Phật tử Trương Biết sau khi biết mình mắc bệnh hiểm nghèo, anh đã bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu thêm các kinh sách về Phật với mong cầu có được sự an ổn về tinh thần. Nhân duyên đưa đến, gặp được thiện trí thức và nghe lời giảng của pháp sư Tịnh Không anh đã phát nguyện niệm Phật mỗi ngày 20 ngàn câu và tăng lên thêm trong những lúc anh cảm thấy khỏe hơn. Cộng thêm sự trợ duyên của Ban Hộ Niệm anh càng tinh tấn niệm Phật.
Điều đáng lưu ý trong thời gian hộ niệm là khoảng 60 phút trước khi vãng sanh, mắt anh trở nên sáng long lanh lạ thường, khuôn mặt tỏ ra vô cùng hoan hỉ và an lạc, nụ cười nở lớn trên môi khi anh thấy Phật A Di Đà đến thọ ký. Anh cười mãn nguyện và chỉ biết nói lời chào tạm biệt lần cuối với mọi người. Từ đấy về sau anh niệm Phật cùng đại chúng tới giây phút cuối cùng, nỗi đau về thể xác dường như không còn nữa. Nếu xem kỹ phim chúng ta có thể thấy những điểm sáng lấm tấm nhỏ bay trong không trung xen lẫn những ánh sáng lạ xung quanh anh, đó chính là Phật quang chiếu đến giúp tâm anh không điên đảo, thân không đau đớn để niệm Phật đến hơi thở cuối cùng.
Cụ Đào Thị Hoà* mất khoảng 13h, đáng lẽ trợ niệm đến 1h sáng hôm sau, nhưng việc trợ niệm đã kết thúc sớm hơn.
Cụ đã được các Phật tử gần nhà, cũng thường đi trợ niệm đến khai thị, cùng niệm Phật từ 5 ngày trước khi mất. Buổi sáng 16/3/2010, các bà, các bác Phật tử có đến trợ niệm. Đến buổi trưa, sau khi các Phật tử đi ăn cơm, thì cũng là lúc cụ Hòa tắt thở. Gia đình nghe hàng xóm nói, bí mật cho gạo và tiền vào mồm cụ, sau đó mới báo cho đoàn trợ niệm. Oan gia trái chủ ân oán nhiều đời!
Đoàn trợ niệm đến, không biết việc làm của gia đình, vẫn tiến hành công việc trợ niệm như bình thường. Đến 21h30′, sau hơn 8h từ khi tắt thở, cư sĩ Ngọc Bình kiểm tra thăm dò thoại tướng, thì thấy điểm ấm ở bụng, còn chân tay cụ cứng! Trên cổ cụ, sau lớp áo thấy kiến bò lên. Cư sĩ Ngọc Bình đã gọi người nhà vào trong phòng, đóng cửa lại hỏi mọi người trong gia đình. Khi này người nhà mới nói thật về việc làm của mình, không dám nói cho đoàn trợ niệm biết, vì sợ đoàn không trợ niệm cho cụ Hòa, vì điều này đã vi phạm nguyên tắc trợ niệm. Một khi đã đụng đến thân xác thì khả năng trợ niệm thành công rất khó!
Cư sĩ Ngọc Bình khuyên từng người trong nhà quỳ sám hối trước thân xác cụ Hòa: Vì con không biết, con đã nỡ làm cho mẹ đau, xin mẹ hãy tha thứ cho con và hãy niệm Phật cầu vãng sanh. Đồng thời cư sĩ Ngọc Bình cũng khai thị thêm cho cụ để giúp cụ buông xả.
Việc trợ niệm tiến hành ở phòng cụ Hòa nằm ở tầng 2, và dự kiến sẽ kéo dài đến sáng do việc kiểm tra thoại tướng thấy kết quả như vậy. Chư vị đồng tu đến trợ niệm rất đông, không có chỗ ngồi. Một nửa đoàn ngồi nghỉ ở tầng 1, đợi thay phiên các cụ, các bà đang trợ niệm. Lúc này, đoàn quyết định lập thêm một bàn thờ Phật ở tầng 1, để chư vị đồng tu niệm Phật, lạy Phật, hồi hướng cho cụ Hòa.
Đến 22h15′, khi kiểm tra thăm dò thoại tướng lần 2, đã thấy điểm ấm chuyển lên đỉnh đầu, chân tay mềm mại. Đoàn trợ niệm rất mừng, quyết định sẽ kết thúc sớm. Ngay sau đó, đoàn làm nghi thức tụng chú Vãng Sanh, chia sẻ với gia đình rồi chính thức mời gia đình chúng kiến và kiểm tra thoại tướng. Cụ có thoại tướng của người vãng sanh: thân thể mềm; bụng, ngực và các phần khác trên cơ thể đều lạnh, ấm ở đỉnh đầu. Việc trợ niệm kết thúc lúc gần 23h.
Như vậy, chỉ sau 1 tiếng đồng hồ, đã có sự chuyển biến rõ rệt, từ thoại tướng của người đọa ngã quỷ chuyển sang thoại tướng của người được vãng sanh. Đây là do nhân duyên nhiều đời cũng như trước khi mất của cụ Hoan, sự cố gắng của chư vị đồng tu cùng gia đình!
*Cụ Đào Thị Hoà, pháp danh Diệu Bình, hưởng dương 91 tuổi, vãng sanh 14h chiều ngày 16/03/2010, tại số 6 ngõ 89 Thái Hà, Hà Nội.
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
Phóng sinh có những công đức gì?
Công đức phóng sinh rộng lớn vô biên, không thể tính đếm. Nay xin nói đại lược như sau:
1. Không có nạn đao binh, tránh được tai họa chiến tranh tàn sát.
2. Sống lâu, mạnh khỏe, ít bệnh tật.
3. Tránh được thiên tai, dịch họa, không gặp các tai nạn.
4. Con cháu đông đúc, đời đời xương thạnh, nối dõi không ngừng.
5. Chỗ mong cầu được toại nguyện.
6. Công việc làm ăn phát triển, hưng thạnh, gặp nhiều thuận lợi.
7. Hợp lòng trời, thuận tánh Phật, loài vật cảm ơn, chư Phật hoan hỷ.
8. Giải trừ oán hận, các điều ác tiêu diệt, không lo buồn, sầu não.
9. Vui hưởng an lành, quanh năm đều được an ổn.
10. Tái sinh về cõi trời, hưởng phước vô cùng. Nếu có tu Tịnh độ thì được vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc.
Trong kinh Hoa nghiêm, phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện dạy rằng: “Chúng sinh thương yêu nhất là sinh mạng, chư Phật thương yêu nhất là chúng sinh. Cứu được thân mạng chúng sinh thì thành tựu được tâm nguyện của chư Phật.”
Sau khi phóng sinh, tự mình có những thay đổi gì?
Phóng sinh có thể nuôi dưỡng lòng từ bi của chúng ta. Trong khi thực hiện việc phóng sinh, chúng ta nhân đó có thể thấu hiểu được chân lý vạn vật đều bình đẳng, đều có cảm giác, đều có tánh Phật, đều có thể thành Phật. Nhờ đó, chúng ta có thể khởi tâm từ bi với hết thảy chúng sinh, lại còn tôn trọng trân quí. Tiến thêm một bước nữa, trong cuộc sống hằng ngày có thể thực hiện việc giới sát, ăn chay, cứu giúp sinh mạng muôn loài; các điều ác không làm, các điều thiện cố gắng làm; khởi tâm từ bi đối với tất cả muôn loài trên thế gian.
Vấn đề then chốt nhất, quan trọng nhất của cả một kiếp người đó là vấn đề trang bị cho cận tử nghiệp, đó là cái nghiệp cận kề lúc sắp trút hơi thở cuối cùng, bởi cận tử nghiệp là cái nghiệp thúc đẩy chúng ta đi vào cảnh giới tốt hay xấu ở kiếp gần nhất. Vì lẽ đó chúng ta phải trang bị cho mình cận tử nghiệp tốt. Cận tử nghiệp trong nhà Phật có 2 loại đó là cận tử nghiệp thiện và cận tử nghiệp ác.
Cận tử nghiệp ác: Nếu người sắp chết mà khởi tâm ác, liền bị chuyển cả sự tu hành hay công đức trước đó của mình mà tái sinh vào cõi không tốt. đọc tiếp ➝
Các Phúc Đáp Gần Đây