Những Hình Ảnh Cảm Động Chứng Tỏ Loài Vật Cũng Có Cảm Xúc

Những Hình Ảnh Cảm Động Chứng Tỏ Loài Vật Cũng Có Cảm XúcKhi một người gặp tai nạn, người khác vội vàng đến giúp đỡ. Vậy tại sao khi loài vật gần gũi nhất với con người gặp nạn, chẳng ai chạnh lòng đến cứu chúng? Ôi, từ bi tâm của chúng ta ở nơi đâu?

Tình bạn cảm động của hai chú chó

Trên con đường đông đúc xe cộ, một con chó không ngừng lay bạn của nó đang nằm bất động rồi chạy quanh cầu cứu mọi người giúp đỡ. Con chó bị xe đâm nằm bẹp giữa đường. Một con khác trông rất buồn thảm, dùng mõm và chân lay liên tục mong bạn nó hồi tỉnh. Sau đó, nó chạy quanh ngỏng cổ lên cầu khẩn người qua đường giúp đỡ. đọc tiếp ➝

Vì Sao Có Cách Niệm A Mi Đà Phật?

Vì Sao Có Cách Niệm A Mi Đà Phật?Sáu chữ hồng danh đây nguyên là Phạn âm (tiếng Thiên Trúc). Hai chữ đầu (Nam Mô) nguyên âm là Namo, ta quen đọc liền vần Nam mô, là lời tỏ lòng thành kính, có nghĩa là Quy y (về nương) và Quy mạng (đem thân mạng gởi về).

Chữ thứ sáu (Phật) nguyên âm là Buddha (Bụt Đa hay Bụt Thô), ta quen đọc gọn là Phật, chỉ cho đấng hoàn toàn giác ngộ (Đấng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

Ba chữ giữa (A Mi Đà) là biệt danh của đấng Cực Lạc giáo chủ, dịch nghĩa là Vô Lượng (Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ) Như trong kinh, đức Bổn Sư tự giải thích rằng: “Đức Phật ấy, quang minh vô lượng, soi suốt các cõi nước ở mười phương không bị cách ngại. Đức Phật ấy và nhơn dân trong nước của Ngài thọ mạng vô lượng vô biên vô số kiếp “.

Trong Quán Kinh nói : “ Nếu người chí tâm xưng danh hiệu của Đức Phật đây, thời trong mỗi niệm diệt được tội sanh tử trong 80 ức kiếp và được vãng sanh …”

Trong Kinh Chư Phật Hộ Niệm nói: “Nếu người nghe danh hiệu của Đức Phật đây mà chấp trì trong một ngày đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn thời được thành tựu nhiều thiện căn phước đức. Đức Phật ấy và Thánh chúng sẽ hiện đến nghênh tiếp… “

Kinh Văn Thù Bát Nhã nói: “Nếu người chuyên xưng danh hiệu thời đặng chứng Nhất Hạnh Tam muội và chóng thành Phật…”.

Xem như lời của Đức Bổn Sư Thích Ca, đấng chân thật ngữ phán trên đây, thời thấy rằng ba tiếng hồng danh của đức Giáo chủ Cực Lạc có những năng lực bất khả tư nghị. Muốn được kết quả to tát như lời trong kinh, hành nhơn phải chí tâm xưng niệm, và phải xưng niệm đúng âm vận, chớ không nên như người Pháp goi Chợ Lớn là Sôlông, hay Bà Rịa là Baria.

Ba chữ A- mi- Đà nguyên là Phạn âm. Người Tàu đọc là A- mi- thô, và họ tụng xuôi là Á- mi -Thồ. Danh hiệu ấy truyền qua xứ Việt ta bằng chữ Tàu, biên sẵn trong các pho kinh sách Tàu. Người Việt ta cứ theo lệ phổ thông, chữ đâu đọc đó nên đọc là A-di-đà. Như đọc Nã Phá Luân để kêu Hoàng đế Napoleon (Na-po-lê-ông), cùng đọc Ba-Lê để kêu kinh đô Paris (Pari).

Với sự phiên âm bằng chữ Tàu, người Tàu đọc giống gần với nguyên âm, mà người Việt ta đọc sai quá xa. Giá như ta gặp hoàng đế Pháp mà gọi ông ta là Nã Phá Luân thời thật là đáng buồn cười. Với A-di-đà để gọi đức Giáo chủ Cực Lạc cũng theo lệ đó.

Nhiều năm về trước, trong thời gian niệm Phật theo thông lệ Nam Mô A Di Đà Phật, khi chuyên nhiệm nhiều (mỗi ngày từ hai vạn câu trở lên), tôi bị sự chướng là trệ tiếng trong lúc niệm ra tiếng và lờ mờ trong lúc niệm thầm. Giữa lúc đó tiếng “Di” là chủ của sự chướng. Vì thế, tôi mới để ý đến chính âm vận của sáu tiếng hồng danh. Đồng thời lời của Tổ Vân Thê trong sớ sao nói: “Hồng danh Nammô A-mi-đà Phật toàn là tiếng Phạn, chuyên trì không quên, thời cùng với pháp trì chú của Mật tông đồng nhau”, lại thúc đẩy tôi vào sự khảo cứu.

Với vần La Tinh, người Anh ghép Amita, mà tôi được thấy ở bộ Phật Học Đại Tự Điển.

Tôi đem ba chữ A-mi-đà ra hỏi, thời các Sư Tàu cũng như Cư sĩ Tàu đều đọc gằn từng tiếng một trước mặt tôi : A-mi-thô.

Hai tiếng đầu “A”và “Mi” đã nhất định, và đồng thời quyết chắc đọc “di” là sai. Tôi còn thắc mắc ở tiếng thứ ba, vì nếu dọc Amita như vần Anh, cùng A-mi-thô như người Tàu thời với tiếng Việt có hai điều bất tiện:

1. Nghe không nghiêm và không êm.

2. Khác với thông lệ từ xưa.

Một học giả Bali và Phạn ngữ giải thích: chữ “đà” của tàu dùng phiên âm Phạn ngữ có hai giọng:

1. Thô như danh từ “Bụt Thô” mà người tàu đọc xuôi là “Bù Thồ”.

2. Đa cũng như danh từ “Bụt Đa” (Buddha)

Với giọng “đa” để đọc chữ “thô”, nó mở đường cho tôi ghép 3 chữ lại: A-mi-đa và theo cách đọc xuôi đánh dấu huyền: A-mi-đà.

Ghép luôn cả sáu tiếng nam mô A-mi-đà Phật, tôi nhận thấy rằng tránh khỏi cái lỗi quá khác với nguyên Âm, dù vẫn chưa được hoàn toàn, nhưng có thể gọi là nhiều phần đúng và không quá cách biệt với cách đọc phổ thông theo cổ lệ, vì trong sáu tiếng đây chỉ có đổi “di” thành “mi” mà thôi.

Sau khi tham cứu như trên xong, tôi bắt đầu chuyên chí niệm Nammô A-mi-đà Phật, và cũng bắt đầu từ đó tôi liền nhận được kết quả.

1. Sáu tiếng hồng danh đây nổi rõ nơi tai cũng như nơi tâm, khác hẳn sự mờ mờ lọt sót của tiếng “di” trong thời trước.

2. Khi niệm ra tiếng, từ năm ngàn câu mỗi thời trở lên, môi lưỡi càng lúc càng nhại, càng chuyên, càng lanh. Khác hẳn sự trệ môi cứng lưỡi của những ngày niệm khi xưa.

3. Niệm ra tiếng với A-mi khỏe hơi hơn niệm ra tiếng của A-di khi trước, nhờ vậy mà mỗi thời niệm được lâu và nhiều.

Người chuyên niệm danh hiệu của Phật, tầng cấp đầu tiên là đến mức bất niệm tự niệm, hay niệm lực tương tục. Nếu khi niệm mà bị trệ, và tiếng Phật lại lờ mờ không nổi rõ nơi tâm thời khó mong được kết quả trên. Còn nếu trái lại thời mới có hy vọng đến đích.

Biết rằng niệm A-mi-đà được nhiều phần đúng với nguyên âm, nó sẽ đem đến cho mình cái mãnh lực bất tư nghì, diệt vô số kiếp tội thành đại thiện căn phước đức giống như pháp trì chơn ngôn (thần chú) của Mật tông mà Tổ Vân Thê đã phán. Nó sẽ đưa mình đến mức bất niệm tự niệm, vì tiếng niệm không bị trệ lụt và nổi rõ nơi tâm. Nhất là niệm A-mi-đà được khỏe hơi, nhờ đó nên được niệm lâu và nhiều. Niệm Phật được thuần thục là nhờ niệm nhiều câu, nhiều giờ và tiếng niệm nhấn rõ nơi tâm. Và mức bất niệm tự niệm đây là phần bảo đảm vãng sanh Tịnh Độ cho người chuyên niệm. Tôi tin rằng niệm gần với nguyên âm, tức là gần đúng với thật danh của Đức Giáo chủ Cực Lạc, tất dễ được tương ưng và chóng được cảm thông với Phật. Và tôi đã tự cảm thấy có lẽ đúng như thế.

Nhưng trong kỳ kiết thất 49 ngày ở tịnh thất nơi chùa Linh Sơn Cổ Tự, một hôm tôi bỗng có ý nghĩ: “Mình dù thiển trí bạc đức, song cũng là người tai mắt trong Tăng giới, và cũng có đôi phần uy tín đối với gần xa, riêng mình tự tu đã đành không ngại gì, song rồi đây, tất có người tin tưởng nơi mình, mà họ sẽ tự noi theo chỗ làm của mình, nghĩa là họ sẽ niệm Nam mô A-mi-đà Phật. Một người như thế, lần lần sẽ có nhiều người như thế, tất sau này khó khỏi đôi điều thắc mắc:

1. Bàn quan sẽ cho mình lập dị, riêng phái, phá sự đã phổ thông của cổ lệ.

2. Đem sự ngờ vực cho người đã niệm A-di khi những người này chưa hiểu thế nào là A-di và thế nào là A-mi. Và sự ngờ là điều rất chướng của pháp môn niệm Phật

Tôi tự giải thích: “ Cổ lệ đã sai thời sự sửa đổi là điều cần (tôi tự sửa đổi riêng tôi). Mình không có quan niệm lập phái riêng hay lập dị, thời cũng không ngại gì với chuyên thị phi phê bình của bàn quan”. Và với sự ngờ của những người chưa nhận chơn, sẽ giúp họ tìm tòi khảo cứu, nhờ tìm xét họ sẽ thấu rõ sự sai với đúng, và họ sẽ thâu hoạch được kết quả tốt cũng như mình.

Mặc dù tôi tự giải thích với tôi như thế, nhưng trong thâm tâm vẫn mãi băn khoăn gần suốt ngày.

Chiều hôm ấy, khi đứng dựa cửa sổ ngó mong về phía mặt trời sắp lặn, tôi bỗng thấy chữ A-mi nổi bật giữa khung trời xanh sáng, gần như chữ điện ở trước cửa của những hiệu buôn chiếu sáng trong đêm. Tôi thử ngó qua hướng khác thời không thấy, khi ngó trở lại hướng Tây thời chữ A-mi vẫn nổi y nơi chỗ cũ, khổ chữ lớn lối bốn tất Tây bề cao, và hiện mãi đến trên 30 phút mới ẩn..

Tối hôm ấy, tôi chiêm bao thấy mình đi vào một khu vườn cây cao cảnh đẹp. Giữa vườn, một dãy nhà cất theo kiểu trường học, và nghe rõ trong ấy một người xướng và số đông người hòa: Nam mô A-mi-đà Phật! Tôi tự bảo: “Ủa lạ! Câu Nammô A-mi-đà Phật tưởng là chỉ của riêng mình cải cách, riêng mình tín hướng và riêng mình chuyên niệm. Bất ngờ ở đây, người ta cũng đồng niệm như vậy rồi”. Tôi đứng dừng trước ngõ trường chăm chú nghe xướng hòa như thế hơn 10 lần mới choàng tỉnh. Bấy giờ mới biết là mình nằm mơ.

Do hai điềm trên đây (chữ A-mi hiện giữa trời và chiêm bao nghe xướng hòa nam mô A-mi-đà Phật), bao nhiêu nổi thắc mắc và băn khoăn nơi lòng tôi đều tan rã như khối tuyết dưới ánh nắng trưa hè…

Từ hồi nào, dù với hàng đệ tử, tôi chưa từng bảo ai bỏ niệm A-di mà niệm A-mi. Song, do ảnh hưởng ngấm ngầm mà lần lần có một số đông người xuất gia cũng như hàng tại gia niệm A-mi-đà. Đó phải chăng là do cơ duyên thời tiết nó nên như thế! Và cũng vì cớ ấy mà hôm nay có bài thuyết minh và tự thuật này.

Tôi viết bài này chỉ với mục đích giúp thêm sự nhận chơn về câu Nammô A-mi-đà Phật cùng lịch sử của nó, cho các bạn đồng tu đã chuyên niệm như thế. Và bài này cũng chỉ truyền bá trong phạm vi các bạn đây thôi.

Tôi xin khuyên nhắc các bạn, đối với những vị đã quen niệm hay đã sẵn tín tâm nơi câu Nam mô A-di-đà Phật, nhất là người ở trong hoàn cảnh thiếu tiện lợi, các vị nên để yên cho các vị ấy niệm theo sự phổ thông cổ lệ để tránh sự ngoại chướng cho họ và cho họ khỏi sự do dự trên đường hành trì mà họ có thể vướng phải.

Cố hòa thượng Thích Trí Tịnh

Sự Thật Cụ Quả Thảo Vãng Sanh Về Đâu?

Sự Thật Cụ Quả Thảo Vãng Sanh Về ĐâuĐây là cuộc tiếp xúc với cô Quả Lạng, là con gái của bà cụ Quả Thảo. Bà tên Phạm Thị Cúc, pháp danh Quả Thảo, cư ngụ tại San Jose, CA, USA vãng sanh lúc 4 giờ 10 phút sáng ngày 28 tháng 12 năm 2003 âm lịch, hưởng thọ được 83 tuổi.

Bà Quả Thảo rất mạnh khỏe, ít có bệnh. Đến một ngày nọ, bà cảm thấy đau ở ngực. Các con đưa bà đi bác sĩ. Bác sĩ cho biết bà bị ung thư gan đợt cuối, bà sẽ không sống được bao lâu. Gia đình con cái đều giấu không cho bà biết, nên bà tưởng bệnh nhẹ thôi. Đến hai tuần sau, bà bị đau nặng, các con đưa bà vào nhà thương. Sau đó bốn ngày thì bà vãng sanh. đọc tiếp ➝

Phá Nghi Về Pháp Môn Tịnh Độ (Tịnh Độ Nghi Biện)

Phá Nghi Về Pháp Môn Tịnh Độ (Tịnh Độ Nghi Biện)Khách hỏi: Pháp môn Tịnh độ chỉ chuyên sự tướng, người trí Tuệ y Thiền tông Tu tập một niệm liễu ngộ, liền siêu “thập địa”, sao lại riêng tán dương Tịnh độ? Há đó chẳng phải là trước tướng, không hiểu rõ lý tánh sao?

Liên Trì Đại Sư đáp: “Quy nguyên vốn không hai, phương tiện có nhiều cửa.” Hiểu được ý này thì Thiền tông và Tịnh độ, tông tuy khác nẻo mà đồng quy. Nay ông đã có lòng nghi, tôi sẽ vì ông giải thích.

Pháp môn Tịnh độ từ xưa đến nay, Thánh hiền nối nhau xiển dương không phải một. Ngài Trung Phong đại sư dạy: “Thiền tức là Tịnh độ, Tịnh độ chính là Thiền. Tuy nhiên, khi Tu tập điều thiết yếu, y một môn thâm nhập.” Lời này dù ngàn đời vẫn không thay đổi.

Ngài Đại Thế Chí Bồ-tát khi Tu nhân, chứng niệm Phật tam muội dạy rằng: “Dùng tâm niệm Phật mà chứng vô sanh.” Phổ Hiền Bồ-tát nhập Hoa Nghiêm Bất khả tư nghì cảnh giới nói: “Nguyện con lâm chung, vãng sanh An Dưỡng.” Hai vị đại sĩ, một làm thị giả Đức Thích Ca ở cõi Ta-bà, một làm thị giả đấng từ phụ cõi Liên Bang. Mỗi vị các cứ mỗi phương, nhưng đồng giáo hoá chúng sanh quy về An Dưỡng. Mỗi người lập một chí mà vẫn hằng dung thông, chưa từng chướng ngại, đó là tùy căn cơ sở thích Tu tập, há là thiên chấp hay sao?

Ông nói: “Niệm Phật là chấp tướng” Vậy lẽ nào Phật tổ các Ngài không biết “Tịnh tâm tức là Tịnh độ.” hay sao lại nói thất bảo thế giới làm gì? Cũng như nói: “Thiện tâm tức là thiên đường” sao còn trời Dạ Ma, Đao Lợi. Ác tâm tức địa ngục, sao còn đao kiếm, chảo dầu sôi? Tâm ngu si tức súc sanh, sao còn thêm đeo lông đội sừng? Nay ông ưa nói lý tánh, chán ghét sự tướng, chẳng qua là muốn cho mọi người biết, ta đây là hạng thượng căn thượng trí và sợ người ta nói mình không thông lý tánh vậy.

Than ôi, nếu thật thông lý tánh, phải biết ngoài sự không có lý, ngoài tướng chẳng có tánh. Tánh tướng, sự lý hổ tương cho nhau, cần chi bỏ sự cầu lý, bỏ tướng tìm tánh? Huống chi, Tịnh độ phân làm bốn tầng, nói như ông thì chỉ có Thường Tịch Quang mà không có Thật Báo Trang Nghiêm, Phương Tiện Hữu Dư và Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh độ sao?

Nếu khăng khăng bảo, không có tướng mới cao. Tư chất hơi có chút lanh lợi, xem hết hai tạng Kinh Luận, nhớ hết một ngàn bảy trăm công án, những việc ấy có chi đáng gọi là khó?! Nếu ông quả thật đã thấu triệt tự tâm, nơi nơi đều là Tịnh độ.

Vậy, xin hỏi ông có thể ở nơi nhà xí, dơ dáy hỗn tạp tự mình làm chủ không? Lại có thể ở chuồng trâu, ngựa và chó, cùng máng ăn chăng? Lại có thể ở gò mã, cùng thi hài rã nát hôi thối ngủ không? Lại có thể nhận cơm bú mớn từ những người bị bệnh già-ma-la (có lẽ bệnh cùi?) đầy máu mũ, nước tiểu v.v… ăn được không? Lại có thể ở nơi ấy, lắm tháng nhiều năm không? Nếu có thể ở những nơi ấy, tâm thật an nhiên tự tại, không chút phiền lòng thì ngươi có thể nói non cao, vực thẳm, gò mã, nhà xí, cũng như đất bằng chỗ nào cũng là Tây Phương.

Bằng không như vậy, nghĩa là đối cảnh bên ngoài phải cố nhẫn, trong tâm thì khởi lòng oán ghét và không vừa ý. Nơi cảnh tịnh- uế, sanh tâm phân biệt, thương ghét còn để trong lòng mà mở miệng luận thánh cảnh, phí báng cho rằng không có Tịnh độ, khinh thường vãng sanh, dối mình gạt người, cam lòng mê muội, đáng thương, đáng thương!

Nếu như ông thật có đại lực, đại thệ nguyện, nguyện vào trong sanh tử, lên xuống sáu đường, hành Bồ-tát hạnh, tâm không chút sợ hãi, thì cõi Tịnh độ có vãng sanh hay không cũng chẳng ngại. Nếu sợ sống trong cõi này, trong cảnh nóng lạnh, không thể tự chủ, lại sợ chư Phật ra đời không gặp và đường Tu khó tiến.

Lại ngại đạo lực chưa kiên cố, không thể ở trong tam giới, tự tại hoá độ chúng sanh, mãn báo thân này chưa thể vĩnh viễn thoát ly sanh tử, phải chịu vào ra thai bào, lên xuống sáu nẻo. Khi xả thân thọ thân, đường trước mờ mịt, chẳng biết về đâu, mà muốn phế bỏ Tịnh độ, không cầu vãng sanh thì chỉ mất đi lợi ích lớn vậy!

Pháp môn Tịnh độ tợ như cạn mà thật rất sâu, tợ gần mà xa, tợ như khó mà thật rất dễ, tợ dễ mà thật khó. Ngày nào đó, ngươi chứng niệm Phật tam muội sẽ tự biết! Ngươi nay Tham Thiền hay niệm Phật tùy ý chọn lấy một môn, Tu cho đến khi thâm nhập chẳng nên nhận sắc là vàng, được ít cho là đủ, nhìn trời qua miệng giếng, tùy ý vọng đàm, phỉ báng Tịnh độ.

Như đứa con ngu chửi mắng, phỉ báng cha mẹ, cha mẹ thương xót tuy không trách mắng nhưng thiên lý quyết chẳng dung tha! Vương Pháp há không trị phạt sao? Ngươi nay vọng bàn luống dối, quả báo kia cũng lại như vậy, lẽ nào không sợ sao? Ta thật xót thương lắm lắm vậy!

Liên Trì Đại Sư