lại tâm linh dân tộc, suy nghĩ lại câu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” hoặc “A Di Đà Phật” của dân mình mới thấy nó có một ý nghĩa linh thiêng và đẹp tuyệt vời. Nó không phải chỉ nằm trong phạm vi tôn giáo mà còn hòa nhập thành truyền thống văn hóa dân tộc.

Nó trở thành phong cách sống hài hòa giữa đạo và đời. Khi đi chùa gặp nhau, hoặc trong các lễ hội Phật, chúng ta cất tiếng “A Di Đà Phật !” thì tiếng “A Di Đà Phật” trở thành một câu chào hỏi, một lời thân thiện, một lời mừng rỡ rằng ta còn có nhau, một lời chúc tụng, một sự kính trọng, một ước vọng sau này (khi vãng sinh) sẽ lại gặp nhau trên Quốc Độ Thanh Tịnh của Phật A Di Đà.

Đó là hình ảnh đẹp ngòai đời. Còn trong gia đình, mỗi tối chúng ta thấy bà nội, bà ngọai, mẹ ta ngồi lâm lâm lần chuỗi hạt niệm Phật. Các cụ niệm Phật để làm gì vậy? Đối với chư tăng ni, hoặc Phật tử tu tại gia chắc chắn ai cũng đã hiểu rõ mục đích của niệm Phật. Thế nhưng đối với thế hệ trẻ, người khác đạo có thể họ không hiểu ông/bà/cha mẹ hoặc chúng ta niệm Phật để làm gì? Hoặc giả nếu có hiểu thì cũng có thể hiểu sai cho nên chúng ta cần nói ra cho rõ.

Chúng ta cần phân biệt đi chùa lễ Phật và niệm Phật là hai chuyện hòan toàn khác nhau. Đi lễ chùa có khi chỉ là hành vi hòan tòan tín ngưỡng, nhưng niệm Phật lại là hành vi huân tập, tu dưỡng bản thân. Ngòai ra chúng ta cần phải làm sáng tỏ cái Có và Không Có trong niệm Phật để cho thấy Đạo Phật không phải là Thần Giáo, chuyên cầu nguyện van vái để xin xỏ cái này cái kia, rồi trở thành tôi tớ cho Thần Linh.

Những Cái Không Có Trong Niệm Phật:

1) Niệm Phật không phải để cầu xin Phật ban cho một điều ước nào đó.

2) Niệm Phật không phải để tăng thêm sức mạnh, thêm can đảm để đối phó với kẻ thù. Cho nên trong Phật Giáo trải qua hơn 2500 năm, không hề có chuyện một đòan quân lâm trận dương cao biểu tượng hay hình Đức Phật để hăng máu, can đảm xông lên chém giết kẻ thù.

3) Niệm Phật không phải là để van xin Phật ban cho môt giải pháp để giải quyết một tình thế khó khăn.

4) Niệm Phật không phải để xin Phật ban bố phép mầu, vặn cổ kẻ thù giúp chúng ta.

5) Niệm Phật không phải là quỵ lụy khóc than, trở nên hèn kém đối với Phật.

6) Niệm Phật không phải xin Phật chỉ lối, đưa đường cho chúng ta buôn may, bán đắt.

7) Niệm Phật không phải để dông dài kể lể, tâm sự chuyện kín, chuyện riêng tư với Phật.

8 ) Niệm Phật không giống như cầu nguyện, van vái Thần Linh.

9) Niệm Phật không phải để trở nên đời đời kiếp kiếp làm tôi đòi cho Phật.

10) Niệm Phật nhất thiết không phải để quên đời.

Những Cái Có Trong Niệm Phật:

1) Niệm Phật để tâm hồn thanh thản.

2) Niệm Phật để an trụ tâm. Đang nóng nảy, niệm Phật lòng dịu hẳn xuống. Đang tức giận niệm Phật, lửa Sân từ từ hạ. Đang điên cuồng, niệm Phật tự nhiên bớt điên cuồng. Đang thù hận, niệm Phật hận thù hóa giải. Tham lam, niệm Phật bớt tham. Kẻ hung hăng, niệm Phật bớt hung hăng.

3) Niệm Phật để không cho niệm Ác nảy sinh. Nếu niệm Ác đã nảy sinh thì không cho nó phát triển. Do đó Chư Tổ nói rằng “Niệm Phật quên niệm Ma”. Khi niệm Phật thì tà ma, quỷ thần sẽ lánh xa.

4) Niệm Phật để giữ gìn Thân-Khẩu-Ý.

5) Niệm Phật là phương thuật giữ gìn Chánh Niệm.

6) Niệm Phật tới vô niệm chính là Thiền. Lúc đó sẽ không còn Chỗ Niệm (năng) và Người Niệm (sở), hành giả hiển lộ Phật tánh có sẵn trong con người mình và đi vào trạng thái Định.

7) Niệm Phật để nuôi dưỡng lòng Từ Bi.

8 ) Niệm Phật riết rồi trở thành Phật chứ không phải trở thành nô lệ hay tôi tớ cho Phật.

9) Niệm Phật cũng là phép điều hòa hơi thở cho nhẹ nhàng. Đi, đứng, nằm ngồi đều có thể niệm Phật. Cho nên niệm Phật cũng là phép trị liệu, bảo vệ sức khỏe.

10) Niệm Phật để giải trừ bớt Ác Nghiệp gây tạo trong quá khứ.

11) Niệm Phật để lúc lâm chung chẳng còn lo sợ. Chẳng cần phải nhờ ai cứu rỗi. Một mình thẳng tiến lên Thế Giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.

12) Càng niệm Phật đấu óc càng trong trắng, lòng dạ thảo ngay, tâm tính hiền từ.

13) Kẻ ác khẩu, nói năng hung dữ chuyên niệm Phật sẽ giải trừ được khẩu nghiệp. Niệm Phật khiến ta không vấp ngã trong lời nói. Một lời nói lầm lỡ có thể tiêu tan sự nghiệp.

14) Niệm Phật khiến lời nói dịu dàng, khiếm tốn do đó không gây thù chuốc oán, không bị “vạ miệng”.

15) Mặt mày hung dữ, niệm Phật trở nên hiền từ, dễ coi. Niệm Phật để chuyển nghiệp.

16) Niệm Phật khiến đi đứng dịu dàng, cử chỉ khoan thai.

17) Niệm Phật có thể ngăn chặn được cám dỗ điên cuồng.

18) Chán nản, thất vọng não nề, cùng đường không lối thoát muốn tự tử chết cho rồi, niệm Phật khiến tâm địa bình ổn từ đó mà tìm ra giải đáp hợp lý.

19) Lâm vào vòng lao lý, tù tội mỗi tối nên ngồi ở tư thế “bán già”, xoay mặt vào tường niệm Phật khoảng nửa tiếng đồng hồ, sẽ thấy tâm hồn thanh thản, thời gian ở tù qua nhanh, không phạm thêm tội lỗi, may mắn ân xá, giảm án sẽ tới. Nhờ niệm Phật mà sau khi ở tù ra lấy lại tự tin để xây dựng cuộc đời mới. Đây không phải là chuyện bịa đặt vì người viết bài này đã từng ở tù 9 năm. Những năm cuối cùng, tuyệt vọng, chán nản muốn tự tử chết, sau trở sang nghiên cứu Phật pháp, chuyên chú niệm Phật, kể cả tụng kinh và giờ đây dù bao gian khổ vẫn sống khơi khơi và sống đẹp.

20) Trong một đám đông hỗn lọan, đâm chém, phẫn nộ, cuồng điên, niệm Phật khiến ta bình tĩnh, không hăng máu lao vào chuyện thị phi, hoặc a tòng theo phe này phe kia, bênh-chống, khiến sau này hối không kịp. Tâm bình thế giới bình là như thế. Xin nhớ cho bình an là chân hạnh phúc.

21) Niệm Phật có thể trở thành Thánh Tăng. Cứ thử nhìn vào hình của Bồ Tát Thích Quảng Đức mà xem. Lúc nào trên tay ngài cũng có chuỗi hạt. Điều đó chứng tỏ ngài theo pháp môn Tịnh Độ tức tụng kinh, niệm Phật. Ai đã có lần gặp ngài phải ngạc nhiên, trong lúc ngồi hay đi, đứng, cả thân hình và khuôn mặt ngài ôn tĩnh như một pho tượng.

Điều đó chứng tỏ ngài luôn luôn nhập Chánh Định, tức xác thân ngài ở đây nhưng thần thức ngài đã ở Quốc Độ tức ở Cõi Phật rồi. Chính vì thế mà vào năm 1963 để phản đối Ngô Triều đàn áp tôn giáo, ngài ngồi kiết già tại ngã tư Phan Đình Phùng –Lê Văn Duyệt, bật ngọn lửa để thiêu đốt thân hình, cả thân thể ngập trong biển lửa mà không hề lay động. Thế gới Phương Tây đã kinh hãi và kính phục gọi ngài là Bậc Đại Định. Đó là công năng của phép niệm Phật chứ ngài chẳng có phép mầu nhiệm của thần linh nào hết.

Tại sao niệm Phật lại có uy lực ghê gớm như vậy?

Niệm Phật phát xuất từ pháp môn Tịnh Độ mà pháp môn Tịnh Độ phát xuất từ bộ Kinh A Di Đà. Phật nói kinh này tại Thành Xá Vệ do tấm lòng thành của tỉ phú Cấp Cô Độc, dám trải vàng để mua vườn ngự uyển của Thái Tử Kỳ Đà làm đạo tràng cho Phật thuyết pháp. Trong pháp hội này Phật nói rằng Kinh A Di Đà còn có tên Nhất Thiết Chư Phật Hộ Niệm. Chúng ta hãy nghe lời Phật dạy ngài Xá Lợi Phất:

“ Này Xá Lợi Phất, ý ông thế nào? Sao gọi kinh này là Nhất Thiết Chư Phật Hộ Niệm? Xá Lợi Phất, nếu có thiện nam hay thiện nữ, nghe kinh này rồi mà chịu nhớ lấy, cả những danh hiệu, chư Phật sáu phương nghe rồi nhớ lấy, thì thiện nam ấy, thiện nữ ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm và được tới cõi A Nậu Da La Tam Miệu Tam Bồ Đề chẳng hề thối chuyển.“ Lại nữa, “ Xá Lợi Phất ơi, Phật kia sáng láng vô cùng, vô lượng, soi khắp các nước suốt cả mười phương, không đâu chướng ngại, vì thế nên gọi A Di Đà.” (1)

Chính vì thế mà khi chúng ta cất tiếng niệm “ Nam Mô A Di Đà Phật” hoặc “A Di Đà Phật” thì chư Phật sáu phương cùng hoan hỉ và hết lòng trợ lực. Hơn thế nữa, vì hào quang của A Di Đà Phật chiếu xuyên suốt không chướng ngại cho nên, dù ở đâu, khi chúng ta niệm danh hiệu ngài thì Phật A Di Đà cũng sẽ hộ trì cho chúng ta đạt mục đích và không thóai chuyển.

Còn trong pháp hội ở Núi Kỳ Xà Quật, ông trưởng giả Diệu Nguyệt cũng là Phật tử tại gia (Ưu Bà Di) của Phật, từ trong đại chúng đứng lên khẩn thiết thưa thỉnh Phật như sau:

“Như Đức Thế Tôn từng chỉ dạy, đời mạt pháp các chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề cang cường, ngỗ nghịch, tâm tạp, nghiệp nặng, mê đắm ngũ dục, không biết hiếu thuận cha mẹ, không biết cung kính sư trưởng, không thực lòng qui y Tam Bảo, thiếu năng lực thọ trì năm giới cấm, làm đủ mọi chuyện tệ ác, phỉ báng thánh nhân v.v..

Cho nên con suy gẫm như thế này, phải có một môn tu thật đơn giản, thật tiện lợi nhất, dễ dàng nhất để tất cả những chúng sanh kia khỏi đọa vào các đường ác, chấm dứt luân chuyển sanh tử trong ba cõi, được thọ dụng pháp lạc (pháp vui), sớm bước lên địa vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.” Sau lời thưa thỉnh tiếp theo của Quốc Mẫu – Hoàng Thái Hậu Vi Đề Hi, Đức Phật đã dạy như sau:

“Muốn hàng phục và chuyển biến cái sát-na tâm sanh diệt ấy, thì không có pháp nào hơn là pháp niệm Phật. Này Diệu Nguyệt cư sĩ, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, đủ lòng tin, thì chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi, thì hiện tiền chiêu cảm được y báo và chánh báo của Phật A-Di-Đà ở cõi Cưc Lạc.” Và Đức Phật nhấn mạnh thêm “ Đây là môn tu Đại Oai Lực, Đại Phứơc Đức.” (2) Ngay các bậc thượng thủ như Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền cũng đều niệm Phật. Còn thiền sư Bách Trượng (720-814) cũng phải nhận định rằng “Tu hành, dùng pháp môn niệm Phật là vững vàng nhất.” (3)

Những oai lực và phước đức của phép niệm Phật nói ở trên thuộc về mặt kinh điển và tín niệm. Còn về phương diện lý giải khoa học. Khi chúng ta chí tâm, chí thành, chí thánh niệm Phật thì chúng ta sẽ phát huy hết năng lực của trí tuệ, tâm đại bi, sự dũng mãnh của chính chúng ta (Bi-Trí-Dũng). Đạt tới trạng thái này rồi thì ung dung tự tại, không còn lo sợ gì nữa (Vô hữu khủng bố) giống như sự “hành thâm” thực chứng Bát Nhã Ba-la-mật Đa Tâm Kinh của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Đó cũng là trạng thái Vô Ngại và Tự Tại của Chư Phật ẩn dụ chư Phật ngồi tòa sư tử.

Do những kết quả tốt lành nói trên mà chúng ta:

– Buổi tối nên niệm Phật.

– Trước khi đi ngủ nên niệm Phật cho đến khi nào đầu óc thanh thản để từ từ đi vào giấc ngủ.

– Sáng thức dậy nên niệm Phật, dù vài câu, bởi vì sau giấc ngủ dài đầu óc con người thường hôn trầm. Niệm Phật vào đầu sớm mai cũng là dấu hiệu bắt đầu một ngày mới tốt lành.

– Khi nào thấy buồn chán nên niệm Phật.

– Thấy mất tự tin nên niệm Phật.

– Thấy long xao xuyến nên niệm Phật.

– Thấy có thể bị cám dỗ nên niệm Phật.

– Thấy thời gian kéo dài, vô vị nên niệm Phật.

– Gặp rắc rối về pháp lý nên niệm Phật để bình tĩnh ứng phó.

– Bị ai chọc giận, công kích nên niệm Phật.

– Tại đám đông tụ họp, ăn nhậu, vui chơi, thấy người ta nói chuyện “vô duyên”, tào lao, nhảm nhí mất thì giờ, nên niệm Phật để không giây dưa vào chuyện vô ích

– Các em khi vào thi, nên niệm Phật để đầu óc thanh thản, bình tĩnh. Thiếu bình tĩnh, quá lo âu, xao xuyến đưa đến việc không đọc kỹ câu hỏi, đề tài, tính tóan sai, lạc đề v.v..

– Đêm khuya thanh vắng một mình trên tàu, xe, trên sông nước nên niệm Phật.

– Khi bệnh tật, đau ốm nằm nhà thương nên niệm Phật để không mất tinh thần, không sợ chết. Càng rên la, càng mất tinh thần, càng chết sớm, càng làm khổ gia đình.

– Nếu niệm Phật cùng lúc lại quán sổ tức (theo dõi hơi thở) thì công năng rất lớn chẳng khác gì thiền định vậy.

Kết Luận:

Niệm Phật miễn phí, không phải trả tiền ( free) mà cũng không bị đóng thuế, đem lại tốt lành cho đời tại sao chúng ta không thử xem? (why not?). Xin quý vị, quý bạn mạnh dạn thực hành. Nếu thấy chẳng công hiệu gì cả thì bỏ đi cũng chẳng mất mát gì. Đức Phật cũng chẳng phiền trách hay trừng phạt bạn. Cuối cùng, xin thưa rằng như chúng ta đây- những con người gọi là trần tục, sống, thở hít không khí, gia đình đầy đủ và hưởng tất cả những lạc thú của kiếp người mà vẫn cảm thấy lo âu, xao xuyến, bất an và lo sợ ngày mai.

Trong khi đó, hằng vài trăm ngàn, có khi hằng triệu tăng/ni trên khắp thế giới, sống đời âm thầm, đơn sơ, đạm bạc, không gia đinh, không của cải, không danh vọng, không quyền thế, không lạc thú trần gian như chúng ta…thế mà các vị lúc nào tâm hồn cũng thanh thản, cử chỉ dịu dàng, giới hạnh trang nghiêm, miệt mài đi tới mục đích cuối cùng: Giải thóat cho chính mình và cứu độ chúng sinh.

Tại sao những vị này có thể “hy sinh” và sống đời cao thượng đến như thế? Các ngài có gì bí mật chăng? Xin thưa qúy ngài chẳng có lọai “vũ khí” bí mật nào cả. Các ngài cũng chẳng có phép mầu hoặc sự che chở của bất cứ thần linh mầu nhiệm nào cả. Hành trang duy nhất mà các ngài mang theo là giáo lý của Đức Phật và phương tiện tiến tu là Thiền Định hoặc Tụng Kinh, Niệm Phật…điều mà tôi và quý bạn đã thấy rõ như ban ngày.

Không còn bàn cãi gì nữa. Tụng kinh niệm Phật công năng ghê gớm và lợi lạc có thể nhìn thấy. Còn như chuyện tu hành như thế nào, hành trì như thế nào, giới luật như thế nào, phát nguyện lớn như thế nào mà có thể đắc đạo, ngồi yên trong biển lửa, cắt xẻ thân thể mà không kêu than như Đức Phật thường nói trong nhiều bộ kinh…thì hàng sơ cơ, thô thiển như tôi hòan tòan không biết. Không biết mà nói bừa sẽ mang tội vọng ngữ.

Để nghiên cứu thấu đáo hơn về uy lực của Pháp Môn Niệm Phật, quý vị, quý bạn có thể tham khảo: Cuốn sách nhỏ nhan đề Nam Mô A-Di-Đà Phật: Tông Chỉ Pháp Môn Tịnh Độ của Hòa Thượng Thích Trí Tịnh biên sọan năm 1956. Cuốn Niệm Phật Thập Yếu của Hòa Thượng Thích Thiện Tâm biên sọan hết sức công phu và cuốn Kinh Niệm Phật Ba-la-mật cũng do Hòa Thượng Thích Thiền Tâm dịch ra Việt Ngữ xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2001. Một Đời Vãng Sanh, Chấm Dứt Luân Hồi của HT. Tịnh Không xuất bản ở Hoa Kỳ năm 2010. Kính chúc quý vị, quý bạn thành công. Thành công ở đây có nghĩa là An Vui và Tự Tại – một giá trị tinh thần to lớn không gì đối sánh được trên thế gian này.

(1) A Di Đà Kinh Yếu Giải của Hòa Thượng Tuệ Nhuận.
(2) Kinh Niệm Phật Ba-la-mật.
(3) Một Đời Vãng Sanh Chấm Dứt Luân Hồi

Đào Văn Bình
Tháng 8 năm 2554.PL – 2010.TL

Chuyện Nhân Quả Ba Đời [Audio]

Chuyện Nhân Quả Ba ĐờiMột pháp nhân quả chính là lò luyện lớn để nung phàm, luyện thánh của thánh nhân thế gian, xuất thế gian. Nếu lúc ban đầu chẳng hiểu rõ nhân quả thì sau khi đã thông Tông, thông Giáo, sẽ rất có thể bị lầm lẫn nhân quả. Ðã lầm nhân quả, đọa lạc ắt sẽ có phần, không cách gì siêu thăng. Ðừng bảo lý này thiển cận rồi coi thường! Đức Như Lai đã thành Chánh Giác, chúng sanh đọa lạc tam đồ đều chẳng ra ngoài nhân quả.

Nhưng tâm lượng của phàm phu hẹp nhỏ, có lẽ không lãnh hội được những lẽ nhân quả lớn lao đã nói trong kinh. đọc tiếp ➝

Chuyện Người Niệm Phật Vãng Sanh Cực Lạc

Thiên chúng đến đón chẳng đi

Ðại sư Tăng Tạng đời Ðường, người xứ Tây Hà. Tuổi nhỏ xuất gia, nép mình thờ người, hết thảy cung kính, chẳng từ lao khổ. Thấy tăng y của người khác liền giặt giũ giùm, rồi lại vá chằm. Ngày nắng gắt, sư cởi áo ngồi trong đám cỏ để thí máu thịt cho các loài muỗi, ve.

Hằng ngày, ngài niệm Phật hiệu chẳng cần ghi số, chỉ nhớ rõ trong tâm, chưa hề thiếu sót. Ðến khi báo tận, thấy chư thiên theo thứ tự đến đón, ngài đều chẳng theo. Ngài chợt bảo mọi người:

– Vừa về Tịnh Ðộ, thấy các thượng thiện nhân rải hoa trên không.

Rồi chắp tay niệm Phật mà hóa.

(theo Cao Tăng Truyện, tập 3)

* Ðại sư Thiện Ngang đời Ðường, người Ngụy Quận. Chí kết Tây Phương, nguyện sanh An Dưỡng. Sau ngài ngụ tại chùa Báo Ứng, biết đã đến lúc bèn bảo trước những người hữu duyên: đầu tháng Tám sẽ chia tay. Ðến kỳ, ngài lên tòa cao, lư tỏa mùi hương lạ, dẫn tứ chúng thọ Bồ Tát giới, dạy dỗ những điều thiết yếu. Chợt thấy thiên chúng rộn ràng, đàn sáo véo von. Ngài bảo đại chúng:

– Trời Ðâu Suất Ðà đến đón ta; nhưng Thiên đạo chính là căn bản sanh tử, chẳng phải chỗ ta ước mong. Lòng thường mong sanh về Tịnh Ðộ, nguyện này chẳng được thỏa hay sao?

Nhạc trời bỗng bặt tiếng. Từ trời Tây, hương, hoa, âm nhạc vùn vụt kéo đến, xoay quanh trên đỉnh đầu, toàn thể mọi người đều thấy. Sư bảo:

– Nay tướng lành Tây Phương đến đón. Ta đi đây.

Nói xong liền tịch, thọ sáu mươi chín tuổi.

(theo Cao Tăng Truyện, tập hai)

Nhận định:

Lúc lâm chung, tứ đại chia lìa là lúc nào vậy? Chư Thiên lần lượt đến đón là cảnh nào đây? Nếu chẳng phải là bậc tín nguyện kiên cố thì ngay trong lúc đó, đối trước cảnh ấy làm sao cưỡng làm chủ tể nổi? Ðây đúng thật là gương sáng thiên cổ cho những kẻ tu Tịnh nghiệp vậy. Nếu không, một phen sanh lên trời sẽ lại đọa trong luân hồi. Xin đừng lầm tin ngoại đạo cầu sanh Thiên Quốc.

Lấy việc lợi lạc chúng sanh làm đầu

Ðại sư Tự Giác đời Ðường, người xứ Bác Lăng. Xuất gia từ nhỏ, học Kinh, Luật, Luận siêng năng suốt cả chín năm, kinh luận nào cũng đều hiểu sâu sắc. Sau ngài trụ tại Trùng Lâm Sơn Viện trong núi Bình, nhặt quả, hái rau, ngày chỉ ăn một bữa, phát tâm đúc tượng đức Ðại Bi Quán Âm và dựng chùa Phật.

Gặp lúc đại hạn, tiết độ sứ xứ Hằng Dương là ông Trương thỉnh ngài cầu mưa. Ngài kiền thành khẩn cáo long thần, mưa to liền đổ xuống. Do đó, thí chủ chen nhau tụ về, đúc được tượng cao bốn mươi sáu thước, chùa cũng dựng xong.

Ngài liền đối trước đàn, thệ nguyện nương nhờ Thánh lực sớm sanh Tịnh Ðộ. Chợt thấy hai đạo kim quang: A Di Ðà Phật và hai vị Ðại Sĩ từ trong quang minh giáng xuống, xòe tay sắc vàng xoa đầu sư, bảo:

– Giữ nguyện chẳng đổi, lấy việc lợi sanh làm đầu. Sanh chốn ao báu mặc tình thỏa nguyện.

Về sau, chợt thấy thần nhân đứng trong mây hiện nửa thân, bảo:

– Thời kỳ sư quy Tây đã đến rồi!

Ngài liền ngồi xếp bằng trước tượng Quán Âm mà hóa.

(theo Cao Tăng Truyện, quyển 3)

Nhận định:

Phàm những việc như: tạo tượng, lập chùa, cầu mưa lợi người v.v… đều là những trợ duyên cho Tịnh nghiệp. Ðem những việc ấy hồi hướng Tây Phương. Do làm được như vậy nên Phật dạy: “Giữ nguyện chẳng đổi, lấy việc lợi sanh làm đầu”. Nếu như ngài chẳng có mật hạnh niệm Phật, làm sao cảm được đức Phật đến xoa đầu?

Kết xã khích lệ lẫn nhau

Ðại sư Tạo Vi Tỉnh Thường đời Tống là Tổ thứ bảy của Liên Tông. Ngài họ Nhan, người huyện Tiền Ðường. Bảy tuổi xuất gia, mười bảy tuổi thọ Cụ Túc Giới. Ngài lấy việc kiên trì giới luật, chuyên xưng danh hiệu, phát Bồ Ðề tâm, kết xã để khích lệ lẫn nhau làm chánh nhân Tịnh Ðộ.

Ngài trụ tại chùa Chiêu Khánh ở Hàng Châu, hâm mộ di phong Lô Sơn của Tổ Huệ Viễn nên thành lập Tịnh Hạnh Xã. Trong nhóm sĩ phu dự hội có quan Tướng Quốc Văn Chánh Vương Công Ðán v.v… một trăm hai mươi người đều xưng là Tịnh Hạnh Ðệ Tử, còn Tăng thì có đến một ngàn vị đồng tu Tịnh nghiệp.

Ngài cắt máu chép kinh phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm. Mỗi ngày chép một chữ, ba lạy, nhiễu ba vòng, ba lượt xưng danh hiệu Phật. Chép được ngàn quyển, thí cho ngàn người. Ngài dùng chiên đàn hương khắc tượng Phật Vô Lượng Thọ, quỳ trước tượng, phát nguyện:

– Con cùng đại chúng bắt đầu từ ngày hôm nay trở đi phát Bồ Ðề tâm. Cho đến cùng tột đời vị lai, hành hạnh Bồ Tát. Nguyện hết một báo thân này sẽ sanh An Dưỡng

Một hôm, trong lúc ngồi nghiêm trang niệm Phật, ngài chợt kêu to: “Phật đến rồi!”, tự nhiên hóa. Ðại chúng thấy đất đều có màu vàng ròng. Sư thọ sáu mươi hai tuổi.

(Theo Phật Tổ Thống Ký)

Nhận định:

Kết xã khích lệ lẫn nhau đúng là tự lợi, lợi tha. Nhưng để thực hành được điều này trong hiện tại, phải có bậc hữu đức thống suất đại chúng cộng tu, rất kỵ nam nữ hỗn tạp. Nếu không có được cơ duyên như vậy thì chẳng bằng đóng cửa tiềm tu, so ra còn dễ tinh tấn hơn!

Chuyên tâm niệm Phật

Ðại sư Hám Sơn Trừng Ấn Ðức Thanh đời Minh, là con nhà họ Thái ở Kim Lăng. Năm mười chín tuổi xuất gia, chuyên tâm niệm Phật, mộng thấy Phật A Di Ðà hiện thân trên không, quang tướng phân minh.

Từ đấy, thánh tượng sáng rực rỡ luôn hiện diện trước mắt ngài. Sau ngài đến Ngũ Ðài tu Ðịnh, phát minh được bổn tâm sẵn có. Ngài cắt máu chép kinh Hoa Nghiêm, mỗi một nét bút hạ xuống là một câu niệm Phật. Lâu dần, động tịnh hệt như nhau.

Sau ngài ẩn cư trong Lao Sơn là chỗ bọn ngoại đạo sanh sống. Thoạt đầu, chẳng có ai nghe đến danh hiệu Tam Bảo, nhưng lâu sau, ai nấy đều biết niệm Phật. Lý Thái Hậu hạ lệnh chở vàng đến dựng chùa, ban tấm biển đề tên chùa là Hải Ấn. Vua giận dữ, sai đầy ngài đi Lôi Châu. Nhân đấy, ngài trùng hưng tổ đình Tào Khê.

Về sau, ngài được vua hạ chiếu tha cho về, bèn kết am trong Lô Sơn, tu Tịnh Nghiệp càng thêm chuyên gắng. Ngài đột ngột đi về Tào Khê, thị hiện bịnh nhẹ, tắm gội, thắp hương, bảo đồ chúng rằng:

– Hãy nghĩ tới việc lớn sanh tử, vô thường mau chóng.

Ðoan tọa mà tịch, có quang minh chiếu rực tận trời, thọ bảy mươi tám tuổi, nhục thân hiện vẫn còn.

(theo Mộng Du Tập)

Nhận định:

Thánh tượng thường hiện, động tịnh nhất như thì đúng là tu hành Tịnh Nghiệp thật tinh cần. Vì chẳng chứng đắc chút ít đã cho là đủ nên nhục thân của ngài tồn tại vĩnh viễn. Xét ra, ắt ngài phải sanh trong Thượng Phẩm Thượng Sanh nơi Thật Báo Tịnh Ðộ hoặc Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ trong thế giới Cực Lạc.

Bỏ Thiền tu Tịnh

Ðại sư Ngẫu Ích Trí Húc đời Thanh là Tổ thứ chín của Liên Tông. Ngài họ Chung, người Ngô Huyện. Lúc tuổi trẻ, tự lấy việc học Nho làm trách nhiệm, viết sách bác Phật. Ðến khi ngài đọc được tác phẩm Trúc Song Tùy Bút của tổ Vân Thê bèn đốt những sách mình đã viết.

Năm hai mươi tuổi, nhân đọc kinh Ðịa Tạng bèn phát chí xuất thế, hằng ngày tụng danh hiệu Phật. Năm hai mươi bốn tuổi, nghe pháp sư Cổ Ðức giảng kinh, nghi tình chợt phát, dụng tâm tham cứu, chứng ngộ rỗng rang. Ngài liền bế quan ẩn tu ở Ngô Giang. Bị bịnh gần chết, ngài mới nhất ý cầu sanh Tịnh Ðộ.

Lúc bịnh giảm chút ít, ngài bèn kết đàn trì chú Vãng Sanh bảy ngày. Sau đấy, ngài ẩn tu tại Linh Phong, trước thuật những tác phẩm xiển dương Tịnh Ðộ được lưu truyền rộng rãi.

Ngài chợt thị hiện có bịnh, dặn dò sau khi trà tỳ hãy đem tro ngài hòa với bột đem thí cho các loài chim, cá để chúng được kết duyên Tây Phương. Sau đó, khi bịnh đã khỏi hẳn, ngài bèn ngồi xếp bằng, hướng về Tây, giơ tay lên mà tịch, thọ năm mươi bảy tuổi.

Ba năm sau, mở khám đựng nhục thân của ngài ra, tóc đã mọc dài phủ tai, vẻ mặt vẫn như lúc sống; môn nhân chẳng nỡ tuân theo di mạng nên lập tháp thờ ở Linh Phong.

(theo Linh Phong Tông Luận)

Nhận định:

Gặp lúc bịnh gần chết mới bỏ Thiền tu Tịnh. Sách Niệm Phật Trực Chỉ viết:

“Tinh tấn là chẳng vì chút bịnh duyên nhỏ hay lớn mà biếng nhác cái hạnh. Nếu như bị túc nghiệp sai sử thì nên tụng Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Ðắc Sanh Tịnh Ðộ Ðà Ra Ni. Trì một lần, diệt được tất cả các tội: ngũ nghịch, thập ác nơi thân. Trì được ba mươi vạn biến, quyết sẽ sanh về Tịnh Ðộ”.

Kinh Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Ðắc Sanh Tịnh Ðộ Thần Chú có nói:

“Nếu tụng được chú này thì A Di Ðà Phật thường ngự trên đảnh người ấy, ngày đêm ủng hộ chẳng để cho oán gia có dịp hãm hại. Hiện đời thường được an ổn; lúc mạng sắp hết, tùy ý vãng sanh”.

Vì thế, lúc ngài vừa bớt bịnh liền kết thất trì chú bảy ngày. Những người ham Thiền Tịnh Song Tu hãy bắt chước ngài lấy việc chuyên tu làm trọng.

Làm việc nặng vẫn niệm Phật không gián đoạn

Ðại sư Cụ Hạnh Nhật Biện thời Dân Quốc, người huyện Hội Lý ở Vân Nam. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải đi ở rể nhà họ Tăng ở Diêm Nguyên, sanh được hai con trai. Nhà nghèo, ngài phải làm thuê cho Chúc Thánh ở núi Kê Túc. Năm hai mươi mốt tuổi, ngài dẫn cả nhà tám người xin đi xuất gia, thọ Cụ Túc.

Hòa Thượng Hư Vân dạy ngài tu pháp môn Niệm Phật Cầu Sanh Tịnh Ðộ. Ngài bèn dứt bỏ các duyên, nhất tâm hệ niệm. Ngài tai điếc, mặt mũi xấu xí, không biết chữ, ngày trồng rau, đêm lễ bái, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát.

Rảnh rỗi thì tập tịnh tọa, học khóa tụng và các kinh điển, tự siêng gắng hết sức. Sư vừa đi tham bái tứ đại danh sơn trở về đất Ðiền (Vân Nam), gặp lúc ngài Hư Vân trùng hưng chùa Vân Thê, hỏi:

– Thầy đã đi thăm quyến thuộc chưa?

Sư thưa:

– Con chẳng bận tâm đến họ.

Hòa Thượng lại hỏi:

– Thầy tính làm gì?

Thưa:

– Những việc nặng nhọc nhất không ai chịu nổi, con sẽ gánh vác.

Phàm là những việc nặng như đắp tường, lợp nhà, trồng rau, trồng cây, vác đá, đào đất, quét tước, nấu nướng, ngài đều làm không lúc nào ngơi tay, nhưng không một khắc nào để câu niệm Phật bị gián đoạn.

Khi đêm xuống, vào lúc chỉ tịnh, ngài bèn lễ các kinh Kim Cang, Dược Sư, các kinh Tịnh Ðộ; cứ một chữ là một lạy. Tảng sáng, hồng chung vừa gióng, đã lên điện tham dự khóa tụng như thường, chưa hề ngủ nghỉ. Ngài tự vá áo, hoặc chằm vá áo giùm bạn đồng tham, mỗi một mũi kim là một câu Phật hiệu.

Trong kỳ hạn kết giới, được thỉnh làm Tôn Chứng, ngài bèn bán y, đem hết tiền mua sắm vật dụng để thiết trai cúng dường đại chúng. Hỏi ngài sẽ đi đâu, chỉ cười không nói. Giới đàn hoàn tất, ngài ngầm lên điện sau cùng, ngồi xếp bằng, hướng về Tây niệm Phật, dùng lửa tự thiêu, thọ ba mươi sáu tuổi. Hình trạng vẫn như lúc sống, mùi hương lạ lan tận ra xa.

Ðại chúng tranh nhau đến xem, vừa đánh khánh, di thể ngài chợt sụp xuống, hóa thành tro.

(theo Hư Vân Hòa Thượng Niên Phổ)

Nhận định:

Một chữ chẳng biết, nhưng lúc làm công việc nặng nhọc chưa hề gián đoạn niệm Phật. Chúng ta là những kẻ biết chữ đọc được sách, nếu cứ lơi là để uổng phí ngày tháng trôi qua há chẳng biết thẹn chăng?

Nhưng tự thiêu là chưa đắc tam muội. Chớ nên manh nha vọng niệm như vậy để khỏi bị ma dựa phát cuồng, vĩnh viễn đọa trong ác đạo!

Xả Quán niệm Phật

Ðại sư Huệ Tam Tư Nguyên thời Dân Quốc, người huyện Uyển Bình tỉnh Hà Bắc. Năm mười bảy tuổi xuất gia. Ít lâu sau, thọ Cụ Túc, vào học trường Phật Giáo Học Hiệu tại tỉnh An Huy, nghiên cứu tinh tường nội điển.

Ngài nhận trách nhiệm trụ trì chùa Sùng Thọ và Quảng Thiện ở Bắc Kinh. Ngài kiến lập, hưng khởi đạo tràng Hoa Nghiêm. Trước giờ Ngọ mỗi ngày, ngài tụng kinh Hoa Nghiêm. Cuối năm, ngài kết Hoa Nghiêm Phật Thất, lãnh đạo đại chúng huân tu pháp Chơn Không Pháp Giới Quán; từng đốn nhập Pháp Giới Ðịnh. Sau khi khai tịnh, mới ngộ được hư không pháp giới lý sự vô ngại, pháp hỷ tràn đầy, khen là chưa từng có.

Từ đấy, ngài càng thêm tinh tấn, tu Quán chẳng lùi. Tháng Mười Một năm Dân Quốc thứ ba mươi bảy (1948), ngài đến Ðài Loan lúc bốn mươi tám tuổi, lãnh trọng trách giảng dạy tại Phật Học Viện chùa Viên Quang ở Trung Lịch. Năm sau, ngài đến Sở Giảng Dạy Học Tập Phật Học ở Tân Trúc giảng dạy Phật giáo, đồng thời giảng kinh ở chùa Nhất Ðồng suốt bảy năm.

Sư thường sống tại các chùa ở Ðài Bắc, Nội Hồ, Nam Ðầu… để giảng kinh, độ chúng không đếm nổi. Năm năm mươi lăm tuổi, ngài sáng lập chùa Phước Huệ trên núi Linh Sơn ở xã Thọ Lâm, Ðài Bắc. Mỗi năm, vào tháng Bảy, ngài lập pháp hội Ðịa Tạng kéo dài bảy ngày, truyền U Minh Giới một lần. Mỗi năm, tại Ðài Loan, khi truyền tam đàn đại giới và giới tại gia, sư thường được suy cử vào một trong tam sư. Cả cõi âm lẫn dương gian đều được lợi, pháp hóa lợi ích vô cùng!

Năm sáu mươi sáu tuổi, sư lại càng thêm thường tinh tấn, hằng khóa niệm Phật mỗi ngày là ba vạn câu. Năm tám mươi tuổi liền bắt đầu niệm Phật, tọa thiền cộng tu, và khởi xướng nghĩa chẩn cứu dân nghèo và thí thuốc trong khuôn viên nhà chùa; sáng lập thư viện để mọi người đến đọc sách; đề xướng, lo liệu việc giảng giải, học hỏi Phật học. Hạnh lẫn giải càng thêm sâu, phước huệ song tu.

Sư từng đáp ứng lời thỉnh sang Mỹ hoằng pháp, qua Ðại Hàn truyền giới, người thọ giới lên đến hơn năm ngàn người. Giữa trưa ngày mồng Tám tháng Bảy năm Dân Quốc 75 (1986), sau khi dùng cơm, sư chợt nói:

– Ta muốn đi đây!

Liền triệu tập tất cả đệ tử trong chùa, dặn dò:

– Sau khi ta mất, các con nên hợp tác với nhau.

Sau bữa cơm chiều, ngài không bịnh gì, đang đứng mà hóa, thọ tám mươi sáu tuổi.

(theo tạp chí Từ Vân số 126)

Nhận định:

Ðại Sư mỗi ngày tụng kinh Hoa Nghiêm, tu Chơn Không Quán, từng nhập Pháp Giới Ðịnh, từ đấy tu Quán chẳng lui sụt. Ðến năm sáu mươi tuổi, bắt đầu mỗi ngày hằng khóa niệm Phật ba vạn tiếng; đấy là bỏ Quán niệm Phật.

Từ năm tám mươi tuổi trở đi, chợt lại tọa Thiền, niệm Phật cộng tu. Ðấy là tuổi già tịnh tọa niệm Phật, chứ chẳng phải là Thiền Tịnh Song Tu. Không bịnh, đang đứng mà hóa, nhất định phải là Thượng Phẩm Thượng Sanh.

Chuyên cầu thoát khổ

Thời Dân Quốc, một người phụ nữ nghèo ở huyện Từ Khê tỉnh Triết Giang, không biết họ, nhà nghèo, con ngỗ nghịch. Một ngày nọ bị con mắng nhiếc, tâm đau đớn, khó nhẫn, đến than thở với vị Tăng ở gần nhà. Vị Tăng bảo:

– Bà đã biết khổ; sao chẳng đem cái khổ ấy bán đi?

Hỏi:

– Làm sao bán được đây?

Tăng bảo:

– Bà chuyên niệm A Di Ðà Phật cầu sanh Tây Phương. Lâm chung Phật đến tiếp dẫn đi thì vĩnh viễn thoát khỏi các nỗi khổ, chỉ hưởng các sự vui. Ðấy là bán khổ đi đó!

Bà nói:

– Mẹ con tôi sống chung một phòng. Giường và bếp kê chung một chỗ. Dưới gầm giường có chuồng heo. Bẩn thỉu như vậy làm sao niệm Phật được?

Tăng bảo:

– Không hề chi, bà sống tại gia thì chỉ cốt sao thường niệm, lúc rảnh có thể đến chùa lễ Phật.

Bà liền phụng hành đúng như lời dạy, chuyên cầu thoát khổ, niệm Phật không gián đoạn. Ba năm sau, trước lúc sắp lâm chung vài tháng, bà nói trước với con:

– Ngày tháng đó ta sẽ sanh Tây Phương. Ngươi đừng có đi ra ngoài, vì ta lo liệu hậu sự để trọn đạo làm con.

Người con chẳng tin; ít lâu sau, bà nhắc lại cũng chẳng tin. Vài ngày trước khi mất, chợt ngửi thấy mùi hương lạ, tìm khắp nơi chẳng biết từ đâu ra, mới tin lời mẹ là thật. Ðến kỳ, cả nhà trông chừng, thấy mẹ tắm gội, thay áo, ngồi ngay ngắn niệm Phật qua đời.

(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)

Nhận định:

Dùng cái tâm sợ khổ để niệm Phật là pháp mầu nhiệm bậc nhất để thoát khổ. Nếu chẳng phải là nhà nghèo, con ngỗ nghịch, tâm đau buồn khó chịu đựng nổi thì làm sao cam tâm chuyên cầu thoát khổ niệm Phật sanh Tây? Thuận, nghịch đều là phương tiện; nghịch cảnh còn thù thắng hơn thuận!

Dụng công mãnh liệt

Cư sĩ Tiền Dực Sơn tự Vạn Dật đời Thanh, người huyện Thường Thục, làm nghề nấu rượu, thích chè chén. Ít lâu sau, ông tu Tịnh nghiệp, tận lực sửa đổi lề thói cũ, tránh sát sanh, dứt rượu thịt, khuyên mẹ ăn chay trường niệm Phật.

Một người con của ông bịnh lao, niệm Phật qua đời, mọi người phỉ báng, ông vẫn thờ Phật như cũ. Vợ mất, ông vẫn điềm nhiên, cự tuyệt người khuyên tục huyền:

– Có con nhưng nó đã mất rồi, tôi cưới vợ nữa để làm gì? Chí tôi xuất thế, lẽ nào còn thèm thuồng có người nối dõi ư?

Nhà cửa bị lửa cháy, ông hướng lên không, nguyện:

– Nghiệp của tôi đáng bị lửa cháy, chỉ xin đừng làm tổn hại đến nhà hàng xóm.

Lửa tắt, quả nhiên nhà hàng xóm vô hại. Ông chợt mắc bịnh thổ huyết, tâm sanh tử càng thiết tha, niệm Phật càng mạnh mẽ. Ðến lúc bịnh nguy kịch, ăn vào là ói ra ngay. Người chú là Tạ Phượng Ngô kể chuyện cổ đức nhịn ăn để thấy Phật, ông vui vẻ bảo:

– Có phương cách tiện lợi lớn như vậy, tôi phải dũng mãnh làm theo!

Ông liền tắm gội, đến trước bàn Phật, thắp hương, phát thệ: giữ trai giới bảy ngày, bỏ tiền phóng sanh cầu sanh Tịnh Ðộ. Ðêm ngày niệm Phật chẳng sót, có khát chỉ ăn dưa mà thôi. Có người hỏi: “Cả đêm chẳng ngủ, chẳng mệt mỏi hay sao?” Ông nói:

– Chẳng ngủ có lợi là niệm Phật được nhiều. Lúc tôi chưa bịnh chẳng được an nhàn; nay do bịnh mới được nhàn, đúng là lúc phải dốc sức, làm sao còn mệt nhọc được?

Hết kỳ hạn, thần thức hôn loạn, ông cả sợ, chắp tay đặt trên gối, ra lệnh đốt ngón tay. Ông Tạ nói:

– Lúc này, ngươi phát nguyện ấy thì cũng giống như đã đốt ngón tay rồi, chẳng bằng nhất ý cầu về Tây Phương thì hơn.

Ông liền nhắm mắt niệm Phật, lúc đầu còn miễn cưỡng, sau do dụng công mạnh mẽ, dần dần thần chí an định. Lại được mười mấy người trợ duyên, tiếng niệm Phật liên tục suốt ngày đêm. Ông chợt thấy Tây Phương Tam Thánh hiện tiền, quang minh, tướng hảo, toan cất thân lên kim đài; chợt nghe trên không có tiếng nói:

– Thân ông chưa sạch!

Ông liền sai lấy nước thơm tắm gội xong, Tam Thánh hiện như cũ, liền bảo người nhà rằng:

– Tôi đã đến được Tịnh Ðộ, thấy vô số hoa sen, tôi ngồi trên đó, sướng chẳng thể nói nổi!

Ông chỉ vào thân mình bảo:

– Ðây chẳng phải là thân ta!

Một lát, lại bảo:

– Phật đông nghẹt cả nhà!

Ngồi hướng về Tây, qua đời, thọ ba mươi tám tuổi.

(theo Tục Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)

Nhận định:

Ðoạn được rượu thịt là tham độc đã hết. Bị cười chê chẳng đoái hoài là sân độc đã hết. Con chết, vợ mất vẫn điềm nhiên là ái căn đã đoạn. Cự tuyệt lời khuyên lấy vợ lần nữa, chẳng mong có người nối dõi là si độc đã hết.

Vì vậy, gặp phải nghịch cảnh, ông vẫn có thể chẳng thối thất cái tâm ban đầu; dù bịnh tật khổ sở vẫn giữ vững chánh niệm. Dù vì nghiệp chướng hiện tiền khiến thần thức hôn loạn, ông vẫn có thể dụng công mạnh mẽ, lại được trợ duyên nên nhanh chóng cảm được tướng tốt lành là đài vàng, thần hồn ngao du cõi Sen, thật đáng làm gương vậy!

Trợ niệm đắc lực

Cư sĩ Dương Liên Hàng thời Dân Quốc, người huyện Dư Diêu tỉnh Triết Giang. Nhà nghèo, làm nghề buôn bán. Nghe lời ông Ðồng Giác Hàng tu Tịnh nghiệp, lâu ngày đối với giáo nghĩa giải ngộ siêu quần.

Ông tham dự Liên Xã niệm Phật. Vì bị bịnh nên lại sát sanh, dần dần xa lìa các liên hữu. Sau bịnh nguy kịch, liên hữu bảo ông ắt phải chết. Tự xét mình không thể nào qua nổi, ông hoảng sợ, hối hận, bèn gắng sức đến trước Phật, tận tình bày tỏ, dốc lòng thành sám hối, lại giữ Ngũ Giới, thề chẳng tái phạm.

Từ đấy trở đi, ông buông bỏ vạn duyên, quét sạch ái dục, nhất tâm thầm niệm Phật hiệu đợi lúc lâm chung. Liên hữu biết công năng trì danh của ông nông cạn nên trước hết vì ông thỉnh người trợ niệm. Hai ngày sau, liên hữu cũng trợ niệm. Ông chợt thấy thần khí thanh sảng, mộng thấy quang minh. Ðến canh hai, liên hữu sắp ra về, chẳng biết rằng đến lúc đó, việc trợ niệm đã có hiệu lực. Ông liền bảo:

– Tôi chưa đến được Tây Phương, xin liên hữu lớn tiếng niệm Phật trợ niệm suốt đêm, đừng để lỡ!

Mọi người lại cao giọng niệm Phật, lại luôn luôn khích lệ ông. Chợt ông mỉm cười bảo:

– Tôi nay đã đến Tây Phương rồi, hoa sen đẹp quá! Ao báu đẹp quá! Quang minh đẹp quá!

Mắt ông nhìn chăm chú vào tượng Phật mà qua đời. Mọi người vẫn trợ niệm đến khi thân ông đã lạnh mới thôi, chẳng cho người nhà khóc than. Ðến trưa hôm sau, đảnh đầu ông vẫn còn ấm, thọ ba mươi tuổi!

(theo Cận Ðại Vãng Sanh Truyện)

Nhận định:

Công phu trì danh nông cạn mà được vãng sanh là do sức liên hữu trợ niệm. Trợ niệm khẩn yếu như thế đó. Xin hãy đề xướng rộng rãi. Nếu như không có liên hữu thì xin hãy dùng băng niệm Phật để trợ niệm, tạm dùng làm phương tiện cũng có thể được hưởng đại lợi vãng sanh vậy!

Giác chiếu niệm Phật

Cư sĩ Phạm Dụng Hòa tự Nguyên Lễ đời Thanh, người huyện Tiền Ðường. Lúc nhỏ học Nho, thờ cha mẹ rất có hiếu. Lúc cha mẹ bịnh, trước sau, ông đã cắt thịt bắp tay hòa với thuốc trị lành bịnh cho cha.

Bước vào tuổi tráng niên, cha mẹ mất, vợ chết, ông từ bỏ trần duyên, tu tập huyền công (cách tu hành của Ðạo giáo) hơn mười năm, đạt chút linh nghiệm. Về sau, ông đọc những tác phẩm của ngài Vân Thê có phần tỉnh ngộ, bèn thọ Tam Quy, Ngũ Giới, nhất chí kiên trì, thậm chí những thứ làm bằng lông thú, dệt bằng tơ tằm, ông chẳng hề khoác vào thân. Bỏ hết những điều mình đã tu tập, chuyên tu Tịnh nghiệp. Ông ham làm lành, thí thuốc, phóng sanh, giúp đỡ người nghèo, chẳng nề nhọc mỏi. Gặp Tăng chúng nghèo bịnh, ông liền cúng dường chẳng thiếu gì.

Về sau, ông bế quan niệm Phật suốt trăm ngày. Lúc hơi thở ông vừa trở nên yên tịnh thì cách tu huyền thuật trước kia chợt hiện ra, nhận thấy khí Thiên Ðịa cuồn cuộn, mù mịt trong không trung xông thẳng vào miệng, mũi, chạy thẳng vào huyệt Ðan Ðiền, hòa hợp với nguyên khí của chính mình, [cảm thấy] khinh an chẳng thể diễn tả nổi. Giây lát, có một đứa bé cao mấy tấc từ đảnh đầu vọt ra, lãng đãng trước mặt; được một chốc, nó lại theo đảnh đầu trở vào.

Từ đấy trở đi, mỗi khi đến lúc hết sức tịch tịnh, vong niệm thì liền có đứa bé bước ra, trở vào như trên. Thoạt đầu, ông rất vui; lúc sau, ông chợt nghĩ:

– Ðây há chẳng phải là năm mươi thứ Ấm Ma như đã nói trong kinh Lăng Nghiêm đó ư? Nếu cho là kỳ đặc thì sẽ bị lạc vào quần ma! Niệm Phật chí tại Tây Phương, thánh cảnh chẳng hiện, sự này ích chi?

Ngay khi đó, ông liền giác chiếu, chánh niệm hiện tiền, đứa bé chẳng xuất hiện nữa. Ðối với yếu chỉ Duy Tâm, ông khế ngộ sâu xa; Tín – Hạnh – Nguyện lực càng thêm thuần thục. Thường bảo với mọi người rằng:

– Ðối với cửa ải hiểm yếu bậc nhất trong cuộc đời này nếu có chút phần chẳng rõ thì sẽ lạc vào bàng môn. Vì vậy, tu hành chẳng thể không thận trọng vậy!

Chợt ông kết liễu mọi việc, dặn dò, từ biệt bè bạn, ngồi niệm Phật qua đời. Lúc liệm, đảnh đầu vẫn còn nóng, thọ sáu mươi ba tuổi.

(theo Nhiễm Hương Tục Tập)

Nhận định:

Từng tu tập huyền công của ngoại đạo, nguyện thường giác chiếu nên khỏi bị đọa vào bàng môn. Chánh niệm hiện tiền, quần tà tự diệt.

Mật hạnh tinh tấn

Cư sĩ họ Trần đời Thanh, không rõ tên là gì, là chú họ của các ông Thế Anh, Mậu Tài ở huyện Thường Thục. Mỗi sáng dậy, ông thắp hương yên lặng tụng kinh, niệm Phật. Dù gió, mưa, lạnh, nóng đều chẳng gián đoạn. Suốt mấy năm như thế người nhà chẳng hay vì ông hành mật hạnh.

Trước khi mất ba tháng, ông tự bảo đã đến lúc sắp mất, người nhà thấy ông không bịnh tật gì nên không tin. Ba ngày trước khi mất, ông thị hiện bịnh nhẹ, vẫn đi đứng như thường. Ðến ngày, ông tọa hóa, người nhà kêu khóc; ông bèn mở mắt, dạy sơ lược vài lời, rồi nói: “Ta đi đây!” Lại yên lặng, thân bốc ra mùi hương lạ ba ngày mới hết.

(theo Vãng Sanh Cận Nghiệm Lục)

Nhận định:

Cổ nhân mật hạnh, dù nóng hay lạnh chẳng gián đoạn, dù là người nhà cũng chẳng hay biết. Nay thì hành nhân rêu rao khoe mẽ nhưng một ngày nóng mười ngày lạnh, cho nên người niệm Phật thì nhiều mà kẻ vãng sanh lại ít. Hãy dè dặt, hãy thận trọng

Trích trong Niệm Phật Thập Yếu của Tịnh nghiệp đệ tử Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính kết tập

Thơ Nhắc Nhở Người Niệm Phật [Audio]

Thơ Nhắc Nhở Người Niệm Phật“Tịnh Ngữ” là tuyển tập thơ Tịnh Độ của thầy tôi, lão cư sĩ Hạ Liên Cư. Tên trước của cuốn này là “Hoan hỷ niệm Phật Trai Thơ Sao”. Vào thập niên 1950 những bài bài thơ này từ từ thêm nhiều nên được đổi thành “Tịnh Ngữ”. Thơ của thầy Hạ tràng đầy những tinh túy của Phật giáo vì nó được làm từ đại quang minh tạng, tự nhiên tuôn trào ra, mỗi một câu thơ đều tự nhiên tinh diệu làm cho người đọc khai mở tâm thức. Nghĩa của chữ Tịnh Ngữ có thể nói là những lời cảnh tỉnh cho người tu Tịnh Độ, nó có nghĩa là tánh thanh tịnh bổn nhiên đương sanh thanh tịnh tâm, Vô lượng Thanh Tịnh Giác (danh hiệu của đức Phật A Di Đà). Tịnh là tịnh niệm tương kế, ngữ là lời nói của âm thanh trong tâm. Tịnh ngữ là sự hiển hiện của tâm thanh tịnh và lời khai thị của tánh giác thanh tịnh, khôi phục tánh bổn nhiên thanh tịnh, mà tịnh niệm luôn luôn liên tục.

Tịnh Ngữ trực chỉ kho báu vốn sẵn có của hành giả. Xin tuyển chọn ra ba bài thơ để cúng dường đại chúng.

 

Bài thứ nhất làm tại Cực Lạc Am, Đạo tràng Niệm Phật.

Nguyên văn:

Niệm Phật tối kỵ
Tinh thần hoản tán
Tự cú mơ hồ
Tiên khoái hậu mạn
Ký vô âm tiết
Hựu bất liên quán
Tâm bất ứng khẩu
Thanh bất nhiếp niệm
Khinh hốt dưỡng thức
Cổ đức sở thán
Như thử niệm pháp
Vĩnh nan thành phiến.

Thanh hòa vận ổn
Tự chánh âm viên
Mạo thiết miên mật
Trầm trước an nhàn
Thanh hiệp hô tâm
Tâm ứng hô thanh
Tâm thanh tương y
Vọng niệm tự thanh.

Phật hiệu như châu
Niệm đầu như tuyến
Phân tắc các ly
Hiệp tắc thành xuyến
Tâm bất ly Phật
Khẩu bất ly niệm
Như tuyến quán châu
Tương tục bất đoạn.

Vị năng nhất tâm
Tiên cầu chuyên niệm
Vị năng bất loạn
Tiên học thành phiến
Chân cần chân chuyên
Công hiệu tự kiến
Vô tư vấn nhân
Hoàn thỉnh tự nghiệm.

Tạm dịch:

Niệm Phật kỵ nhất
Tinh thần tán loạn
Tiếng niệm mơ hồ
Trước nhanh sau chậm
Không có âm điệu
Lại không nối liền
Tâm không hợp miệng
Thanh không nhiếp niệm
Nuôi dưỡng ý thức
Người xưa than rằng
Cách niệm như vậy
Rất khó thành phiến.

Tiếng hòa nhịp đều
Chữ ngay âm tròn (rõ)
Thành khẩn khắn khít
Điềm đạm an nhàn
Thanh hợp với tâm
Tâm hợp với thanh
Thanh tâm nối liền
Vọng niệm tự dứt.

Phật hiệu như châu
Tâm như sợi dây
Phân thì cách ly
Hiệp thì thành xâu
Tâm không rời Phật
Miệng không rời niệm
Như dây xỏ châu
Liên tục không dứt.

Chưa được nhất tâm
Trước cầu chuyên niệm
Chưa được không loạn
Trước học thành phiến
Thiệt là chuyên cần
Hiệu quả tự thấy
Không phải hỏi người
Hãy xin tự xét.

Thầy Hạ (lão cư sĩ Hạ Liên Cư) làm những bài thơ này trong đạo tràng niệm Phật năm 1944. Thầy điều khiển Phật Thất rất là nghiêm cẩn và theo đúng chánh pháp, những người chánh thức tham dự đều bế quan niệm Phật. Những lời khuyên dạy này đều là những kinh nghiệm thật tiễn mà thầy đã trãi qua và viết thành thơ để làm kim chỉ nam cho mọi người .

Đoạn đầu trong bài thứ nhất nói về những sai lầm mà người niệm Phật rất dễ gặp và phải nên đề phòng.

Niệm Phật kỵ nhất
Tinh thần tán loạn

Hai câu đầu nói người niệm Phật tư tưởng không tập trung, không có tinh thần, tâm trạng không vui, ý chí trầm mặc, không hăng hái, tạp niệm vô cùng, nếu không hôn trầm thì là trạo cử, những thứ này đều là tối kỵ. Lại còn [Tiếng niệm mơ hồ], âm thanh không rõ ràng, người khác nghe không rõ, tự mình nghe cũng không rõ. [Trước nhanh sau chậm], lúc mở đầu niệm rất nhanh, càng niệm càng chậm càng không hăng hái. [Không có âm điệu], lúc đại chúng cùng nhau niệm Phật thường gõ mõ để giữ cho nhịp điệu của câu niệm Phật của mọi người đều nhau. Lúc mỗi người niệm Phật ở nhà cũng có thể dùng mõ, nếu không dùng mõ cũng phải niệm có nhịp điệu rõ ràng thì dễ nhiếp tâm hơn. Nhịp điệu của mỗi chữ trong câu niệm Phật cũng phải đều nhau, không được khi nhanh khi chậm. Âm thanh của mỗi chữ trong Phật hiệu cũng phải có nhịp điệu, không được khi lớn khi nhỏ. Nhịp điệu tiết tấu rất quan trọng, nếu niệm có nhịp điệu thì dễ thành công hơn. Nếu còn [Lại không nối liền] thì càng tệ hơn. Câu sau không tiếp theo câu trước, niệm Phật quan trọng nhất là [Tịnh niệm tương kế] (tịnh niệm nối liền, liên tục hoài). [Tâm không hợp miệng], miệng thì niệm Phật nhưng mà tâm lại suy nghĩ tính toán chuyện khác. Đang niệm Phật mà nghĩ lung tung: “Ông đó đối xử với tôi thiệt là không tốt chút nào, nghĩ xong rồi lại nhớ phải mua cái TV mới”. Còn một tình huống khác nữa là tạp niệm quá nhiều, liên tiếp nổi lên hoài không thể dẹp hết được. Điều này không cần lo, đây là một hiện tượng tự nhiên trong quá trình niệm Phật, không cần để ý tới. Bí quyết trị bệnh vọng tưởng là “Mặc cho vọng niệm sôi nổi, tôi chỉ nghe tiếng niệm Phật rõ ràng”.

Thanh không nhiếp niệm

Âm thanh của câu niệm Phật có tác dụng rất lớn. Điều quan trọng trong pháp môn niệm Phật là miệng niệm rồi tai nghe tiếng Phật hiệu của mình niệm. Cho nên muốn nhiếp hết sáu căn thì trước hết phải thâu nhiếp lưỡi và tai trước. Ý cũng phải tưởng câu Phật hiệu này, tay lần chuỗi, mắt nhìn tượng Phật, mũi ngửi được hương cúng Phật. Nhiếp lục căn quan trọng nhất là nhiếp nhĩ căn. Lúc một mình niệm Phật thì tốt nhất là niệm theo cách “Kim cang trì”, nghĩa là niệm khe khẽ vừa đủ nghe, vừa nghe được âm thanh mình niệm mà vừa dưỡng hơi thở. Niệm thầm không ra tiếng cũng có thể nghe, nhưng mà khó nghe hơn. Âm thanh lớn nhỏ cũng có thể thay đổi, lúc tán loạn hoặc phiền não khởi lên thì có thể niệm lớn tiếng. Đến khi niệm được thanh tịnh rồi thì có thể niệm nhỏ tiếng lại. Tốt nhất là phải nghe được âm thanh mình niệm, âm thanh này có thể giúp mình nhiếp tâm. Đây là sự đặc biệt thù thắng của pháp môn niệm Phật. Người xưa nói: “Lấy âm thanh làm Phật sự”. Cực Lạc thế giới là nơi có pháp âm tuyên lưu, người nghe được thì tự nhiên niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Tiếng niệm Phật này là pháp âm, phải niệm được có âm điệu rõ ràng và liên tục không ngừng, lúc niệm phải chân thành, khẩn thiết, và thanh tịnh. Âm thanh bạn niệm này là âm thanh diệu đức, đối tượng bạn niệm là vị Phật có vạn đức trang nghiêm. Diệu thanh vô thượng thù thắng này lại từ tai đi thẳng vào tâm thức và gia trì tự tâm. Tự cảm tự ứng rất vi diệu và rất khó suy lường được. Cho nên quan trọng nhất là ở chỗ niệm rồi tự mình nghe tiếng niệm đó.

Nuôi dưỡng ý thức

Nếu lúc niệm trong tâm phiền tạp tán loạn, thì âm thanh niệm Phật tự nhiên rất tạp loạn khó nghe. Tâm không chuyên chú thì tai nghe cũng không rõ. Âm thanh niệm ra không có tác dụng nhiếp tâm thì càng không thể nhiếp hết lục căn được. Trái lại còn có ảnh hưởng xấu là “nuôi dưỡng ý thức”. Nếu bạn niệm rất lơ là, bạn không những là không “chuyển thức thành trí” mà còn bồi dưỡng thêm cho thức. Chúng ta tu tập mục đích là chuyển tám thức thành bốn trí. Chúng ta niệm Phật là đem ý thức phân biệt chuyển thành “diệu quan sát trí”. Nếu chúng ta niệm Phật mà không theo âm điệu, tán loạn, không tập trung tinh thần, không liên tục, tâm tưởng chuyện không giống như miệng niệm, âm thanh niệm không thể nhiếp được tâm, cách niệm này không những là không chuyển thức mà lại còn dưỡng thức. Cổ đức than là niệm như vậy thì quá uổng.

Thân người khó được, trung quốc khó sanh (trung quốc nghĩa là cõi nước có văn hóa đạo đức phát triển chứ không phải chỉ nước Trung Quốc), Phật pháp khó gặp khó nghe, Tịnh Độ khó tin mà bạn tin được, bạn lại chịu niệm Phật. Nhưng mà bạn lại niệm cách này cho nên người xưa mới than thở: Niệm cách này thì [vĩnh viễn rất khó thành phiến]. Niệm Phật đến khi nhất tâm bất loạn thì rất khó, trước hết phải đạt được niệm Phật thành phiến (thành khối) trước. Chúng ta phải niệm đến thành phiến, ít thì mười mấy câu, nhiều thì ba mươi câu, năm mươi câu. Nếu nhiều nữa thì có đến một xâu, hai xâu [chuỗi]. Niệm Phật thành phiến nghĩa là trong thời gian niệm này tâm định trên câu niệm Phật, tâm không loạn, từ đầu đến cuối đều là một câu Nam mô A Di Đà Phật. Trình độ của mình như thế nào mình hoàn toàn biết rõ. Cho nên cách niệm như trên đã nói thì rất khó thành phiến, phải nên tránh, phải nên phòng ngừa.

Đoạn đầu trong bài thứ nhất nói đến điều cấm kỵ trong lúc niệm Phật. Ngược lại ba đoạn sau này nói đến cách niệm Phật như thế nào mới đúng và chính xác.

Tiếng hòa nhịp đều chỉ âm thanh niệm Phật hòa hài, an hòa. Âm thanh rất quan trọng, nếu tiếng niệm mà khàn khàn, không rõ không đều thì không tốt. Khi người nghe được âm thanh trong trẻo thanh tịnh thì tự nhiên tâm thần sảng khoái thân tâm an hòa, ngược lại thì tâm sẽ loạn, bức rức và không an.

Nhịp đều là âm thanh êm dịu hòa hài, an định, trầm tịnh, khí vận cao nhã, có nhịp điệu .

Chữ ngay âm tròn (rõ) chữ phải niệm đúng âm. Chữ A trong danh hiệu đức Phật A Di Đà phải đọc là “A” chứ không phải là “Ơ”. Nếu người bắt đầu mà niệm không đúng thì phải sửa. Tiếng niệm ra phải rõ, đừng có khàn hoặc đục. Tai nghe được âm thanh này thì tinh thần khó chịu không thích, ngược lại âm thanh trong trẻo rõ ràng làm cho người nghe hoan hỷ dễ chịu tâm dễ an tịnh. Âm nhạc có ảnh hưởng rất lớn, nghe tiếng đàn tỳ bà và nghe âm nhạc kích động hiện nay có hiệu quả hoàn toàn khác nhau. Đàn tỳ bà tốt thì hiệu quả còn đặc biệt hơn nữa, chỉ cần nghe vài tiếng thì tâm bồn chồn không yên của người nghe có thể lắng dịu xuống. Âm thanh có ảnh hưởng rất lớn cho nên âm thanh niệm Phật phải nên rõ ràng (viên hòa).

Thành khẩn khắn khín
(Mạo thiết miên mật)

Lúc niệm Phật phải thành khẩn cũng như lúc đứng trước đức Phật thiệt, hoặc là như lúc đi trên biển lớn, đang bị nạn sắp chìm phải hết lòng kêu cứu, lúc đó mỗi niệm đều phát ra từ tâm vô cùng chí thành, vô cùng khẩn thiết, từng câu Phật hiệu nối liền theo câu trước, niệm như vậy gọi là khắn khít, miên mật, và cũng là “tịnh niệm tương kế (liên tục)”. Đối với những người có công khóa sáng tối nhất định, trước hết phải làm cho được khắn khít miên mật trong thời gian niệm Phật này, tránh đừng bị quấy nhiễu. Niệm được lâu rồi thì không những trong thời khóa nhất định niệm được miên mật mà phải ở bất cứ chỗ nào lúc nào cũng phải luôn luôn có câu niệm Phật trong tâm. Điều này khó không? Sự thật thì đâu có ai cản trở không cho bạn niệm đâu? Nếu bạn muốn niệm thì cứ niệm đi, cho nên đều do mình quyết định, đều là không khó. Thật ra người làm được việc này rất hiếm. Nếu tùy thời tùy chỗ đều giữ được câu Phật hiệu này thì niệm thành phiến không thành vấn đề, sắp đạt được “sự nhất tâm” rồi.

Pháp môn Tịnh Độ tốt là tốt ở chỗ này, người đời ai cũng có thể làm được, không phải là chuyện cao siêu quá khó không ai làm nổi, còn như chuyện khai ngộ thì rất khó, không phải ai cũng có thể làm được, trong trăm triệu người khó mà có được một người làm được. Ở Trung quốc bạn có thể nói ra tên của mười người khai ngộ không? Niệm Phật thì khác, ai cũng có thể niệm. Niệm Phật phải miên mật, trong tâm luôn luôn phải có câu Phật hiệu. Chuyện này có thể làm được, vấn đề là bạn tự mình có chịu niệm không. Khi có phiền não sanh ra thì bạn không chịu niệm nữa. Sân hận, hấp tấp, bồn chồn là phiền não, vui mừng cũng là phiền não. Khi bạn cao hứng, bạn bè khách khứa tấp nập, nói chuyện vui vẻ thì bạn quên niệm Phật rồi. Đây đều là phiền não. Thật ra trong lúc phiền não cũng có thể niệm Phật, chỉ tại bạn không muốn niệm thôi. Nếu bạn niệm thì tự nhiên sẽ được thành phiến.

Điềm đạm an nhàn
(Trầm trước an nhàn)

Câu này chỉ rõ căn bịnh của nhiều người niệm Phật hiện nay. Có nhiều người rất dụng công nhưng mà hấp tấp muốn mau thành công cho nên rất nôn nóng khẩn trương. Như vậy là có tâm mong cầu. Sự thù thắng của pháp môn niệm Phật là từ có niệm dần dần đi đến vô niệm, từ chỗ có cầu mà khế nhập đến không cầu, từ vãng sanh chứng đến vô sanh. Phải điềm đạm yên định, không có các thứ âu lo, bồi hồi, tâm trạng sợ được, sợ mất, tâm bồn chồn không an. Ngoài ra còn phải an nhàn. Có người rất nỗ lực nhưng mà tại vì hấp tấp nôn nóng cho nên trở thành khẩn trương, đứng ngồi không yên. Từ chỗ an nhàn đi lên thêm một bậc nữa phải muôn duyên buông xả, không ham không cầu, làm một người nhàn hạ nhất trong thế gian, trong tâm không lo gì hết ngoài chuyện niệm Phật. Một câu Phật hiệu luôn luôn hiện tiền, không quái ngại, không điên đảo, cho nên được “tịch nhiên” tâm an. Cho nên hai chữ an nhàn rất là quan trọng. Ngược lại nếu nôn nóng muốn thấy Phật, thấy hào quang, muốn có điềm lạ thì trước sau gì cũng bị bịnh và bị chướng ngại. Chúng ta vì sao mà có thể an nhàn? Đó là nhờ tín tâm. Nếu bạn có tín tâm thì tâm bạn rất an. Có người nói tại sao tôi niệm hoài mà vẫn còn vọng tưởng quá nhiều, chắc mà khó được vãng sanh. Đây là chướng ngại của họ tự tạo nên. Ngẫu Ích đại sư có nói: “Vãng sanh được không toàn do nơi tín nguyện có hay không”. Bạn có tín tâm vững chắc, bạn có chân thật phát nguyện không? Có thiệt là không lưu luyến thế giới Sa Bà này, hâm mộ thế giới Cực Lạc, nguyện cầu vãng sanh không? Thật ra thì rất nhiều người còn lưu luyến thế giới này, còn muốn sống thêm vài năm, còn muốn trường sanh bất lão! Cho nên nếu hâm mộ thế giới Cực Lạc thì phải phát đại nguyện. Những thân bằng quyến thuộc trong nhiều đời nhiều kiếp của mình hiện nay đang trầm luân trong biển khổ đang đợi mình đi cứu giúp. Nhưng mà bạn hiện nay còn là người vẫn đang trầm luân trong biển khổ, hiện giờ không có năng lực gì để cứu người khác. Chỉ sau khi vãng sanh rồi, nhờ vào Phật lực gia trì thì mới có năng lực và trí huệ để cứu người khác. Có tâm trạng như vậy, có đại nguyện như vậy, và có tín nguyện như vậy thì tự nhiên sẽ biết niệm Phật, nhất định sẽ vãng sanh. Nếu bạn muốn vãng sanh thì phải hạ thủ công phu trên tín và nguyện. Nếu bạn tin sâu nguyện thiết thì bạn nhất định được vãng sanh. Được như vậy thì khi bạn niệm Phật, trong tâm sẽ không còn hấp tấp bồn chồn và tự nhiên sẽ an nhàn.

Thanh hợp với tâm
Tâm hợp với thanh

Âm thanh niệm Phật phát ra từ tâm thành khẩn, tâm thanh tịnh thì tự nhiên sẽ hòa hài, an tịnh, diệu thiện, cao nhã. Âm thanh vi diệu của câu niệm Phật này từ tai đi vào bổn tâm, âm thanh tai nghe được cũng là âm thanh của mình niệm, cho nên tự nhiên tương hợp, âm thanh hợp với tâm. Âm thanh này là Phật hiệu vạn đức trang nghiêm, âm thanh này từ nhĩ căn đi vào là tự tâm sở niệm. Tự tâm niệm Phật, tự tâm là Phật. Cho nên tự tâm phải tương ứng với âm thanh nghe được (sở văn chi thanh). Thanh hợp với tâm, tâm ứng với thanh. Cho nên nói: [Âm thanh tương y]. Nói cho dễ hiểu là: tôi niệm Phật, niệm Phật có âm thanh, âm thanh giúp cho tôi. Tôi niệm Phật phát ra âm thanh, âm thanh này lại giúp cho tôi, cho nên nói là nương nhau mà niệm. Cứ niệm như vậy hoài thì không cần dẹp trừ vọng niệm, [vọng niệm tự dứt].

Đoạn thứ ba:

Phật hiệu như châu
Tâm như sợi dây

Nếu bạn không niệm, những hạt châu này từng hạt từng hạt rời rạc, đó là [Phân thì cách ly]. Lúc bạn niệm thì lấy sợi dây xỏ những hạt châu này thành xâu. Cho nên niệm Phật là lấy Phật hiệu xỏ thành xâu, đây là [Hiệp thì thành xâu]. [Tâm không rời Phật] nghĩa là phải bất cứ chỗ nào lúc nào trong tâm không rời câu Phật hiệu này. Chuyện này không có người nào cản trở bạn, tất cả đều là tự mình có chịu làm hay không. Muốn làm đến “tâm không rời Phật”, trước hết phải [Miệng không rời niệm]. Lúc miệng đang niệm, tâm chưa chắc là có Phật. Nếu trong tâm có Phật thì miệng chắc chắn có niệm Phật. Miệng luôn niệm câu Phật hiệu này cũng như [Như dây xỏ châu], câu này tiếp theo câu trước [Liên tục không dứt].

Đoạn thứ tư:

Chưa được nhất tâm
Trước cầu chuyên niệm
Chưa được không loạn
Trước học thành phiến

Bài này nói tới vấn đề vô cùng quan trọng của những người niệm Phật hiện nay. Nhiều người xem đến bản dịch kinh Di Đà của pháp sư Cưu Ma La Thập có nói đến “nhất tâm bất loạn” nên nghĩ rằng nếu không niệm đến nhất tâm bất loạn thì không thể vãng sanh được. Nhưng mà có thể niệm đến trình độ này rất khó, cho nên họ bi quan thất vọng và trở nên tiêu cực lo rầu. Thực ra đây không phải là ý của đức Phật vì trong kinh Vô Lượng Thọ, phẩm Tam Bối Vãng Sanh (Ba Bậc Vãng Sanh) có đề ra điều kiện căn bản của những người vãng sanh là “nhất hướng chuyên niệm”. Nghĩa là chỉ cần bạn thật thà chuyên niệm câu Phật hiệu này, chứ không đòi bạn phải nhất tâm bất loạn. Hơn nữa kinh Di Đà của Huyền Trang pháp sư dịch là “hệ niệm bất loạn”. Câu này nghĩa là lúc bạn niệm Phật rất chuyên tâm, không có suy nghĩ lung tung, điều kiện này thì dễ làm hơn. Nhất tâm có phân ra “sự nhất tâm” và “lý nhất tâm”. Niệm đến “sự nhất tâm” thì kiến hoặc và tư hoặc đều tự nhiên dứt hết. Niệm đến “lý nhất tâm” thì tối thiểu cũng phải phá một phần vô minh (vô minh tổng cộng có 42 phần). Kiến hoặc chia ra 10 loại: thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới thủ, tà kiến, tham, sân, si, mạn, nghi. Tư hoặc gồm có những thứ tham, sân, si, mạn vi tế. Ai có thể diệt trừ những thứ chướng ngại này? Chỉ còn một chút tham, sân, si, mạn là bạn không thể đạt đến “sự nhất tâm”. Thí dụ như tâm tham, ai cũng muốn dùng đồ tốt. Không những tham vật chất lại còn tham được người khác cung kính, đây là tham danh tham địa vị.

Bạn có thể không giận không? Thí dụ một câu chuyện thật xảy ra trong thập niên 1930. Có một bà vợ của một ông tướng, bà này tu niệm đã lâu năm. Trong nhà có chuyện xích mích với con dâu, một hôm bà đang tu niệm nhưng mà trong bụng còn giận con dâu, đè nén không nổi tâm niệm xấu này bà nghĩ đến chuyện phải giết chết con dâu thì mới hả giận. Bà đi kiếm con dao và đến khi nhìn thấy được xâu chuỗi đang đeo trên tay thì mới giựt mình ăn năn và bỏ đi cái tâm muốn giết người này. Lại còn si còn mạn nữa, cống cao, ngã mạn, đố kỵ, chướng ngại, mình đúng, người sai. Phá hết tham, sân, si, mạn này thì mới là “ sự nhất tâm ”, thiệt là quá khó. A La Hán đoạn dứt kiến hoặc và tư hoặc đạt tới lậu tận thông, đoạn (cắt đứt) nhân ngã, thoát ra khỏi sanh tử. Nếu pháp môn niệm Phật phải đoạn dứt kiến hoặc và tư hoặc rồi mới thoát ly ra khỏi sanh tử luân hồi thì cũng khó giống như chứng A La Hán, tại sao lại nói là pháp môn dễ tu, là con đường tắt nhất? Đương nhiên là không cần đạt đến trình độ đoạn kiến hoặc và tư hoặc, vãng sanh Cực Lạc Phàm Thánh Đồng Cư Độ không cần đạt đến “sự nhất tâm”. Nếu có thể đạt được thì càng tốt, có thể sanh về Phương Tiện Hữu Dư Độ. Nếu chứng được “lý nhất tâm”, phá một phần vô minh, thì có thể chứng một phần pháp thân, sanh về Thật Báo Trang Nghiêm Độ (quốc độ của Bồ Tát), một phần chứng được Thường Tịch Quang Độ.

Chúng ta căn cứ vào “hệ niệm bất loạn” trong bản dịch của Huyền Trang pháp sư và “nhất hướng chuyên niệm” trong kinh Vô Lượng Thọ thì có thể khẳng định rằng nhất hướng chuyên niệm là điều kiện cần thiết phải có. Chuyên nghĩa là chuyên nhất không thay đổi và cũng là chuyên tâm trì niệm và hệ niệm bất loạn.

Dĩ nhiên nếu đạt đến nhất tâm bất loạn thì vãng sanh thượng phẩm càng tốt. Nhưng nếu chưa được nhất tâm trước hết phải chuyên niệm. Chuyên nhất bất biến là nói với những người thường thay đổi ý kiến. Ở núi này trông núi nọ, họ không thể vừa lòng với pháp môn tu niệm của mình. Hôm nay muốn tham thiền, ngày mai muốn học trì chú; niệm Phật được hai ngày rồi lại muốn học khí công. Những người này học môn gì cũng luống công. Chúng ta là Phật tử thì phải nghe theo lời dạy của đức Phật, tu hành thời mạt pháp chỉ có pháp môn niệm Phật là có thể giải thoát, phải nên nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật.

Chưa được không loạn
Trước học thành phiến

Không thể làm được một chút cũng không loạn thì trước hết phải làm thành phiến. Bạn không thể không tán loạn nhưng mà bạn có mấy chục câu niệm thành một phiến, trong mấy chục câu này không có tạp niệm. Đây là tình trạng của người chân thật dụng công. Một hôm có một người nói với tôi rằng anh không thể tìm ra được hai câu Phật hiệu niệm được thanh tịnh hết. Tôi nói với anh rằng anh nói thiệt không sai tí nào. Cho nên chúng ta phải kiên quyết chân thật niệm, trước hết phải niệm thành phiến.

Thiệt là chuyên cần
(phải thiệt chuyên cần)

“Nếu trời không lạnh thấu xương
Làm sao mai nở rực mùi hương”.

Lạnh thấu xương không phải là chuyện nhỏ. Chúng ta đã trầm luân trong biển sanh tử không biết bao nhiêu kiếp rồi. Đức Phật có nói: “Chỉ tính những khi làm chó trắng, xương của tôi cũng cao bằng núi Tu Di”. Luân chuyển trong lục đạo vô lượng kiếp sanh tử, bây giờ phải chuyển biến lại ngay trong đời này không đi luân hồi nữa. Đây là một chuyện vô cùng trọng đại mà chúng ta không thể nào không giải quyết cho xong. Chuyện này rất quan trọng, những chuyện khác đều là trò chơi của trẻ con, đều là bọt bong bóng, như mộng huyễn bào ảnh, dầu cho tốt đẹp mấy đi nữa thì cũng là bọt bong bóng. Cho dù rất đẹp nhưng mà qua một phút chốc thì nó nhất định phải vỡ tan. Tôi năm nay gần tám mươi tuổi rồi, chớp mắt là phải vỡ tan. Tất cả đều là khổ không vô thường, cho nên phải chân cần chân chuyên. Có người cái gì cũng tu một chút, trong lúc tỉnh tọa lại tưởng tham thiền, đang lúc niệm Phật lại muốn đi học trì chú, muốn niệm Di Đà, rồi muốn niệm Địa Tạng, niệm Quán Âm Bồ Tát. Đây không phải là tu thiệt mà là pha trò vui chơi. Chân cần chân chuyên thì công hiệu tự nhiên có thể thấy được. [Hiệu quả tự thấy. Không phải hỏi người. Hãy xin tự xét]. Cũng như người uống nước, lạnh nóng thì tự biết.

Bài thứ hai: THÂM DIỆU THIỀN KỆ

Nguyên văn

Hữu đại phước đức thỉ niệm Phật
Phát Bồ Đề tâm tu thập thiện
Phật thuyết vô thượng thâm diệu thiền
Thiển nhân đương tác thiển pháp khán
Tứ nghi trang nghiêm tam nghiệp tịnh
Kiêm thủ trọng giới vật thiểu phạm
Đả phá nhân ngã thị phi quan
Phóng hạ sanh bình nhàn tri kiến
Đàm huyền thuyết diệu bất tương can
Tam tự chân truyền lão thật niệm
Chỉ thử tức thị trường dạ đăng
Khổ hải từ hàng trảm ma kiếm
Yêu bạt đa kiếp sanh tử căn
Trực biền thử thân tác ngai hán
Ngũ tông bát giáo nhất cú thâu
Thiết mạc niệm ngoại mích phương tiện
Quá hoản quá cấp đồng thị bịnh
Cường tuởng nhất tâm tâm dụ loạn
Chí kiên như cương khí như miên
Bất gián bất tạp tự thành phiến
Nhân tâm quả Phật hỗ cảm ứng
Căn thân khí giới tiềm chuyển hoán
Phiền não vi phục niệm bất nhất
Tập khí bất trừ Phật bất hiện
Thiên vạn cú như nhất cú thời
Hà sầu bất kiến Di Đà diện
Thử sự phi dị diệc phi nan
Tam muội toàn bằng Tín Nguyện Hạnh

Tạm dịch

Có đại phước đức mới niệm Phật
Phát Bồ Đề tâm tu thập thiện
Phật nói vô thượng thâm diệu thiền
Người thường xem như pháp nông cạn
Oai nghi trang nghiêm nghiệp thanh tịnh
Kiên quyết giữ giới đừng để phạm
Phá bỏ cửa nhân ngã thị phi
Buông bỏ bình sanh điều hiểu biết
Nói huyền nói diệu không liên can
Ba chữ chân truyền thật thà niệm
Đó là cây đèn trong đêm tối
Thuyền trong biển khổ kiếm chém ma
Nhổ gốc sanh tử trong nhiều kiếp
Liều thân này làm kẻ ngu ngốc
Năm tông tám giáo một câu tóm
Đừng ở ngoài niệm tìm phương tiện
Chậm quá nhanh quá đều là bịnh
Càng mong nhất tâm tâm càng loạn
Chí cứng như sắt, dạ như tơ
Không gián không tạp tự thành phiến
Nhân tâm quả Phật cùng cảm ứng
Thân thể cảnh giới dần chuyển biến
Phiền não chưa dứt niệm không nhất
Tập khí không trừ Phật không hiện
Lúc ngàn vạn câu như một câu
Đâu lo không thấy mặt Di Đà.
Chuyện này không dễ cũng không khó
Tam muội đều nhờ Tín Nguyện Hạnh

Nội dung của bài thứ hai này là thâm diệu thiền. Tại sao lại nói là thiền? Trong kinh Đại Tập có nói:

“Nhược nhân đán niệm A Di Đà,
Thị danh vô thượng thâm diệu thiền”

Tạm dịch :

Nếu có người chỉ niệm A Di Đà,
Đó là vô cùng vi diệu thiền.

Không những là thiền mà là thiền thâm sâu, thiền vi diệu, mà còn là thiền vô thượng thâm diệu. Giới trí thức ở Trung Quốc thời xưa (giai cấp sĩ đại phu) rất hâm mộ Thiền Tông, khinh rẻ Tịnh Độ, cho rằng chỉ có Thiền Tông mới là pháp cao thâm huyền diệu, Tịnh Độ chỉ dành cho hạng ngu phu ngu phụ (ông già bà cả lẩm cẩm). Thật ra nhận thức này của họ rất điên đảo, cũng như người mù con của ông nhà giàu, thân đang ở trong của giàu sang mà bị của cải giàu sang làm tổn hại. Ngoài ra còn có rất nhiều người tu lâu rồi nhưng không thành công, trở nên tiêu cực, cho là mình cái gì cũng không được. Xem kinh cũng không khế nhập, càng không có trình độ để tham thiền, học Mật Tông thì còn nhiều chỗ hoài nghi, pháp môn nào họ cũng không theo được cho nên chỉ còn cách niệm Phật thôi! Người có quan điểm như vậy tuy là tu Tịnh Độ, nhưng mà đối với Tịnh Tông không có nhận thức và quan niệm chính xác.

Vô thượng thâm diệu thiền này ở đây là chỉ Bát Nhã trong Lục Độ. Phần đông khi nói đến Thiền định là chỉ năm thứ đầu tiên trong Lục Độ. Tất cả đều dùng chữ Thiền nhưng lại có sự sai biệt rất lớn. Kinh giáo nói năm độ đầu (Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, và Thiền Định) như là người mù, đến Bát Nhã mới có mắt, mới có thể thấy được vạn vật trong trời đất. Ở đây nói thâm diệu thiền không phải là muốn đề xướng mọi người đi tham thiền, mà là nói bạn đang niệm Phật thì cũng là đang tham vô thượng thâm diệu thiền.

Có đại phước đức mới niệm Phật (Hữu đại phước đức mới niệm Phật). Câu đầu tiên cũng như tiếng sư tử hống (hét) làm chấn động trăm loài thú. Nói cho những người coi thường Tịnh Độ, đừng tưởng rằng ngu phu ngu phụ đều có thể niệm Phật rồi khinh rẻ Tịnh Độ. Những người tu Tịnh Độ cũng đừng cho rằng căn khí của mình thấp, không có khả năng tu pháp môn khác, không có biện pháp cho nên mới tu Tịnh Độ. Nên biết chỉ có người có “đại phước đức” mới có thể tin sâu pháp môn niệm Phật rồi mới niệm Phật được. Cho nên chúng ta phải càng tin tưởng hơn. Trong kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Nhược bất vãng tích tu phước huệ, ư thử chánh pháp bất năng văn, nghĩa là “Nếu nhiều đời trước không có tu phước huệ sâu dày thì không thể nghe được pháp môn niệm Phật này, cho dù chỉ là tạm thời nghe đến một chút thôi cũng không thể được”. Cho nên câu này rất hay, bạn phải đề cao tinh thần, nâng cao dũng khí, phải có đầy đủ tự tin, pháp môn vô cùng thù thắng này hôm nay chúng ta có duyên gặp được thì chúng ta phải quý trọng.

Phát Bồ Đề tâm tu thập thiện Kinh Vô Lượng Thọ nói ba bậc vãng sanh đều phải phát Bồ Đề tâm nhất hướng chuyên niệm. Phát Bồ Đề tâm được nói rất tường tận trong “Tịnh Tông tâm yếu”, ở đây giới thiệu giản lược như sau: Bồ Đề tâm là tâm kết hợp lại từ tâm đại trí huệ, đại từ bi, và đại nguyện lực. Kinh Hoa Nghiêm nói ba tâm này cũng như đèn dầu cúng Phật, phải có dầu, tim đèn, và ánh sáng, ba thứ thiếu một thì không được. Đây là nói Bồ Đề tâm là đèn, trí huệ từ bi và nguyện lực ba thứ kết hợp lại làm thành đèn cúng Phật. Chúng ta thường niệm tứ hoằng thệ nguyện: “Chúng sanh vô tận thệ nguyện độ, phiền não vô biên thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện chứng”, đây là thuận theo “sự” phát tâm. Thuận theo “lý” phát tâm thì sao, đó là như kinh Kim Cang nói “Độ vô lượng vô biên chúng sanh, mà thật không một chúng sanh được độ”. Đây đều là phá pháp chấp. Bạn cả ngày độ sanh nhưng không có tướng mình độ sanh. Phải phát khởi tâm Bồ Đề và có đầy trí huệ sâu rộng như vậy.

Tu thập thiện. Nói chung, giáo pháp của đức Thế Tôn lấy pháp Tam Thừa cộng vào Thiên Thừa và Nhân Thừa làm thành Ngũ Thừa. Đây là sự giáo hóa toàn bộ của đức Phật. Quyết không có người càng ngày càng giác ngộ mà còn làm ác như cũ. Nếu họ nói giác ngộ là họ nói láo, người không làm chuyện tốt mà đòi thành Phật, đây là chuyện khôi hài. Tu hành là chuyện của thiện nam tử, thiện nữ nhân làm, mọi người đều dứt ác tu thiện. Giữ ngũ giới thì được thân người, tu thập thiện thì được sanh cõi trời. Đối ngược với thập thiện là thập ác. Ba điều ác của thân: sát sanh, trộm cắp, và tà dâm. Bốn điều ác của miệng: nói láo, nói lời thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, và nói lời ác độc. Ba điều ác của ý: tham, sân và si. Thập thiện là không làm thập ác và chận đứng điều ác, không sát sanh mà còn phóng sanh, không tham mà còn bố thí. Bởi vậy nói tu thập thiện sanh cõi trời đâu có dễ, tại vì đây hoàn toàn dựa vào sức lực của chính mình. Niệm Phật phát nguyện vãng sanh có Phật lực gia trì; nhưng cũng không thể nói tôi niệm Phật chuyện thiện này tôi có thể không làm, như vậy là sai lầm. Không chịu làm việc thiện để làm lợi ích cho người khác thì có Bồ Đề tâm không? Nếu không phát Bồ Đề tâm thì có thể vãng sanh không? Bởi vậy cho nên phải tu thiện. Niệm Phật là chánh hạnh, chúng ta phải bổ túc bằng thiệt nhiều trợ hạnh. Kinh Vô Lượng Thọ nói rất tường tận, thế gian chúng ta có năm thứ ác, năm thứ thống khổ, năm thứ thiêu đốt. Năm thứ ác là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói láo, và uống rượu (nói rộng ra là thập ác). Đời hiện tại chịu ác báo là năm thứ thống khổ. Đời sau phải vô địa ngục là năm thứ thiêu đốt. Trong kinh không ngừng khuyên răn và khuyến khích người đời phải tu thập thiện.

Phật nói vô thượng thâm diệu thiền (Phật thuyết vô thượng thâm diệu thiền)
Người thường xem như pháp nông cạn (Thiển nhân đương tác thiển pháp khán)

Phật nói niệm Phật A Di Đà là vô thượng thâm diệu thiền. Nhưng mà có nhiều người ngược lại nói niệm Phật là pháp thô thiển. Thiệt ra cái gì thô thiển vậy? Chính là người nói rằng niệm Phật là pháp thô thiển, họ là thô thiển. Tại vì chính họ nông cạn cho nên nói pháp niệm Phật là nông cạn. Bởi vậy chúng ta phải phát tâm ít có (hy hữu tâm) này, có thể nghe đến pháp môn này, có thể tin đến pháp môn này đều là thiện căn thiện duyên tích lũy từ nhiều kiếp mà có. Chúng ta phải trân trọng phải gắng sức, lúc này mặt trời chưa lặn hãy mau đi về nhà.

Oai nghi trang nghiêm nghiệp thanh tịnh (Tứ nghi trang nghiêm tam nghiệp tịnh)
Kiên quyết giữ giới đừng để phạm (kiên thủ trọng giới vật thiểu phạm)

Tứ nghi là bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi. Chúng ta là người niệm Phật trong bốn oai nghi này phải đoan chánh thân tâm làm cho trang nghiêm. Tam nghiệp là thân khẩu ý, tất cả đều phải thanh tịnh không ô nhiễm. Trước hết là không được phạm các giới chánh (trọng giới). Trong các giới lợi hại nhất là báng pháp (hủy báng chánh pháp). Thí dụ nói Phật pháp là giả, sự báng pháp này thì chúng ta không có nói. Nhưng mà chúng ta cũng có khi báng pháp, nhiều lúc bạn hùa theo người nói kinh điển nào đó là giả. Người đó thiệt là một thiện tri thức, có người phỉ báng, bạn lại phụ họa vào và nói người đó thiếu đạo đức. Tất cả những chuyện như vậy đều là báng pháp. Cố ý nói thêm thì cũng không tốt. Nói thêm không đúng sự thật là “tăng ích báng”, cố ý nói ít đi là “giảm tổn báng”. Tội báng pháp rất nặng, nhất là người thọ giới rồi làm chuyện ác thì so với người không thọ giới tội còn nặng hơn nữa. Người không thọ giới giết chết ông Trương Tam, tương lai bị Trương Tam giết lại thì huề. Người thọ giới thì khác, phá bốn trọng giới là tội địa ngục. Nếu bạn phạm giới sát, bạn bị người đó giết lại thì tất nhiên rồi, nhưng mà bạn phải đọa địa ngục, lên núi đao xuống vạc dầu. Cho nên chúng ta thọ giới rồi không thể không nghiên cứu giới, không thể không hiểu rõ giới luật. Phải giữ giới, không được vi phạm. Nếu phá giới, thì bạn là đồ dùng bị lủng lỗ (lậu). Như cái chén bị lủng lỗ, trong chén đựng đầy nước được một lúc thì nước chảy thoát hết. Cho nên “kiên thủ trọng giới” bốn chữ này phải nhớ kỹ trong tâm.

Phá bỏ cửa nhân ngã thị phi
Buông bỏ bình sanh điều hiểu biết

Có ta có người thì có thị phi, có thị phi thì có thương ghét lấy bỏ, các thứ đối đãi không giống nhau, các thứ phân biệt đúng sai. Từ đó sanh ra muôn thứ phiền não không có ai thoát ra được, cho nên gọi là cái cửa (quan). Đây giống như cái lao ngục ở dưới đất vậy, một mình làm “tượng tùy táng” (tượng người dùng để chôn theo vua). Nguyên do của những chuyện ác đều từ một chữ “ngã” (tôi) làm ra. Có ta là có người, vĩnh viễn không có lối thoát ra, cho nên xưng là “quan”. Những chuyện thị phi này không có cách gì mà trốn thoát được. Người xuất gia có ai biết được ở trong chùa những chuyện thị phi này có ít hơn ở ngoài thế gian không? Cho nên nói, ôi chao, nếu biết trước như vậy thì chúng ta không xuất gia còn hơn. Những thứ nhân ngã thị phi này không những người tại gia có, người xuất gia cũng có. Cái cửa thị phi này, tức là tôi đúng anh sai, thị thị phi phi không phá được thì không thể nào tu hành được.

Bước thêm một bước nữa, [Buông bỏ bình sanh điều hiểu biết] trong đầu chứa đầy những thứ tri kiến không cần đến, tự cho là mình rất có học thức, thiệt ra chỉ là một số tà kiến. Nên buông bỏ hết những thứ này, quét sạch hết. Phải dụng công phu trên chữ “xả”. Xả là xả bỏ những thứ tri kiến (sự hiểu biết) không cần thiết này. Nhưng mà chữ xả này rất khó, xả thân dễ, xả bỏ tri kiến rất khó. Trong thơ của thầy Hạ đều chỉ rõ ra những thứ cứu mạng căn bản này.

Nói huyền nói diệu không liên can (Đàm huyền thuyết diệu bất tương can)
Ba chữ chánh truyền thật thà niệm (Tam tự chánh truyền lão thật niệm)

Miệng nói huyền mà tâm chưa thấu rõ, lời nói cao siêu mà hành vi xấu xa, cho dù ăn nói rất lưu loát, viết sách nổi tiếng, được danh xưng Phật học tiến sĩ danh dự, đối với người và đối với mình có gì thật ích, đối với sanh tử đại sự hoàn toàn không có liên can gì. Sự hiểu biết càng nhiều chướng ngại về “lý thể” càng sâu, so với những phiền não và chướng ngại về “sự” càng khó diệt trừ. Nói chung là lấy dây tự trói mình, muốn tiến lên ngược lại bị tụt xuống. Người chân thật dĩ nhiên không chịu như vậy mà còn phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, noi theo lời dạy của đức Phật Thích Ca và Di Đà nguyện hải, chỉ tu niệm Phật. Trong diệu pháp niệm Phật chỉ tu trì danh niệm Phật, duy chỉ thật thà niệm một câu hồng danh. Không cầu nhất tâm, không trừ vọng tưởng, không tham tịnh cảnh, không tham (niệm Phật) là ai. (Bốn điều trên đây được xưng là bốn bí quyết của pháp niệm Phật). Chỉ là một câu Nam mô A Di Đà Phật, câu sau nối liền theo câu trước. Đây chính là vô thượng thâm diệu thiền, đây mới là chân truyền của đức Phật Thích Ca. Thiện Đạo đại sư có nói: “Nguyên do đức Phật Thích Ca xuất hiện ở thế gian chúng ta cũng chỉ là muốn nói Di Đà bổn nguyện hải”. Ngẫu Ích đại sư nói: “Một câu niệm Phật hiệu là pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề mà đức Thế Tôn đắc được”. Chỉ có thiệt niệm Phật mới là chân truyền của tất cả giáo pháp.

Đó là cây đèn trong đêm tối
Thuyền trong biển khổ, kiếm chém ma

Chỉ có thiệt thà niệm Phật là cây đèn chiếu sáng trong đêm dài đen tối của chúng sanh, là con thuyền ra khỏi biển khổ, cây bảo kiếm “kim cang vương” chém trừ ma chướng. Quan trọng là ở chữ “thiệt thà” (lão thật), người đời coi thường “thiệt thà và bình thường”. Tịnh ngữ có câu: “Đạo tại bình thường trung, tích quân vi hiểu thử, tạm dịch: “đạo là ở trong bình thường, tiếc là người thường không hiểu”.

(Nếu muốn) Nhổ gốc sanh tử trong nhiều kiếp
(Phải) Liều thân này làm kẻ ngu ngốc

Chúng ta được sanh làm người, được nghe Phật pháp, được tin pháp môn Tịnh Độ, thật là nhờ nhiều đời tu hành mới có được. Chúng ta đã là tu hành nhiều kiếp, tại sao hôm nay còn lưu lạc trong chốn luân hồi, trong biển sanh tử trồi lên, lặn xuống? Cũng tại vì gốc rễ căn bản của sanh tử rất khó diệt trừ. Bởi vậy cho nên chúng ta phải phát chí nguyện lớn, quyết định ngay trong đời này, nhổ tận gốc rễ căn bản của sanh tử trong nhiều kiếp. Đây là chí lớn thấu trời cao, là chuyện vĩ đại chưa từng xảy ra trong nhiều kiếp, đại tâm muốn tự giác và giác tha, cho nên phải liều mạng không lo đến thân này để diệt trừ mọi sự khó khăn. Cũng như trong vòng bao vây trùng điệp của quân địch liều mạng tìm ra một con đường thoát thân. Đây là cuộc chiến đấu giữa nghiệp lực và ta (chân tâm). Phải dùng võ khí thiệt, không phải đánh giả vờ biểu diễn trên sân khấu, cho nên phải liều mạng này làm như một kẻ ngu ngốc, không làm một người thông minh mưu kế xảo quyệt. Họ từng giờ từng phút cũng đều đầu cơ thủ xảo, xem xét tình thế, kết giao với quyền quý, đoạt danh lợi, gạt gẫm người, không ngừng dùng các thứ mưu kế, đến cuối cùng thì người chịu thiệt thòi cũng là mình mà thôi. Người muốn cùng chúng sanh thoát biển khổ sanh tử tất nhiên phải diệt trừ những hành vi này, mặc cho người đời chê cười mình là một kẻ ngu ngốc thì cũng không hối hận. Thiền sư Tống Cao Phong (thầy của quốc sư Nguyên Trung Phong) vì tham câu thoại đầu “khi không nằm mộng, chủ nhân Ông ở tại đâu để an thân lập mạng”, nên thề là: “Liều một đời này làm kẻ ngu ngốc, quyết phải hiểu rõ ngay trong lúc này”. Quả nhiên năm năm sau ngài đại triệt đại ngộ.

Năm tông Tám giáo một câu tóm (Ngũ tông Bát giáo nhất cú thâu)
Đừng ở ngoài niệm tìm phương tiện (Thiết mạc niệm ngoại mích phương tiện)

Năm tông là Thiền Tông “Một hoa nở năm cánh” (Nhất hoa khai ngũ diệp). Năm tông là phái Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn. Bát giáo là Giáo hạ, Thiên Thai tông lập ra Hóa pháp tứ giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên và Hóa nghi tứ giáo: Đốn, Tiệm, Bí Mật và Bất Định, tổng cộng là tám giáo. Năm tông trong Thiền Tông và tám giáo trong Giáo hạ đều tóm thâu trong câu Phật hiệu này. Ngẫu Ích đại sư nói:

“Tam Tạng mười hai bộ kinh luận, tất cả giới luật, và Thiền tông một ngàn bảy trăm công án cũng đều ở gọn trong câu Phật hiệu này”. Lại nói tất cả thiền định cũng đều nằm trong câu Phật hiệu này, cho nên mới biết câu Phật hiệu này có đầy đủ công đức, tức là tổng trì đà la ni. Cho nên tuyệt đối không nên trong khi niệm Phật lại đi tìm những pháp môn cao siêu, tìm con đường phương tiện nào nữa, đó đều là tự làm khổ mình (dung nhân tự nhiễu).

Chậm quá nhanh quá đều là bịnh
Càng mong nhất tâm tâm càng loạn

Bài trước nói âm thanh niệm Phật lớn nhỏ, tiết tấu không nên gián đoạn. Đoạn này nói niệm không được quá nhanh hoặc quá chậm. Quá chậm thì vọng tưởng dễ khởi lên và tạo nên “bệnh nuôi dưỡng thức”. Quá nhanh thì dễ khẩn trương, tai nghe tiếng niệm Phật không rõ ràng ảnh hưởng rất lớn. Bởi vậy cho nên chậm quá và nhanh quá đều không tốt, phải biết điều hòa tốc độ cho thích hợp. Phương pháp thường có hiệu quả là mới bắt đầu thì niệm chậm một chút, từ từ niệm nhanh lên, cho đến khi không nhanh hơn được nữa thì dừng lại, rồi sau đó bắt đầu trở lại từ đầu. Lúc niệm không trừ vọng tưởng, không cầu nhất tâm. Đây là nội dung chính của bốn bí quyết niệm Phật. Tú tài Trương Chuyết đời Đường có câu thơ rất nổi tiếng: “Dục đoạn vọng tưởng trọng tăng bịnh” (tạm dịch Càng muốn trừ vọng tưởng càng thêm tệ). Tại vì càng muốn trừ vọng tưởng thì là “trừ một cộng thêm hai”. Cùng một đạo lý như vậy là không cầu nhất tâm. Đang lúc niệm Phật thì không cầu nhất tâm hoặc là phân biệt tính toán xem xét coi mình được nhất tâm chưa. Đây không còn là “thật thà niệm” mà là hữu vi pháp.

Chí cứng như sắt, dạ như tơ
(Chí kiên như cương khí như miên)

Không gián không tạp tự thành phiến
(Bất gián bất tạp tự thành phiến)

Thệ nguyện phải cứng rắn như sắt thép. Lúc đức Phật Di Đà còn ở thời kỳ tu nhân có phát nguyện là: “Cho dù thân này có mất trong sự khổ thì nguyện tâm cũng vĩnh viễn không thoái chuyển”, đây là dạy cho chúng ta câu “Chí cứng như sắt”. Chí phải cứng rắn nhưng tâm phải nhu nhuyễn. Nếu cố chấp ý kiến của mình thì trở thành người cang cường khó giáo hoá, họa hại không gì hơn. Trong kinh Vô Lượng Thọ có nói người ở cõi Cực Lạc có “thân tâm nhu nhuyễn”. Khí như miên là nói tâm ý nhu nhuyễn, tự nhiên dễ được giáo hoá.

Trong lúc niệm Phật không được gián đoạn và tạp loạn. Không gián không tạp (không gián đoạn và không tạp loạn) thì niệm Phật tự nhiên dễ thành phiến. Nếu đạt được nhất tâm bất loạn thì tất phải đạt được Niệm Phật Bảo Vương tam muội.

Nhân tâm quả Phật cùng cảm ứng
Thân thể cảnh giới dần chuyển biến

Chúng ta niệm Phật là tu hành trong nhân địa (thời gian tu nhân của Bồ Tát). Cái tâm của chúng ta hiện tại đang niệm Phật là cái tâm trong nhân địa gọi là “nhân tâm”. Cái niệm chúng ta đang niệm là Phật A Di Đà, Phật là vị đã đắc quả Giác Ngộ gọi là “quả Phật”. Lúc chúng ta niệm Phật, “nhân tâm” của chúng ta và “quả Phật” của Phật A Di Đà hỗ tương cảm ứng lẫn nhau. Trong tâm của chúng ta bao gồm vạn đức của Phật A Di Đà. Tâm của Phật trùm khắp mọi nơi (biến mãn nhất thiết xứ); chúng ta đang niệm Phật là niệm trong tâm Phật, Như Lai đều thấy đều biết, không có chút nào có thể làm giả dối được. Hơn nữa, tâm của chúng ta và tâm của Phật cũng đều trùm khắp mọi nơi, cho nên Phật cũng có ở trong tâm của chúng ta. Tại vì sao chúng ta có thể niệm Phật được? Tại vì Phật đang niệm chúng ta, Phật đang nhiếp thọ chúng ta đó. Nếu Phật không nhiếp thọ thì chúng ta bị phiền não trói buộc không thể niệm Phật được. Lúc chúng ta niệm Phật là lúc Phật niệm chúng ta, nhân tâm quả Phật cảm niệm lẫn nhau, cảm ứng đạo giao thì không thể nghĩ bàn. Cho nên từ từ làm cho căn thân (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý) và cảnh giới bên ngoài của chúng ta dần dần thay đổi, tự nhiên chuyển hóa cải tiến. Cho nên mới nói [Thân thể cảnh giới dần chuyển biến (Căn thân khí giới tiềm chuyển hoán)]. Khí giới là tất cả vạn vật, núi sông đại địa, lớn tới cả thế giới, nhỏ thì đến hạt bụi (vi trần). Tất cả mọi thứ này trong lúc chúng ta niệm Phật, tự nhiên không hay không biết dần dần thay đổi chuyển biến (trở nên tốt).

Chuyện này còn khó hiểu hơn chuyện thân tâm của chúng ta tùy theo tự tâm và chỗ cảm ứng của chư Phật mà tạo nên những sự biến hóa. Nên biết tự tâm và ngoại vật là không hai. Kinh Hoa Nghiêm có nói: “tri nhất thiết pháp giai thị tự tâm”, tạm dịch là “Biến tất cả các pháp đều là tự tâm”. Khởi Tín Luận nói: “Tam giới hư vi, duy tâm sở tác”, tạm dịch “Tam giới tất cả đều do tâm tạo”. Duy Thức Xu Yếu nói: “Chư cảnh vô thể, tùy chấp nhi sanh, nhân tự tâm sanh, hoàn dử tâm vi tương”. Tất cả đều giải thích rõ đạo lý “tâm vật không hai, vật và ta là một”. Cổ Thiền Sư nói: “Khắp đại địa cũng như một con mắt của sa môn”, nghĩa là nói cả quả địa cầu này là một con mắt của ông sư. Mặt đất bao la vậy cũng chỉ là một con mắt của tự thân, lúc niệm Phật là “nhân tâm” và “quả Phật” cảm ứng lẫn nhau. Tất cả nhật nguyệt, tinh tú, nam nữ, già trẻ bao gồm trong “nhân tâm” làm sao không chịu sự cảm hóa của “nhân tâm”? Cho nên người thiệt tình dụng công thì tất cả thế giới vạn vật đều chuyển biến trở nên tốt đẹp hơn, trở nên thích hợp hơn, càng chuyển biến thành thích hợp với bạn và sự tu hành của bạn. Thí dụ có người là vì oan nợ đến gặp bạn, bạn niệm Phật thì từ từ oan nợ của bạn và người đó được hóa giải. Chúng ta nên biết một địa phương nào có người dụng công, nguyên vùng đó sẽ được lợi ích. Chúng ta đừng cho rằng niệm Phật là tiêu cực ích kỷ, một người niệm Phật chân chánh tạo phước cho cả vùng đó. Không những họ tạo phước cho vùng đó, mà còn tạo phước cho cả địa cầu, họ còn tạo phước cho cả pháp giới luôn. Tất cả không có gì là không thể chuyển biến được. Cho nên chúng ta có chuyện phiền não gì thì đều nên chăm chỉ niệm Phật hiệu này. Nhưng mà tại sao những chuyện phiền não này luôn tìm đến phá khuấy bạn hoài vậy? Tại vì bạn dụng công không được đắc lực. Nếu bạn dụng công đắc lực rồi thì nó sẽ không phá khuấy bạn nữa. Tất cả ta và mọi người, tất cả thế giới đều từ từ âm thầm thay đổi. Cho nên người xưa khi đi đến một địa phương lạ, họ làm sao biết được chỗ đó có người hiền đức? Họ biết được là nhờ xem xét cây cối sông núi cảnh vật ở đó, nếu quả là có người đắc đạo ở chỗ đó, tất cả vạn vật ở đó đều khác hẳn.

Phiền não chưa dứt niệm không nhất
Tập khí không trừ Phật không hiện

Phiền não tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp nên rất khó phá trừ. Nếu chưa đoạn trừ được trước hết phải đè dẹp nó. Cũng như một ly nước đục có quá nhiều chất đục không thể dùng được. Cho nên phải để yên cho chất đục lắng xuống đáy. Nước ở trên trong rồi thì có thể dùng được. Nước trong là thí dụ cho tâm niệm chuyên nhất. Chất dơ bẩn chưa lắng xuống cũng tỷ như phiền não chưa đè dẹp. Lý tự nhiên là như vậy không thể miễn cưỡng. Những thói quen xấu tích tụ lâu còn lại thì gọi là tập khí. Thí dụ như hạt giống sân hoặc của tôn giả Xá Lợi Phất đã cắt đứt, nhưng cũng còn dễ phát nộ (giận), đây gọi là tập khí. Thầy Hạ có hai câu khai thị rất hay “Trì giới niệm Phật xem kinh giáo, xét sai lỗi cũ đừng tự gạt”, cho nên mới biết tập khí lỗi cũ rất quan trọng. Hoàn toàn trừ hết tập khí chỉ có Phật mới làm được, cho nên ở đây nói trừ tập khí không phải trừ dứt hết, mà là muốn bạn tích cực diệt trừ nó. Phật là người giác ngộ “Phật hiện” nói theo cách thông thường ở đây là nói Phật hiện hào quang, nhưng càng quan trọng hơn là chỉ cái tâm đại giác. Cái tâm đại giác này không thể hiện ra được nếu tập khí không dứt trừ.

Lúc ngàn vạn câu như một câu
Đâu lo không thấy mặt Di Đà

Có hai cách giải thích:

1. Niệm một ngàn một vạn câu Phật hiệu cũng rõ rõ ràng ràng giống như lúc chỉ niệm một câu, không có tạp niệm. Niệm một câu rất rõ ràng, người niệm Phật cũng có khi được như vậy nhưng mà kéo dài đến một ngàn một vạn câu đều thanh tịnh giống như vậy, tự nhiên vãng sanh Cực Lạc thế giới, hoa nở thấy Phật, còn lo buồn cái gì, còn lo sợ không thấy Phật Di Đà sao?

2. Một ngàn một vạn câu giống như một câu. Một câu này cũng giống như một ngàn một vạn câu, bỏ hết số lượng. Nhứt đa tương tức (nhiều ít gì cũng giống nhau) (một tức là nhiều, nhiều tức là một), vượt ra khỏi “tình” ra khỏi “kiến giải”, không thể nghĩ bàn. Tại vì không thể nghĩ bàn, tôi đương nhiên không viết nhiều nữa, không vẽ thêm chân vào hình con rắn nữa.

Chuyện này không dễ cũng không khó
Tam muội đều nhờ Tín Nguyện Hạnh

Cả nhà Bàng cư sĩ đời Đường rất được sùng bái trong Thiền tông.

Ông Bàng nói: “Nan bất nan, bách đảm ma dầu thọ thượng thán?”, tạm dịch “khó hay không khó, một trăm gánh dầu mè đặt để trên cây?”

Bà Bàng đáp: “Bách thảo đầu thượng tổ sư ý”, tạm dịch: “Trên trăm ngọn cỏ tổ sư ý”.

Người con gái tên Linh Chiếu nói: “Bất nan diệc bất dị, nga lai thực phạn khốn lai thùy”, tạm dịch: “Không khó cũng không dễ, đói thì ăn cơm mệt thì ngủ”.

Lão thật niệm Phật tức là vô thượng thâm diệu thiền.

“Bổng đả thạch nhân đầu, bộc bộc luận thật sự”, tạm dịch: “Gậy đánh đầu người đá, phô bày rõ sự thật này”. Ai nói với bạn khó với dễ, nếu nói khó và dễ, cổ Phật quá khứ đã qua lâu rồi.

Tam muội chỉ niệm Phật tam muội, là vua trong các thứ tam muội, cho nên xưng là Bảo Vương tam muội. Muốn chứng được tam muội này chỉ cần Tín Nguyện Hạnh, ba thứ tư lương. Tín cần phải tin sâu, như sáu thứ tín của Ngẫu Ích đại sư nói, như chánh tín của Tiệt Lưu đại sư nói. Nguyện cần phải nguyện thiết tha, hạnh là thiệt thà lão thật niệm Phật.

Bài thứ ba: LÃO THẬT NIỆM

Nguyên văn

Đán chỉ lão thật niệm
Bất tất vấn như hà
Mạc quản đồng dữ dị
Hưu luận tự dữ tha
Chỉ quý nguyện lực cường
Ná phạ vọng tưởng đa
Tán loạn cố thành bịnh
Phân biệt dị nhập ma
Cảnh duyên vô hảo xú
Phật hiệu nhất tảo quá
Cú cú niệm năng chân
Quyết định xuất Sa Bà

Tạm dịch

Chỉ cần thật thà niệm
Không cần hỏi tại sao
Đừng lo giống và khác
Không luận mình và người
Chỉ quý nguyện lực mạnh
Không sợ vọng tưởng nhiều
Tán loạn nhiều thành bịnh
Phân biệt dễ vào ma
Cảnh duyên không tốt xấu
Phật hiệu đều quét sạch
Câu câu niệm được chân
Quyết định thoát Sa Bà.

Bài trước có nói: “Ba chữ chân truyền thật thà niệm” nên dùng bài “Lão Thật Niệm” để nối tiếp theo sau, chúng ta phải bắn trúng đích ở giữa hồng tâm, mới là người giỏi nhất trong những người nhận được thánh giáo.

Chỉ cần thật thà niệm
Không cần hỏi tại sao

Lão thật là rất bình thường, nhưng mà rất là hiếm có. Vào đời Đường, có người hỏi một bà lão đường lên núi Đài làm sao đi. Bà trả lời: “Mạch trực khứ”, tạm dịch “Cứ đi thẳng”. Nhiều người trong Thiền tông đều không “hiểu” bà được. Chữ “mạch trực” cũng giống như “lão thật”, cả hai đều rất bình thường, và cũng rất đặc biệt. Diệu là diệu ở chỗ không dành cho bạn chỗ nào để suy nghĩ. Nếu có chỗ để suy nghĩ thì không đúng. Niệm Phật và tham thiền đều là như vậy. Cho nên mở miệng nói câu đầu thì nói thẳng liền: “Chỉ cần thật thà niệm”, tuyệt đối là duy nhất chỉ có thật thà niệm Phật. Không có thể hỏi cái này hỏi cái nọ, nếu còn hỏi đông hỏi tây thì không còn thiệt thà nữa. Cho nên Tông môn có nói: “Bất vấn như hà dữ nhược hà” tạm dịch là : “Không hỏi như sao và nếu sao”.

Đừng lo giống và khác
Không luận mình và người (tự và tha)

Tông Hoa Nghiêm y cứ vào sáu tướng mà nói cái nghĩa “pháp giới sự sự vô ngại”. Sáu tướng là: tổng, biệt, đồng, dị, thành, và hoại. Sáu tướng này là từ thể tướng dùng ba phương diện mà thảo luận hàm nghĩa của bình đẳng và sai biệt. “Đồng và dị” là bình đẳng và sai biệt trên tướng. Thí dụ hình tướng của gạch ngói và cây gỗ đều không giống nhau, nhưng mà có thể hợp thành một gian nhà, hiển thị ra tướng “đồng”. Gạch ngói và cây gỗ mỗi thứ đều có hình tướng khác nhau, đây là tướng “dị”. Từ tướng “đồng” và “dị” mà có thể suy đóan cái “tổng” và “biệt” trên “thể” và “sự”, “thành và hoại” trên cái dụng. Cho nên ở đây dùng “tổng” và “dị” để làm đại biểu. “Tự” Phật và “tha” Phật. Tự mình nghĩa là tự, người khác nghĩa là tha. Thân tâm là tự, vạn vật là tha. Cho nên “đồng” và “dị” bao gồm tất cả sự bình đẳng và sai biệt của “thể”, “tướng”, và “dụng”. Tự, tha bao gồm hết tất cả sự đối lập và thống nhất của người, mình (nhân ngã) và tâm, vật. Tất cả đều không hỏi và không để ý đến, trong tâm đơn độc chỉ là một câu A Di Đà Phật; mỗi âm thanh của câu Phật hiệu này nối liền nhau, tự nhiên sẽ được thuần nhất và sáng tỏ.

Chỉ quý nguyện lực mạnh
Không sợ vọng tưởng nhiều

Trong quyển Di Đà Yếu Giải có nói: “Phi tín bất túc khải nguyện, phi nguyện bất túc đạo hành, phi trì danh hiệu hạnh bất túc mãn sở nguyện, nhi chứng sở tín” tạm dịch là:

“Tin không đủ thì không thể phát nguyện được, nguyện không đủ thì không đủ để dẫn đạo hành trì, trì danh diệu hạnh không đủ thì không thể làm tròn lời nguyện và chứng điều mình tin”

Cho nên mới biết nguyện lực là nối tiếp và noi theo chữ tín và dẫn dắt theo diệu hạnh. Lại nói:

“Tin sâu phát nguyện tức là Vô Thượng Bồ Đề; tín nguyện như vậy đúng là kim chỉ nam của Tịnh Độ; nếu Tín Nguyện kiên cố, khi lâm chung mười niệm hoặc một niệm cũng được vãng sanh. Nếu không có đầy đủ Tín Nguyện, cho dù niệm đến mức gió thổi không lay động, mưa rơi không thấm, vững chắc như bức tường đồng vách sắt thì cũng không vãng sanh được”.

Lại nói: “Vãng sanh được hay không đều dựa trên có Tín Nguyện hay không, phẩm vị cao thấp toàn do trì danh sâu hay cạn”.

Nghĩa là một người tu Tịnh Độ có thể vãng sanh hay không hoàn toàn dựa trên người đó có Tín Nguyện hay không, nếu có tin sâu (lục tín và chánh tín) và nguyện thiết, không sợ thường ngày niệm Phật vọng tưởng nhiều đều quyết định được vãng sanh. Ngược lại cho dù niệm được rất nhiều, niệm đến mức gió thổi cũng không lay động mà không có tín nguyện thì không thể vãng sanh. Do đó có thể thấy lời khai thị vô cùng thù thắng của Ngẫu Ích đại sư cùng hai câu kệ của thầy Hạ trên đây vô cùng phù hợp. Thầy Hạ còn mấy câu thơ như sau:

Mặc cho vọng tưởng lung tung
Tôi niệm từng chữ rõ ràng

Cứ để vọng tưởng tự đến rồi tự đi, tự sanh rồi tự diệt, vừa sanh xong liền diệt. Nói sâu thêm một chút, ngoài tự tánh thiệt là không có vọng tưởng, vọng niệm chỉ là tự tâm vọng động cũng như sóng trên mặt nước. Xin hỏi sóng là gì? Sóng chỉ là nước. Vọng tưởng không dứt chỉ tại tự tâm quen tán loạn, nếu có thể thật thà niệm hoài, lâu ngày thuần thục thì vọng niệm tự nhiên không sanh.

Tán loạn nhiều thành bịnh
Phân biệt dễ vào ma

Tâm này như con vượn đã nhiều kiếp không có lúc nào yên tịnh chuyên nhất, tán loạn thành tập quán đương nhiên là bịnh. Người quá trung niên có một chút bịnh cũng là chuyện thường. Nhưng nếu lạc vô luới ma rồi và chiêu cảm quả báo ở địa ngục thì nghiêm trọng hơn cả triệu lần. Tán loạn cũng như người bị cận thị, “vào ma” cũng như bị lọt vào tổ chức đặc vụ của địch quân, kết quả thì là rất bi thảm. Cho nên đừng nên phân biệt, so đo tốt hơn hoặc xấu hơn? Tu như vầy tốt hay là như thế kia mới tốt? Lúc thì hoan hỷ lúc thì âu sầu, không lúc nào không ở trong sự phân biệt, lúc nào cũng không rời tâm niệm cầu thứ này cầu thứ nọ. Cho nên pháp vô thượng thù thắng vô biên thành pháp hữu vi. Vì thế thầy Hạ có nói: “phân biệt tức là lưới ma”, niệm tới niệm lui câu nào cũng dính pháp hữu vi, đều có mong cầu thì làm sao mà thiệt thà niệm được.

Cảnh duyên không tốt xấu
Phật hiệu đều quét sạch

Tiếng niệm Phật bao hàm cả hư không này quét sạch tất cả những sự phân biệt tốt và xấu trong pháp thế gian và xuất thế gian cũng giống như gió mùa thu thổi lá rụng, một cơn gió thổi sạch trơn. Từ tâm phát ra âm thanh, âm thanh là Phật hiệu, Phật hiệu có đủ vạn đức, nhiếp tròn vạn pháp, cho nên thể của tiếng niệm Phật này có đủ vạn đức vạn pháp, có đủ sức mạnh và công đức vô thượng, vô biên pháp lực, cho nên có thể quét sạch phân biệt tán loạn và các thứ hư vọng. Tiếng niệm Phật lọt vào tai của mình, lọt vào tự tâm, như hạt châu phát quang, phản chiếu lại thể của hạt châu. Ánh sáng của tâm dung hòa vào tiếng Phật hiệu hỗ tương tăng trưởng đi thẳng đến cứu cánh.

Câu câu niệm được chân
Quyết định thoát Sa Bà

Trong hai câu này chữ quan trọng cần giải thích nhất là chữ “chân”. Chỗ niệm câu nào cũng “chân” nhất quyết thoát ly Sa Bà vãng sanh Cực Lạc. Làm sao mới là “chân”? Giải thích dễ hiểu nhất, nếu muốn niệm được “chân” thì phải chân (thiệt) niệm. Không phải giả bộ, ngụy trang gạt người, không chú trọng vào hình thức, không có mục đích gì khác, không có vọng cầu quá đáng, không phải là có hình dáng mà không có thật chất. Rất thiết tha, rất thành thật mà Tín Nguyện và trì danh, đây là thiệt thà niệm Phật. Nói đơn giản thêm một chút nữa, nếu bạn nghe tiếng niệm Phật của mình rõ rõ ràng ràng, nguyên câu hoàn toàn nghe rõ, đây là chân thật niệm.

Trên đây ba bài “Tịnh Ngữ” đã nói rõ hết những nghĩa lý thâm diệu của Tịnh tông. Sau cùng thêm bài “Trực Niệm Khứ” bao gồm tất cả sự huyền diệu của Tịnh, Thiền, và Mật. Niệm Tổ này không vẽ thêm chân vào hình con rắn nữa, xin mời tự tham (niệm).

Nguyên văn

TRỰC NIỆM KHỨ

Di Đà giáo ngã niệm Di Đà
Khẩu niệm Di Đà thính Di Đà
Di Đà Di Đà trực niệm khứ
Nguyên lai Di Đà niệm Di Đà

Tạm dịch

NIỆM HOÀI ĐI

Di Đà dạy tôi niệm Di Đà
Miệng niệm Di Đà nghe Di Đà
Di Đà Di Đà cứ niệm luôn
Hèn chi Di Đà niệm Di Đà

Bắc Kinh Liên Xã, 4-1991
Trích dịch từ cuốn Tâm Thanh Lục, Hoàng Niệm Tổ

Bài giảng của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ trong niệm Phật thất 1998, tại Cư Sĩ Lâm Bắc Kinh.