Ngài sinh năm 1133. Thân phụ của Ngài là một vị quan thời đó. Do đã quá tứ tuần nhưng chưa có con nối dõi, nên cha mẹ Ngài đã trai giới thanh tịnh rồi vào chùa tụng kinh bảy ngày đêm để xin Phật gia hộ. Đến đêm thứ bảy, trong lúc nửa tỉnh nửa mê, mẹ Ngài thấy một lão tăng đưa cho bà một con dao dùng để cạo đầu người xuất gia, bảo bà nuốt. Sau đó bà hoài thai. Cha Ngài đoán bà sẽ sinh con trai và sau này xuất gia làm một Đại sư lỗi lạc. Từ khi mang thai Ngài, thân tâm mẹ Ngài trở nên an lạc lạ thường, bà phát tâm ăn chay trường và thâm tín Tam Bảo.
Khi sinh Ngài, có hai luồng hào quang trên không chiếu xuống, tiếng chuông lảnh lót. Đầu Ngài vuông vắn có góc, mắt hai tròng, tướng mạo phi phàm. Năm lên chín, phụ thân Ngài bị quân địch sát hại. Trước khi qua đời, ông kêu Ngài đến bên và dạy: “Này con! Đây là túc nghiệp của cha, con tuyệt đối không nên ôm hận báo thù. Hãy nhớ rằng oán không thể diệt oán! Nếu mang tâm báo thù thì đời đời kiếp kiếp mãi giết hại lẫn nhau không bao giờ dứt. Mình biết đau, người khác cũng biết đau. Ta tiếc mạng sống, kẻ khác cũng biết tiếc mạng sống. Sau này con thành nhân, hãy cầu vãng sinh Cực Lạc, lợi lạc bình đẳng cho người và mình”. Dặn dò xong, ông lớn tiếng niệm Phật mà an ổn qua đời. Năm 14 tuổi tuân theo di ngôn của thân phụ, Ngài xuất gia với Pháp sư Giác Quán ở chùa Bồ đề tại quê nhà. Ngài huệ giải mẫn tiệp nhất văn thiên ngộ.
Trong cả đại tạng kinh Ngài hâm mộ bộ Quán Kinh Sớ của Tổ Thiện Đạo nhất. Ngài đọc đi đọc lại nhiều lần, bỗng nhiên ngộ được ý chỉ Di Đà Siêu Thế Nguyện. Ngài vô cùng hoan hỷ, chẳng khác gì trong đêm tối gặp được minh đăng. Ngài lập tức xả bỏ tất cả những pháp môn đã và đang tu, rồi nhập thất chuyên tu Tịnh độ, niệm Phật vãng sinh. Trong thời gian ẩn tu niệm Phật, có đêm Ngài nằm mộng thấy Đại sư Thiện Đạo đến bảo với Ngài rằng: “Tôi là Sư Thiện Đạo đời Đường. Ông có thể hoằng dương chuyên tu niệm Phật, nên tôi đến để chứng minh. Từ nay ông có thể hoằng pháp thịnh hóa khắp cả bốn phương!”.
Năm 43 tuổi, Ngài rời Hắc Cốc đến trú tích ở Đông Các Thủy và khai sáng tông Tịnh độ. Trước đó, tuy có không ít người Niệm Phật, nhưng chưa có Tông Tịnh độ riêng biệt. Từ đây, tông Tịnh Độ xuất hiện và liên tục truyền thừa cho đến thời hiện đại ở Nhật Bản.
Ngài vãng sinh vào lúc giữa trưa ngày 25 tháng 2 năm 80 tuổi (1212). Trước đó vài ngày, Ngài nói với các đệ tử: “Tiền thân của thầy là một vị tăng bên Thiên Trúc (Ấn Độ cổ thời), thường tu hạnh đầu đà, nay đến chốn này học Thiên Thai Tông, sau rốt mở Tịnh độ tông hoằng dương niệm Phật”.
Đệ tử Thế Quán hỏi: Thưa, thầy là vị nào?
Ngài đáp: Là ông Xá Lợi Phất.
Lại có đệ tử khác hỏi: Thầy nay có vãng sinh về thế giới Cực Lạc không?
Ngài đáp: Thầy vốn là người của Cực Lạc, dĩ nhiên phải trở về Cực Lạc.
Các đệ tử thiết trí tượng đức Phật A Di Đà và xin Ngài chiêm ngưỡng. Ngài lấy tay chỉ trên không nói rằng: “Phật hiện chân thân kia, các con có thấy không? Mười mấy năm nay Thầy thường thấy chân thân của Phật, Bồ Tát và Cực Lạc trang nghiêm, nhưng tuyệt đối giữ kín không nói ra với ai. Nay sắp vãng sinh nên không ngại gì mà không nói cho các con biết”.
Ngày 22 các đệ tử đều đi nghỉ hết, chỉ còn một mình Thế Quán hầu Ngài. Có một người đàn bà đi xe đến và xin được gặp riêng Thượng Nhân. Hai người đàm đạo rất lâu. Khi bà ra về, Thế Quán lấy làm lạ nên mới đi theo sau, nhưng chẳng bao xa thì bà đột nhiên biến mất. Thế Quán vào hỏi Thượng Nhân, Ngài đáp: “Bà đó là phu nhân Vi Đề Hy”.
Từ ngày 23 cho đến ngày 25, Ngài lớn tiếng niệm Phật cùng đại chúng để kết duyên lần cuối. Đến giữa trưa ngày 25, Ngài đắp y Tăng già lê, đầu bắc mặt tây (nằm nghiêng bên phải, mặt quay về hướng tây). Tụng bài kệ sau rồi thị tịch, thọ thế 80, tăng lạp 66.
“Quang minh biến chiếu
Thập phương thế giới
Niệm Phật chúng sinh
Nhiếp thụ bất xả”
(Tạm dịch: Ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới. Thu nhiếp chẳng rời chúng sinh niệm Phật).
Trước khi Ngài thị tịch 5 ngày (ngày 20) mây ngũ sắc giống như tranh Phật che phủ chùa, khiến tất cả đại chúng được thấy đều rơi lệ. Các đệ tử nói rằng: “Đã có mây lành hiện ra thì thầy sắp vãng sinh rồi!”. Ngài bảo: “Lành thay! Những người được thấy nghe hẳn sẽ tăng trưởng tín tâm!”.
Sau khi vãng sinh 16 năm, các đệ tử mở tháp đá đựng di thể của Ngài, thấy thân hoàn toàn như cũ, dung mạo từ hòa. Đệ tử tăng tục hơn ngàn người hộ tống di hài Ngài về Tây giao làm lễ trà tỳ. Trong khi làm lễ, mây lành hiện ra, hương thơm phảng phất trên các cây tùng. Từ đó, nơi này có tên Tử Vân Tùng, hiện nay là chùa Quang Minh.
Trích: Niệm Phật Tông Yếu
Tác giả: Pháp Nhiên Thượng Nhân
Dịch giả: Viên Thông Nguyễn Văn Nhàn
Các Phúc Đáp Gần Đây