Trong quá trình tu hành, gần như ai cũng đều gặp qua tình trạng chính mình bị tập khí đắm nhiễm nhiều đời nhiều kiếp khiến cho tâm bị não loạn. Vì thế hễ 6 căn vừa tiếp xúc với 6 trần thì tập khí bèn khởi tác dụng, lập tức bị cảnh giới bên ngoài làm cho ô nhiễm, lại dấy lên phân biệt chấp trước vọng tưởng. Do vậy mà cái tâm tịch tĩnh vốn có của chúng ta không cách nào hiển lộ. Không chỉ là Tông Môn, Giáo Hạ, mà ngay cả Niệm Phật cũng chẳng tránh khỏi tình trạng này. Phật tại trong Kinh nói cho chúng ta biết: “Nếu chẳng tu Quán Hạnh thì sẽ chẳng thể khôi phục lại được tự tâm”.
Vậy thế nào là tu Quán Hạnh? Nếu nói theo Tịnh Độ thì là Tín-Nguyện-Trì Danh. Chúng ta cần phải đi theo con đường này thì mới mong đem những tập khí phiền não của chính mình trừ bỏ đi. Thế nhưng các đồng tu học Phật hiện thời có ai chẳng đang dốc hết tánh mạng hòng làm tăng trưởng tập khí phiền não của chính mình? Chính vì như vậy nên càng tu hành chẳng những không thể làm giảm bớt tập nhiễm, mà hằng ngày còn làm cho nó tăng thêm. Đây chính là khuyết điểm lớn nhất.
Vậy tập khí tăng thêm như thế nào? Chẳng hạn như đặc biệt nói về các đồng tu mới học Phật, khi vừa mới bắt đầu thì liền muốn học rộng nghe nhiều, dẫn đến Kinh gì cũng muốn xem, pháp môn gì cũng muốn học, đến khắp nơi nghe ngóng, đến khắp nơi nhìn ngó, khiến cho đầu óc rối loạn lung tung, chẳng nắm được điểm mấu chốt. Đây là đang tăng trưởng tập nhiễm. Nếu hỏi người ấy thì chuyện gì cũng biết, trả lời khá trôi chảy, khá lắm, là 1 nhà Phật học cỡ bự. Vậy người ấy có đoạn được phiền não hay không? Chẳng hề. Thị phi nhân ngã , tham, sân, si, mạn chẳng đoạn được dù chỉ một chút. Mà phiền não không đoạn thì làm sao đắc Định? Dẫn đến trí tuệ cũng không cách nào khai mở được. Người học rộng nghe nhiều như thế trong nhà Phật gọi là Thế Trí Biện Thông, là 1 trong 8 nạn của người tu hành.
Nếu lấy học vấn của thế gian để nói thì là người ấy đang nghiên cứu Phật học, làm cách ấy không sai. Nếu xét theo phương diện học Phật thì người ấy đã đi sai đường rồi, học Phật chẳng phải học theo kiểu đó. Vậy học Phật là gì? Là mong đạt được Nhất Tâm Bất Loạn, mong đi đến chổ Minh Tâm Kiến Tánh. Mục đích là ở chổ này, chứ chẳng phải nằm ở chổ học rộng nghe nhiều.
Kinh Hoa Nghiêm đã đưa ra 1 ví dụ rất hay. Thiện Tài Đồng Tử tham học 53 lần. 53 lần tham học này đều là học rộng nghe nhiều. Lúc Ngài mới bắt đầu học, có làm như vậy hay không? Không. Khi vừa mới bắt đầu tu học Ngài chỉ đi theo 1 vị thầy là Văn Thù Bồ Tát. Ở chổ Văn Thù Bồ Tát, Ngài chuyên tâm dốc sức tu hành 1 môn. Tu thành công rồi, tốt nghiệp rồi thì Ngài mới bắt đầu đi ra ngoài để học rộng nghe nhiều. Bởi vì lúc này Ngài đã hoàn toàn khai ngộ rồi, đã đạt đến Minh Tâm Kiến Tánh rồi, cho dù Ngài có học rộng, có nghe nhiều thì cũng chẳng bị những tri kiến này làm nhiễu loạn đến tâm thanh tịnh của Ngài.
Chúng ta nếu muốn sự tu học của mình sớm đạt được thành tựu thì cần phải noi theo Thiện Tài Đồng Tử mà tu học, trước tiên cần phải 1 môn thâm nhập trường kỳ huân tu đã. Sau khi đã đạt được thành tựu, cũng tức là đã thành công rồi thì mới bắt đầu học rộng nghe nhiều. Ngàn vạn lần đừng nên nóng vội mà đốt nóng giai đoạn để rồi chính mình phải chịu thiệt thòi, đó là việc tu học chẳng thể thành tựu, để rồi cứ thế mà trôi lăn mãi trong luân hồi lục đạo.
Pháp ngữ của pháp sư Tịnh Không
Dạ em chào chư vị đồng tu thiện hữu ạ, em có chút thắc mắc muốn được chỉ giáo ạ. Có 1 số quan điểm cho rằng trong Kinh Phật giáo nguyên thuỷ không có nhắc đến cõi Tịnh Độ và Đức Phật A Di Đà. Chỉ sau này khi sáng lập Đại thừa thì mới có Đức Phật A Di Đà và 1 số Phật tử theo Phật giáo Nguyên Thuỷ bảo Đức Thích Ca Mâu Ni không tuyên thuyết về cõi Tịnh Độ trong Kinh Phật giáo Nguyên thuỷ ạ. Cho em xin lời khuyên để không bị lạc đường được không ạ
A Di Đà Phật
Gửi bạn Minh Tâm,
Có vài điều TN muốn chia sẻ cùng các bạn.
*Chúng ta là người học Phật và pháp của Phật, điều tối yếu nhất cần có là: Chánh kiến và Chánh tư duy. Thiếu hai điều này chúng ta sẽ bị các pháp thế gian và những người đội lốt Phật pháp khuấy đảo.
*Người có quan điểm về: “Kinh Phật giáo nguyên thuỷ không có nhắc đến cõi Tịnh Độ và Đức Phật A Di Đà; Chỉ sau này khi sáng lập Đại thừa thì mới có Đức Phật A Di Đà và 1 số Phật tử theo Phật giáo Nguyên Thuỷ bảo Đức Thích Ca Mâu Ni không tuyên thuyết về cõi Tịnh Độ trong Kinh Phật giáo Nguyên thuỷ”.
Chúng ta cần tư duy:
1. người có quan điểm này là của cá nhân họ? hay là quan điểm của cả hệ thống giáo lý của Phật Thích Ca?
2. quan điểm của người (những người) này là tu đạo Phật chân chánh? hay người ngoại đạo? hay người nghiên cứu, khảo cứu Phật pháp? là người đã giác đạo hay vẫn còn là phàm tăng; phàm cư sĩ? Bởi người giác đạo quyết không nói chuyện đúng-sai, hay-dở của Phật pháp. Tại sao? Vì pháp của Phật Thích Ca là vô lượng các phương thuốc để trị bệnh của chúng sanh. Tuỳ thời, tuỳ căn cơ, phước, duyên, nghiệp bệnh…của chúng sanh mà Phật cho thuốc. Người uống thuốc nào thì tự mình biết vị của thuốc đó. Người đau dạ dày chẳng thể diễn tả vị thuốc cho người đau tim, uống thuốc tim được. Cho dù có thể diễn tả thật tình tiết thì người nghe cũng chỉ là dùng vọng thức để hiểu chứ chẳng thể cảm được vị của người bệnh.
3. Người cho rằng „có ai đó đã sáng lập đại thừa“? Câu hỏi chúng ta nên đặt ra cho vị đó:
– vậy sáng lập đại thừa đó là ai? Thực ra ngay cả việc ai đó nói ra quan điểm này, chưa chắc họ đã hiểu tiểu thừa và đại thừa là gì và 2 cụm từ này xuất phát từ đâu? Từ sự phân biệt và chấp trước của chúng sanh sau thời Phật Thích Ca nhập Niết Bàn. Phật Thích Ca không hề nói pháp của Phật là tiểu hay đại. Nguyên văn lời Phật: Pháp của Ta chỉ có 1 vị duy nhất đó là vị giải thoát.
4. Một số Phật tử tu theo nguyên thuỷ (tu thiền) nói rằng „Đức Thích Ca Mâu Ni không tuyên thuyết về cõi Tịnh Độ trong Kinh Phật giáo Nguyên thuỷ”.
TN muốn đặt câu hỏi:
*Những phật tử này lấy căn cứ nào để xác định pháp họ học thực là nguyên thuỷ pháp?
*Lấy căn cứ nào để xác định đó là pháp nguyên thuỷ do Phật Thích Ca thuyết? Trong khi Phật nói: Ta không hề thuyết pháp. Cho nên cái mà những Phật tử này cho là, gọi là nguyên thuỷ chỉ là những vọng tưởng, phân biệt, chấp trước pháp mà họ học được từ những vị hướng dẫn họ – những vị này cũng dùng tâm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước để học, để tu pháp của Phật Thích Ca.
*Người chân chánh giác đạo của Phật; thực chứng pháp của Phật không bao giờ nói lên những lời phi pháp như vậy. Tạo sao? Bởi đó không phải là pháp Phật dạy. Điều này ngay cả bài pháp đầu tiên trong Kinh Trung Bộ – Kinh Pháp Môn Căn Bản (họ gọi là kinh nguyên thuỷ) – họ cũng không hiểu lời Phật dạy.
Rất tiếc rất nhiều người hiện nay lại tin vào những quan điểm và luận thuyết phi pháp này, và đã tự mình làm thui chột huệ mạng của chính mình.
Thật đáng tiếc, bởi thân người khó được, nay được thân người nhưng lại không tin, không nghe lời Phật dạy; trái lại, đi tin, nghe những quan điểm, luận thuyết phi pháp rồi áp dụng đường tu cho bản thân.
TN rất hy vọng các liên hữu thật chánh niệm tỉnh giác và luôn lấy Bát Chành Đạo Phật dạy khi tu học để không bị những luận thuyết tà tri, tà kiến này khuấy đảo.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
TN
Bạn Minh Tâm: Không biết đọc xong giải đáp của chú TN rồi có còn thắc mắc nữa không? Mình có đọc nhiều bài viết của các bạn khác có cùng câu hỏi na ná giống như bạn. Mình nhận ra pháp môn Tịnh Độ đúng như Phật Thích Ca nói. Pháp môn Tịnh Độ là “nan tín chi pháp” (nghĩa là pháp môn khó tin). Những người thiếu niềm tin chứng tỏ các kiếp trước họ đã tu qua các pháp môn khác. Còn những người tin vàp pháp môn này tức là trong vô lượng kiếp họ đã từng gieo duyên Tịnh Độ nên kiếp này mới có thể tin nhận. Ngay cả lão pháp sư Tịnh Không một đời chuyên hoằng pháp Tịnh Độ, nhưng phải mất 40 năm ngài mới tin được. Mình tìm được một câu hỏi của một liên hữu khác cũng thắc mắc giống như bạn và đã được các vị thiện hữu tri thức giải đáp ở đây. Bạn đọc nhé:
https://www.duongvecoitinh.com/2011/11/tinh-do-thuc-hanh-van-dap/comment-page-1/#comment-16539
https://www.duongvecoitinh.com/2012/10/phap-su-tinh-khong-mat-40-nam-moi-tin-phap-tinh-do/
https://www.duongvecoitinh.com/2013/08/quay-ve-tinh-do-sau-17-nam-giang-kinh-hoa-nghiem/
Hy vọng lòng tin của bạn vào pháp môn này sẽ kiên cố hơn sau khi đọc những bài viết trên nhé. A Di Đà Phật.
Khi Phật Thích Ca còn tại thế, ngài không phân biệt các pháp thành đại thừa hay tiểu thừa. Khái niệm này chỉ xuất hiện nhiều thế kỷ sau khi đức Phật nhập niết bàn, trong quá trình phát triển và phân hóa của Phật giáo.
Tui không biết điều này có giải đáp được phần nào thắc mắc của bạn không, nhưng cũng xin chia sẻ. Khi ngài Huyền Trang trở về Trung Quốc sau 17 năm sang Ấn Độ thỉnh kinh, một trong những cuốn kinh được ngài thỉnh về đó là Kinh A Di Đà. Đây là điều đáng để chúng ta suy gẫm cũng như phát lòng tin tưởng hơn vào pháp này.