28 10 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Tôi thường khen ngợi chư vị đồng tu, nhân duyên thiện căn, phước đức của quý vị tốt đẹp hơn tôi. Quý vị vừa học Phật liền tin tưởng pháp môn này. Tôi học Phật cả bốn mươi năm mới tin tưởng. Tôi xuất gia lúc mới hai mươi sáu tuổi, gặp lão cư sĩ Châu Kính Trụ đã ngoài bảy mươi, cụ đối với tôi rất tốt, thường thường chăm sóc tôi. Về sau, cụ giới thiệu tôi đến Đài Trung thân cận thầy Lý học Phật. Thầy Lý là đệ tử của Ấn Quang đại sư, chuyên tu Tịnh Độ. Tôi [đến Đài Trung] nhằm mục đích học giảng kinh, cụ Lý khuyên tôi tu Tịnh Độ, tôi chẳng thể tiếp nhận, thậm chí còn ép thầy đến nỗi cụ phải thốt ra một câu đọc tiếp ➝
26 10 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
“Tu là tu thật, chứ không phải là tu thử”. Có nhiều người hay nói tu thử! Tu thử thì có tu hành nhiều tới đâu cũng vô ích!…
Chúng ta ở đây kết nhóm với nhau niệm Phật là chúng ta tu thật. Xin chư vị đừng nên tới đây tu thử. Tại vì tu thử tức là trong tâm của ta không có định hướng, thấy người ta tu vui vui, mình tới tìm vui chứ không phải là tu. Ngài Tĩnh-Am dặn chúng sanh tu phải có phát tâm. Chúng ta ở đây phát tâm niệm Phật là hướng đi đã được xác định. Phát tâm rồi nhưng mà không lập hạnh thì phát tâm này cũng là phát tâm thử! Chính vì phát tâm thử, nên rất nhiều người tu hành sau cùng không có thành tựu.
Chúng ta biết rằng khi mình chết đi, nhất định không phải là hết. Nếu mà hiểu đạo thì rõ rệt, nói thẳng thắn ra, là cái thân xác này chúng ta bỏ, chứ còn “Chính Ta” không bỏ đi đâu hết. Ở trước cửa kia có chiếc xe của anh Phước, cái xe bị hư anh Phước bỏ chiếc xe, chứ anh Phước vẫn còn, chị Nhung vẫn còn. Ta tu là để khi ta liệng cái xác này, ta được giải thoát. Nếu không xác định được rõ rệt như vậy, thì chúng ta tu cũng chỉ là tu thử! Thật sự, có thể nói rằng hơn 90% người tu hành trong thời này thường là tu thử!…
Nhiều người khi nghe có lễ lộc thì đi tới chùa thử coi. Khi tới thì nhìn vô thử coi! Nhìn vô thử coi xong rồi… À! Như vậy là ta tu rồi đó! Tu rồi thì ra phía sau nhập vào bàn cờ tướng, nhập vào tờ báo, nhập vào nhóm ca nhạc… Tất cả những thứ đó nhất định sẽ lôi kéo chúng ta lại. Có nghĩa là, trong cuộc đời này dù cho có tới chùa nhiều như thế nào đi nữa, dù cho hình thức tu hành hay như thế nào đi nữa, đọa lạc vẫn bị đọa lạc như thường!…
Chính vì vậy, Niệm Phật Đường này lập ra là để dành cho những người tu thật. Xin thành tâm kêu gọi tất cả mọi người, chúng ta hãy thực tâm tu hành, vì cái huệ mạng ngàn đời ngàn kiếp mà đến đây niệm Phật. Từ đây cho đến tương lai, nhất định đạo tràng này không làm lễ, không tụ hội, không cờ xí, không quảng cáo… Chỉ âm thầm lặng lẽ niệm Phật. Nhất định tu thật.
Trong kinh Đại-Tập, Phật nói: “Đời mạt pháp vạn ức người tu, khó tìm ra một người chứng đắc. Chỉ có những người nào phát tâm niệm Phật mới vượt thoát ra khỏi cảnh luân hồi”.
Nghe theo lời Phật, nên chúng ta đóng cửa tu hành. Đóng cửa tu hành trong thời mạt pháp này có nghĩa là cố gắng xa lìa những nơi đông đảo, hội náo. Đó là lời Phật dạy trong kinh Bửu-Tích. Thời mạt pháp này nếu không biết lặng lẽ, tìm nơi an tịnh để niệm Phật, thì nhất định chúng ta sẽ thất bại!
Ngày hôm qua chúng ta đưa ra hình ảnh một vị pháp sư trốn tất cả thế gian, đi thẳng vào trong rừng sâu, lặng lẽ tu một mình mười năm trường. Những ngày đầu tiên Ngài gặp rất nhiều khó khăn, nhưng nhất quyết không lui. Khi lương thực hết, thì tự nhiên có những loài khỉ, những loài chim chúng lại đem thức ăn tới cho Ngài. Khi bị bắt ra rồi, Ngài mới có 40 tuổi. Ngài đứng lên nói lại những chuyện đó.
Chúng ta không dám làm chuyện đó đâu, vì thật sự đây là những người đặc biệt mới làm nổi. Chúng ta chỉ kêu gọi tất cả mọi người cố gắng, quyết lòng, đã tu thì nhất định tìm một cách tu nào vững vàng để thành tựu cho được. Còn không, thì xin thưa, nạn sanh tử luân hồi vẫn còn nguyên vẹn, không cách nào thoát ly! Ở đây chúng ta đang hô hào tăng thêm thời gian tinh tấn niệm Phật, đây là một sự tập sự để đến khi mãn báo thân này, nhất định khi nằm xuống, trước những giờ phút lâm chung ta niệm được câu A-Di-Đà Phật.
Chúng ta nên nhớ, nghiệp chướng của chúng ta quá nặng! Đừng nghĩ rằng một người nào đó đưa vào bệnh viện bị mê man bất tỉnh, còn mình thì không đến nỗi như vậy. Không phải! Nó chưa đến đó thôi. Khi đến rồi, nhiều khi chính mình còn bị nặng hơn nữa! Muốn giải quyết chuyện này thì phải làm sao? Trong kinh Phật có dạy rằng, vãng sanh có “Ý Niệm Vãng Sanh”. Ý Niệm Vãng Sanh là như thế nào? Là người đó khi lâm chung bị nghiệp chướng đánh họ, bị chướng nạn làm cho họ mê man bất tỉnh, nhưng mà trong tâm của họ âm thầm niệm Phật trong đó mà mình không hay. Nếu làm được chuyện này thì người đó được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, theo cái diện “Ý Niệm Vãng Sanh”.
Ta niệm Phật như thế này?… Chưa chắc! Xin thưa thật với chư vị, chưa chắc gì ta sẽ giải hết tất cả những ách nạn. Mà ta có thể bị mê man bất tỉnh! Muốn trong khi mê man bất tỉnh đó ta niệm câu A-Di-Đà Phật, thì không có gì khác hơn là ngay từ bây giờ phải mau mau tỉnh ngộ đường tu, quyết lòng trì giữ câu A-Di-Đà Phật.
– Những chuyện thị phi, ganh tỵ, câu chấp… của thế gian nhất định phải buông ra.
– Những cái lo lắng, sầu bi, khổ sở… nhất định phải buông ra.
– Những cái này phải buông ra, buông ra, buông ra… Mỗi ngày mỗi buông, mỗi ngày mỗi buông. Tập buông… Phải buông liền để cho những cái đó không dính vào tâm của mình, thì khi nằm xuống mới niệm Phật được.
Trong tất cả những ngày trước khi lâm chung, mình huân tập câu A-Di-Đà Phật, huân tập cho đến nhập vào tâm luôn. Nếu không nhập vào tâm được, thì ít ra cũng phải thành một thói quen, gặp bất cứ chuyện gì cũng trả lời bằng câu A-Di-Đà Phật. Thì khi ta gặp đại nạn đến, ta gặp oan gia trái chủ đến, ta gặp những chướng nạn của cận tử nghiệp… tâm ta vẫn giữ được câu A-Di-Đà Phật. Cố gắng niệm Phật, thành tâm niệm Phật. Cứ câu A-Di-Đà Phật mà niệm, chư Thiên-Long Hộ-Pháp, chư Bồ-Tát gia trì cho chúng ta trong lúc đó.
– Nhân Quả của chúng ta… thân chúng ta trả. Đường về Tây Phương… tâm chúng ta đi.
Cho nên nhân quả cứ trả trên cái thân này, còn cái tâm này vẫn giữ câu A-Di-Đà Phật để niệm.
Ngài Tĩnh-Am khuyên chúng sanh phải “Lập Hạnh”. “Lập Hạnh” là như thế nào? Ví dụ, chúng ta đưa ra chương trình “Công Cứ Niệm Phật”. Lập công cứ niệm Phật chính là “Lập Hạnh”. Tại vì, nếu chúng ta không niệm Phật, thì đừng nghĩ rằng có mười người, hai mươi người ở Niệm Phật Đường A-Di-Đà này đến chung quanh cái xác của ta, họ hộ niệm cho ta thì ta được vãng sanh. Hoàn toàn không phải! Nếu quý vị đã nghe qua những lời Diệu Âm nói trước đây, hoàn toàn không phải như vậy! Mà bắt buộc người nằm đó, người bệnh đó phải niệm câu A-Di-Đà Phật, phải nguyện vãng sanh, phải quyết lòng đi về Tây Phương dù với bất cứ hoàn cảnh nào, nếu được người hộ niệm tới hỗ trợ tích cực nữa, thì ta mới dễ được vãng sanh. Nếu lúc đó ta chìm đắm trong một cảnh giới nào đó, dẫu cho một ngàn người đến hộ niệm đi nữa, nhất định cũng không thể vãng sanh!
Quý vị nên nhớ rằng, ngài Lương Võ Đế là một đại Hoàng Đế, Ngài triệu tập được cả hàng ngàn vị Tăng, đại Tăng, tới hộ niệm cầu siêu cho người vợ thứ của Ngài, thì kết quả nhiều lắm cũng chỉ lên một cảnh trời trong Dục-Giới là cùng, trong khi phước đức của Ngài bỏ ra hộ pháp cho Phật pháp có thể nói là bao trùm cả thế giới. Cái phước đức lớn như vậy, cộng thêm một ngàn vị đại Tăng như vậy, mà cứu chỉ được lên một cảnh Trời mà thôi. Trong khi đó, nếu chỉ cần năm người, mười người đồng tu đứng chung quanh chúng ta niệm Phật, hộ niệm, nếu mình niệm Phật được thì mình về tới Tây Phương Cực Lạc để thành đạo Vô-Thượng. Cái giá trị nầy lớn đến cỡ nào?…
Xin thưa với chư vị, tu phải biết đường rõ rệt, tu phải hiểu đạo rõ rệt. Phải nắm vững những nguyên tắc này: Muốn được A-Di-Đà Phật đến cứu độ mình, nhất định “Tự Lực” mình phải lo trước. Tự lực là gì? Đối với pháp môn niệm Phật, xin thưa là: Tín-Hạnh-Nguyện, không có gì khác. Nếu Diệu Âm nói rằng: “Quý vị lập công cứ niệm Phật một tuần thì phải “Nhất tâm bất loạn”, nói như vậy, quý vị có thể đánh giá rằng Diệu Âm đã sai lầm! Sai lầm vì ứng hợp căn cơ không được. “Nhất tâm bất loạn” là hợp Lý, bắt người ta phải “Nhất tâm bất loạn” là không hợp Cơ! Vì chính Diệu Âm này cũng không có khả năng niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, thì làm sao dám nói với chư vị niệm Phật nhất tâm bất loạn?!…
Nhưng mà Diệu Âm nói rằng, chư vị ơi! Ráng niệm Phật lập công phu. Trong công cứ chỉ khuyến tấn rằng, khởi đầu một ngày hãy niệm năm ngàn câu A-Di-Đà Phật. Số lượng năm ngàn câu A-Di-Đà Phật thật sự quá ít! Ta chỉ cần bỏ ra một tiếng đồng hồ là có thể niệm được. Thế mà chúng ta không chịu niệm! Không chịu niệm, thì ban hộ niệm cũng đành bó tay! Tại sao chúng ta không niệm năm ngàn câu được? Tại vì không chịu Lập-Hạnh!
Cách đây mấy ngày có một người tới đây xin chúng tôi hộ niệm. Tôi nói Cụ về, sáng ra nguyện: “Nam Mô A-Di-Đà Phật, xin Phật cho con được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc”, rồi niệm Phật ghi vào bảng công cứ, cố gắng một ngày cụ niệm năm ngàn câu A-Di-Đà Phật. Cụ đó nói: “Niệm nhiều quá như vậy, tôi niệm không được!”. Tôi trả lời thẳng thắn rằng: “Cụ niệm không được, thì chúng tôi cũng không thể hộ niệm cho Cụ vãng sanh về Tây phương Cực Lạc” được.
A-Di-Đà Phật muốn cứu tất cả chúng sanh, không bỏ một người nào hết. Nhưng tự mình không chịu đi, đường đi không vững, lập hạnh không vững, niệm Phật chơi chơi!… Ở đây thì niệm Phật, về nhà xin chư vị tự xét mình thử coi, trong lúc rảnh rỗi mình có niệm Phật hay không? Hay là, trong lúc rảnh rỗi mình coi Ti-Vi, mình coi phim chưởng, mình kình cãi, mình nói chuyện này chuyện nọ?… Nếu vậy, thì rõ ràng, tâm của mình là tâm luân hồi lục đạo, thì A-Di-Đà Phật cũng đành buông tay không có cách nào có thể cứu mình được.
Chỉ cần phát tâm niệm Phật, quyết lòng niệm Phật, quyết đi về tới Tây Phương Cực Lạc. Xin thưa thực, có ban hộ niệm ở tại Việt Nam người ta trợ duyên được một trăm mấy chục người vãng sanh chỉ trong vòng mấy năm trường. Tại sao được vậy? Tiêu chuẩn của họ đưa ra cho những người trong ban hộ niệm là các thành viên phải niệm mười ngàn câu A-Di-Đà Phật, phải niệm mười lăm câu A-Di-Đà Phật, hai chục ngàn câu A-Di-Đà Phật một ngày. Có nhiều người niệm trong một tháng, hai tháng thì người ta đã đạt được tiêu chuẩn đó rồi. Khuôn mặt của họ tự nhiên càng ngày càng sáng sủa ra. “Pháp hỷ sung mãn” rõ rệt.
Thật sự người niệm Phật có chư Thiên-Long bảo vệ, có các vị Bồ-Tát gia trì, A-Di-Đà Phật phóng quang gia trì cho những người niệm Phật. Thế mà chúng ta lại bỏ sự gia trì đó để đi theo con đường lục đạo, làm sao mà được thoát nạn?!…
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)
Hình trên chỉ mang tính minh họa. Các “sư” đều là diễn viên.
24 10 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
“Khế Lý” là hợp với “Lý Đạo”. “Khế Cơ” là hợp với “Sự Đạo”. Trong đó niệm câu A-Di-Đà Phật, phát tâm niệm Phật, là hợp với “Lý Đạo”. Trong kinh điển đức Thế-Tôn luôn luôn dặn chúng sanh trong thời mạt pháp này phải niệm Phật. Ngài Quán-Thế-Âm cũng dạy phải niệm Phật. Ngài Đại-Thế-Chí cũng dạy phải niệm Phật. Tất cả chư Bồ-Tát đều dạy chúng sanh trong thời mạt pháp phải niệm Phật! Như vậy, niệm Phật là “Khế Lý”, hợp với lý đạo. Niệm Phật là niệm ngay chơn tâm tự tánh chúng ta, vì đúng theo lý đạo thì chính cái chơn tâm chúng ta là Phật. Chúng ta niệm A-Di-Đà Phật là để cho chơn tâm tự tánh chúng ta khởi dậy, hiện ra, cũng giống như là một viên ngọc ở trong bùn, bây giờ chúng ta tìm cách bươi lên để cho nó phát quang ra. Cho nên, niệm Phật là hợp với Lý Đạo.
Còn mình triển khai phương pháp hộ niệm triệt để, thật kỹ càng là Khế Cơ, hợp với căn cơ. Tại vì chân tâm tự tánh chúng ta là Phật, nhưng ta vẫn là phàm phu không thành Phật được! Sở dĩ như vậy vì nghiệp chướng đã quá nặng, căn cơ của chúng ta quá yếu, tự mình niệm Phật để cho chơn tâm tự tánh hiển lộ không nổi! Nếu chúng ta sơ ý cho rằng, chơn tâm tự tánh chúng ta là Phật thì niệm Phật sẽ dễ dàng hiển lộ, dễ dàng chứng đắc, sẽ nhất tâm bất loạn… thì chẳng khác gì mình đang chờ mong nhìn thấy “Hoa đốm giữa hư không”. Danh từ “Hoa đốm giữa hư không” đức Thế-Tôn đã nói trong kinh Viên-Giác. Chính vì vậy, ta phải áp dụng phương pháp hộ niệm.
Tại sao phải áp dụng phương pháp hộ niệm? Vì ta niệm Phật không có khả năng được Nhất Tâm Bất Loạn! Muốn được nhất tâm bất loạn trong thời này thì nói thẳng rằng phải là hàng thượng-căn, thượng-trí, đại Bồ-Tát mới làm nổi. Ta không phải đại Bồ-Tát, cũng không phải là tiểu Bồ-Tát, mà lại là phàm phu chính hiệu nữa, thì chờ ngày cho nhất tâm bất loạn chẳng khác gì chờ thấy hoa đốm giữa hư không! Trên hư không làm gì có hoa trên đó? Chẳng qua là những đám mây lúc tan lúc hợp đổi thay vô thường!…
Ấy thế mà ngài Tịnh-Không nói, chúng ta không phải Bồ-Tát. Chúng ta chỉ là Bồ-Tát giả, nhưng biết thành tâm quyết lòng niệm Phật, thì Bồ-Tát giả này được A-Di-Đà Phật tiếp độ về Tây Phương, Bồ-Tát giả này thành Bồ-Tát thật. Mà Bồ-Tát thật ở trên cõi Tây Phương thì khi nhìn lên bầu trời trên cõi Tây Phương có những lộng hoa đẹp lắm! Hằng ngày có những lộng hoa rất to, rất đẹp, lơ lửng lơ lửng trên không. Mà lạ thay, lộng hoa đó cuống thì ở trên còn mặt hoa thì ở dưới, nhờ thế ở dưới mình nhìn lên mới thấy hoa. Rồi hoa đó cứ từng đốm, từng đốm, từng đốm, từng đốm rơi… rơi… rơi xuống dưới đất. Mình đi khi đạp lên thì nó lún xuống, khi mình giở chân lên thì tự nhiên cái hoa nó trở lại như cũ. Nó có sự đàn hồi. Đẹp vô cùng!…
Cho nên, ở đây mà nói hoa đốm giữa hư không thì phiêu phỏng hão huyền! Về trên Tây Phương mình thấy rõ rệt có hoa đốm giữa hư không, được chư Bồ-Tát cúng dường, A-Di-Đà Phật dùng thần lực của Ngài hóa hiện để cúng dường cho tất cả chúng sanh ở trên đó. Đẹp vô cùng.
Chính vì vậy, vấn đề khế cơ, tức là hợp với căn cơ rất quan trọng. Trong đó pháp hộ niệm là đại hợp căn cơ cho người tu học trong thời mạt pháp này. Vì sao vậy? Vì những người hạ căn hạ cơ như chúng ta, nếu không nhờ phương pháp hộ niệm này, nhất định một ngàn người tu, một vạn người tu, tìm không ra một người chứng đắc! Đây là lời Phật dạy.
Chính vì thế, xin chư vị khi bắt đầu niệm Phật, hãy khởi cái tâm ra, hãy phát cái tâm thật vững vàng, quyết định một đời này về tới Tây Phương Cực Lạc. Nhất định đừng nghĩ rằng:
– Mình tu, để kiếm chút phước. Nhất định những câu nói này sai lầm!
– Đi tu, để tìm chút vui vẻ. Nhất định những câu nói này sai lầm!
– Đi tu, tới chùa người ta tu sao mình tu vậy. Nhất định những câu nói này sai lầm!
Vì toàn bộ những lời nói này không ứng hợp lý đạo, không ứng hợp căn cơ. Lý đạo không hợp, vì đức Bổn Sư Thích-Ca-Mâu-Ni Phật dạy chúng ta niệm Phật để vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nếu ta phát tâm vững mạnh nhất định đời này ta phải đi về Tây Phương Cực Lạc thì ta ứng hợp lý đạo, đúng theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích-Ca-Mâu-Ni Phật. Ta quyết lòng đi về Tây Phương Cực Lạc là hợp với đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật, ta mới về được Tây Phương Cực Lạc để thành đạo Vô-Thượng.
Nếu hàng vạn người bên ngoài nói rằng tu cho vui, mình cũng tu cho vui, thì nhất định không hợp lý đạo. Người ta nói bữa nay tu cái này cho lạ một chút, ngày mai tu cái kia cho lạ một chút, thì nhất định đã sai với căn cơ. Tại vì, đi không có đường, về không có hướng! Nhất định sau cùng khi nằm xuống, tức là lúc trước khi chết, sẽ phân vân vô cùng, mơ hồ vô cùng! Không biết đường nào đi? Chắc chắn ta phải tùng nghiệp thọ báo. Oan gia trái chủ nhất định sẽ cản ngăn tất cả những con đường giải thoát, bắt buộc ta phải chịu nạn! Xin chư vị chú ý điểm này.
– Hợp Lý là Khế Lý.
– Hợp Cơ là Khế Cơ.
Có nhiều người vì không để ý chuyện này, thường chỉ nêu lên vấn đề “Khế Lý”, đem những lý đạo cao siêu giảng cho hàng chúng sanh mê muội như chúng ta. Ngài Ấn-Quang nói:
– Giảng kinh thuyết đạo mà không hợp với căn cơ, không những không đem ích lợi gì cho chúng sanh, mà còn làm cho họ vọng tưởng.
Vì khi giảng về lý đạo thì nghe hay lắm! Vì hay quá nên dễ đam mê! Mê vào trong đó mà thực sự thì làm không được! Làm không được thì cũng giống như ở cõi Ta-Bà này cứ cố hướng mắt nhìn lên trên mây để tìm hoa đốm. Trên đó hoa đốm đâu có mà tìm? Chỉ thấy những đám mây kết lại, thành những hình ảnh vô thực hão huyền, lúc tan lúc hợp, huyễn mộng vô thường! Không thể nào thành tựu được!
Trở lại vấn đề khế cơ là hộ niệm. Xin chư vị cố gắng nghiên cứu thật nhiều về pháp hộ niệm. Xin nói thật, không có nơi nào nói về hộ niệm nhiều, đầy đủ, mà còn chi tiết như ở Niệm Phật Đường A-Di-Đà này.
Tại sao cần hộ niệm? Tại vì trong suốt thời gian niệm Phật này, nghiệp chướng của mình phá không được, cái tâm của mình cũng chưa vững, sự tham chấp của mình vẫn chưa rời ra! Nên khi mình nằm xuống những thứ đó nó quyện lấy mình, không cách nào tự mình có thể giải tỏa được. Chính vì vậy nhờ người hộ niệm ở bên cạnh, người ta nhắc nhở mình:
– Chị ơi! Hồi giờ chị thương đứa cháu lắm phải không? Nhất định, nếu bây giờ chị còn thương đứa cháu, thì vì đứa cháu mà chị bị đọa lạc. Mau mau xả liền. Nếu không xả thì vô tình vì đứa cháu mà chị đọa lạc. Đứa cháu đó gián tiếp làm cho chị đọa lạc, nên nó cũng liên quan chịu nạn luôn. Như vậy thương đứa cháu, nhưng mà thương như thế nào cho đúng? Phải niệm Phật để về Tây Phương. Về Tây Phương thì khi đứa cháu mình lâm chung, mình trở về đây tìm cách hộ niệm cho nó, cứu nó về lại Tây Phương. Cứu nó tức là mình thương đứa cháu đó.
Mình tham tiền bạc? Lúc đó, người hộ niệm nói:
– Chị ơi! Bây giờ tiền bạc không cứu được chị nữa rồi. Phải buông ra. Nếu mình đang cho ai vay 20.000 đô-la, hãy mạnh dạn liệng đi. Nếu không muốn liệng, thì hãy thông báo cho con cái biết đi, để chúng nó tìm người đòi lại cho chị. Nếu nó đòi không được mình cũng phải liệng đi nhé, mình tha cho người ta đi, mình cho người ta đi. Cho tiền thì khỏi bị tai nạn, gọi là “Tản tài tiêu tai”. Tiêu tai là mình khỏi bị chướng nạn. Nhờ cái phước đó mà mình được về Tây Phương. Hãy mạnh dạn buông ra.
Pháp hộ niệm là phương pháp dạy chúng ta tập tính buông xả chuyện thế gian ra. Buông cho càng nhiều ra, ráng mà buông ra.
Hôm trước gặp bác Hội, Bác đang lập cái Niệm Phật Đường. Tôi hỏi, sao rồi Bác? Bác nói:
– Trời ơi! Phước báo tôi không có, bây giờ lập lên nó khổ muốn chết luôn! Khổ muốn điên cái đầu luôn!.
Rõ ràng, lập lên một cái Niệm Phật Đường, khó dữ lắm chư vị ơi! Không phải là đơn giản đâu à! Mình tới tu thì không sao, mà người lập đó thì gặp nhiều khó khăn lắm! Khó như vậy thì bây giờ làm sao? Khi nằm xuống, cái Niệm Phật Đường cũng phải buông luôn. Được như vậy thì mới về Tây Phương được. Chính vì vậy, chư Tổ nói, “Đến lúc nằm xuống thì vạn duyên cũng phải buông”. Chúng ta muốn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc thì bây giờ vạn duyên phải buông, buông cho nhiều đi, để sau cùng thì còn những gì sơ suất, ban hộ niệm sẽ giúp cho mình…
– Mình thương cái gì, người ta gỡ ra.
– Mình ghét cái gì, người ta gỡ ra.
– Mình còn bận tâm cái gì, người ta năn nỉ mình… người ta vỗ về mình… rồi người ta niệm Phật bên cạnh mình.
Lúc đó mình mới mạnh dạn, kiên cường, không sợ đau, quyết lòng niệm câu A-Di-Đà Phật. Nhất định, xin thưa thực, chỉ cần niệm mười câu Phật hiệu thôi chúng ta đi về Tây Phương.
Đây là con đường chúng ta thành đạo! Xin chư vị hiểu được những điều này, quyết lòng tới đây thực tâm niệm Phật để vãng sanh về Tây Phương. Con đường tu thẳng tắp như vậy, đừng nên chao đảo, đừng nên lơ là…
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)
22 10 2012 | Gương Vãng Sanh |
Pháp sư Khả Cứu đời Tống. Sư thường niệm kinh Pháp Hoa cầu sanh Tịnh Độ. Trong chương Tam Bối Vãng Sanh của kinh Vô Lượng Thọ, đoạn thứ tư có nói: Hễ ai tu học hết thảy pháp Đại Thừa, hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ thì A Di Đà Phật cũng đến tiếp dẫn giống hệt [như người chuyên tu Tịnh Độ]. Đủ thấy pháp môn này bao dung hết sức rộng lớn. Pháp sư Khả Cứu ngồi vãng sanh, mất đã ba ngày, sống lại, bảo các đồng tu: “Tôi đã đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, trông thấy tình hình hoàn toàn giống như kinh đã dạy”. Ngài lại nói những ai tu Tịnh Độ trong cõi đời, hoa sen trong ao bảy báu ở Tây Phương đều có ghi tên. Người Thượng Phẩm vãng sanh là lão hòa thượng của Quảng Giáo Viện tại Thần Châu. Khi ấy, lão hòa thượng còn chưa vãng sanh. Ngoài ra, còn có Tôn Thập Nhị Lang ở Minh Châu và chính sư Khả Cứu đều là đài vàng. Kém hơn là đài bạc, người chứng được đài bạc là Từ đạo cô. Pháp sư Khả Cứu thuật tình hình đã thấy cho mọi người nghe rồi lại vãng sanh. Sau này, Tôn Thập Nhị Lang lâm chung, nhạc trời vang rền hư không; khi Từ đạo cô lâm chung, có mùi hương lạ ngập thất không tan.
Pháp sư Hoài Ngọc, khi lâm chung, thấy A Di Đà Phật cầm đài bạc đến đón, Sư nghĩ ta bình sinh công phu rất đắc lực, cớ sao chỉ được đài bạc, tợ hồ chẳng cam lòng. Ý niệm vừa khởi, chẳng thấy A Di Đà Phật nữa. Sư lại dốc hết tánh mạng niệm Phật bảy ngày bảy đêm không ngớt, A Di Đà Phật lại hiện, cầm đài vàng tiếp dẫn.
Trong thế gian, người tu pháp môn Tịnh Độ chân tâm niệm Phật cầu vãng sanh, hoa sen của người ấy bèn sáng ngời, rực rỡ chóa mắt. Nếu giải đãi, biếng nhác, hoa liền khô héo. Đổi dạ chuyển sang tu pháp môn khác, hoa liền chết khô. Hết thảy sự vật trong Tây Phương đều chẳng sanh diệt, chỉ có hoa sen trong ao bảy báu là có sanh, có diệt. Sự tươi, khô, sanh, diệt ấy do hành nhân cảm thành, chứ không liên quan gì tới A Di Đà Phật.
Khi niệm Phật, tâm tánh năng niệm chẳng thể nghĩ bàn, nhưng phải dùng chân tâm, đừng dùng vọng tâm. Niệm Phật bằng chân tâm thì xử thế đãi người tiếp vật cũng phải dùng chân tâm. Niệm niệm cầu sanh về Tịnh Độ, khi còn sống trên đời thì hết thảy thuận theo tự nhiên, chớ nên cưỡng cầu. Một câu Phật hiệu đầy đủ viên mãn Tam Học, Tam Huệ, và ba món tư lương, mà cũng đầy đủ viên mãn vô lượng hạnh môn, nhất tâm chấp trì sẽ có thể viên siêu, viên đốn.
Trích Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký Phần 9
Pháp sư Tịnh Không giảng thuật
Cư sĩ Lưu Thừa Phù ghi chép
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
289/405Đầu«...10...288289290...300...»Cuối
Các Phúc Đáp Gần Đây