Thơ Nhắc Nhở Người Niệm Phật [Audio]

Thơ Nhắc Nhở Người Niệm Phật“Tịnh Ngữ” là tuyển tập thơ Tịnh Độ của thầy tôi, lão cư sĩ Hạ Liên Cư. Tên trước của cuốn này là “Hoan hỷ niệm Phật Trai Thơ Sao”. Vào thập niên 1950 những bài bài thơ này từ từ thêm nhiều nên được đổi thành “Tịnh Ngữ”. Thơ của thầy Hạ tràng đầy những tinh túy của Phật giáo vì nó được làm từ đại quang minh tạng, tự nhiên tuôn trào ra, mỗi một câu thơ đều tự nhiên tinh diệu làm cho người đọc khai mở tâm thức. Nghĩa của chữ Tịnh Ngữ có thể nói là những lời cảnh tỉnh cho người tu Tịnh Độ, nó có nghĩa là tánh thanh tịnh bổn nhiên đương sanh thanh tịnh tâm, Vô lượng Thanh Tịnh Giác (danh hiệu của đức Phật A Di Đà). Tịnh là tịnh niệm tương kế, ngữ là lời nói của âm thanh trong tâm. Tịnh ngữ là sự hiển hiện của tâm thanh tịnh và lời khai thị của tánh giác thanh tịnh, khôi phục tánh bổn nhiên thanh tịnh, mà tịnh niệm luôn luôn liên tục.

Tịnh Ngữ trực chỉ kho báu vốn sẵn có của hành giả. Xin tuyển chọn ra ba bài thơ để cúng dường đại chúng.

 

Bài thứ nhất làm tại Cực Lạc Am, Đạo tràng Niệm Phật.

Nguyên văn:

Niệm Phật tối kỵ
Tinh thần hoản tán
Tự cú mơ hồ
Tiên khoái hậu mạn
Ký vô âm tiết
Hựu bất liên quán
Tâm bất ứng khẩu
Thanh bất nhiếp niệm
Khinh hốt dưỡng thức
Cổ đức sở thán
Như thử niệm pháp
Vĩnh nan thành phiến.

Thanh hòa vận ổn
Tự chánh âm viên
Mạo thiết miên mật
Trầm trước an nhàn
Thanh hiệp hô tâm
Tâm ứng hô thanh
Tâm thanh tương y
Vọng niệm tự thanh.

Phật hiệu như châu
Niệm đầu như tuyến
Phân tắc các ly
Hiệp tắc thành xuyến
Tâm bất ly Phật
Khẩu bất ly niệm
Như tuyến quán châu
Tương tục bất đoạn.

Vị năng nhất tâm
Tiên cầu chuyên niệm
Vị năng bất loạn
Tiên học thành phiến
Chân cần chân chuyên
Công hiệu tự kiến
Vô tư vấn nhân
Hoàn thỉnh tự nghiệm.

Tạm dịch:

Niệm Phật kỵ nhất
Tinh thần tán loạn
Tiếng niệm mơ hồ
Trước nhanh sau chậm
Không có âm điệu
Lại không nối liền
Tâm không hợp miệng
Thanh không nhiếp niệm
Nuôi dưỡng ý thức
Người xưa than rằng
Cách niệm như vậy
Rất khó thành phiến.

Tiếng hòa nhịp đều
Chữ ngay âm tròn (rõ)
Thành khẩn khắn khít
Điềm đạm an nhàn
Thanh hợp với tâm
Tâm hợp với thanh
Thanh tâm nối liền
Vọng niệm tự dứt.

Phật hiệu như châu
Tâm như sợi dây
Phân thì cách ly
Hiệp thì thành xâu
Tâm không rời Phật
Miệng không rời niệm
Như dây xỏ châu
Liên tục không dứt.

Chưa được nhất tâm
Trước cầu chuyên niệm
Chưa được không loạn
Trước học thành phiến
Thiệt là chuyên cần
Hiệu quả tự thấy
Không phải hỏi người
Hãy xin tự xét.

Thầy Hạ (lão cư sĩ Hạ Liên Cư) làm những bài thơ này trong đạo tràng niệm Phật năm 1944. Thầy điều khiển Phật Thất rất là nghiêm cẩn và theo đúng chánh pháp, những người chánh thức tham dự đều bế quan niệm Phật. Những lời khuyên dạy này đều là những kinh nghiệm thật tiễn mà thầy đã trãi qua và viết thành thơ để làm kim chỉ nam cho mọi người .

Đoạn đầu trong bài thứ nhất nói về những sai lầm mà người niệm Phật rất dễ gặp và phải nên đề phòng.

Niệm Phật kỵ nhất
Tinh thần tán loạn

Hai câu đầu nói người niệm Phật tư tưởng không tập trung, không có tinh thần, tâm trạng không vui, ý chí trầm mặc, không hăng hái, tạp niệm vô cùng, nếu không hôn trầm thì là trạo cử, những thứ này đều là tối kỵ. Lại còn [Tiếng niệm mơ hồ], âm thanh không rõ ràng, người khác nghe không rõ, tự mình nghe cũng không rõ. [Trước nhanh sau chậm], lúc mở đầu niệm rất nhanh, càng niệm càng chậm càng không hăng hái. [Không có âm điệu], lúc đại chúng cùng nhau niệm Phật thường gõ mõ để giữ cho nhịp điệu của câu niệm Phật của mọi người đều nhau. Lúc mỗi người niệm Phật ở nhà cũng có thể dùng mõ, nếu không dùng mõ cũng phải niệm có nhịp điệu rõ ràng thì dễ nhiếp tâm hơn. Nhịp điệu của mỗi chữ trong câu niệm Phật cũng phải đều nhau, không được khi nhanh khi chậm. Âm thanh của mỗi chữ trong Phật hiệu cũng phải có nhịp điệu, không được khi lớn khi nhỏ. Nhịp điệu tiết tấu rất quan trọng, nếu niệm có nhịp điệu thì dễ thành công hơn. Nếu còn [Lại không nối liền] thì càng tệ hơn. Câu sau không tiếp theo câu trước, niệm Phật quan trọng nhất là [Tịnh niệm tương kế] (tịnh niệm nối liền, liên tục hoài). [Tâm không hợp miệng], miệng thì niệm Phật nhưng mà tâm lại suy nghĩ tính toán chuyện khác. Đang niệm Phật mà nghĩ lung tung: “Ông đó đối xử với tôi thiệt là không tốt chút nào, nghĩ xong rồi lại nhớ phải mua cái TV mới”. Còn một tình huống khác nữa là tạp niệm quá nhiều, liên tiếp nổi lên hoài không thể dẹp hết được. Điều này không cần lo, đây là một hiện tượng tự nhiên trong quá trình niệm Phật, không cần để ý tới. Bí quyết trị bệnh vọng tưởng là “Mặc cho vọng niệm sôi nổi, tôi chỉ nghe tiếng niệm Phật rõ ràng”.

Thanh không nhiếp niệm

Âm thanh của câu niệm Phật có tác dụng rất lớn. Điều quan trọng trong pháp môn niệm Phật là miệng niệm rồi tai nghe tiếng Phật hiệu của mình niệm. Cho nên muốn nhiếp hết sáu căn thì trước hết phải thâu nhiếp lưỡi và tai trước. Ý cũng phải tưởng câu Phật hiệu này, tay lần chuỗi, mắt nhìn tượng Phật, mũi ngửi được hương cúng Phật. Nhiếp lục căn quan trọng nhất là nhiếp nhĩ căn. Lúc một mình niệm Phật thì tốt nhất là niệm theo cách “Kim cang trì”, nghĩa là niệm khe khẽ vừa đủ nghe, vừa nghe được âm thanh mình niệm mà vừa dưỡng hơi thở. Niệm thầm không ra tiếng cũng có thể nghe, nhưng mà khó nghe hơn. Âm thanh lớn nhỏ cũng có thể thay đổi, lúc tán loạn hoặc phiền não khởi lên thì có thể niệm lớn tiếng. Đến khi niệm được thanh tịnh rồi thì có thể niệm nhỏ tiếng lại. Tốt nhất là phải nghe được âm thanh mình niệm, âm thanh này có thể giúp mình nhiếp tâm. Đây là sự đặc biệt thù thắng của pháp môn niệm Phật. Người xưa nói: “Lấy âm thanh làm Phật sự”. Cực Lạc thế giới là nơi có pháp âm tuyên lưu, người nghe được thì tự nhiên niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Tiếng niệm Phật này là pháp âm, phải niệm được có âm điệu rõ ràng và liên tục không ngừng, lúc niệm phải chân thành, khẩn thiết, và thanh tịnh. Âm thanh bạn niệm này là âm thanh diệu đức, đối tượng bạn niệm là vị Phật có vạn đức trang nghiêm. Diệu thanh vô thượng thù thắng này lại từ tai đi thẳng vào tâm thức và gia trì tự tâm. Tự cảm tự ứng rất vi diệu và rất khó suy lường được. Cho nên quan trọng nhất là ở chỗ niệm rồi tự mình nghe tiếng niệm đó.

Nuôi dưỡng ý thức

Nếu lúc niệm trong tâm phiền tạp tán loạn, thì âm thanh niệm Phật tự nhiên rất tạp loạn khó nghe. Tâm không chuyên chú thì tai nghe cũng không rõ. Âm thanh niệm ra không có tác dụng nhiếp tâm thì càng không thể nhiếp hết lục căn được. Trái lại còn có ảnh hưởng xấu là “nuôi dưỡng ý thức”. Nếu bạn niệm rất lơ là, bạn không những là không “chuyển thức thành trí” mà còn bồi dưỡng thêm cho thức. Chúng ta tu tập mục đích là chuyển tám thức thành bốn trí. Chúng ta niệm Phật là đem ý thức phân biệt chuyển thành “diệu quan sát trí”. Nếu chúng ta niệm Phật mà không theo âm điệu, tán loạn, không tập trung tinh thần, không liên tục, tâm tưởng chuyện không giống như miệng niệm, âm thanh niệm không thể nhiếp được tâm, cách niệm này không những là không chuyển thức mà lại còn dưỡng thức. Cổ đức than là niệm như vậy thì quá uổng.

Thân người khó được, trung quốc khó sanh (trung quốc nghĩa là cõi nước có văn hóa đạo đức phát triển chứ không phải chỉ nước Trung Quốc), Phật pháp khó gặp khó nghe, Tịnh Độ khó tin mà bạn tin được, bạn lại chịu niệm Phật. Nhưng mà bạn lại niệm cách này cho nên người xưa mới than thở: Niệm cách này thì [vĩnh viễn rất khó thành phiến]. Niệm Phật đến khi nhất tâm bất loạn thì rất khó, trước hết phải đạt được niệm Phật thành phiến (thành khối) trước. Chúng ta phải niệm đến thành phiến, ít thì mười mấy câu, nhiều thì ba mươi câu, năm mươi câu. Nếu nhiều nữa thì có đến một xâu, hai xâu [chuỗi]. Niệm Phật thành phiến nghĩa là trong thời gian niệm này tâm định trên câu niệm Phật, tâm không loạn, từ đầu đến cuối đều là một câu Nam mô A Di Đà Phật. Trình độ của mình như thế nào mình hoàn toàn biết rõ. Cho nên cách niệm như trên đã nói thì rất khó thành phiến, phải nên tránh, phải nên phòng ngừa.

Đoạn đầu trong bài thứ nhất nói đến điều cấm kỵ trong lúc niệm Phật. Ngược lại ba đoạn sau này nói đến cách niệm Phật như thế nào mới đúng và chính xác.

Tiếng hòa nhịp đều chỉ âm thanh niệm Phật hòa hài, an hòa. Âm thanh rất quan trọng, nếu tiếng niệm mà khàn khàn, không rõ không đều thì không tốt. Khi người nghe được âm thanh trong trẻo thanh tịnh thì tự nhiên tâm thần sảng khoái thân tâm an hòa, ngược lại thì tâm sẽ loạn, bức rức và không an.

Nhịp đều là âm thanh êm dịu hòa hài, an định, trầm tịnh, khí vận cao nhã, có nhịp điệu .

Chữ ngay âm tròn (rõ) chữ phải niệm đúng âm. Chữ A trong danh hiệu đức Phật A Di Đà phải đọc là “A” chứ không phải là “Ơ”. Nếu người bắt đầu mà niệm không đúng thì phải sửa. Tiếng niệm ra phải rõ, đừng có khàn hoặc đục. Tai nghe được âm thanh này thì tinh thần khó chịu không thích, ngược lại âm thanh trong trẻo rõ ràng làm cho người nghe hoan hỷ dễ chịu tâm dễ an tịnh. Âm nhạc có ảnh hưởng rất lớn, nghe tiếng đàn tỳ bà và nghe âm nhạc kích động hiện nay có hiệu quả hoàn toàn khác nhau. Đàn tỳ bà tốt thì hiệu quả còn đặc biệt hơn nữa, chỉ cần nghe vài tiếng thì tâm bồn chồn không yên của người nghe có thể lắng dịu xuống. Âm thanh có ảnh hưởng rất lớn cho nên âm thanh niệm Phật phải nên rõ ràng (viên hòa).

Thành khẩn khắn khín
(Mạo thiết miên mật)

Lúc niệm Phật phải thành khẩn cũng như lúc đứng trước đức Phật thiệt, hoặc là như lúc đi trên biển lớn, đang bị nạn sắp chìm phải hết lòng kêu cứu, lúc đó mỗi niệm đều phát ra từ tâm vô cùng chí thành, vô cùng khẩn thiết, từng câu Phật hiệu nối liền theo câu trước, niệm như vậy gọi là khắn khít, miên mật, và cũng là “tịnh niệm tương kế (liên tục)”. Đối với những người có công khóa sáng tối nhất định, trước hết phải làm cho được khắn khít miên mật trong thời gian niệm Phật này, tránh đừng bị quấy nhiễu. Niệm được lâu rồi thì không những trong thời khóa nhất định niệm được miên mật mà phải ở bất cứ chỗ nào lúc nào cũng phải luôn luôn có câu niệm Phật trong tâm. Điều này khó không? Sự thật thì đâu có ai cản trở không cho bạn niệm đâu? Nếu bạn muốn niệm thì cứ niệm đi, cho nên đều do mình quyết định, đều là không khó. Thật ra người làm được việc này rất hiếm. Nếu tùy thời tùy chỗ đều giữ được câu Phật hiệu này thì niệm thành phiến không thành vấn đề, sắp đạt được “sự nhất tâm” rồi.

Pháp môn Tịnh Độ tốt là tốt ở chỗ này, người đời ai cũng có thể làm được, không phải là chuyện cao siêu quá khó không ai làm nổi, còn như chuyện khai ngộ thì rất khó, không phải ai cũng có thể làm được, trong trăm triệu người khó mà có được một người làm được. Ở Trung quốc bạn có thể nói ra tên của mười người khai ngộ không? Niệm Phật thì khác, ai cũng có thể niệm. Niệm Phật phải miên mật, trong tâm luôn luôn phải có câu Phật hiệu. Chuyện này có thể làm được, vấn đề là bạn tự mình có chịu niệm không. Khi có phiền não sanh ra thì bạn không chịu niệm nữa. Sân hận, hấp tấp, bồn chồn là phiền não, vui mừng cũng là phiền não. Khi bạn cao hứng, bạn bè khách khứa tấp nập, nói chuyện vui vẻ thì bạn quên niệm Phật rồi. Đây đều là phiền não. Thật ra trong lúc phiền não cũng có thể niệm Phật, chỉ tại bạn không muốn niệm thôi. Nếu bạn niệm thì tự nhiên sẽ được thành phiến.

Điềm đạm an nhàn
(Trầm trước an nhàn)

Câu này chỉ rõ căn bịnh của nhiều người niệm Phật hiện nay. Có nhiều người rất dụng công nhưng mà hấp tấp muốn mau thành công cho nên rất nôn nóng khẩn trương. Như vậy là có tâm mong cầu. Sự thù thắng của pháp môn niệm Phật là từ có niệm dần dần đi đến vô niệm, từ chỗ có cầu mà khế nhập đến không cầu, từ vãng sanh chứng đến vô sanh. Phải điềm đạm yên định, không có các thứ âu lo, bồi hồi, tâm trạng sợ được, sợ mất, tâm bồn chồn không an. Ngoài ra còn phải an nhàn. Có người rất nỗ lực nhưng mà tại vì hấp tấp nôn nóng cho nên trở thành khẩn trương, đứng ngồi không yên. Từ chỗ an nhàn đi lên thêm một bậc nữa phải muôn duyên buông xả, không ham không cầu, làm một người nhàn hạ nhất trong thế gian, trong tâm không lo gì hết ngoài chuyện niệm Phật. Một câu Phật hiệu luôn luôn hiện tiền, không quái ngại, không điên đảo, cho nên được “tịch nhiên” tâm an. Cho nên hai chữ an nhàn rất là quan trọng. Ngược lại nếu nôn nóng muốn thấy Phật, thấy hào quang, muốn có điềm lạ thì trước sau gì cũng bị bịnh và bị chướng ngại. Chúng ta vì sao mà có thể an nhàn? Đó là nhờ tín tâm. Nếu bạn có tín tâm thì tâm bạn rất an. Có người nói tại sao tôi niệm hoài mà vẫn còn vọng tưởng quá nhiều, chắc mà khó được vãng sanh. Đây là chướng ngại của họ tự tạo nên. Ngẫu Ích đại sư có nói: “Vãng sanh được không toàn do nơi tín nguyện có hay không”. Bạn có tín tâm vững chắc, bạn có chân thật phát nguyện không? Có thiệt là không lưu luyến thế giới Sa Bà này, hâm mộ thế giới Cực Lạc, nguyện cầu vãng sanh không? Thật ra thì rất nhiều người còn lưu luyến thế giới này, còn muốn sống thêm vài năm, còn muốn trường sanh bất lão! Cho nên nếu hâm mộ thế giới Cực Lạc thì phải phát đại nguyện. Những thân bằng quyến thuộc trong nhiều đời nhiều kiếp của mình hiện nay đang trầm luân trong biển khổ đang đợi mình đi cứu giúp. Nhưng mà bạn hiện nay còn là người vẫn đang trầm luân trong biển khổ, hiện giờ không có năng lực gì để cứu người khác. Chỉ sau khi vãng sanh rồi, nhờ vào Phật lực gia trì thì mới có năng lực và trí huệ để cứu người khác. Có tâm trạng như vậy, có đại nguyện như vậy, và có tín nguyện như vậy thì tự nhiên sẽ biết niệm Phật, nhất định sẽ vãng sanh. Nếu bạn muốn vãng sanh thì phải hạ thủ công phu trên tín và nguyện. Nếu bạn tin sâu nguyện thiết thì bạn nhất định được vãng sanh. Được như vậy thì khi bạn niệm Phật, trong tâm sẽ không còn hấp tấp bồn chồn và tự nhiên sẽ an nhàn.

Thanh hợp với tâm
Tâm hợp với thanh

Âm thanh niệm Phật phát ra từ tâm thành khẩn, tâm thanh tịnh thì tự nhiên sẽ hòa hài, an tịnh, diệu thiện, cao nhã. Âm thanh vi diệu của câu niệm Phật này từ tai đi vào bổn tâm, âm thanh tai nghe được cũng là âm thanh của mình niệm, cho nên tự nhiên tương hợp, âm thanh hợp với tâm. Âm thanh này là Phật hiệu vạn đức trang nghiêm, âm thanh này từ nhĩ căn đi vào là tự tâm sở niệm. Tự tâm niệm Phật, tự tâm là Phật. Cho nên tự tâm phải tương ứng với âm thanh nghe được (sở văn chi thanh). Thanh hợp với tâm, tâm ứng với thanh. Cho nên nói: [Âm thanh tương y]. Nói cho dễ hiểu là: tôi niệm Phật, niệm Phật có âm thanh, âm thanh giúp cho tôi. Tôi niệm Phật phát ra âm thanh, âm thanh này lại giúp cho tôi, cho nên nói là nương nhau mà niệm. Cứ niệm như vậy hoài thì không cần dẹp trừ vọng niệm, [vọng niệm tự dứt].

Đoạn thứ ba:

Phật hiệu như châu
Tâm như sợi dây

Nếu bạn không niệm, những hạt châu này từng hạt từng hạt rời rạc, đó là [Phân thì cách ly]. Lúc bạn niệm thì lấy sợi dây xỏ những hạt châu này thành xâu. Cho nên niệm Phật là lấy Phật hiệu xỏ thành xâu, đây là [Hiệp thì thành xâu]. [Tâm không rời Phật] nghĩa là phải bất cứ chỗ nào lúc nào trong tâm không rời câu Phật hiệu này. Chuyện này không có người nào cản trở bạn, tất cả đều là tự mình có chịu làm hay không. Muốn làm đến “tâm không rời Phật”, trước hết phải [Miệng không rời niệm]. Lúc miệng đang niệm, tâm chưa chắc là có Phật. Nếu trong tâm có Phật thì miệng chắc chắn có niệm Phật. Miệng luôn niệm câu Phật hiệu này cũng như [Như dây xỏ châu], câu này tiếp theo câu trước [Liên tục không dứt].

Đoạn thứ tư:

Chưa được nhất tâm
Trước cầu chuyên niệm
Chưa được không loạn
Trước học thành phiến

Bài này nói tới vấn đề vô cùng quan trọng của những người niệm Phật hiện nay. Nhiều người xem đến bản dịch kinh Di Đà của pháp sư Cưu Ma La Thập có nói đến “nhất tâm bất loạn” nên nghĩ rằng nếu không niệm đến nhất tâm bất loạn thì không thể vãng sanh được. Nhưng mà có thể niệm đến trình độ này rất khó, cho nên họ bi quan thất vọng và trở nên tiêu cực lo rầu. Thực ra đây không phải là ý của đức Phật vì trong kinh Vô Lượng Thọ, phẩm Tam Bối Vãng Sanh (Ba Bậc Vãng Sanh) có đề ra điều kiện căn bản của những người vãng sanh là “nhất hướng chuyên niệm”. Nghĩa là chỉ cần bạn thật thà chuyên niệm câu Phật hiệu này, chứ không đòi bạn phải nhất tâm bất loạn. Hơn nữa kinh Di Đà của Huyền Trang pháp sư dịch là “hệ niệm bất loạn”. Câu này nghĩa là lúc bạn niệm Phật rất chuyên tâm, không có suy nghĩ lung tung, điều kiện này thì dễ làm hơn. Nhất tâm có phân ra “sự nhất tâm” và “lý nhất tâm”. Niệm đến “sự nhất tâm” thì kiến hoặc và tư hoặc đều tự nhiên dứt hết. Niệm đến “lý nhất tâm” thì tối thiểu cũng phải phá một phần vô minh (vô minh tổng cộng có 42 phần). Kiến hoặc chia ra 10 loại: thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới thủ, tà kiến, tham, sân, si, mạn, nghi. Tư hoặc gồm có những thứ tham, sân, si, mạn vi tế. Ai có thể diệt trừ những thứ chướng ngại này? Chỉ còn một chút tham, sân, si, mạn là bạn không thể đạt đến “sự nhất tâm”. Thí dụ như tâm tham, ai cũng muốn dùng đồ tốt. Không những tham vật chất lại còn tham được người khác cung kính, đây là tham danh tham địa vị.

Bạn có thể không giận không? Thí dụ một câu chuyện thật xảy ra trong thập niên 1930. Có một bà vợ của một ông tướng, bà này tu niệm đã lâu năm. Trong nhà có chuyện xích mích với con dâu, một hôm bà đang tu niệm nhưng mà trong bụng còn giận con dâu, đè nén không nổi tâm niệm xấu này bà nghĩ đến chuyện phải giết chết con dâu thì mới hả giận. Bà đi kiếm con dao và đến khi nhìn thấy được xâu chuỗi đang đeo trên tay thì mới giựt mình ăn năn và bỏ đi cái tâm muốn giết người này. Lại còn si còn mạn nữa, cống cao, ngã mạn, đố kỵ, chướng ngại, mình đúng, người sai. Phá hết tham, sân, si, mạn này thì mới là “ sự nhất tâm ”, thiệt là quá khó. A La Hán đoạn dứt kiến hoặc và tư hoặc đạt tới lậu tận thông, đoạn (cắt đứt) nhân ngã, thoát ra khỏi sanh tử. Nếu pháp môn niệm Phật phải đoạn dứt kiến hoặc và tư hoặc rồi mới thoát ly ra khỏi sanh tử luân hồi thì cũng khó giống như chứng A La Hán, tại sao lại nói là pháp môn dễ tu, là con đường tắt nhất? Đương nhiên là không cần đạt đến trình độ đoạn kiến hoặc và tư hoặc, vãng sanh Cực Lạc Phàm Thánh Đồng Cư Độ không cần đạt đến “sự nhất tâm”. Nếu có thể đạt được thì càng tốt, có thể sanh về Phương Tiện Hữu Dư Độ. Nếu chứng được “lý nhất tâm”, phá một phần vô minh, thì có thể chứng một phần pháp thân, sanh về Thật Báo Trang Nghiêm Độ (quốc độ của Bồ Tát), một phần chứng được Thường Tịch Quang Độ.

Chúng ta căn cứ vào “hệ niệm bất loạn” trong bản dịch của Huyền Trang pháp sư và “nhất hướng chuyên niệm” trong kinh Vô Lượng Thọ thì có thể khẳng định rằng nhất hướng chuyên niệm là điều kiện cần thiết phải có. Chuyên nghĩa là chuyên nhất không thay đổi và cũng là chuyên tâm trì niệm và hệ niệm bất loạn.

Dĩ nhiên nếu đạt đến nhất tâm bất loạn thì vãng sanh thượng phẩm càng tốt. Nhưng nếu chưa được nhất tâm trước hết phải chuyên niệm. Chuyên nhất bất biến là nói với những người thường thay đổi ý kiến. Ở núi này trông núi nọ, họ không thể vừa lòng với pháp môn tu niệm của mình. Hôm nay muốn tham thiền, ngày mai muốn học trì chú; niệm Phật được hai ngày rồi lại muốn học khí công. Những người này học môn gì cũng luống công. Chúng ta là Phật tử thì phải nghe theo lời dạy của đức Phật, tu hành thời mạt pháp chỉ có pháp môn niệm Phật là có thể giải thoát, phải nên nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật.

Chưa được không loạn
Trước học thành phiến

Không thể làm được một chút cũng không loạn thì trước hết phải làm thành phiến. Bạn không thể không tán loạn nhưng mà bạn có mấy chục câu niệm thành một phiến, trong mấy chục câu này không có tạp niệm. Đây là tình trạng của người chân thật dụng công. Một hôm có một người nói với tôi rằng anh không thể tìm ra được hai câu Phật hiệu niệm được thanh tịnh hết. Tôi nói với anh rằng anh nói thiệt không sai tí nào. Cho nên chúng ta phải kiên quyết chân thật niệm, trước hết phải niệm thành phiến.

Thiệt là chuyên cần
(phải thiệt chuyên cần)

“Nếu trời không lạnh thấu xương
Làm sao mai nở rực mùi hương”.

Lạnh thấu xương không phải là chuyện nhỏ. Chúng ta đã trầm luân trong biển sanh tử không biết bao nhiêu kiếp rồi. Đức Phật có nói: “Chỉ tính những khi làm chó trắng, xương của tôi cũng cao bằng núi Tu Di”. Luân chuyển trong lục đạo vô lượng kiếp sanh tử, bây giờ phải chuyển biến lại ngay trong đời này không đi luân hồi nữa. Đây là một chuyện vô cùng trọng đại mà chúng ta không thể nào không giải quyết cho xong. Chuyện này rất quan trọng, những chuyện khác đều là trò chơi của trẻ con, đều là bọt bong bóng, như mộng huyễn bào ảnh, dầu cho tốt đẹp mấy đi nữa thì cũng là bọt bong bóng. Cho dù rất đẹp nhưng mà qua một phút chốc thì nó nhất định phải vỡ tan. Tôi năm nay gần tám mươi tuổi rồi, chớp mắt là phải vỡ tan. Tất cả đều là khổ không vô thường, cho nên phải chân cần chân chuyên. Có người cái gì cũng tu một chút, trong lúc tỉnh tọa lại tưởng tham thiền, đang lúc niệm Phật lại muốn đi học trì chú, muốn niệm Di Đà, rồi muốn niệm Địa Tạng, niệm Quán Âm Bồ Tát. Đây không phải là tu thiệt mà là pha trò vui chơi. Chân cần chân chuyên thì công hiệu tự nhiên có thể thấy được. [Hiệu quả tự thấy. Không phải hỏi người. Hãy xin tự xét]. Cũng như người uống nước, lạnh nóng thì tự biết.

Bài thứ hai: THÂM DIỆU THIỀN KỆ

Nguyên văn

Hữu đại phước đức thỉ niệm Phật
Phát Bồ Đề tâm tu thập thiện
Phật thuyết vô thượng thâm diệu thiền
Thiển nhân đương tác thiển pháp khán
Tứ nghi trang nghiêm tam nghiệp tịnh
Kiêm thủ trọng giới vật thiểu phạm
Đả phá nhân ngã thị phi quan
Phóng hạ sanh bình nhàn tri kiến
Đàm huyền thuyết diệu bất tương can
Tam tự chân truyền lão thật niệm
Chỉ thử tức thị trường dạ đăng
Khổ hải từ hàng trảm ma kiếm
Yêu bạt đa kiếp sanh tử căn
Trực biền thử thân tác ngai hán
Ngũ tông bát giáo nhất cú thâu
Thiết mạc niệm ngoại mích phương tiện
Quá hoản quá cấp đồng thị bịnh
Cường tuởng nhất tâm tâm dụ loạn
Chí kiên như cương khí như miên
Bất gián bất tạp tự thành phiến
Nhân tâm quả Phật hỗ cảm ứng
Căn thân khí giới tiềm chuyển hoán
Phiền não vi phục niệm bất nhất
Tập khí bất trừ Phật bất hiện
Thiên vạn cú như nhất cú thời
Hà sầu bất kiến Di Đà diện
Thử sự phi dị diệc phi nan
Tam muội toàn bằng Tín Nguyện Hạnh

Tạm dịch

Có đại phước đức mới niệm Phật
Phát Bồ Đề tâm tu thập thiện
Phật nói vô thượng thâm diệu thiền
Người thường xem như pháp nông cạn
Oai nghi trang nghiêm nghiệp thanh tịnh
Kiên quyết giữ giới đừng để phạm
Phá bỏ cửa nhân ngã thị phi
Buông bỏ bình sanh điều hiểu biết
Nói huyền nói diệu không liên can
Ba chữ chân truyền thật thà niệm
Đó là cây đèn trong đêm tối
Thuyền trong biển khổ kiếm chém ma
Nhổ gốc sanh tử trong nhiều kiếp
Liều thân này làm kẻ ngu ngốc
Năm tông tám giáo một câu tóm
Đừng ở ngoài niệm tìm phương tiện
Chậm quá nhanh quá đều là bịnh
Càng mong nhất tâm tâm càng loạn
Chí cứng như sắt, dạ như tơ
Không gián không tạp tự thành phiến
Nhân tâm quả Phật cùng cảm ứng
Thân thể cảnh giới dần chuyển biến
Phiền não chưa dứt niệm không nhất
Tập khí không trừ Phật không hiện
Lúc ngàn vạn câu như một câu
Đâu lo không thấy mặt Di Đà.
Chuyện này không dễ cũng không khó
Tam muội đều nhờ Tín Nguyện Hạnh

Nội dung của bài thứ hai này là thâm diệu thiền. Tại sao lại nói là thiền? Trong kinh Đại Tập có nói:

“Nhược nhân đán niệm A Di Đà,
Thị danh vô thượng thâm diệu thiền”

Tạm dịch :

Nếu có người chỉ niệm A Di Đà,
Đó là vô cùng vi diệu thiền.

Không những là thiền mà là thiền thâm sâu, thiền vi diệu, mà còn là thiền vô thượng thâm diệu. Giới trí thức ở Trung Quốc thời xưa (giai cấp sĩ đại phu) rất hâm mộ Thiền Tông, khinh rẻ Tịnh Độ, cho rằng chỉ có Thiền Tông mới là pháp cao thâm huyền diệu, Tịnh Độ chỉ dành cho hạng ngu phu ngu phụ (ông già bà cả lẩm cẩm). Thật ra nhận thức này của họ rất điên đảo, cũng như người mù con của ông nhà giàu, thân đang ở trong của giàu sang mà bị của cải giàu sang làm tổn hại. Ngoài ra còn có rất nhiều người tu lâu rồi nhưng không thành công, trở nên tiêu cực, cho là mình cái gì cũng không được. Xem kinh cũng không khế nhập, càng không có trình độ để tham thiền, học Mật Tông thì còn nhiều chỗ hoài nghi, pháp môn nào họ cũng không theo được cho nên chỉ còn cách niệm Phật thôi! Người có quan điểm như vậy tuy là tu Tịnh Độ, nhưng mà đối với Tịnh Tông không có nhận thức và quan niệm chính xác.

Vô thượng thâm diệu thiền này ở đây là chỉ Bát Nhã trong Lục Độ. Phần đông khi nói đến Thiền định là chỉ năm thứ đầu tiên trong Lục Độ. Tất cả đều dùng chữ Thiền nhưng lại có sự sai biệt rất lớn. Kinh giáo nói năm độ đầu (Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, và Thiền Định) như là người mù, đến Bát Nhã mới có mắt, mới có thể thấy được vạn vật trong trời đất. Ở đây nói thâm diệu thiền không phải là muốn đề xướng mọi người đi tham thiền, mà là nói bạn đang niệm Phật thì cũng là đang tham vô thượng thâm diệu thiền.

Có đại phước đức mới niệm Phật (Hữu đại phước đức mới niệm Phật). Câu đầu tiên cũng như tiếng sư tử hống (hét) làm chấn động trăm loài thú. Nói cho những người coi thường Tịnh Độ, đừng tưởng rằng ngu phu ngu phụ đều có thể niệm Phật rồi khinh rẻ Tịnh Độ. Những người tu Tịnh Độ cũng đừng cho rằng căn khí của mình thấp, không có khả năng tu pháp môn khác, không có biện pháp cho nên mới tu Tịnh Độ. Nên biết chỉ có người có “đại phước đức” mới có thể tin sâu pháp môn niệm Phật rồi mới niệm Phật được. Cho nên chúng ta phải càng tin tưởng hơn. Trong kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Nhược bất vãng tích tu phước huệ, ư thử chánh pháp bất năng văn, nghĩa là “Nếu nhiều đời trước không có tu phước huệ sâu dày thì không thể nghe được pháp môn niệm Phật này, cho dù chỉ là tạm thời nghe đến một chút thôi cũng không thể được”. Cho nên câu này rất hay, bạn phải đề cao tinh thần, nâng cao dũng khí, phải có đầy đủ tự tin, pháp môn vô cùng thù thắng này hôm nay chúng ta có duyên gặp được thì chúng ta phải quý trọng.

Phát Bồ Đề tâm tu thập thiện Kinh Vô Lượng Thọ nói ba bậc vãng sanh đều phải phát Bồ Đề tâm nhất hướng chuyên niệm. Phát Bồ Đề tâm được nói rất tường tận trong “Tịnh Tông tâm yếu”, ở đây giới thiệu giản lược như sau: Bồ Đề tâm là tâm kết hợp lại từ tâm đại trí huệ, đại từ bi, và đại nguyện lực. Kinh Hoa Nghiêm nói ba tâm này cũng như đèn dầu cúng Phật, phải có dầu, tim đèn, và ánh sáng, ba thứ thiếu một thì không được. Đây là nói Bồ Đề tâm là đèn, trí huệ từ bi và nguyện lực ba thứ kết hợp lại làm thành đèn cúng Phật. Chúng ta thường niệm tứ hoằng thệ nguyện: “Chúng sanh vô tận thệ nguyện độ, phiền não vô biên thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện chứng”, đây là thuận theo “sự” phát tâm. Thuận theo “lý” phát tâm thì sao, đó là như kinh Kim Cang nói “Độ vô lượng vô biên chúng sanh, mà thật không một chúng sanh được độ”. Đây đều là phá pháp chấp. Bạn cả ngày độ sanh nhưng không có tướng mình độ sanh. Phải phát khởi tâm Bồ Đề và có đầy trí huệ sâu rộng như vậy.

Tu thập thiện. Nói chung, giáo pháp của đức Thế Tôn lấy pháp Tam Thừa cộng vào Thiên Thừa và Nhân Thừa làm thành Ngũ Thừa. Đây là sự giáo hóa toàn bộ của đức Phật. Quyết không có người càng ngày càng giác ngộ mà còn làm ác như cũ. Nếu họ nói giác ngộ là họ nói láo, người không làm chuyện tốt mà đòi thành Phật, đây là chuyện khôi hài. Tu hành là chuyện của thiện nam tử, thiện nữ nhân làm, mọi người đều dứt ác tu thiện. Giữ ngũ giới thì được thân người, tu thập thiện thì được sanh cõi trời. Đối ngược với thập thiện là thập ác. Ba điều ác của thân: sát sanh, trộm cắp, và tà dâm. Bốn điều ác của miệng: nói láo, nói lời thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, và nói lời ác độc. Ba điều ác của ý: tham, sân và si. Thập thiện là không làm thập ác và chận đứng điều ác, không sát sanh mà còn phóng sanh, không tham mà còn bố thí. Bởi vậy nói tu thập thiện sanh cõi trời đâu có dễ, tại vì đây hoàn toàn dựa vào sức lực của chính mình. Niệm Phật phát nguyện vãng sanh có Phật lực gia trì; nhưng cũng không thể nói tôi niệm Phật chuyện thiện này tôi có thể không làm, như vậy là sai lầm. Không chịu làm việc thiện để làm lợi ích cho người khác thì có Bồ Đề tâm không? Nếu không phát Bồ Đề tâm thì có thể vãng sanh không? Bởi vậy cho nên phải tu thiện. Niệm Phật là chánh hạnh, chúng ta phải bổ túc bằng thiệt nhiều trợ hạnh. Kinh Vô Lượng Thọ nói rất tường tận, thế gian chúng ta có năm thứ ác, năm thứ thống khổ, năm thứ thiêu đốt. Năm thứ ác là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói láo, và uống rượu (nói rộng ra là thập ác). Đời hiện tại chịu ác báo là năm thứ thống khổ. Đời sau phải vô địa ngục là năm thứ thiêu đốt. Trong kinh không ngừng khuyên răn và khuyến khích người đời phải tu thập thiện.

Phật nói vô thượng thâm diệu thiền (Phật thuyết vô thượng thâm diệu thiền)
Người thường xem như pháp nông cạn (Thiển nhân đương tác thiển pháp khán)

Phật nói niệm Phật A Di Đà là vô thượng thâm diệu thiền. Nhưng mà có nhiều người ngược lại nói niệm Phật là pháp thô thiển. Thiệt ra cái gì thô thiển vậy? Chính là người nói rằng niệm Phật là pháp thô thiển, họ là thô thiển. Tại vì chính họ nông cạn cho nên nói pháp niệm Phật là nông cạn. Bởi vậy chúng ta phải phát tâm ít có (hy hữu tâm) này, có thể nghe đến pháp môn này, có thể tin đến pháp môn này đều là thiện căn thiện duyên tích lũy từ nhiều kiếp mà có. Chúng ta phải trân trọng phải gắng sức, lúc này mặt trời chưa lặn hãy mau đi về nhà.

Oai nghi trang nghiêm nghiệp thanh tịnh (Tứ nghi trang nghiêm tam nghiệp tịnh)
Kiên quyết giữ giới đừng để phạm (kiên thủ trọng giới vật thiểu phạm)

Tứ nghi là bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi. Chúng ta là người niệm Phật trong bốn oai nghi này phải đoan chánh thân tâm làm cho trang nghiêm. Tam nghiệp là thân khẩu ý, tất cả đều phải thanh tịnh không ô nhiễm. Trước hết là không được phạm các giới chánh (trọng giới). Trong các giới lợi hại nhất là báng pháp (hủy báng chánh pháp). Thí dụ nói Phật pháp là giả, sự báng pháp này thì chúng ta không có nói. Nhưng mà chúng ta cũng có khi báng pháp, nhiều lúc bạn hùa theo người nói kinh điển nào đó là giả. Người đó thiệt là một thiện tri thức, có người phỉ báng, bạn lại phụ họa vào và nói người đó thiếu đạo đức. Tất cả những chuyện như vậy đều là báng pháp. Cố ý nói thêm thì cũng không tốt. Nói thêm không đúng sự thật là “tăng ích báng”, cố ý nói ít đi là “giảm tổn báng”. Tội báng pháp rất nặng, nhất là người thọ giới rồi làm chuyện ác thì so với người không thọ giới tội còn nặng hơn nữa. Người không thọ giới giết chết ông Trương Tam, tương lai bị Trương Tam giết lại thì huề. Người thọ giới thì khác, phá bốn trọng giới là tội địa ngục. Nếu bạn phạm giới sát, bạn bị người đó giết lại thì tất nhiên rồi, nhưng mà bạn phải đọa địa ngục, lên núi đao xuống vạc dầu. Cho nên chúng ta thọ giới rồi không thể không nghiên cứu giới, không thể không hiểu rõ giới luật. Phải giữ giới, không được vi phạm. Nếu phá giới, thì bạn là đồ dùng bị lủng lỗ (lậu). Như cái chén bị lủng lỗ, trong chén đựng đầy nước được một lúc thì nước chảy thoát hết. Cho nên “kiên thủ trọng giới” bốn chữ này phải nhớ kỹ trong tâm.

Phá bỏ cửa nhân ngã thị phi
Buông bỏ bình sanh điều hiểu biết

Có ta có người thì có thị phi, có thị phi thì có thương ghét lấy bỏ, các thứ đối đãi không giống nhau, các thứ phân biệt đúng sai. Từ đó sanh ra muôn thứ phiền não không có ai thoát ra được, cho nên gọi là cái cửa (quan). Đây giống như cái lao ngục ở dưới đất vậy, một mình làm “tượng tùy táng” (tượng người dùng để chôn theo vua). Nguyên do của những chuyện ác đều từ một chữ “ngã” (tôi) làm ra. Có ta là có người, vĩnh viễn không có lối thoát ra, cho nên xưng là “quan”. Những chuyện thị phi này không có cách gì mà trốn thoát được. Người xuất gia có ai biết được ở trong chùa những chuyện thị phi này có ít hơn ở ngoài thế gian không? Cho nên nói, ôi chao, nếu biết trước như vậy thì chúng ta không xuất gia còn hơn. Những thứ nhân ngã thị phi này không những người tại gia có, người xuất gia cũng có. Cái cửa thị phi này, tức là tôi đúng anh sai, thị thị phi phi không phá được thì không thể nào tu hành được.

Bước thêm một bước nữa, [Buông bỏ bình sanh điều hiểu biết] trong đầu chứa đầy những thứ tri kiến không cần đến, tự cho là mình rất có học thức, thiệt ra chỉ là một số tà kiến. Nên buông bỏ hết những thứ này, quét sạch hết. Phải dụng công phu trên chữ “xả”. Xả là xả bỏ những thứ tri kiến (sự hiểu biết) không cần thiết này. Nhưng mà chữ xả này rất khó, xả thân dễ, xả bỏ tri kiến rất khó. Trong thơ của thầy Hạ đều chỉ rõ ra những thứ cứu mạng căn bản này.

Nói huyền nói diệu không liên can (Đàm huyền thuyết diệu bất tương can)
Ba chữ chánh truyền thật thà niệm (Tam tự chánh truyền lão thật niệm)

Miệng nói huyền mà tâm chưa thấu rõ, lời nói cao siêu mà hành vi xấu xa, cho dù ăn nói rất lưu loát, viết sách nổi tiếng, được danh xưng Phật học tiến sĩ danh dự, đối với người và đối với mình có gì thật ích, đối với sanh tử đại sự hoàn toàn không có liên can gì. Sự hiểu biết càng nhiều chướng ngại về “lý thể” càng sâu, so với những phiền não và chướng ngại về “sự” càng khó diệt trừ. Nói chung là lấy dây tự trói mình, muốn tiến lên ngược lại bị tụt xuống. Người chân thật dĩ nhiên không chịu như vậy mà còn phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, noi theo lời dạy của đức Phật Thích Ca và Di Đà nguyện hải, chỉ tu niệm Phật. Trong diệu pháp niệm Phật chỉ tu trì danh niệm Phật, duy chỉ thật thà niệm một câu hồng danh. Không cầu nhất tâm, không trừ vọng tưởng, không tham tịnh cảnh, không tham (niệm Phật) là ai. (Bốn điều trên đây được xưng là bốn bí quyết của pháp niệm Phật). Chỉ là một câu Nam mô A Di Đà Phật, câu sau nối liền theo câu trước. Đây chính là vô thượng thâm diệu thiền, đây mới là chân truyền của đức Phật Thích Ca. Thiện Đạo đại sư có nói: “Nguyên do đức Phật Thích Ca xuất hiện ở thế gian chúng ta cũng chỉ là muốn nói Di Đà bổn nguyện hải”. Ngẫu Ích đại sư nói: “Một câu niệm Phật hiệu là pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề mà đức Thế Tôn đắc được”. Chỉ có thiệt niệm Phật mới là chân truyền của tất cả giáo pháp.

Đó là cây đèn trong đêm tối
Thuyền trong biển khổ, kiếm chém ma

Chỉ có thiệt thà niệm Phật là cây đèn chiếu sáng trong đêm dài đen tối của chúng sanh, là con thuyền ra khỏi biển khổ, cây bảo kiếm “kim cang vương” chém trừ ma chướng. Quan trọng là ở chữ “thiệt thà” (lão thật), người đời coi thường “thiệt thà và bình thường”. Tịnh ngữ có câu: “Đạo tại bình thường trung, tích quân vi hiểu thử, tạm dịch: “đạo là ở trong bình thường, tiếc là người thường không hiểu”.

(Nếu muốn) Nhổ gốc sanh tử trong nhiều kiếp
(Phải) Liều thân này làm kẻ ngu ngốc

Chúng ta được sanh làm người, được nghe Phật pháp, được tin pháp môn Tịnh Độ, thật là nhờ nhiều đời tu hành mới có được. Chúng ta đã là tu hành nhiều kiếp, tại sao hôm nay còn lưu lạc trong chốn luân hồi, trong biển sanh tử trồi lên, lặn xuống? Cũng tại vì gốc rễ căn bản của sanh tử rất khó diệt trừ. Bởi vậy cho nên chúng ta phải phát chí nguyện lớn, quyết định ngay trong đời này, nhổ tận gốc rễ căn bản của sanh tử trong nhiều kiếp. Đây là chí lớn thấu trời cao, là chuyện vĩ đại chưa từng xảy ra trong nhiều kiếp, đại tâm muốn tự giác và giác tha, cho nên phải liều mạng không lo đến thân này để diệt trừ mọi sự khó khăn. Cũng như trong vòng bao vây trùng điệp của quân địch liều mạng tìm ra một con đường thoát thân. Đây là cuộc chiến đấu giữa nghiệp lực và ta (chân tâm). Phải dùng võ khí thiệt, không phải đánh giả vờ biểu diễn trên sân khấu, cho nên phải liều mạng này làm như một kẻ ngu ngốc, không làm một người thông minh mưu kế xảo quyệt. Họ từng giờ từng phút cũng đều đầu cơ thủ xảo, xem xét tình thế, kết giao với quyền quý, đoạt danh lợi, gạt gẫm người, không ngừng dùng các thứ mưu kế, đến cuối cùng thì người chịu thiệt thòi cũng là mình mà thôi. Người muốn cùng chúng sanh thoát biển khổ sanh tử tất nhiên phải diệt trừ những hành vi này, mặc cho người đời chê cười mình là một kẻ ngu ngốc thì cũng không hối hận. Thiền sư Tống Cao Phong (thầy của quốc sư Nguyên Trung Phong) vì tham câu thoại đầu “khi không nằm mộng, chủ nhân Ông ở tại đâu để an thân lập mạng”, nên thề là: “Liều một đời này làm kẻ ngu ngốc, quyết phải hiểu rõ ngay trong lúc này”. Quả nhiên năm năm sau ngài đại triệt đại ngộ.

Năm tông Tám giáo một câu tóm (Ngũ tông Bát giáo nhất cú thâu)
Đừng ở ngoài niệm tìm phương tiện (Thiết mạc niệm ngoại mích phương tiện)

Năm tông là Thiền Tông “Một hoa nở năm cánh” (Nhất hoa khai ngũ diệp). Năm tông là phái Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn. Bát giáo là Giáo hạ, Thiên Thai tông lập ra Hóa pháp tứ giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên và Hóa nghi tứ giáo: Đốn, Tiệm, Bí Mật và Bất Định, tổng cộng là tám giáo. Năm tông trong Thiền Tông và tám giáo trong Giáo hạ đều tóm thâu trong câu Phật hiệu này. Ngẫu Ích đại sư nói:

“Tam Tạng mười hai bộ kinh luận, tất cả giới luật, và Thiền tông một ngàn bảy trăm công án cũng đều ở gọn trong câu Phật hiệu này”. Lại nói tất cả thiền định cũng đều nằm trong câu Phật hiệu này, cho nên mới biết câu Phật hiệu này có đầy đủ công đức, tức là tổng trì đà la ni. Cho nên tuyệt đối không nên trong khi niệm Phật lại đi tìm những pháp môn cao siêu, tìm con đường phương tiện nào nữa, đó đều là tự làm khổ mình (dung nhân tự nhiễu).

Chậm quá nhanh quá đều là bịnh
Càng mong nhất tâm tâm càng loạn

Bài trước nói âm thanh niệm Phật lớn nhỏ, tiết tấu không nên gián đoạn. Đoạn này nói niệm không được quá nhanh hoặc quá chậm. Quá chậm thì vọng tưởng dễ khởi lên và tạo nên “bệnh nuôi dưỡng thức”. Quá nhanh thì dễ khẩn trương, tai nghe tiếng niệm Phật không rõ ràng ảnh hưởng rất lớn. Bởi vậy cho nên chậm quá và nhanh quá đều không tốt, phải biết điều hòa tốc độ cho thích hợp. Phương pháp thường có hiệu quả là mới bắt đầu thì niệm chậm một chút, từ từ niệm nhanh lên, cho đến khi không nhanh hơn được nữa thì dừng lại, rồi sau đó bắt đầu trở lại từ đầu. Lúc niệm không trừ vọng tưởng, không cầu nhất tâm. Đây là nội dung chính của bốn bí quyết niệm Phật. Tú tài Trương Chuyết đời Đường có câu thơ rất nổi tiếng: “Dục đoạn vọng tưởng trọng tăng bịnh” (tạm dịch Càng muốn trừ vọng tưởng càng thêm tệ). Tại vì càng muốn trừ vọng tưởng thì là “trừ một cộng thêm hai”. Cùng một đạo lý như vậy là không cầu nhất tâm. Đang lúc niệm Phật thì không cầu nhất tâm hoặc là phân biệt tính toán xem xét coi mình được nhất tâm chưa. Đây không còn là “thật thà niệm” mà là hữu vi pháp.

Chí cứng như sắt, dạ như tơ
(Chí kiên như cương khí như miên)

Không gián không tạp tự thành phiến
(Bất gián bất tạp tự thành phiến)

Thệ nguyện phải cứng rắn như sắt thép. Lúc đức Phật Di Đà còn ở thời kỳ tu nhân có phát nguyện là: “Cho dù thân này có mất trong sự khổ thì nguyện tâm cũng vĩnh viễn không thoái chuyển”, đây là dạy cho chúng ta câu “Chí cứng như sắt”. Chí phải cứng rắn nhưng tâm phải nhu nhuyễn. Nếu cố chấp ý kiến của mình thì trở thành người cang cường khó giáo hoá, họa hại không gì hơn. Trong kinh Vô Lượng Thọ có nói người ở cõi Cực Lạc có “thân tâm nhu nhuyễn”. Khí như miên là nói tâm ý nhu nhuyễn, tự nhiên dễ được giáo hoá.

Trong lúc niệm Phật không được gián đoạn và tạp loạn. Không gián không tạp (không gián đoạn và không tạp loạn) thì niệm Phật tự nhiên dễ thành phiến. Nếu đạt được nhất tâm bất loạn thì tất phải đạt được Niệm Phật Bảo Vương tam muội.

Nhân tâm quả Phật cùng cảm ứng
Thân thể cảnh giới dần chuyển biến

Chúng ta niệm Phật là tu hành trong nhân địa (thời gian tu nhân của Bồ Tát). Cái tâm của chúng ta hiện tại đang niệm Phật là cái tâm trong nhân địa gọi là “nhân tâm”. Cái niệm chúng ta đang niệm là Phật A Di Đà, Phật là vị đã đắc quả Giác Ngộ gọi là “quả Phật”. Lúc chúng ta niệm Phật, “nhân tâm” của chúng ta và “quả Phật” của Phật A Di Đà hỗ tương cảm ứng lẫn nhau. Trong tâm của chúng ta bao gồm vạn đức của Phật A Di Đà. Tâm của Phật trùm khắp mọi nơi (biến mãn nhất thiết xứ); chúng ta đang niệm Phật là niệm trong tâm Phật, Như Lai đều thấy đều biết, không có chút nào có thể làm giả dối được. Hơn nữa, tâm của chúng ta và tâm của Phật cũng đều trùm khắp mọi nơi, cho nên Phật cũng có ở trong tâm của chúng ta. Tại vì sao chúng ta có thể niệm Phật được? Tại vì Phật đang niệm chúng ta, Phật đang nhiếp thọ chúng ta đó. Nếu Phật không nhiếp thọ thì chúng ta bị phiền não trói buộc không thể niệm Phật được. Lúc chúng ta niệm Phật là lúc Phật niệm chúng ta, nhân tâm quả Phật cảm niệm lẫn nhau, cảm ứng đạo giao thì không thể nghĩ bàn. Cho nên từ từ làm cho căn thân (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý) và cảnh giới bên ngoài của chúng ta dần dần thay đổi, tự nhiên chuyển hóa cải tiến. Cho nên mới nói [Thân thể cảnh giới dần chuyển biến (Căn thân khí giới tiềm chuyển hoán)]. Khí giới là tất cả vạn vật, núi sông đại địa, lớn tới cả thế giới, nhỏ thì đến hạt bụi (vi trần). Tất cả mọi thứ này trong lúc chúng ta niệm Phật, tự nhiên không hay không biết dần dần thay đổi chuyển biến (trở nên tốt).

Chuyện này còn khó hiểu hơn chuyện thân tâm của chúng ta tùy theo tự tâm và chỗ cảm ứng của chư Phật mà tạo nên những sự biến hóa. Nên biết tự tâm và ngoại vật là không hai. Kinh Hoa Nghiêm có nói: “tri nhất thiết pháp giai thị tự tâm”, tạm dịch là “Biến tất cả các pháp đều là tự tâm”. Khởi Tín Luận nói: “Tam giới hư vi, duy tâm sở tác”, tạm dịch “Tam giới tất cả đều do tâm tạo”. Duy Thức Xu Yếu nói: “Chư cảnh vô thể, tùy chấp nhi sanh, nhân tự tâm sanh, hoàn dử tâm vi tương”. Tất cả đều giải thích rõ đạo lý “tâm vật không hai, vật và ta là một”. Cổ Thiền Sư nói: “Khắp đại địa cũng như một con mắt của sa môn”, nghĩa là nói cả quả địa cầu này là một con mắt của ông sư. Mặt đất bao la vậy cũng chỉ là một con mắt của tự thân, lúc niệm Phật là “nhân tâm” và “quả Phật” cảm ứng lẫn nhau. Tất cả nhật nguyệt, tinh tú, nam nữ, già trẻ bao gồm trong “nhân tâm” làm sao không chịu sự cảm hóa của “nhân tâm”? Cho nên người thiệt tình dụng công thì tất cả thế giới vạn vật đều chuyển biến trở nên tốt đẹp hơn, trở nên thích hợp hơn, càng chuyển biến thành thích hợp với bạn và sự tu hành của bạn. Thí dụ có người là vì oan nợ đến gặp bạn, bạn niệm Phật thì từ từ oan nợ của bạn và người đó được hóa giải. Chúng ta nên biết một địa phương nào có người dụng công, nguyên vùng đó sẽ được lợi ích. Chúng ta đừng cho rằng niệm Phật là tiêu cực ích kỷ, một người niệm Phật chân chánh tạo phước cho cả vùng đó. Không những họ tạo phước cho vùng đó, mà còn tạo phước cho cả địa cầu, họ còn tạo phước cho cả pháp giới luôn. Tất cả không có gì là không thể chuyển biến được. Cho nên chúng ta có chuyện phiền não gì thì đều nên chăm chỉ niệm Phật hiệu này. Nhưng mà tại sao những chuyện phiền não này luôn tìm đến phá khuấy bạn hoài vậy? Tại vì bạn dụng công không được đắc lực. Nếu bạn dụng công đắc lực rồi thì nó sẽ không phá khuấy bạn nữa. Tất cả ta và mọi người, tất cả thế giới đều từ từ âm thầm thay đổi. Cho nên người xưa khi đi đến một địa phương lạ, họ làm sao biết được chỗ đó có người hiền đức? Họ biết được là nhờ xem xét cây cối sông núi cảnh vật ở đó, nếu quả là có người đắc đạo ở chỗ đó, tất cả vạn vật ở đó đều khác hẳn.

Phiền não chưa dứt niệm không nhất
Tập khí không trừ Phật không hiện

Phiền não tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp nên rất khó phá trừ. Nếu chưa đoạn trừ được trước hết phải đè dẹp nó. Cũng như một ly nước đục có quá nhiều chất đục không thể dùng được. Cho nên phải để yên cho chất đục lắng xuống đáy. Nước ở trên trong rồi thì có thể dùng được. Nước trong là thí dụ cho tâm niệm chuyên nhất. Chất dơ bẩn chưa lắng xuống cũng tỷ như phiền não chưa đè dẹp. Lý tự nhiên là như vậy không thể miễn cưỡng. Những thói quen xấu tích tụ lâu còn lại thì gọi là tập khí. Thí dụ như hạt giống sân hoặc của tôn giả Xá Lợi Phất đã cắt đứt, nhưng cũng còn dễ phát nộ (giận), đây gọi là tập khí. Thầy Hạ có hai câu khai thị rất hay “Trì giới niệm Phật xem kinh giáo, xét sai lỗi cũ đừng tự gạt”, cho nên mới biết tập khí lỗi cũ rất quan trọng. Hoàn toàn trừ hết tập khí chỉ có Phật mới làm được, cho nên ở đây nói trừ tập khí không phải trừ dứt hết, mà là muốn bạn tích cực diệt trừ nó. Phật là người giác ngộ “Phật hiện” nói theo cách thông thường ở đây là nói Phật hiện hào quang, nhưng càng quan trọng hơn là chỉ cái tâm đại giác. Cái tâm đại giác này không thể hiện ra được nếu tập khí không dứt trừ.

Lúc ngàn vạn câu như một câu
Đâu lo không thấy mặt Di Đà

Có hai cách giải thích:

1. Niệm một ngàn một vạn câu Phật hiệu cũng rõ rõ ràng ràng giống như lúc chỉ niệm một câu, không có tạp niệm. Niệm một câu rất rõ ràng, người niệm Phật cũng có khi được như vậy nhưng mà kéo dài đến một ngàn một vạn câu đều thanh tịnh giống như vậy, tự nhiên vãng sanh Cực Lạc thế giới, hoa nở thấy Phật, còn lo buồn cái gì, còn lo sợ không thấy Phật Di Đà sao?

2. Một ngàn một vạn câu giống như một câu. Một câu này cũng giống như một ngàn một vạn câu, bỏ hết số lượng. Nhứt đa tương tức (nhiều ít gì cũng giống nhau) (một tức là nhiều, nhiều tức là một), vượt ra khỏi “tình” ra khỏi “kiến giải”, không thể nghĩ bàn. Tại vì không thể nghĩ bàn, tôi đương nhiên không viết nhiều nữa, không vẽ thêm chân vào hình con rắn nữa.

Chuyện này không dễ cũng không khó
Tam muội đều nhờ Tín Nguyện Hạnh

Cả nhà Bàng cư sĩ đời Đường rất được sùng bái trong Thiền tông.

Ông Bàng nói: “Nan bất nan, bách đảm ma dầu thọ thượng thán?”, tạm dịch “khó hay không khó, một trăm gánh dầu mè đặt để trên cây?”

Bà Bàng đáp: “Bách thảo đầu thượng tổ sư ý”, tạm dịch: “Trên trăm ngọn cỏ tổ sư ý”.

Người con gái tên Linh Chiếu nói: “Bất nan diệc bất dị, nga lai thực phạn khốn lai thùy”, tạm dịch: “Không khó cũng không dễ, đói thì ăn cơm mệt thì ngủ”.

Lão thật niệm Phật tức là vô thượng thâm diệu thiền.

“Bổng đả thạch nhân đầu, bộc bộc luận thật sự”, tạm dịch: “Gậy đánh đầu người đá, phô bày rõ sự thật này”. Ai nói với bạn khó với dễ, nếu nói khó và dễ, cổ Phật quá khứ đã qua lâu rồi.

Tam muội chỉ niệm Phật tam muội, là vua trong các thứ tam muội, cho nên xưng là Bảo Vương tam muội. Muốn chứng được tam muội này chỉ cần Tín Nguyện Hạnh, ba thứ tư lương. Tín cần phải tin sâu, như sáu thứ tín của Ngẫu Ích đại sư nói, như chánh tín của Tiệt Lưu đại sư nói. Nguyện cần phải nguyện thiết tha, hạnh là thiệt thà lão thật niệm Phật.

Bài thứ ba: LÃO THẬT NIỆM

Nguyên văn

Đán chỉ lão thật niệm
Bất tất vấn như hà
Mạc quản đồng dữ dị
Hưu luận tự dữ tha
Chỉ quý nguyện lực cường
Ná phạ vọng tưởng đa
Tán loạn cố thành bịnh
Phân biệt dị nhập ma
Cảnh duyên vô hảo xú
Phật hiệu nhất tảo quá
Cú cú niệm năng chân
Quyết định xuất Sa Bà

Tạm dịch

Chỉ cần thật thà niệm
Không cần hỏi tại sao
Đừng lo giống và khác
Không luận mình và người
Chỉ quý nguyện lực mạnh
Không sợ vọng tưởng nhiều
Tán loạn nhiều thành bịnh
Phân biệt dễ vào ma
Cảnh duyên không tốt xấu
Phật hiệu đều quét sạch
Câu câu niệm được chân
Quyết định thoát Sa Bà.

Bài trước có nói: “Ba chữ chân truyền thật thà niệm” nên dùng bài “Lão Thật Niệm” để nối tiếp theo sau, chúng ta phải bắn trúng đích ở giữa hồng tâm, mới là người giỏi nhất trong những người nhận được thánh giáo.

Chỉ cần thật thà niệm
Không cần hỏi tại sao

Lão thật là rất bình thường, nhưng mà rất là hiếm có. Vào đời Đường, có người hỏi một bà lão đường lên núi Đài làm sao đi. Bà trả lời: “Mạch trực khứ”, tạm dịch “Cứ đi thẳng”. Nhiều người trong Thiền tông đều không “hiểu” bà được. Chữ “mạch trực” cũng giống như “lão thật”, cả hai đều rất bình thường, và cũng rất đặc biệt. Diệu là diệu ở chỗ không dành cho bạn chỗ nào để suy nghĩ. Nếu có chỗ để suy nghĩ thì không đúng. Niệm Phật và tham thiền đều là như vậy. Cho nên mở miệng nói câu đầu thì nói thẳng liền: “Chỉ cần thật thà niệm”, tuyệt đối là duy nhất chỉ có thật thà niệm Phật. Không có thể hỏi cái này hỏi cái nọ, nếu còn hỏi đông hỏi tây thì không còn thiệt thà nữa. Cho nên Tông môn có nói: “Bất vấn như hà dữ nhược hà” tạm dịch là : “Không hỏi như sao và nếu sao”.

Đừng lo giống và khác
Không luận mình và người (tự và tha)

Tông Hoa Nghiêm y cứ vào sáu tướng mà nói cái nghĩa “pháp giới sự sự vô ngại”. Sáu tướng là: tổng, biệt, đồng, dị, thành, và hoại. Sáu tướng này là từ thể tướng dùng ba phương diện mà thảo luận hàm nghĩa của bình đẳng và sai biệt. “Đồng và dị” là bình đẳng và sai biệt trên tướng. Thí dụ hình tướng của gạch ngói và cây gỗ đều không giống nhau, nhưng mà có thể hợp thành một gian nhà, hiển thị ra tướng “đồng”. Gạch ngói và cây gỗ mỗi thứ đều có hình tướng khác nhau, đây là tướng “dị”. Từ tướng “đồng” và “dị” mà có thể suy đóan cái “tổng” và “biệt” trên “thể” và “sự”, “thành và hoại” trên cái dụng. Cho nên ở đây dùng “tổng” và “dị” để làm đại biểu. “Tự” Phật và “tha” Phật. Tự mình nghĩa là tự, người khác nghĩa là tha. Thân tâm là tự, vạn vật là tha. Cho nên “đồng” và “dị” bao gồm tất cả sự bình đẳng và sai biệt của “thể”, “tướng”, và “dụng”. Tự, tha bao gồm hết tất cả sự đối lập và thống nhất của người, mình (nhân ngã) và tâm, vật. Tất cả đều không hỏi và không để ý đến, trong tâm đơn độc chỉ là một câu A Di Đà Phật; mỗi âm thanh của câu Phật hiệu này nối liền nhau, tự nhiên sẽ được thuần nhất và sáng tỏ.

Chỉ quý nguyện lực mạnh
Không sợ vọng tưởng nhiều

Trong quyển Di Đà Yếu Giải có nói: “Phi tín bất túc khải nguyện, phi nguyện bất túc đạo hành, phi trì danh hiệu hạnh bất túc mãn sở nguyện, nhi chứng sở tín” tạm dịch là:

“Tin không đủ thì không thể phát nguyện được, nguyện không đủ thì không đủ để dẫn đạo hành trì, trì danh diệu hạnh không đủ thì không thể làm tròn lời nguyện và chứng điều mình tin”

Cho nên mới biết nguyện lực là nối tiếp và noi theo chữ tín và dẫn dắt theo diệu hạnh. Lại nói:

“Tin sâu phát nguyện tức là Vô Thượng Bồ Đề; tín nguyện như vậy đúng là kim chỉ nam của Tịnh Độ; nếu Tín Nguyện kiên cố, khi lâm chung mười niệm hoặc một niệm cũng được vãng sanh. Nếu không có đầy đủ Tín Nguyện, cho dù niệm đến mức gió thổi không lay động, mưa rơi không thấm, vững chắc như bức tường đồng vách sắt thì cũng không vãng sanh được”.

Lại nói: “Vãng sanh được hay không đều dựa trên có Tín Nguyện hay không, phẩm vị cao thấp toàn do trì danh sâu hay cạn”.

Nghĩa là một người tu Tịnh Độ có thể vãng sanh hay không hoàn toàn dựa trên người đó có Tín Nguyện hay không, nếu có tin sâu (lục tín và chánh tín) và nguyện thiết, không sợ thường ngày niệm Phật vọng tưởng nhiều đều quyết định được vãng sanh. Ngược lại cho dù niệm được rất nhiều, niệm đến mức gió thổi cũng không lay động mà không có tín nguyện thì không thể vãng sanh. Do đó có thể thấy lời khai thị vô cùng thù thắng của Ngẫu Ích đại sư cùng hai câu kệ của thầy Hạ trên đây vô cùng phù hợp. Thầy Hạ còn mấy câu thơ như sau:

Mặc cho vọng tưởng lung tung
Tôi niệm từng chữ rõ ràng

Cứ để vọng tưởng tự đến rồi tự đi, tự sanh rồi tự diệt, vừa sanh xong liền diệt. Nói sâu thêm một chút, ngoài tự tánh thiệt là không có vọng tưởng, vọng niệm chỉ là tự tâm vọng động cũng như sóng trên mặt nước. Xin hỏi sóng là gì? Sóng chỉ là nước. Vọng tưởng không dứt chỉ tại tự tâm quen tán loạn, nếu có thể thật thà niệm hoài, lâu ngày thuần thục thì vọng niệm tự nhiên không sanh.

Tán loạn nhiều thành bịnh
Phân biệt dễ vào ma

Tâm này như con vượn đã nhiều kiếp không có lúc nào yên tịnh chuyên nhất, tán loạn thành tập quán đương nhiên là bịnh. Người quá trung niên có một chút bịnh cũng là chuyện thường. Nhưng nếu lạc vô luới ma rồi và chiêu cảm quả báo ở địa ngục thì nghiêm trọng hơn cả triệu lần. Tán loạn cũng như người bị cận thị, “vào ma” cũng như bị lọt vào tổ chức đặc vụ của địch quân, kết quả thì là rất bi thảm. Cho nên đừng nên phân biệt, so đo tốt hơn hoặc xấu hơn? Tu như vầy tốt hay là như thế kia mới tốt? Lúc thì hoan hỷ lúc thì âu sầu, không lúc nào không ở trong sự phân biệt, lúc nào cũng không rời tâm niệm cầu thứ này cầu thứ nọ. Cho nên pháp vô thượng thù thắng vô biên thành pháp hữu vi. Vì thế thầy Hạ có nói: “phân biệt tức là lưới ma”, niệm tới niệm lui câu nào cũng dính pháp hữu vi, đều có mong cầu thì làm sao mà thiệt thà niệm được.

Cảnh duyên không tốt xấu
Phật hiệu đều quét sạch

Tiếng niệm Phật bao hàm cả hư không này quét sạch tất cả những sự phân biệt tốt và xấu trong pháp thế gian và xuất thế gian cũng giống như gió mùa thu thổi lá rụng, một cơn gió thổi sạch trơn. Từ tâm phát ra âm thanh, âm thanh là Phật hiệu, Phật hiệu có đủ vạn đức, nhiếp tròn vạn pháp, cho nên thể của tiếng niệm Phật này có đủ vạn đức vạn pháp, có đủ sức mạnh và công đức vô thượng, vô biên pháp lực, cho nên có thể quét sạch phân biệt tán loạn và các thứ hư vọng. Tiếng niệm Phật lọt vào tai của mình, lọt vào tự tâm, như hạt châu phát quang, phản chiếu lại thể của hạt châu. Ánh sáng của tâm dung hòa vào tiếng Phật hiệu hỗ tương tăng trưởng đi thẳng đến cứu cánh.

Câu câu niệm được chân
Quyết định thoát Sa Bà

Trong hai câu này chữ quan trọng cần giải thích nhất là chữ “chân”. Chỗ niệm câu nào cũng “chân” nhất quyết thoát ly Sa Bà vãng sanh Cực Lạc. Làm sao mới là “chân”? Giải thích dễ hiểu nhất, nếu muốn niệm được “chân” thì phải chân (thiệt) niệm. Không phải giả bộ, ngụy trang gạt người, không chú trọng vào hình thức, không có mục đích gì khác, không có vọng cầu quá đáng, không phải là có hình dáng mà không có thật chất. Rất thiết tha, rất thành thật mà Tín Nguyện và trì danh, đây là thiệt thà niệm Phật. Nói đơn giản thêm một chút nữa, nếu bạn nghe tiếng niệm Phật của mình rõ rõ ràng ràng, nguyên câu hoàn toàn nghe rõ, đây là chân thật niệm.

Trên đây ba bài “Tịnh Ngữ” đã nói rõ hết những nghĩa lý thâm diệu của Tịnh tông. Sau cùng thêm bài “Trực Niệm Khứ” bao gồm tất cả sự huyền diệu của Tịnh, Thiền, và Mật. Niệm Tổ này không vẽ thêm chân vào hình con rắn nữa, xin mời tự tham (niệm).

Nguyên văn

TRỰC NIỆM KHỨ

Di Đà giáo ngã niệm Di Đà
Khẩu niệm Di Đà thính Di Đà
Di Đà Di Đà trực niệm khứ
Nguyên lai Di Đà niệm Di Đà

Tạm dịch

NIỆM HOÀI ĐI

Di Đà dạy tôi niệm Di Đà
Miệng niệm Di Đà nghe Di Đà
Di Đà Di Đà cứ niệm luôn
Hèn chi Di Đà niệm Di Đà

Bắc Kinh Liên Xã, 4-1991
Trích dịch từ cuốn Tâm Thanh Lục, Hoàng Niệm Tổ

Bài giảng của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ trong niệm Phật thất 1998, tại Cư Sĩ Lâm Bắc Kinh.

Người Vừa Qua Đời Không Nên Hỏa Táng Vội

Người Vừa Qua Đời Không Nên Hỏa Táng VộiTrong các Tòng lâm lớn thông thường sau khi chết bảy ngày mới cử hành pháp hỏa táng. Ngoài ra các chùa am nhỏ số ngày không nhất định, thậm chí có nơi buổi sáng mới chết buổi chiều đã đem hỏa táng. Vấn đề hỏa táng này chúng ta cần phải hiểu rõ ngõ hầu tránh những sự sai lạc. Tôi xin phân biệt như sau.

Người chết cũng có tánh chất thời tiết nóng thời tiết lạnh khác nhau, như gặp thời tiết lạnh trong thời gian bảy ngày cơ thể vẫn chưa biến đổi, nếu chưa quá bảy ngày mà đã hỏa táng sợ rằng người đó vẫn còn thống khổ. Như gặp thời tiết nóng mới trải qua một ngày các lỗ chân lông đã rỉ máu e đợi qua bảy ngày không thể để được. Căn cứ vào đó mùa nóng người chết tuy chưa qua bảy ngày cũng không có sự thống khổ.

Tôi nhớ lúc mới xuất gia ở Long phụng nham, Quảng xương tỉnh Giang tây có Viên minh Thượng nhân buổi sáng tháng tư năm đó viên tịch, Tăng chúng sau khi tắm rửa thay y phục đỡ Ngài dựa vào ghế. Lúc đó đệ tử là Thánh kim xem lịch thưa với chúng : “Hôm nay là ngày hỏa táng thầy tôi rất tốt”. Rồi sau giờ ngọ trai bèn di quan đến lò thiêu cử hành pháp hỏa táng. Lúc đó tôi có việc sang chùa Đại thừa mấy hôm sau mới trở về, nghe chư Tăng kể lại khi hỏa táng thấy hai cánh tay của Thượng nhân bỗng từ từ đưa lên cao.

Sau tôi trú chùa Thừa ân ở Nam xương, vào rằm tháng tám năm đó có một vị Tỳ kheo viên tịch. Giám viện chùa là pháp sư Hiền mậu dùng gỗ đóng quan tài liệm Tỳ kheo và cử chúng luân phiên niệm Phật. Ngày mai sau buổi tiểu thực bèn di quan ra khu đất trống ngoài chùa để hỏa táng. Tôi theo đại chúng nhưng chỉ đưa ra khỏi cổng chùa rồi trở về. Sau nghe sư Giám viện kể ngay khi hỏa táng thấy hai tay của vị Tỳ kheo này xô mạnh bên hông quan tài hai bên hông đồng lúc buông ra.

Quán sát hai câu chuyện trên chúng ta có thể biết, nếu không phải mùa nóng người chết chưa qua bảy ngày vẫn còn sự thống khổ. Do vậy chẳng những không được vãng sanh mà e họ sanh tâm sân hận tất đọa vào Địa ngục. Phàm con người có chút tâm từ bi thấy cảnh đó ai mà chẳng thương xót.

Lại khi tôi ở núi Bách trượng gặp một vị Tỳ kheo tên Đức Nhã, vị này tự kể lại câu chuyện sau. Năm ngoái vị đó ở Lê xương bệnh nặng chết đi một lúc, chư tăng đã tắm rửa thay quần áo đặt tạm trên giường và luân phiên niệm Phật. Sáng mai bỗng nhiên tỉnh lại.

Tôi hỏi: “Thầy có thấy cảnh giới gì không?”. Vị đó đáp : “Tôi thấy có một người đang đi sang sông, tôi cố ý đi theo bỗng nhiên nghe tiếng quát: Về đi, đừng qua sông nữa” Tôi giật mình mà tỉnh dậy, bấy giờ chư Tăng đang niệm Phật thấy tôi hồi dương, ai nấy đều sanh tâm hoan hỷ hỏi rằng : “Ông đã chết một ngày rồi ông có biết không?”.

Lại khi tôi ở núi Phổ đà nghe pháp sư Duy sùng ( mọi người thường gọi là Quỷ vương ) ở núi Liên hoa tỉnh Giang tây, tháng mười năm đó chết đi sáu ngày. Ban đầu để ở liêu Như ý ba ngày sau đó đưa đến lò thiêu ba ngày, vào nửa đêm thứ sáu bỗng hồi dương không ai hay biết. Sáng hôm sau các pháp sư Thông huệ… đến hỏa táng, lúc sắp châm lửa bỗng nghe tiếng nói : “Tôi chưa chết các vị đừng thiêu tôi”. Pháp sư Thông huệ thất kinh : “Quỷ vương ông đừng dọa người khác”. Duy Sùng đáp : “Sư Thông huệ tôi thật chưa chết mà không thể thiêu được” . Mọi người nhân đó bèn mở cửa lò đem về chùa điều dưỡng không bao lâu trở lại khỏe mạnh.

Bảy năm sau vào tháng sáu Duy sùng đến triều bái Phổ đà, sẵn lúc ông ta lên núi tôi tìm đến hỏi thăm. Đem chuyện đó ra hỏi ông ta đáp : “Chuyện đó hoàn toàn là có thật”. Tôi hỏi : “Ông có thấy gì không?” . Ông ta đáp: “Tôi thấy một cánh cửa lớn có rất nhiều người đi vào, tôi cũng theo họ cùng vào. Bấy giờ người giữ cửa ngăn lại không cho vào. Tôi bổng nhiên tỉnh giấc thấy rõ hai bên vai vô cùng lạnh, đưa tay sờ quanh đều thấy là ván gỗ, nhìn xuống thấy đầy than củi, mới biết mình đang ở trong lò thiêu. May nhờ chư Tăng đem về điều dưỡng mới được khỏe mạnh”.
Quan sát hai câu chuyện trên chúng ta có thể biết được, người chết trong vòng bảy ngày vẫn có thể từ Âm ty trở về. Sau nghe từ khi Duy sùng hồi dương sống thêm được mười mấy năm nữa, nếu như hỏa táng sớm ông ta có sống lại cũng không được. Việc này nên cẩn thận!

Pháp sư Thế Liễu

Vì Sao Người Chết Sau 49 Ngày Mới Đi Đầu Thai?

Vì Sao Người Chết Sau 49 Ngày Mới Đi Đầu ThaiCon người chết rồi sau khi thần thức lìa khỏi thể xác trước lúc chưa đi đầu thai, ví như người từ trong nhà bước ra ngoài nhưng chưa vào nhà khác vẫn còn ở trung gian, đây là chỉ ý nghĩa thân trung ấm. Người nào có tín sâu, nguyện thiết, tinh tấn niệm Phật khi mới chết ngay đó liền vãng sanh Tây phương, hoặc người có căn lành sâu dày thì trực chỉ sanh về cõi trời, hoặc kẻ tạo ác nghiệp nặng liền đọa vào Địa ngục Vô gián, ba hạng người này là không trải qua gian đoạn thân trung ấm. Hạng người phổ thông bình thường đã không phải cực thiện cũng không phải cực ác đều phải trải qua giai đoạn thân trung ấm. Thời gian thân trung ấm thọ sanh có nhanh chậm không đồng. Nhanh thì trong khoảng khảy móng tay liền đầu thai vào một trong sáu đạo luân hồi, chậm thì khoảng bốn mươi chín ngày hoặc hơn bốn mươi chín ngày.

Hỏi : Duyên cớ gì con người sau khi chết không đi đầu thai mà phải rơi vào giai đoạn thân trung ấm, trải qua bốn mươi chín ngày mới đi đầu thai?

Đáp : Bởi do người chết trong nhiều đời nhiều kiếp quá khứ đã tạo các nghiệp thiện ác lẫn lộn. Trong vọng tâm vô minh nghiệp thức đó, một niệm lành một niệm ác cứ sanh rồi diệt diệt rồi lại sanh khiến nghiệp thiện ác liên tục không phân định. Nếu như trụ vào nghiệp thiện, tâm này thuần thiện thì do trong tâm thiện phát hiện ra cảnh giới lành Thiên,Nhân, A tu la tâm thức này tùy theo nghiệp lành đó mà đi đầu thai. Nhưng vì, trong tâm thiện cũng có duyên thượng phẩm thiện, trung phẩm thiện, hạ phẩm thiện mới cảm thành ba cõi Thiên, Nhân, A tu la không đồng nhau.

Nếu như trụ vào nghiệp ác, tâm này thuần ác do trong tâm ác phát hiện ra ba cảnh giới ác Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, trong tâm thức này tùy theo cảnh giới ác đó mà đi đầu thai. Nhưng vì trong tâm ác cũng có duyên thượng phẩm ác, trung phẩm ác, hạ phẩm ác mới cảm thành ba cõi Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh không đồng. Nên biết, bởi có mối quan hệ tâm và cảnh tương đồng như thế,vì vậy người bà con ở trong thời gian bốn mươi chín ngày cần ăn chay niệm Phật thay hương linh tu tạo công đức, khiến người chết nương nhờ công đức đó mà tiêu trừ tội ác tăng trưởng phước lành, vãng sanh Tây phương hoặc siêu thăng trong cảnh giới Thiên đạo hay Nhân đạo.

Bằng như người bà con trong thời gian này không phát tâm ăn chay niệm Phật mà gây tạo các ác nghiệp như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, uống rượu ăn thịt như thế túc nghiệp ( nghiệp đời trước ) người chết nếu là nghiệp lành sẽ chuyển thành nghiệp ác; như túc nghiệp người chết nếu là nghiệp ác thì nghiệp ác lại thêm tăng trưởng. Nên biết nghiệp ác nếu tăng thêm sẽ thành thượng phẩm ác, nghiệp đó nhất định khiến cho người chết đọa lạc vào Địa ngục vĩnh viễn chịu vô lượng sự thống khổ.

Hỏi : Nếu kinh tế gia đình khó khăn, mà bảo họ trong thời gian bốn mươi chín ngày ăn chay niệm Phật làm mọi công đức, e rằng cuộc sống của họ khó có thể duy trì được?

Đáp : Trong tất cả mọi công đức để hồi hướng cho người chết thì công đức niệm Phật là lớn nhất, nếu như gia đình kinh tế khó khăn lúc này không cần thỉnh Tăng Ni đến làm lễ, chỉ cần toàn gia quyến phát tâm ăn chay niệm Phật là đủ. Thời gian niệm Phật, quy định sáng sớm niệm Phật xong đối trước bàn thờ người chết hồi hướng rồi dùng cơm sáng. Buổi trưa niệm Phật trước hay sau bữa cơm tùy theo công việc bản thân sao cho thích hợp mà sắp xếp. Buổi chiều sau bữa cơm mới niệm Phật, niệm xong đối trước bàn vong mà hồi hướng, mỗi ngày quy định ba thời niệm Phật ba lần hồi hướng, thời gian còn lại khi làm công việc cũng nên cố gắng mặc niệm niệm Phật.

Phương pháp niệm Phật siêu độ người chết như thế, đối với cuộc sống kinh tế gia đình sẽ không bị ảnh hưởng. Phương pháp này vừa đơn giản nhưng lại tiện lợi hoàn toàn không chướng ngại cuộc sống mà công đức rất lớn. Gia đình lại có thể bình an thanh khiết, bà con mỗi người đều được phước đức mà người chết cũng được sự lợi ích vô cùng. Đây là phương pháp thù thắng làm cho cả hai người sống lẫn kẻ chết đều được sự lợi ích không thể nghĩ bàn.

Trích Lâm Chung Những Điều Cần Biết
Tác giả: pháp sư Thế Liễu
Soạn dịch: thích Nguyên Liên

Khi Người Thân Vừa Mới Qua Đời Không Nên Khóc

Khi Người Thân Vừa Mới Qua Đời Không Nên KhócChúng ta nhất nhất không nên nghe theo những lời nói mê tín vô căn cứ của một số người thế tục, họ nói: “Người mới chết nhân lúc thân thể còn ấm xương thịt mềm mại, thời điểm này mà tắm rửa mặc quần áo là rất tốt”. Lại nói: “Người chết rồi nên dời sang chỗ khác kẻo không sẽ bị thần giường quở trách”. Lại nói: “Con cháu cần phải khóc lóc nếu không hung tin sẽ không đi hết”. Những lời nói mê tín như thế truyền tụng đến ngày nay khiến chúng ta làm tổn hại cho người chết vô lượng vô biên oan uổng thọ đại khổ não đọa lạc trong cảnh ba ác đạo Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh.

Xưa vua A kỳ đạt bình sanh tin tưởng Tam bảo đọc tiếp ➝

Niệm Phật Là Pháp Môn Dễ Hành Nhưng Thành Tựu Cao Thời Nay

Niệm Phật Là Pháp Môn Dễ Hành Nhưng Thành Tựu Cao Thời NayÐạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu, là một biện chứng giải thoát, một con đường giải thoát. Giải thoát hết phiền não, hết bát khổ, ra ngoài tam giới tức là cõi dục, cõi sắc và vô sắc. Chân lý mà Ðức Phật diễn giải rất là hiển nhiên dễ dàng, nhưng cũng rất là huyền nhiệm mênh mang. Chân lý ấy có thể thu gọn trong một chữ Tâm hay chữ Như cũng được, nhưng nếu giải ra nói suốt một kiếp cũng chưa hết.

Pháp môn của đạo Phật cũng vô lượng, và đạt đến những tam muội giải thoát cũng vô lượng. Một vị hành giả có thể ngồi trong buồng, nơi rừng vắng hoặc bãi tha ma, quán lẽ Thập Nhị Nhân Duyên, quán Ngũ Uẩn, quán Sương Khô, quán Âm Thanh, quán mùi hương, như lối chín năm quay mặt vào vách của Ðức Ðạt ma, hoặc có thể niệm một câu Nam Mô A Di Ðà Phật hay chỉ một chữ Phật cũng được.

Pháp môn tuy rất nhiều, nhưng tựu trung chỉ có hai đường: một là tu Quán dùng Thiền Ðịnh và Trí huệ Bát Nhã để soi suốt lẽ vô thường của muôn vật; hai là tu Tịnh Ðộ, níu lấy câu niệm Phật và dùng lòng sùng kính tôn thờ để đạt tới bờ giải thoát. Lối thứ nhất là dùng Tự Lực; lối thứ hai là nhờ Tha lực, tức là thần lực của chư Phật và Bồ Tát. Lối thứ nhất cũng gọi là “nan hành đạo” tức là con đường khó, còn lối thứ hai là “dị hành đạo” tức là con đường dễ đi.

Thực ra thì Thiền Tông hay Tịnh Ðộ cũng đều độc đáo, và sự khó hay dễ chỉ là do căn duyên của từng hành giả và vạn kiếp của đạo. Thời này, theo Kinh Phật, là thời mạt kiếp, căn cơ thường thấp kém, nên tu tự lực khó và tu theo lối niệm Phật thì dễ hơn.

Lối tu Tịnh Ðộ là phát xuất từ Kinh A Di Ðà, Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ Kinh. Ðiểm đặc biệt của Kinh A Di Ðà là trong kinh này, tuyệt nhiên không có một vị nào cầu Pháp cả, mà tự nhiên Ðức Phật nói ra kinh này. Tại sao vậy? Chỉ là vì trong khi vào tam muội, Ðức Phật nhìn thấy rõ ràng đến thời mạt kiếp, căn cơ chúng sinh thấp kém, lòng tin băng hoại, kinh sách mất dần, nên Ngài động lòng từ bi, tự ý nói ra một pháp môn dễ nhớ và dễ tu, vì chỉ cần nhờ một câu: A Di Ðà Phật. Ðiểm cảm động nhất trong kinh là đức Phật đã phải thè lưỡi ra thề thốt về sự hiệu lực của pháp môn này. Không những riêng Ðức Thích Ca thề mà cả chư Phật mười phương cũng thề. Tại sao vậy? Vì Ðức Phật e ngại rằng chúng sinh thấy pháp môn này giản dị quá mà hoài nghi, nên chư Phật đã thề.

Vả lại tu thiền định theo lối tự lực không, mà không kèm theo câu niệm Phật thì dễ bị ngã vì ma chướng. Xem như Kinh Lăng Nghiêm, ông A Nan đã gần tới bậc A La Hán và đa văn hạng nhất, cũng còn bị ma chướng là người kỳ nữ Ma Ðăng Già cám dỗ. Khiến Ðức Phật phải sai chính Ðức Văn Thù mang chú Lăng Nghiêm đến giải cứu. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật cũng kể rõ năm mươi món ma chướng mà người hành giả tu quán “Ngũ Uẩn Giai Không” dễ mắc phải… Cũng vì thế mà ở Trung Hoa hay Việt Nam, một thiền viện thường có “Niệm Phật Ðường”, và rất nhiều vị Thiền Sư bản lãnh cao với vẫn phải tu thêm câu niệm Phật. Vì có câu niệm Phật, mới tránh khỏi ma chướng, gột được lòng kiêu mạn và mới có thể vãng sanh sang một cõi đất lành.

Nhờ thần lực của Ðức Di Ðà, Ðức Thích Ca và Chư Phật mới được vãng sanh và đỡ bị đoạ. Người tu thiền tự lực, càng cao bao nhiêu càng dễ bị đoạ bấy nhiêu. Chỉ động một niệm tà như tự kiêu, hoặc thèm ăn, hoặc động một niệm dâm dục là có thể bị đọa. May thì trở lại làm người, không may sẽ đọa hơn nữa. Sử chép rất nhiều chuyện như vậy. Như ông Tô Ðông Pha kiếp trước là một thiền sư khá lỗi lạc, nhưng một lúc ngồi thiền chợt động niệm thanh sắc, nhớ tiếng hát của kỳ nữ, nên kiếp sau chỉ làm một thi sĩ không còn nhớ đến những chủng tử thiền của kiếp trước nữa. Ấy là đọa nhẹ.

Có một vị tiên tu thiền, trước kia trong lúc ngồi thiền, chợt nhớ đến mái tóc một vị hoàng hậu rồi lại đâm cáu giận với một con quạ kêu làm rối loạn sự thiền định của mình, mà đến kiếp sau bị đọa làm thân con phi-ly tức là con chồn, mặc dầu ông ta nhiều bản lãnh… Sở dĩ bị đọa là vì một khi vào bào thai, đến bậc La Hán hoặc sơ Bồ tát cũng vẫn bị mê muội và quên mất bản lãnh của mình. Chỉ có những bậc Bồ Tát cao và chư Phật lúc vào bào thai mới không bị mê muội mà thôi.

Thần lực của câu niệm Phật và của chư Phật có thể ví như một chiếc thuyền lớn, chở hộ cho hành giả những nghiệp sâu dày, hoặc làm tiêu tan dần nghiệp đó. Nên có thể “đới nghiệp vãng sanh”. Người tu niệm Phật cũng thường được chuyển nghiệp, chuyển nghiệp nặng ra nghiệp nhẹ. Có một vị cư sĩ suốt đời tu niệm Phật, đến lúc già bị bọn cướp vào đâm cho ông sáu nhát đao. Ông nằm hấp hối. Người anh hỏi: “Sao chú niệm Phật mà lại bị nạn này?” Cư sĩ mở mắt ra nói: “Em được chuyển nghiệp. Theo nghiệp cũ, đáng lẽ em phải đọa làm sáu kiếp súc sinh. Nay sáu nhát đao này thay cho sáu kiếp lúc sanh. Bây giờ, em sạch nghiệp rồi và em vãng sanh đây.” Nói xong thì chết.

Niệm Phật là luôn luôn xưng danh hiệu Ðức A Di Ðà và giữ trong tâm một hình bóng của Phật. Ðó cũng là một lối thiền, nhưng là thiền về hình bóng của Phật và niú lấy danh hiệu Phật làm một bóng cả để nương nhờ… Trên thực tế, người hành giả nên tu vừa thiền vừa tịnh. Một phần thiền, và phần chính yếu là tịnh. Thiền có điểm lợi là mình dễ tế nhận được “cái thấy” của tâm thức, “cái thấy” này được kinh Lăng Nghiêm giảng rất rõ. Còn phần tu tịnh thì nhờ được thần lực của chư Phật và Bồ tát…

Kẻ viết giòng này, trước kia ham đọc thiền, và ngu muội coi nhẹ câu niệm Phật, cho đó là lối tu của mấy bà già nhà quê. Nhưng rồi ngồi thiền thấy như leo vách đá, không biết níu vào đâu. Sau hiểu ra nhờ đọc cuốn Lá Thơ Tịnh Ðộ của Ngài Ấn Quang và những sách của Thượng Tọa Trí Tịnh và Thiền Tâm (đều ở lại Việt Nam, một vị ở Thủ Ðức, một vị ở Blao). Viết những giòng này để tưởng nhớ hai vị Thượng Tọa.

Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

Vấn Đề Hộ Niệm Cho Người Sắp Lâm Chung

Vấn Đề Hộ Niệm Cho Người Sắp Lâm ChungHỏi: Con nghe nói hộ niệm vãng sanh, nhứt là cho người hấp hối sắp chết, nhưng con không hiểu phải hộ niệm như thế nào mới đúng cách? Và phải làm sao cho người chết được lợi lạc vãng sanh? Kính xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy cho chúng con được hiểu rõ.

Đáp: Đây là một vấn đề rất hệ trọng đối với những người tu theo pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng sanh. Những người mà tịnh nghiệp của họ đã thuần thục, hiện đời họ đã niệm Phật chứng được niệm Phật Tam Muội, tức được nhất tâm bất loạn, Thánh cảnh hiện tiền rồi, thì việc hộ niệm không cần thiết nữa. Vì họ đã vãng sanh ngay trong hiện đời rồi. Thật ra, trong thời mạt pháp nầy, đối với hạng người nầy thật không phải dễ có. Đó phải là bậc thượng căn thượng trí mới có được.

Ngoài ra, nếu chưa được như thế, thì giờ phút sắp lâm chung, đối với việc hộ niệm hay trợ niệm là điều tối thiết yếu, thiết nghĩ, chúng ta cũng cần nên tìm hiểu thật kỹ về vấn đề nầy.

Trong khuôn khổ giới hạn của trang giấy phạm vi vấn đáp, chúng tôi không thể nào trình bày cho tận tường chi tiết hết được. Ở đây, chúng tôi chỉ xin được trình bày một cách khái yếu vấn đề mà thôi.

Đời người, khi sắp mất, hay cuối nẻo đường trần có 3 lối rẽ để đi. Một là tiến thẳng lên Thánh đạo, vãng sanh Cực Lạc tức thời, lối đi nầy chỉ dành cho những người cực thiện. Hai là lối đi vào thiện đạo và ba là lối đi vào ác đạo. Lối đi vào thiện đạo dù có được tốt đẹp ít khổ, nhưng vẫn còn quanh quẩn luân chuyển vào nhơn đạo hoặc thiên đạo. Thứ ba là lối đi vào ác đạo, đây là con đường trầm luân thọ khổ muôn kiếp, mà không một ai muốn bước chân vào. Tuy không muốn, nhưng nghiệp ác hiện đời đã gây tạo, thì phải tránh như thế nào đây? Cho nên đối với hai hạng người sau nầy, thì việc hộ niệm trong giờ phút sắp lâm chung thật vô cùng quan yếu. Nhưng phải hộ niệm như thế nào để cho người sắp lâm chung mới được lợi lạc vãng sanh? Đó là điều mà người đóng vai trò hộ niệm giúp cho những người sắp chết, thiết nghĩ, cũng cần nên biết qua.

Hai chữ hộ niệm có nghĩa là giúp cho người sắp chết có được chánh niệm. Chữ niệm nầy, có nghĩa là chánh niệm. Nói cách khác là mình giúp (hộ) cho họ nhớ (niệm) Phật, tức đồng với tâm niệm Phật, vì tâm niệm Phật là chánh nhân thành Phật. Vì muốn nhắc nhở người bệnh luôn nhớ đến Phật, mà không nhớ đến duyên trần, vì nhớ đến duyên trần là mất chánh niệm hay tịnh niệm, thì rất trở ngại cho việc vãng sanh. Do đó, mà người hộ niệm là chiếc phao nổi để người bệnh sắp chết nương vào.Vì sao? Vì lúc nầy, người bệnh tứ chi đau nhức rã rời, nếu là người bị mang chứng bệnh nan y, như ung thư chẳng hạn, thì sự hành hạ xác thân, bởi cơn đau nhức hoành hành thật là khó tả. Do đó, tâm thần của họ dễ bị tán loạn, dù cho bình thường, họ có công phu niệm Phật, nhưng vì chưa đạt đến chỗ thuần thục, nên dễ bị tán tâm. Bởi thế, nên họ rất cần người khác hộ niệm. Lúc nầy, người bệnh hoàn toàn mất hết tự chủ, tinh thần rối loạn, nghĩ nhớ lung tung, thật khó tập trung vào câu hiệu Phật. Nên người hộ niệm phải giúp cho họ tập trung tinh thần về với chánh niệm bằng cách chí thành tha thiết niệm Phật.

Hộ niệm cho người sắp lâm chung

Điều ta nên nhớ, người bệnh vừa dứt hơi thở, nhưng chưa thật chết hẳn, thần thức chưa hoàn toàn rời khỏi thể xác, ít nhứt là 2 tiếng đồng hồ, nên giờ phút nầy, vẫn còn rất cần thiết cho việc hộ niệm, niệm Phật.

Người bệnh được vãng sanh hay không, ngoài phần chánh nhân tu niệm bình nhật của họ ra, phần lớn là nhờ vào giờ phút hộ niệm nầy. Do đó, những người thân quyến hay con cháu trong gia đình, là những nhân tố chánh giúp cho người thân của mình không bị đọa lạc vào cảnh khổ. Nếu giờ phút quan trọng nầy, mà thân nhân hay bạn bè, không biết cách hộ niệm, chẳng những không niệm Phật giúp cho người thân mình có thêm chánh niệm, trái lại, còn gây thêm cho họ nhiều rối loạn, lo âu, buồn bực v.v… thì thật là tai hại nguy hiểm vô cùng. Cho nên, nếu mọi người thật sự thương thân nhân của mình, thì chỉ nên một lòng chắp tay tha thiết mà thành tâm niệm Phật.

Ngoài ra, không nên có thái độ hay lời nói gây xúc phạm đến người bệnh sắp lâm chung. Vì lúc nầy hơn bao giờ hết, người bệnh dễ hay sanh bực tức giận hờn.

Cách hay nhất trong giờ phút nầy, nên cần có ít nhất là một người biết cách trợ niệm, để giúp đỡ chỉ bảo mọi việc cho thân nhân và bạn bè. Người nầy rất là cần thiết. Vì thân nhân của người sắp chết, ai nấy đều tỏ ra rất bối rối lo buồn, nên không còn đủ bình tĩnh để lo trợ niệm giúp đỡ cho bệnh nhơn.

Thế nên, theo kinh nghiệm của chúng tôi, thì phải có người thông hiểu mọi việc hộ niệm túc trực bên cạnh bệnh nhơn, vừa nhắc nhở bệnh nhơn niệm Phật, vừa khuyên nhủ thức nhắc bằng những lời pháp ngữ cảnh tỉnh, để bệnh nhơn tăng thêm đạo lực tín tâm và dễ được định tâm niệm Phật hơn. Bởi vậy, những người hộ niệm nầy, phải được thay phiên nhau niệm Phật liên tục, tùy hoàn cảnh mà khéo léo dùng chước phương tiện để giúp cho bệnh nhơn và trong thân quyến. Điều nầy, thật rất là cần thiết quan trọng. Người hộ niệm phải có tấm lòng bi cảm và hòa ái nhẫn nại đối với bệnh nhơn. Đó là thể hiện lòng từ bi vị tha nhân ái cao cả của Bồ tát Quán Thế Âm.

Tóm lại, muốn cho việc hộ niệm vãng sanh đạt được kết quả cao, theo thiển nghĩ của chúng tôi, cần phải hội đủ những điều kiện cần thiết để thực hiện qua 3 yếu tố quan trọng như sau:

I. Người hộ niệm
II. Bệnh nhơn.
III. Thân bằng quyến thuộc.

I. Người hộ niệm.

Đối với người hộ niệm đóng một vai trò chủ chốt rất quan trọng trong việc hộ niệm, nên cần phải thông hiểu về việc hộ niệm nầy. Sau đây là những điều mà người hộ niệm cần biết:

1. Nên khuyên bảo thân quyến và sắp xếp mọi việc cần thiết trong lúc hộ niệm cho người bệnh hấp hối sắp lâm chung. Tối kỵ nhứt là gây xáo trộn khóc than trong giờ phút nầy. Những ai không dằn lòng được xúc động, thì tốt hơn hết là nên mời họ bước ra ngoài, đừng để bệnh nhơn nghe tiếng khóc than.

2. Thái độ và cung cách, nhứt là lời nói đối với người bệnh phải hiền hòa dịu ngọt, nên khuyến nhắc người bệnh nhớ niệm Phật và cần gợi lại những công hạnh mà người bệnh đã thực hiện.

3. Ngoài việc niệm Phật và khuyến nhắc bệnh nhơn ra, tuyệt đối không được nói lời gì khác, mà gây cho bệnh nhơn không vui dễ mất tín tâm và tán loạn.

4. Tùy trường hợp, hoàn cảnh nơi bệnh nhơn nằm, mà linh động niệm Phật to tiếng hoặc nhỏ tiếng, tốt hơn hết là chỉ niệm Phật cho bệnh nhơn vừa đủ nghe, không nhỏ quá và cũng không nên lớn tiếng quá. Theo kinh nghiệm cho biết, lúc nầy, càng niệm lớn tiếng, bệnh nhơn càng không nghe rõ. Tốt hơn hết, là nên niệm vừa đủ cho bệnh nhơn nghe thôi. Và khi niệm, phải niệm đủ 6 chữ : Nam Mô A Di Đà Phật. Phải niệm chậm rãi và từng chữ cho thật rõ ràng.

5. Phải thay phiên nhau niệm Phật liên tục không cho gián đoạn, cần khuyến khích thân nhân cùng thay phiên nhau niệm Phật. Trong phòng bệnh, ngoài tiếng niệm Phật ra, tuyệt đối phải giữ yên lặng, không được nói chuyện ồn ào làm loạn tâm bệnh nhơn vô ích.

6. Khi người bệnh đã thật sự tắt thở, cứ để như vậy mà chí thành niệm Phật liên tục, không nên sửa làm động đậy bệnh nhơn, ít nhứt là 2 tiếng đồng hồ. Điều nầy rất quan trọng, chúng ta cần phải lưu ý. Vì khi bệnh nhơn mới tắt thở, thần thức chưa rời khỏi xác thân. Nên rất cẩn trọng quan tâm về vấn đề nầy. Còn nhiều chi tiết khác, nhưng ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu ra 6 điều quan trọng mà người hộ niệm cần ghi nhớ trong khi hộ niệm mà thôi.

II. Bệnh nhân.

Người bệnh là yếu nhân chính trong việc quyết định cuộc đời mình. Đây là giờ phút quan trọng để mình quyết định cho sự chọn lựa. Nếu là một liên hữu đã phát nguyện niệm Phật cầu vãng sanh, thì trong lúc bệnh nặng, nên buông bỏ tất cả duyên trần, không bận tâm với bất cứ vấn đề gì, nhứt là đối với việc gia đình nhà cửa con cháu v.v… Không ai thương mình bằng chính mình thương mình. Trước giờ phút phân ly đôi ngã, dù đó là người thân yêu nhứt đời mình, họ cũng không thể nào thay thế được gì cho mình.

Hộ niệm cho người sắp lâm chung

Trong nỗi niềm cô đơn tuyệt vọng, cái chết gần kề với mình, thì thử hỏi mình còn tham đắm luyến tiếc thứ gì nữa chớ! Nghĩ thế, mình nên dốc hết tâm lực còn chút hơi tàn mà quyết lòng niệm Phật cầu sanh Tây phương, theo bản nguyện sanh tiền của mình đã phát nguyện. Nên nhớ đến lời khuyên dạy chí tình chí thiết của Hòa Thượng Thiện Đạo, vị Tổ thứ hai của Liên Tông. Ngài thường khuyên dạy cho những người tu Tịnh độ, niệm Phật như sau: “Người niệm Phật khi sắp mãn phần, muốn được sanh về Tịnh độ, thì điểm cần yếu là đừng sợ chết. Phải thường nghĩ thân nầy nhơ nhớp, biết bao điều khổ lụy trói vây! Nếu bỏ được thân huyễn hôi nhơ, sanh về Cực Lạc thọ thân kim cương thanh tịnh, sẽ thoát khỏi luân hồi khổ thú, hưởng vô sự an vui. Ví như bỏ chiếc áo cũ rách đổi lấy đồ trân phục, còn điều chi đáng thích ý bằng! Nghĩ như thế, buông hẳn thân tâm không còn lo buồn tham luyến. Lúc vừa có bệnh, liền tưởng đến sự vô thường, một lòng niệm Phật chờ chết. Nên dặn thân thuộc chớ lộ vẻ bi thương, cùng bàn việc hay dở trong nhà. Nếu có ai đến thăm, chỉ khuyên nên vì mình niệm Phật, đừng hỏi thăm chi khác…”.

Đó là chúng tôi trích dẫn một đoạn khuyến nhắc của Ngài, để chúng ta nhớ đến mà hết lòng niệm Phật. Nên biết, Tổ Thiện Đạo là hóa thân của đức Phật A Di Đà. Lời Ngài dạy thật là thiết tha bi mẫn. Đây là lời khuyên chung của Tổ, không nhứt thiết là chỉ có liên hữu không thôi. Nếu ai nghe theo lời khuyên dạy nầy của Ngài, mà thật tâm tha thiết hành trì, dốc lòng niệm Phật, thì cũng được lợi lạc vãng sanh về Cực Lạc.

Xin tất cả hãy nghĩ đến tương lai sướng hay khổ của đời mình mà tự mình phải cố gắng buông bỏ tất cả, chỉ có một con đường trước mắt là niệm Phật cầu vãng sanh về Cực Lạc mà thôi. Hãy nhớ đến bản nguyện của đức Từ Phụ A Di Đà lúc nào Ngài cũng sẵn sàng chờ đón chúng ta. Đó là trọng tâm chính yếu mà người bệnh sắp lâm chung cần ghi nhớ thực hành để được lợi lạc cho chính mình.

III. Thân bằng quyến thuộc.

Việc hộ niệm người bệnh được vãng sanh hay không, những người trong thân quyến đóng vai trò không kém phần quan trọng. Nếu thật sự thương thân nhân của mình trong giờ phút quyết định cuộc đời vui hay khổ nầy, y cứ theo lời chư Phật Tổ chỉ dạy, chúng tôi xin thành thật có đôi lời khuyến nhắc chung qua một vài điều thiết yếu sau đây:

1. Phải tỏ thái độ có lòng thương kính từ ái và tuyệt đối không được dùng lời nói mất hòa khí trong gia đình. Tuyệt đối, không nên đem việc nhà ra bàn luận. Nếu để cho người bệnh biết được những sự việc không hay xảy ra, thì sẽ gây tác hại lớn cho việc vãng sanh, vì người bệnh sẽ phiền muộn, tham, sân, si nổi lên dễ sa vào ác đạo như tên bắn.

2. Phải làm và nghe theo sự thức nhắc, sắp xếp của người có trách nhiệm hộ niệm cho thân nhân của mình. Những người nầy, họ vì thân nhân của mình mà hết lòng hộ niệm, nên chúng ta cần tôn trọng những lời chỉ bảo của họ.

3. Không nên kêu khóc lớn tiếng và kể lễ bất cứ điều gì, chỉ một bề niệm Phật. Phải gắng dằn lòng xúc động trong giờ phút nầy. Nên nhớ đây là yếu tố quan trọng mà người mới lâm chung có được vãng sanh hay không, đều tùy thuộc vào thân quyến.

4. Tất cả nên vì người mất mà phải thành tâm niệm Phật, tụng kinh cầu siêu suốt trong thời gian từ khi mất cho đến trải qua 49 ngày.

5. Trong thời gian cư tang, nên tu tạo nhiều phước lành để hồi hướng cho người quá cố sớm được siêu sanh thoát hóa.

Riêng đối với thân hữu bạn bè, chúng ta cũng nên quan tâm lưu ý. Tục ngữ ta có câu: “một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”. Hay “nhứt gia hữu sự bá gia ưu”. Nghĩa là: một nhà có việc trăm nhà đều quan tâm lo lắng giúp đỡ. Vì thế, nên khi hay tin người bạn thân của mình bệnh nặng, thì bạn bè thường hay đến thăm. Đến thăm là vì nghĩ tình thương bạn. Do đó, nếu thật thương người bạn mình trong giờ phút quan trọng nầy, thì chỉ nên hiệp lực cùng với những người khác mà đồng tâm niệm Phật. Nếu không quen niệm, thì chúng ta cũng không nên nói những chuyện gì khác. Vì như thế, chỉ làm cho người bạn của mình đang nằm chờ chết càng thêm rối loạn tinh thần mà thôi, chớ không có ích lợi gì.

Thế nên, nếu thật sự thương bạn mình, thì chúng ta chỉ nên giữ yên lặng là tốt lắm rồi. Được thế, thì chẳng những người bệnh được lợi ích mà những thân quyến của người bệnh cũng mang ơn chúng ta rất nhiều. Xin tất cả hãy quan tâm cho vấn đề nầy. Đừng vì thói quen tình cảm của mình mà gây tác hại cho người bệnh, đang cần đến sự trợ niệm thiết thực của chúng ta. Nếu không như thế, thì rất tội nghiệp cho người bạn của chúng ta lắm! Họ đang khao khát cần sự giúp đỡ của chúng ta, như người sắp chết đuối mong chúng ta cứu vớt họ vậy. Mong lắm thay!

Tỳ kheo Thích Phước Thái

Tham khảo thêm: Hộ Niệm Cho Người Lâm Chung Là Gì? [Đại đức giảng sư: Thích Đức Hiền]