Sự Tích Niệm Phật Vãng Sinh Của Cư Sĩ Lạc Toàn Thông

Sự Tích Niệm Phật Vãng Sinh Của Cư Sĩ Lạc Toàn ThôngHiếu Cảm Thiên Địa. Tấm Lòng Con Gái

I. Duyên Khởi.

Pháp sư Tịnh Không nói: “Phật pháp chẳng phải tôn giáo, chẳng phải triết học mà là sự giáo dục tột cùng viên mãn của Đức Phật đối với chúng sinh trong chín pháp giới. Đây là sự thật căn bản mà đệ tử Phật cần phải nhận rõ trước tiên”. Tiên phụ có thể vãng sinh cõi Tây phương, một đời bất thoái thành Phật, thật sự đã được sự trợ duyên ở hai phương diện:

Một là được sự giáo hóa từ bi khế lý, khế cơ của pháp sư Tịnh Không; hai là nhờ quyển sách “Làm cách nào niệm Phật vãng sinh bất thoái thành Phật?”, nói rõ về tình huống lúc lâm chung. Và sự giải bày trong quyển “Diệu Âm cư sĩ vãng sinh kiến văn ký”, thuật rõ quá trình vãng sinh của Bồ-tát; sự khai thị của cư sĩ Hòa Liêu v.v… đều là những tăng thượng duyên cho việc vãng sinh của tiên phụ.

Pháp sư Tịnh Không thương xót chúng sinh, đã mấy mươi năm ngài dùng phương tiện thiện xảo, giảng kinh thuyết pháp lợi ích chúng sinh. Nhất là những năm tuổi xế chiều, ngài chuyên hoằng dương kinh điển Tịnh Độ. Ở trong nước hay ngoài nước, ngài đã nhiều lần tuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ và kinh A-di-đà, khuyên người thật tâm niệm Phật. Dù cho có tuyên giảng những kinh điển đại thừa khác, ngài vẫn từng câu từng câu tán thán kinh A-di-đà, nơi nơi đều hướng dẫn người quay về Cực Lạc. Pháp sư đã từng nêu ví dụ của đại sư Thiện Đạo: “Cho dù Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiện thân trở lại, bảo với chúng tôi còn có một pháp môn khác thù thắng hơn pháp môn Trì danh niệm Phật, có thể thành tựu ngay hiện đời, chúng tôi cũng phải chắp tay cung kính cảm ơn ý tốt của Ngài. Đồng thời nói rõ chúng tôi đang chuyên tu pháp môn Trì danh niệm Phật, hoàn toàn có thể một đời bất thoái thành Phật. Đối với pháp môn Trì danh niệm Phật đây, không hề có pháp môn nào thù thắng hơn, cần có lòng tin như thế”.

Pháp sư lại nói: “Chỉ có cầu sinh Tịnh Độ mới là thật sự báo đáp ân Phật, thật sự làm tròn đại hiếu”. Tiên phụ có thể hôm nay đã giải thoát sinh tử, vãng sinh Tịnh Độ, đã không uổng phí công giáo hóa chân thành của pháp sư.

Hai quyển sách, quyển “Làm cách nào niệm Phật vãng sinh bất thoái thành Phật” và quyển “Diệu Âm cư sĩ vãng sinh kiến văn ký”[41] là tài liệu tham khảo quan trọng, đúng như lý, như pháp cho người trợ niệm, trong quyển “Kiến, văn, ký” của cư sĩ Liêu, thuật rõ quá trình vãng sinh của Bồ-tát, đó là người niệm Phật giới thiệu cha mẹ mình niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ và là ngọn đèn sáng chỉ dẫn trợ niệm cho cha mẹ lúc lâm chung. Nhờ cư sĩ Liêu nhiều lần đích thân đến đạo tràng hướng dẫn trợ niệm, có sự giúp đỡ rất lớn đối với sự vãng sinh của tiên phụ.

Sự tích tiên phụ niệm Phật vãng sinh, thật là sự minh chứng chân thật của tiến trình “Phát lồ sám hối” và “Thật tâm niệm Phật”. Được cư sĩ Liêu khích lệ viết thành văn, vì để báo ân Phật, báo đáp ân đức từ bi giáo hóa của pháp sư Tịnh Không, đệ tử hổ thẹn, cung kính ghi thuật lại tình huống chân thật trước và sau khi tiên phụ vãng sinh; mong rằng có thể giúp cho bốn chúng[42] đồng tu, thiết lập được niềm tin sâu, nguyện thiết đối với pháp môn Trì danh niệm Phật và có thể từng câu thánh hiệu Di-đà, mỗi niệm về cõi Tây phương, đầy đủ hành trang vượt qua sáu đường, thoát khỏi mười pháp giới, trọn đời này viên thành quả Phật vô thượng.

Kính ghi:

Đệ tử hổ thẹn, Ông Nghê đau lòng kính thuật.

Diệu Âm Tịnh Tông Học Uyển, ngày Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đản sinh, năm Mậu Dần (1998).
II. Ký Thật[43].

– Nam-mô A-di-đà Phật!

– Thưa các vị thiện tri thức, tiên phụ thế danh Lạc Toàn Thông, pháp danh Diệu Âm, hưởng thọ 78 tuổi, cả đời làm công chức. Trước khi về hưu, ông giữ chức vụ Trưởng phòng nhân sự Sở vệ sinh của chính phủ tỉnh và ngụ ở ký túc xá công nhân viên của chính phủ tỉnh.
1. Cuộc sống của phụ thân sau khi về hưu.

Phụ thân là nhân viên nhà nước, thuở còn sống, ai dạy gì ông cũng không tin. Năm 1985, sau khi về hưu, phần lớn ông đều ở trong nhà, ít khi ra ngoài. Một lần nọ, chân phải của ông bị viêm đỏ một vùng như tổ ong, từ bắp vế đến bàn chân đều sưng phù rất nghiêm trọng. Sau đó, ông đến Tổng y viện Vinh Dân để phẫu thuật, khoét bỏ phần thịt ở đùi bị thối rữa, rồi lấy phần da nguyên ở bộ phận khác đắp vá lên đùi. Bác sĩ nói: “May mà ông phát hiện sớm, kịp thời đến bệnh viện, nếu không thì cái chân này có thể sẽ phải cưa bỏ, mới có thể bảo vệ mạng sống”.

Một hôm, ông cho những đứa con của tôi xem bắp chân của mình sau khi mổ, tôi trông thấy thật đau lòng! Lúc đó, tôi đã tiếp xúc Phật pháp, đã xem rất nhiều câu chuyện nhân quả báo ứng, nên tôi có lòng tin sâu sắc không nghi ngờ gì đối với sự báo ứng của nhân quả. Trước mắt, bắp chân của cha tôi, giống như chân gà, khiến tôi liên tưởng đến lúc nhỏ, cha thường hầm chân gà cho chúng tôi ăn. Mỗi lần ăn, cha đều làm một nồi to. Bấy giờ, tôi còn nhỏ dại, cũng thường vây quanh nhà bếp nghe mùi thơm mà thèm rỏ dãi. Nào ngờ, quả báo hiện tiền của cái “bụng tham ăn”. Cuối cùng lại báo ứng trên chân của cha tôi, quả thật khiến người ta đau lòng, hổ thẹn, cũng khiến tôi cảm thấy nhân quả thật đáng sợ.

Sau khi cha nghỉ hưu, chính phủ mở ra chính sách thăm viếng họ hàng ở Đại lục. Tuy ông cũng rất nhớ cha mẹ ở Đại lục nhưng không liên hệ được bạn bè ở đó và cũng chưa từng được trở về quê hương thăm viếng. Một phần vì sự đi đứng của cha đã không còn thuận tiện, mặt khác vì số tiền nghỉ hưu dùng trị liệu cho cái chân phải đã hết sạch, không còn cách nào trở về thăm viếng họ hàng một cách rỡ ràng. Vì vậy, cha tôi buồn bực lặng lẽ một mình. Tóm lại, cuộc sống sau khi nghỉ hưu của cha hoàn toàn không được như ý. Trong tâm ông vẫn còn một chút tiếc nuối.
2. Nhân duyên Tiên phụ tiếp xúc Phật pháp và tình hình niệm Phật hằng ngày của ông:

Lần thứ nhất, tôi tiếp xúc Phật pháp là do người hàng xóm, (bảo mẫu của con trai) tặng tôi một cuộn băng ghi âm truyền thụ Tam quy mà pháp sư Tịnh Không giảng giải.

Trước giờ tôi chưa hề tiếp xúc Phật pháp thì đâu có sách vở liên quan đến Phật học, cũng chưa hề nghe qua Sư phụ hoặc cư sĩ giảng kinh. Khi được nghe cuộn băng “truyền thụ Tam quy” này, lòng tôi rất vui vẻ, nghe đi nghe lại biết bao lần, vì nội dung của nó, thực sự rất khoa học, rất hợp lý. Từ trong cuộn băng này, tôi quả thực nhận thức được bản chất của Phật pháp là giáo dục, chứ không phải là tôn giáo. Tuy tôi đã nghe rất nhiều lần, lòng rất hoan hỷ song vì vẫn còn nhiều nghi ngờ nên không dám mạo muội học Phật. Tôi liền thỉnh giáo người hàng xóm, người ấy trả lời: “Trí huệ của tôi kém cỏi, không cách nào giải đáp câu hỏi của chị. Tôi sẽ đưa chị đến thư viện Hoa Tạng, Sư phụ ở đó trí huệ khá cao, có thể giải đáp cho chị”.

Cuối năm 1993, tôi và người hàng xóm cùng đến thư viện Phật giáo Hoa Tạng nghe sư phụ giảng kinh, chúng tôi đến sớm hơn nửa tiếng đồng hồ, đúng lúc sư phụ rảnh rỗi, người hàng xóm liền đưa tôi đến thỉnh giáo ông.

Sư phụ trả lời tôi: “Học Phật không nhất định phải ăn chay, cũng không cần chạy đến Đạo tràng”. (Sau đó, nhân tiếp xúc được tin tức y học gần đây, tôi đã hiểu rõ ăn chay đối với sức khỏe, có được lợi ích tuyệt đối, nhờ đó con cái lớn nhỏ cả nhà tôi đều tự nhiên đổi lại ăn chay). Ngài còn nói: “Hiếu thuận với cha mẹ, ngoài việc quan tâm đến đời sống vật chất không cho thiếu thốn cũng phải bố thí tạo công đức cho cha mẹ, khiến cho cha mẹ có được lợi ích chân thật”. Ngay hôm đó, pháp sư còn tặng tôi tám cuộn băng “Lời khai thị Phật thất của pháp sư Đàm Hư”, “Nhận thức Phật giáo”, “kinh Phật thuyết thanh tịnh tâm”. v.v … và một quyển kinh Vô Lượng Thọ. Đồng thời, ngài bảo tôi: “Quyển kinh Vô Lượng Thọ này, cô trở về nhà đọc ba nghìn biến, công đức của ba nghìn biến viên mãn, có thể giúp cô giải quyết được vấn đề của cha mẹ mình”.

Sau khi trở về nhà, tôi đã nghe những cuộn băng này rất nhiều lần. Nhất là cuộn băng “Lời khai thị Phật thất của pháp sư Đàm Hư” đã gợi mở cho tôi tin sâu pháp môn Trì danh niệm Phật, có sự giúp đỡ rất lớn đối với tôi. Ban đầu, tôi đọc kinh Vô Lượng Thọ, một biến khoảng một tiếng rưỡi, sau đó chỉ cần khoảng bốn mươi đến bốn mươi lăm phút là xong một biến. Vì sư phụ nói phải đủ ba nghìn biến thì đối với cha mẹ mới có lợi ích trọn vẹn. Mỗi ngày, nếu tôi chỉ đọc một biến thì phải mất thời gian mười năm. Đương thời phụ thân đã hơn bảy mươi tuổi, mẫu thân đã hơn sáu mươi tuổi, biết hai người có chờ đợi đến mười năm không? Tôi không dám nói. Nếu như mỗi ngày tôi đọc ba biến, thì ba năm có thể viên mãn. Tôi nghĩ cha mẹ tôi sẽ còn cơ hội. Thế là, mỗi ngày tôi đọc theo ba bữa ăn. Trong quá trình đọc tụng, tôi dần dần thể hội được, hoàn toàn chẳng phải là đọc tụng ba nghìn biến kinh Vô Lượng Thọ thì cha mẹ tôi sẽ không xảy ra việc gì, mà là trong quá trình đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ, tư tưởng và hành vi của mình đã có sự thay đổi, mới có trí huệ giải quyết vấn đề của cha mẹ. Để đặt nền tảng cho việc học Phật, năm 1996, tôi lại trì tụng trọn vẹn ba nghìn biến “Liễu Phàm Tứ Huấn”. Tôi phát hiện ra trong phương diện đoạn trừ phiền não, xác thực có được lợi ích khá lớn.

Do nghe cuộn băng giảng của pháp sư Tịnh Không mà pháp hỷ sung mãn, tôi cũng phát hiện Phật pháp thật sự có thể giải quyết được tất cả những vấn đề lớn nhỏ trong cuộc sống. Vì vậy, hầu như mỗi tháng, tôi đều đến thư viện Hoa Tạng thỉnh băng kinh, gần như cũng đã nuôi dưỡng thành thói quen hằng ngày nghe pháp sư giảng kinh.

Sau một khoảng thời gian tiếp xúc với Phật pháp, tôi cảm nhận sâu sắc mọi người đều nên học Phật, mọi người đều sẽ thành Phật, cũng rất mong mỏi mọi người sẽ đem Phật pháp giới thiệu cho cha mẹ, những người thân yêu nhất của mình, hy vọng họ có thể nhận được lợi ích chân thật của Phật pháp, có thể được giải thoát sinh tử trong đời này, vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Vấn đề khó ở chỗ, tôi không biết làm cách nào giới thiệu được Phật pháp cho cha mẹ. Và có thể khiến cho cha mẹ hoan hỉ tiếp nhận? Đúng lúc tôi đọc được quyển “Diệu Âm cư sĩ vãng sinh kiến, văn, ký” do cư sĩ Liêu ghi, cư sĩ đã tích cực khuyên cha mẹ niệm Phật. Trước tiên, đối với cha mẹ đã thể hiện được sự quan tâm nhiều hơn trên mặt tinh thần và sự chăm sóc cung cấp trên mặt vật chất cũng đầy đủ hơn trước, dùng hành động thực tế để chứng thực, thân làm đệ tử Phật là phải vô cùng hiếu thuận, khiến cho cha mẹ sinh tâm hoan hỉ mà chấp nhận Phật pháp. Đọc đến đây, tôi bắt đầu hiểu, tôi cũng nên học tập “kiến hiền tư tề” của cư sĩ Liêu, phải làm cho cha mẹ tiếp xúc Phật pháp, nhất định phải hiếu đễ hơn, thuận thảo hơn đối với cha mẹ, khiến cho cha mẹ cảm nhận được sau khi học Phật con mình không giống như xưa, còn giới thiệu Phật pháp cho cha mẹ, thì chướng ngại tự nhiên sẽ bớt đi một ít. Cách làm của tôi cụ thể là:

a) Thường xuyên điện thoại về nhà hơn trước, thành thật thăm hỏi, vấn an sức khoẻ của cha mẹ.

b) Trên mặt vật chất, phải cung cấp nhu cầu cho cha mẹ đầy đủ chân thành hơn trước.

c) Thái độ nói năng đối với cha mẹ phải hòa thuận vui vẻ, cung kính hơn trước.

d) Khi cùng cha mẹ chuyện trò, phải lắng nghe nhiều, nên ít ngắt lời và ít phê bình.

e) Khi nghỉ phép lâu ngày, có cơ hội nên về thăm nom cha mẹ, phải cùng cha mẹ chuyện trò Phật pháp, cũng nên tùy duyên hướng dẫn cha mẹ ăn chay, phóng sinh.

Ngoài ra, hãy lấy danh nghĩa của cha mẹ, hết lòng in ấn, thu băng các loại pháp bảo.

Tôi đã làm như thế khoảng mấy tháng, có một lần tôi đưa con về nhà thăm cha mẹ, cha tôi bảo: “Sau khi con học Phật pháp, toàn bộ con người đều thay đổi hẳn, không như xưa nữa”. Tôi mượn cơ hội này đem những lợi ích thù thắng mà mình đã nhận được trong Phật pháp, nói rõ cho cha nghe: “Đời này chúng ta có thể gặp Phật pháp, là nhân duyên tối thượng, nhất là gặp được pháp môn Trì danh niệm Phật, là pháp môn thù thắng hơn hết. Hơn nữa, pháp sư Tịnh Không cũng đặc biệt nhấn mạnh, học Phật không cần thay đổi phương thức sống vốn có sẵn, chỉ cần thường xuyên niệm Phật, sức khỏe nhất định sẽ ngày càng tốt đẹp”.

Khi ấy, cha tôi hoàn toàn không biểu lộ điều gì. Thế là, tôi đi đến thư viện Hoa Tạng, thỉnh giáo sư phụ: “Nên hướng dẫn cha mẹ học Phật như thế nào?” Sư phụ bảo tôi: “Có thể giới thiệu cho thân phụ đọc kinh Vô Lượng Thọ”. Tôi liền thỉnh cho cha quyển kinh Vô Lượng Thọ và cuộn băng niệm tụng trong hai giờ, lại thỉnh tượng Phật A-di-đà. Vào giữa năm 1994, cha tôi bắt đầu nghe kinh. Mỗi ngày theo thời khóa sáng, cha tôi nghe máy ghi âm đọc kinh Vô Lượng Thọ trong hai tiếng đồng hồ.

Từ đó về sau, tôi càng điện thoại liên tục về nhà thỉnh an sức khỏe cha mẹ. Ngoài việc vấn an sức khỏe, tôi đều hỏi: “Ba có thực hành thời khóa sáng không? Có đọc kinh Vô Lượng Thọ không?” Mẹ đều trả lời: “Có, hằng ngày bốn năm giờ sáng ba thức dậy liền bắt đầu thời khóa sáng, mỗi ngày đều niệm không thiếu buổi nào cả”.

Tôi hỏi tiếp: “Mẹ có niệm Phật không?” (Vì mẹ tôi phải đảm đương tất cả công việc nhà, còn phải chăm sóc cha và con cái của em gái tôi, công việc khá vất vả, không có thời gian ngồi đọc kinh, nhưng tôi mong mẹ ít nhất cũng có thể tùy thời, tùy nơi mà niệm Phật). Mỗi lần như thế, mẹ tôi đều có chút ngại ngùng, cười cười trả lời: “Mẹ không có niệm ra tiếng đâu, chỉ tưởng ở trong lòng thôi!”

Tôi liền khích lệ mẹ: “Nhớ tưởng Phật cũng là một phương pháp rất hay. Có người không quen niệm ra tiếng, trong lòng nghĩ đến Phật cũng rất tốt”. Vì cha mẹ không phản đối cho nên tôi đến thư viện Hoa Tạng thỉnh về nhà thánh tượng Phật A-di-đà và Bồ-tát Quán Thế Âm, thiết lập ngay trong phòng khách một Phật đường đơn giản mà trang nghiêm.

Từ khi cha tôi bắt đầu đọc kinh Vô Lượng Thọ, mỗi lần về nhà, tôi đều cùng cha nói chuyện Phật pháp, đàm luận lục đạo[44] luân hồi, giảng giải những vấn đề sinh và tử. Hơn nữa mỗi lần như thế tôi đều hỏi cha có muốn đi đến thế giới Tây phương Cực Lạc không?

Cha luôn đáp như thế này: “Người giống như cha làm sao đi được Tây phương! Cũng không biết thế giới Tây phương Cực Lạc ở đâu nữa? Bây giờ cha không muốn điều gì cả, nhưng kinh Vô Lượng Thọ này, cha nhất định sẽ tiếp tục đọc nữa”.

Tôi cũng nhân cơ hội này nói với cha: “Ba à, lúc giảng kinh, pháp sư Tịnh Không đặc biệt nhấn mạnh: Người muốn đi đến thế giới Tây phương Cực Lạc, nhất định phải có đủ ba món tư lương: Tín-hạnh-nguyện. “Tín” chính là tin có thế giới Tây phương, tin có Đức Phật A-di-đà vậy”. “Nguyện” tức là bằng lòng đi, bằng lòng dời dần đến ở cõi Tây phương thế giới Cực Lạc. “Hạnh” chính là bằng lòng trì danh niệm Phật. Vả lại, trong quyển “Di-Đà Yếu Giải” Ngẫu Ích đại sư đã đề cập đến việc: “Vãng sinh được chăng hoàn toàn dựa vào Tín Nguyện có hay không? Phẩm vị cao thấp là do sự sâu cạn của công phu tu tập”. Mỗi lần thảo luận đến vấn đề này, tôi luôn quả quyết bảo với cha mẹ: “Con thể hội sâu sắc được sáu nẽo luân hồi quá khổ sở, đời này không dễ gì gặp được Phật pháp, hơn nữa là gặp được pháp môn Trì danh niệm Phật, pháp môn thù thắng này, con quyết định phải nắm thật vững, trọn đời này nhất định phải vãng sinh về cõi Tây phương Cực Lạc”. Tôi muốn đưa cha mẹ đến Phật Quang Sơn tham quan động Tịnh Độ, nhưng khổ nỗi là không có cơ duyên.

Vào mỗi chiều và buổi tối, cha tôi vẫn xem truyền hình, có khi xem tin tức, càng xem càng tức giận. Tôi thường khuyên cha: “Đã xem rồi còn tức giận, thì không nên xem làm gì!” Cha nói: “Làm sao có thể không xem được chứ? Tức giận nhưng vẫn phải xem thôi!”

Tôi khuyên cha hãy đem thời gian xem kịch truyền hình liên tục mỗi chiều để xem băng hình giảng kinh, cha cũng nói không được. Tuy là xem kịch liên tục cũng sẽ tức giận nhưng vẫn phải xem.

Cha tôi đọc kinh Vô Lượng Thọ khoảng một năm rưỡi, tôi lại kiến nghị: “Cha có thể tăng thêm khóa buổi tối, đọc thêm một biến kinh Vô Lượng Thọ. Sau đó, biết được phụ thân đã bắt đầu tăng thêm thời khóa tối, tôi vô cùng hoan hỷ.

Vào giữa năm 1997, tôi trở về nhà, cha bảo tôi hiện giờ kết quả mà ông đọc kinh Vô Lượng Thọ đã tốt hơn trước. Trước đây, có khi niệm một niệm là sẽ bị ngủ gật, hiện giờ thì không. Hơn nữa, ba năm nay ba chưa hề bỏ sót thời khóa nào. Mỗi ngày, cha nhất định thời khóa công phu sớm chiều hai giờ đồng hồ. Nhưng cha cũng nói ý của kinh Vô Lượng Thọ đó rất sâu xa! Đọc xong, chỗ nào hiểu thì hiểu, chỗ nào không hiểu thì thôi. Tôi nói với ông: “Cảnh giới ý nghĩa của kinh Vô Lượng Thọ quả thật rất sâu xa. Con cũng có nhiều chỗ không hiểu”. Nhưng tôi có một kinh nghiệm, có một số điều vốn không hiểu, đọc lâu ngày, có lúc dường như đột nhiên vỡ lẽ ra những ý tứ trong đó. Mẫu thân thì bảo tôi buổi sáng sớm, khi trên đường đi mua thức ăn, bà cứ đi mãi, trong lòng vẫn vang lên thánh hiệu của Đức A-di-đà. Tôi nhân cơ hội này khích lệ mẹ, càng nhớ Phật, niệm Phật. Nói ví dụ như khi xắt rau, cắt rau một cái thì niệm câu hiệu Phật; lúc xào rau, xáo một cái thì niệm một danh hiệu Phật. Mẹ tôi gật đầu: “Được”.
3. Chuẩn bị trước khi trợ niệm.

Hạ tuần tháng 12 năm 1997, mẹ điện thoại bảo tôi: “Con à, ba con muốn con chuẩn bị 100 nghìn đồng, nói là sắp đi rồi”. Tôi vội vàng khuyên mẫu thân nhắc cha chuyên tâm niệm Phật. Bà đề cập đến việc gần đây sức khỏe của cha không được tốt lắm, kết quả đi bệnh viện kiểm tra là bị uất hơi, sau đó uống thuốc thì khỏi bệnh. Mẹ còn bảo tôi, cha thường hỏi: “Y phục đã chuẩn bị xong chưa? Lại nói là ông sắp đi rồi”.

Do quan hệ công việc, tôi không cách nào lập tức trở về nhà thăm bệnh tình cha được, nhưng tôi bắt đầu lên kế hoạch việc trợ niệm cho cha vãng sinh, đồng thời cũng xem đó là một nhiệm vụ quan trọng trong khâu chuẩn bị. Chỉ vì từ trước đến giờ, bản thân tôi không có kinh nghiệm giúp người trợ niệm, chỉ sợ vì thiếu kinh nghiệm hoặc sơ suất mà dẫn đến làm mất đi cơ hội tốt vãng sinh của cha, thì tội lỗi này rất lớn. Vì thế tôi phải soạn lại quyển sách “Làm thế nào niệm Phật vãng sinh bất thoái thành Phật” và bài “Ký thấy nghe việc vãng sinh của cư sĩ Diệu Âm”. Vì để chuẩn bị hậu sự cho cha theo nghi thức Phật môn trang nghiêm nhất. Tôi đã làm hết sức mình lo đủ mọi mặt, thỉnh giáo người khác: Trong khi đệ tử Phật chính thức vãng sinh nên mặc y phục gì? Kết luận sau cùng là: Một bộ áo được giặt-giũ sạch sẽ, một bộ y phục cư sĩ, một cái áo tràng, ngoài ra khi trợ niệm phải chú ý chuẩn bị chiếc mền vãng sinh đắp cho thân phụ.

Sau khi hỏi rõ ràng, tôi lập tức đến nơi phát hành đồ vật của Phật giáo mua một loạt những thứ cần thiết. Ngoài ra còn thỉnh hai cây đèn hoa sen, một bài vị vãng sinh, một chiếc khánh. Vì trong sách có ghi, khi lâm chung người bệnh không ý thức rõ ràng, có thể dùng khánh để thức tỉnh người bệnh niệm Phật.

Vì muốn ghi nhớ rõ những việc đáng chú ý lúc lâm chung trợ niệm, tôi phải xem đọc kỹ nhiều lần quyển sách “Làm thế nào niệm Phật vãng sinh bất thoái thành Phật”. Về trợ niệm, trong sách có một đoạn ghi: “Tốt nhất nên mời những bạn đồng tu có kinh nghiệm trợ niệm đến trợ niệm, người nhà có lúc cần phải tránh đi, để tránh người lâm chung vướng bận tình thân thiết mà trở ngại việc vãng sinh”. Tuy tôi hy vọng mình có thể đích thân trợ niệm cho cha, nhưng lại sợ mình không có kinh nghiệm, trong quá trình xử lý, vì sơ suất mà lỡ đi đại sự vãng sinh của cha. Vì thế, tôi bắt đầu thăm hỏi khắp nơi, làm thế nào để có thể mời được đoàn trợ niệm? Nhưng lại gặp qua những năm trước, đoàn thể Phật giáo ở miền Trung, họ đều không rảnh, đáp án trả lời đều là không chắc chắn, không có đoàn trợ niệm. Sau cùng, thật không còn cách nào khác, tôi giở phần mục lục phía sau sách bài “Ký thấy nghe việc vãng sinh của cư sĩ Diệu Âm”, tìm được điện thoại của Diệu Âm Tịnh Tông Học Uyển, hy vọng có thể mời được cư sĩ Liêu.

Buổi trưa ngày 05 tháng giêng năm 1998, trong sự liên lạc rất thuận lợi với cư sĩ Liêu, cư sĩ bảo với tôi về then chốt của sự trợ niệm như sau:

Thứ nhất: Trợ niệm cho người lâm chung không cần số người đông mà cốt yếu ở tâm thành kính. Nếu như có đông người trợ niệm mà tâm tạp loạn không thành kính, vọng tưởng lăng xăng, thì vẫn không bằng một hai người trợ niệm chí thành tha thiết, đạt đến thanh tịnh trang nghiêm, đưa đến hiệu quả tốt đẹp.

Thứ hai: Người nhà trợ niệm cũng có điểm tốt, cần đem tình thân yêu mến của con cái đối với cha mẹ chuyển đổi thành động lực cầu vãng sinh thế giới Tây phương Cực Lạc. Nên bảo cha mình, nhân duyên của cha đã sớm thành thục. Vì vậy, trước tiên cha nên dời đến thế giới Tây phương Cực Lạc. Sau này khi chúng con sắp vãng sinh, cha sẽ theo Đức Phật A-di-đà đến tiếp dẫn chúng con.

Thứ ba: Cư sĩ đặc biệt dặn dò tôi, nếu mời được đoàn trợ niệm thì rất tốt, nếu như không mời được thì cũng không nên sinh lòng phiền muộn. Cư sĩ bảo tôi trong quá trình xử lý trợ niệm, cần phải giữ cho được tâm thanh tịnh. Vì tâm thanh tịnh mới có thể tương ưng với Phật và Bồ-tát.

Trong lúc nói chuyện, nhắc đến bệnh của cha, nghĩ đến cha sẽ không còn sống bao lâu nơi cõi đời này, trong lòng tôi đau xót khôn cùng. Cuối cùng, tôi hỏi:

– Thưa Liêu cư sĩ phải làm cách nào đây, tôi biết là người trợ niệm không được rơi một giọt nước mắt. Rơi nước mắt tức là đưa tiễn người thân của mình vào sáu nẽo luân hồi. Nhưng tôi vẫn không có cách nào kiềm chế được. Mỗi lần nghĩ đến cha không còn sống bao lâu trên cõi đời này nữa thì nước mắt cứ tuôn như mưa.

Cư sĩ Liêu điềm tĩnh nói:

– Hiện giờ chị vì lòng hiếu cho nên mới rơi nước mắt, nhưng khi đối đầu với sự việc, Phật và Bồ-tát sẽ gia hộ, chị sẽ không khóc đâu!

Tôi cũng thỉnh giáo cư sĩ Liêu:

– Khi trợ niệm, giọng điệu nhanh chậm nên điều chỉnh thế nào?

Cư sĩ nói:

– Có thể theo giọng điệu và tốc độ của máy niệm Phật để trợ niệm.

Sau khi điện thoại cho cư sĩ Liêu xong, đối với việc mời đoàn trợ niệm, đã không còn là nỗi lo canh cánh, lòng tôi cũng tạm được an ổn.

Buổi chiều ngày hôm ấy, tôi và cô út bàn đến việc trợ niệm. Cô út nói nếu như không mời được đoàn trợ niệm thì cô bằng lòng cùng tôi trở về thôn Trung Hưng Tân trợ niệm giúp cha. Sau khi ý kiến ổn định, tôi nói với cô út:

– Lần này về trợ niệm, chỉ cho phép chúng ta thành công, không được thất bại, không thể mang tâm lý thí nghiệm để niệm Phật. Vì đây là đại sự chỉ một lần chớ không thể lặp lại. Hơn nữa, con nắm chắc chắn cha nhất định vãng sinh, chỉ có điều chúng ta không có kinh nghiệm trợ niệm, sợ nhất là trong quá trình trợ niệm có sự sơ suất, làm trở ngại cơ duyên vãng sinh của cha thì tội đó rất lớn. Vì vậy, có thời gian, chúng ta phải ôn tập nhiều lần cho tốt hai quyển sách “Làm thế nào niệm Phật vãng sinh bất thoái thành Phật ” và bài “Ký thấy nghe việc vãng sinh của cư sĩ Diệu Âm”, đến lúc đó mới có thể đúng như lý, như pháp.

Mẹ tôi là một phụ nữ trí huệ, hiểu lý lẽ và rất từ bi. Khi tôi bảo mẹ: “Hiện giờ trong nhà chúng ta không nên mở ti vi, chỉ chuyên tâm niệm Phật, cả nhà tốt nhất chỉ nghe tiếng niệm Phật của máy ghi âm, đặc biệt là ti vi trong phòng của cha càng không nên mở, phải để cho cha chuyên tâm niệm Phật”, thì mẹ đều một mực làm theo, đồng thời bà còn bảo tôi, cha tôi luôn hỏi: “Sao lúc này không thấy con về thăm, tôi có nhiều điều muốn hỏi nó”.

Bà còn nói: “Cha con bây giờ rất hay nói chuyện. Mỗi ngày đều phải nói chuyện với mẹ, có khi đến khuya cũng không chịu ngủ, cứ muốn bà trò chuyện với ông. Chuyện bạn bè, chuyện con cái, dường như muốn đem chuyện những người đã lâu rồi không gặp mặt, kể ra hết một lần”. Còn có buổi tối nọ, cha tôi bảo mẹ: “Tối nay đừng nên tắt đèn, tắt đèn họ sẽ đến bắt tôi đi”.

Ông còn nói trong ống tay áo ông có con quỷ, trong ruột có quỷ.v.v…lại nói mộng thấy họ hàng thân quyến đến tìm ông. Vì vậy, tối nào cha cũng ngủ không ngon giấc.

Lúc ấy, tôi thầm nghĩ: “ Tuy tôi không thể về nhà, nhưng tôi ở Đài Bắc tụng kinh, lễ Phật, đem công đức ấy hồi hướng cho cha ở thôn Trung Hưng Tân, có lẽ cũng được”. Tôi cũng khuyên mẹ nên bắt đầu ở nhà lễ Phật, sám hối cho cha, đồng thời đem công đức lễ bái Phật hồi hướng cho cha. Từ đó, tôi bắt đầu nghiêm túc đọc kinh Vô Lượng Thọ, mỗi ngày có thể đọc được mấy biến thì cứ đọc, đồng thời đem công đức tụng kinh hồi hướng cho những oan gia trái chủ của cha. Cách một ngày tôi lại điện thoại cho mẹ, mẹ liền nói đêm qua cha ngủ rất ngon. Tôi càng khích lệ mẹ nên tiếp tục lễ Phật, tôi cũng sẽ tiếp tục lễ Phật và tụng kinh.

Ngày mùng 5 tháng giêng, tôi tiếp tục đọc kinh Vô Lượng Thọ và đem công đức đó hồi hướng cho cha. Do cách ngày có một thời khóa suốt ngày, vì vậy phải từ tối đến gần sáng mới ngủ. Sáng ngày thứ hai, tôi vừa thức dậy thì đầu choáng váng không chịu nổi, đây là hiện tượng rất ít có. Trực giác của tôi cho biết tôi và cha có liên quan, nhưng tôi tự nhủ: “Hôm nay có thời khóa suốt ngày, nhất định sẽ làm cho tinh thần căng thẳng”.

Hơn ba giờ chiều ngày hôm đó, sau khi xong thời khóa sau cùng, tôi vẫn theo kế hoạch ban đầu, đến thư viện Hoa Tạng, một mặt là in ấn kinh điển trợ giúp cho cha, đem công đức hồi hướng cho những kẻ oan gia trái chủ của cha, một mặt muốn thỉnh giáo sư phụ về những việc liên quan đáng chú ý trong trợ niệm. Sư phụ bảo tôi mấy kinh nghiệm quan trọng trợ niệm lúc lâm chung:

1. Thông thường người sắp vãng sinh, họ sẽ không muốn ăn thứ gì cả, vì vậy nếu phụ thân không muốn ăn, cũng không nên miễn cưỡng, không cần lo lắng thái quá.

2. Tuyệt đối không được khóc lóc trước mặt phụ thân để tránh làm trở ngại việc vãng sinh của ông. Nếu những người khác trong nhà khó tránh được đau lòng thì nhất định nên đi đến chỗ khác mà buồn, dù thế nào đi nữa cũng không được khóc trước mặt phụ thân.

3. Khi đánh khánh tiếp dẫn, nên gõ nhịp ngay chữ “Đà” trong bốn chữ hồng danh “A-di-đà Phật”.

Ngay hôm đó, thư viện vừa mới có băng nghe kết duyên “Sự tích niệm Phật vãng sinh Tịnh Độ”, tôi hết sức vui mừng, liền thỉnh về nghe. Buổi chiều, khoảng 4 giờ 45 phút, em gái tôi từ nhà điện thoại đến, nói với tôi là đã đưa cha đi bệnh viện, kết quả kiểm tra sơ bộ, bạch huyết cầu khoảng 1.300 (quá thấp, không đủ sức đề kháng). Bác sĩ cho mẹ tôi biết, do quy mô của bệnh viện nhỏ nên sự giúp đỡ cho phụ thân không nhiều, và ông có thể không qua khỏi ngày hôm nay. Nếu mong phụ thân sống thêm, đề nghị lập tức đưa đến bệnh viện trung tâm ở Đài Trung. Đương nhiên là mẹ tôi mong cha tiếp tục sống, nhưng bệnh viện ở Đài Trung cách thôn Trung Hưng Tân rất xa, phải qua lại giữa nhà và bệnh viện, thật sự mẹ tôi không đủ sức tiếp tục chèo chống, không biết nên làm thế nào cho tốt? Thế là em gái điện thoại hỏi ý kiến tôi. Cách nghĩ trực tiếp nhất của tôi là: “Về nhà niệm Phật mới có thể cứu. Vì bệnh viện không có máy niệm Phật trong 24 giờ, đối với cha tôi quả là không có lợi”.

Nhưng cách nghĩ này của tôi, trong cách nhìn của một số người có thể cho là tôi học Phật đã mê tín, nhưng kiến nghị của bác sĩ tôi cũng không dám quyết định, vì vậy tôi vẫn mời mẹ ra quyết định. Trong lòng tôi luôn cầu nguyện: Mong cha nhất định phải chờ tôi về giúp ông niệm Phật.

Tôi vốn định đợi sau khi kết thúc lịch trình giảng ở trường sẽ lễ bái nhiều hơn, không còn bận tâm gì nữa. Sau đó trở về nhà một thời gian dài niệm Phật cho cha. Vì ngày 16 tháng giêng tôi có một lịch trình giảng dạy quan trọng, tôi là một trong những giảng viên chính, không thể nào vắng mặt. Nhưng khi em gái tôi điện thoại lần thứ hai, trong lòng tôi nghĩ: “Sinh tử sự đại, nên mau về mới đúng”. Tôi bảo em gái: “Ngày mai (mùng 7 tháng giêng), chị đến trường sắp xếp xong mọi việc, sẽ lập tức về ngay, đến nhà có lẽ là buổi chiều”. Tiếp đó tôi suy nghĩ, tôi sợ cha không chờ được lâu như thế, lại sợ mình có một niệm sơ suất mà làm lỡ sự vãng sinh của cha. Thế là vừa thổi cơm chiều, tôi vừa nghĩ thầm: “Chiều nay lập tức phải về ngay mới được”.

Sau bữa cơm chiều, tôi bắt đầu liên lạc với các đồng nghiệp ở trường, hy vọng có thể sắp xếp ổn thỏa công việc ở trường, đồng thời đem ba đứa con nhỏ học tiểu học gởi lại Đài Bắc, nhờ các bạn đồng tu của tôi chăm sóc. Còn bé gái nhỏ mới một tuổi hơn 5 tháng thì tôi và cô út cùng mang bé theo về thôn Trung Hưng Tân.
4. Trợ niệm trước giường bệnh.

Tám giờ tối, tôi cùng cô út và đứa con gái nhỏ, ba người bắt đầu lên đường. Dọc đường tôi luôn nghe cuộn băng “Sự tích niệm Phật vãng sinh Tịnh Độ”. Thật ra, tiếng Đài Loan của tôi không tốt lắm nhưng điều lạ lùng là ngay cuộn băng này, tôi có thể nghe hiểu tám chín phần. Mười giờ đêm, chúng tôi đã đến phòng bệnh trong bệnh viện nơi cha nằm. Lúc đó, đứa em trai đang chăm sóc cha. Nó bảo với tôi, cha luôn hôn mê. Phụ thân trong cơn bệnh, hai gò má gầy hóp lại, quầng mắt và hai gò má đều thâm đen, đã khác đi rất nhiều với dung mạo của người cha trong ký ức tôi. Sau khi có được sự đồng ý của người bạn bệnh chung phòng, tôi mở máy niệm Phật, đồng thời gõ khánh tiếp dẫn bắt đầu niệm thánh hiệu A-di-đà Phật. Niệm Phật chỉ mới một lát, chân tay tôi đã bắt đầu run rẩy không tự chủ được, bàn tay cầm khánh cơ hồ không vững, nhưng tôi vẫn kiên trì tiếp tục niệm, cô út cũng niệm theo. Qua mấy phút sau, cha tôi mở mắt ra, đôi mắt trong suốt chăm chú nhìn tôi. Tôi nói nhỏ bên tai cha: “Ba không có sức niệm Phật không sao cả, chúng con giúp ba niệm, trong lòng ba cứ niệm theo chúng con là được rồi”.

Đứa em trai nhỏ hỏi tôi phải niệm bao lâu? Tôi nói: “Cần phải tiếp tục niệm”. Cậu em rất ngạc nhiên. Tôi bảo nó mau gọi điện thoại mời mẹ đến bệnh viện, quyết định là có xuất viện hay không?

Cậu em nhỏ nghi ngờ hỏi tôi: “Có việc gì sao?” Hiểu ý nó, tôi nói: “Nhất định phải niệm Phật liên tục 24 tiếng đồng hồ, thì mới có lợi ích lớn nhất cho cha”. Đứa em vẫn hồ nghi, ý không muốn đi gọi điện thoại.

Tôi đưa ánh mắt tha thiết van cầu, thuyết phục nó: “Trung! Ba là cha ruột của em mà! Tuy ông không phải là cha ruột của chị, nhưng chị luôn xem ông là cha ruột của mình”. Bấy giờ, trong lòng tôi nghĩ: ( Hiện giờ tôi chỉ có một người cha có thể hiếu thuận thôi, làm sao có thể bỏ lỡ mất cơ hội tốt!). Cha ruột của tôi đã qua đời 9 năm rồi. Năm tôi 11 tuổi, cha và mẹ kết hôn, ông còn có một đứa con gái và một đứa con trai, nhưng cha vẫn chăm sóc dưỡng nuôi chúng tôi như những đứa con mình sinh ra. Vì vậy, tôi vẫn luôn cư xử xem ông như cha ruột của mình.

Câu nói này rất quan trọng, cậu em đã đi gọi điện, nhưng nó không trở lại phòng bệnh.
a) Buông bỏ muôn duyên cầu sinh Tịnh Độ.

(Thứ tư ngày 7 tháng giêng năm 1998)

Mẹ tôi vội vã đến bệnh viện, nói với bác sĩ xin thu xếp tự mình xuất viện. Trên đường trở về nhà, tôi vẫn không ngừng niệm danh hiệu Phật. Hơn 12 giờ khuya mới về đến nhà, sau khi sắp xếp cha nằm an ổn, tôi an trí tượng Phật, đèn hoa sen trên bàn sách trong phòng cha, và đắp chiếc mền vãng sinh cho ông. Tôi và cô út bắt đầu chuyên tâm niệm Phật theo chiếc máy niệm Phật. Cứ cách khoảng một lát tôi lại đi lễ Phật, cầu xin chư Phật và Bồ-tát gia hộ cho phụ thân lâm chung được chính niệm rõ ràng, có thể niệm Phật vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Hơn 3 giờ sáng, cậu em trai trở về, tôi biết vừa giải quyết xong thủ tục xuất viện khiến cho nó mệt mỏi. Tôi mời mẹ đến trước giường trợ niệm cho cha, còn tôi giải thích với cậu ấy là tại sao phải xuất viện, đồng thời nói rõ lợi ích của công đức “Trì danh niệm Phật”.

Tôi nói với em trai:

– Thế giới hiện tại mà chúng ta đang ở đây là thế giới Ta-bà, trong đó có sáu đường. Sáu đường là: Cõi trời, cõi người, a-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. Con người của chúng ta chia làm hai phần: Thần thức và thân hình. Thân giống như là một bộ áo quần, sử dụng lâu ngày rồi sẽ cũ mục hư hoại, khi thân chúng ta hư hoại, thần thức phải lìa khỏi thân. Sau khi thần thức lìa khỏi thân, sẽ theo sự dẫn dắt của nghiệp lực luân hồi trong sáu đường. Nếu lúc sắp ra đi có thể trì niệm thánh hiệu A-di-đà thì Phật A-di-đà sẽ đến đón chúng ta về thế giới Tây phương Cực Lạc. Đó là một thế giới không có ba đường ác, đến nơi đó có thể một đời thành Phật, mãi mãi thoát khỏi nỗi khổ luân hồi trong sáu đường.

Sau khi nghe xong, em trai hỏi:

– Điều chị nói là hão huyền, có khoa học nào chứng minh?

Tôi nói:

– Vấn đề em hỏi rất hay, chị không có cách để chứng minh, ngoại trừ bản thân mình thể nghiệm, nhưng trong kinh điển Đức Phật đã giảng, sự thật này được trình bày rất rõ.

Cậu em tiếp lời:

– Mấy hôm nay mắt em cứ giựt mãi, hôm nay trong nhà gọi điện thoại đến công ty tìm em, em mới biết việc đã nghiêm trọng như thế.

Tôi lại bảo em:

– Em là do cha sinh ra, lại là con trai, nếu em chịu đến niệm Phật cho cha thì với cha sẽ có được những lợi ích tuyệt đối. Nhưng niệm Phật không thể nào miễn cưỡng, cần có tâm chuyên nhất. Nếu tâm không chuyên thì hiệu quả giảm rất nhiều.

Nói xong tôi liền đi vào phòng cha niệm Phật. Lát sau, đứa em trai cũng đến niệm. Tôi chân thành nói với em: “Cảm ơn em!”

Cậu em trả lời: “Đây là việc em nên làm”. Mới niệm mấy phút, toàn thân cậu em đã nóng bừng. Đã hơn 3, 4 giờ sáng, cậu chỉ mặc áo ngắn tay mà cũng không thấy lạnh.

Cha tôi lúc tỉnh lúc mê, phần lớn là do nội tạng đau đớn nên thức tỉnh thì rên rỉ. Mỗi lần nhìn thấy tình trạng này, lập tức tôi đến bên tai cha lớn tiếng niệm Phật nhanh bốn chữ thánh hiệu A-di-đà Phật. Đồng thời tôi bảo cha cố gắng cùng tôi niệm ra tiếng. Tôi làm như vậy là mong đổi tiếng rên của cha thành tiếng danh hiệu Phật. Ban đầu cha tôi vẫn kêu đau, nhưng sau đó từ từ ông gượng đau cắn răng niệm danh hiệu Phật, có thể niệm theo tôi hai tiếng hoặc ba, bốn tiếng, nhưng không có cách nào niệm liên tục đến mười tiếng.

Hơn 6 giờ sáng, cha tôi đưa đôi mắt trong trẻo nhìn cô út hỏi: “Cô là ai?”. Tôi nói với cha, đây là cô út của tôi, mục đích đến đây niệm Phật cho cha. Cha vội vàng xin lỗi cô út.

Tôi hỏi:

– Cha có đồng ý đi thế giới Tây phương Cực Lạc không?

Cha đáp:

– Đi chứ!

Tôi nói:

– Chỉ có Đức Phật đến cha mới được đi theo Ngài, còn gặp bất kỳ họ hàng quyến thuộc trong nhà nào khác đến tìm, cha đều không nên đi theo nhé!

Cha gật đầu. Hơn 7 giờ, tôi lại hỏi cha:

– Cha có muốn đi thế giới Tây phương Cực Lạc không?

Cha lắc đầu nói:

– Không muốn đi!

Trong lòng tôi rất căng thẳng, tôi hỏi:

– Vì sao cha không muốn đi, vẫn còn điều gì chưa buông bỏ được?

Cha đáp:

– Không lìa bỏ được con cái.

Tôi hiểu ý cha, đó là ông không nỡ xa lìa đứa con gái và cậu con trai ruột của mình. Tôi vội mời mẹ đến nói chuyện với cha. Mẹ bảo:

– Ông hãy an lòng, ông đi trước đến thế giới Tây phương Cực Lạc, sau đó chúng tôi cũng sẽ đi. Ông đi trước an ổn, sau này lúc chúng tôi sắp đi, ông lại theo Đức Phật A-di-đà đến đón chúng tôi nhé!

Cha đáp: “Vâng!”

Tôi lập tức đến phòng khách bảo em gái:

– Ba không chịu đi đến thế giới Tây phương Cực Lạc, vì ông không nỡ rời xa con cái.

Nghe mấy lời này, cô em khóc nức nở. Tôi khuyên nhủ:

– Dung, em không thể khóc được, em khóc tức là đưa ba đi vào sáu nẽo luân hồi. Em phải nói với ba: “Duyên đã chín mùi, ba đi trước đến thế giới Tây phương Cực Lạc, sau đó chúng con cũng sẽ đi, đến lúc đó ba lại theo Đức Phật đến đón chúng con”.

Cô em khóc, nói không biết phải làm cách nào đi đến thế giới Tây phương Cực Lạc?

Tôi bảo:

– Chuyên tâm niệm Thánh hiệu Phật A-di-đà, một lòng muốn đi, nhân duyên chín mùi thì Phật A-di-đà sẽ đến tiếp dẫn”.

Tôi lại bảo:

– Đợi em khóc xong rồi, lau khô nước mắt, nhất định em phải đến nói với ba đó.

Nói xong, tôi liền trở vào niệm Phật bên cạnh cha. Lát sau, cô em gái đi vào phòng cha. Cô nói với cha: “Ba, con là Dung đây, con sẽ chăm sóc tốt bản thân mình, cũng sẽ chăm sóc tốt mẹ nữa, ba hãy an lòng đi về thế giới Tây phương Cực Lạc, sau đó chúng con cũng sẽ đến thế giới Tây phương Cực Lạc. Chúng ta sẽ mãi đoàn tụ ở thế giới đó”.

Niệm Phật được một lát, tôi lại hỏi cha:

– Ba, ba muốn đi thế giới Tây phương Cực Lạc không?

Ba vẫn lắc đầu nói: “Không muốn đi”.

Tôi và cô út đều rất hồi hộp. Tôi vội hỏi:

– Ba vẫn còn điều gì chưa dứt được sao?

Ông đáp: “ Mẹ của ba đó”.

Tôi hiểu ý cha, ông vẫn luôn nhớ đến mẫu thân mình ở Đại lục chưa thăm viếng, điều đó luôn ray rứt trong lòng ông. Tôi nói:

– Ba, mẹ của ba cũng ở thế giới Tây phương Cực Lạc, ba phải tin Đức Phật A-di-đà, đến thế giới Tây phương Cực Lạc, Đức Phật A-di-đà sẽ đưa ba đi tìm mẹ”.

Cha gật đầu, tiếp tục niệm được một lát, tôi lại hỏi:

– Ba có muốn đi thế giới Tây Phương Cực Lạc không?

Ông đáp: “Muốn”.

Cuối cùng, trong lòng tôi mới được an.

Trong suốt quá trình niệm Phật, chúng tôi gặp phải vấn đề khó xử. Ví dụ:

1. Có nên để cha ngủ không? Vì sợ cha ngủ thì đi luôn trong giấc ngủ, nhưng sợ cha mệt, không cho ông ngủ thì lòng không nỡ.

2. Lúc trợ niệm cho cha, tôi luôn chú ý đến từng cử động của ông, niệm Phật như thế có được tâm chuyên nhất không?

Hơn 9 giờ sáng, tôi điện thoại đến Đài Bắc thỉnh giáo cư sĩ Liêu. Ông nói: “Cha muốn ngủ cứ để ông ấy ngủ, còn chúng ta những người trợ niệm phải luôn bên cạnh chuyên tâm trợ niệm, nhưng khi trợ niệm cho người sắp ra đi, cũng phải chú ý đến tình trạng của họ, song không nên chú ý quá nhiều”. Cư sĩ Liêu còn bảo tôi: “Thông thường người sắp vãng sinh sẽ không muốn ăn gì cả, hơn nữa sẽ từ từ bài tiết hết những chất dơ trong cơ thể. Nếu cha niệm Phật miệng khô, thì có thể cho ông uống một ít nước nóng, còn không muốn ăn thì chẳng sao cả”.

Sau đó, chúng tôi vẫn niệm theo nhịp điệu của chiếc máy niệm Phật, chỉ khi cha đau kêu rên, thì tôi mới đến bên cha niệm lớn tiếng và thật nhanh bốn thánh hiệu A-di-đà Phật. Cha tôi cũng đổi tiếng kêu rên thành tiếng niệm Phật. Khi mới bắt đầu, cha chỉ có thể tiếp theo được bốn, năm câu danh hiệu Phật, đến sau thì có thể niệm được mười mấy câu. Thậm chí có lúc cha có thể tự mình chủ động niệm ra tiếng đủ mười câu thánh hiệu Phật A-di-đà. Tôi nhìn trong ánh mắt, đột nhiên cảm thấy một bức màn giống như trong chương “Đại Phật Đảnh Thủ Lăng-nghiêm kinh Đại Thế Chí Bồ-tát niệm Phật Viên Thông” đã nhắc đến cảnh tượng: “Nếu con nhớ mẹ như khi mẹ nhớ con, thì mẹ con gặp nhau không thể xa rời”.

Niệm được một lát, cha bảo tôi:

– Nghê à! Con có biết người cha này của con (chỉ chính mình) từ năm 20 tuổi đến sau này rất là bừa bãi không?”.

Về điểm này, đương nhiên tôi không hiểu được, vì ba và mẹ tôi khi kết hôn đã 50 tuổi rồi. Tôi nói:

– Ba à! việc trước đây không còn lo nữa, hiện giờ chúng ta chuyên tâm niệm Phật. Phật Di Đà rất từ bi, chỉ cần ba bằng lòng đi thế giới Tây phương Cực Lạc, chịu niệm Phật thì Phật Di-đà nhất định đến đón ba. Nếu như ba thấy Đức Di-đà đến đón thì nên cho chúng con biết, ba phải vui vẻ theo Đức Phật A-di-đà đến thế giới Tây phương Cực Lạc được không?

Ông gật đầu đáp: “Được!”.

Cha niệm Phật rất tốt, niệm một hơi đủ mười câu, đột nhiên ông lại bảo tôi:

– Nghê à! Ba rất xấu hổ (chỉ cho trước đây mình không thường niệm Phật). Tôi bảo:

– Con cũng vậy, mỗi lần đọc kinh đều không thể chuyên tâm, nhưng không sao cả, hiện giờ chúng ta bắt đầu chuyên tâm niệm Phật, nhất định phải niệm đến khi Phật A-di-đà đến đón, ba phải theo Đức Phật Di-đà đến thế giới Tây phương Cực Lạc.

Cha lại bảo:

– Nghê à! Kinh Vô Lượng Thọ thật sâu xa! Có chỗ ba hiểu, có những chỗ ba không hiểu.

Tôi nói:

– Đúng vậy! Kinh Vô Lượng Thọ thật là sâu xa! Con cũng có nhiều chỗ không hiểu. Vì tuổi thọ của chúng ta nơi cõi này có giới hạn nên không thể làm sáng tỏ hết ý tứ đã có trong kinh, nhưng đến thế giới Tây phương Cực Lạc, tuổi thọ nơi đó vô hạn lượng, lại được học với Đức Phật Di Đà thì có thể hiểu được tất cả ý nghĩa trong kinh. Ba à! Đức Phật Di-đà rất từ bi, Ngài đã phát 48 đại nguyện để độ tất cả chúng sinh khổ nạn nơi thế giới Ta bà của chúng ta. Bây giờ, con sẽ đem lời nguyện của Đức Phật Di-đà đã phát, đọc một lần cho ba nghe, được không?

Cha đáp: “Được!”.

Thế là, tôi liền bắt đầu đọc phẩm thứ sáu phát đại thệ nguyện của kinh Vô Lượng Thọ. Tôi đọc ngay đoạn:

“Nguyện khi ta thành Phật, chúng sinh trong mười phương, nghe đến danh hiệu ta, chí tâm tin, ưa thích, có bao nhiêu căn lành, đều hết lòng hồi hướng, nguyện sinh về nước ta, cho đến trong mười niệm. Nếu người nào không sinh về Cực Lạc, thì ta quyết không thành Chính Giác, chỉ trừ những người tội ngũ nghịch, phỉ báng chính pháp”.

“Ba à, ý đoạn này nói, mười phương chúng sinh, nghe đến thánh hiệu của Phật A-di-đà mà sinh lòng hoan hỷ, và bằng lòng vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, chỉ cần chuyên tâm, chí thành niệm mười câu thánh hiệu của Đức Phật A-di-đà thì có thể vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc”.

“Khi ta thành Phật, chúng sinh trong mười phương, nghe đến danh hiệu ta, phát bồ-đề tâm, tu các công đức, thực hành sáu Ba-la-mật, bền lòng không thoái chuyển, lại đem tất cả căn lành hồi hướng, nguyện sinh vào nước ta, một lòng nhớ nghĩ ta, ngày đêm không gián đoạn thì lúc lâm chung, ta sẽ cùng chúng Bồ-tát đến rước người ấy trong khoảng sát na, liền sinh vào nước ta, làm Bồ-tát bất thoái chuyển. Nếu không được như nguyện này, ta nguyện không thành Chính giác”.

Thưa ba, ý đoạn này nói: “Chúng sinh trong mười phương nghe đến thánh hiệu của Đức Phật A-di-đà, mà nhất tâm hướng thiện, và phát nguyện vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, chỉ cần ngày đêm niệm Phật liên tục thánh hiệu của Đức Phật A-di-đà thì khi lâm chung, Đức Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí cùng đến đón về thế giới Tây phương Cực Lạc.

Sau đó tôi lại hỏi cha:

– Ba có muốn đi thế giới Tây phương Cực Lạc không?

Ông đáp: “Muốn”.

– Ba đã quy y Tam bảo, quy y Đức Phật A-di-đà, là đệ tử của Ngài, Phật A-di-đà rất từ bi, chúng ta chuyên tâm niệm Phật, Phật nhất định sẽ đến tiếp dẫn. Khi Phật A-di-đà đến rước, ba nhất định phải cho chúng con biết nhé!

Ông nói:

– Ừ, y phục chuẩn bị xong chưa?

– Thưa ba, mọi thứ đã chuẩn bị xong, khi còn ở Đài Bắc con đã giúp ba thỉnh hết rồi. Đức Phật Di-đà bao giờ mới đến đón ba vậy?

Ông nói: “Có lẽ là hôm nay”.

Niệm danh hiệu Phật được một lát, đột nhiên cha sờ tìm vật gì dưới chiếc gối, nói là cần lấy giấy bút ghi địa chỉ. Tôi nói:

– Ba, sau khi ba đến thế giới Tây phương Cực Lạc muốn đi đâu thì sẽ được đi đến đó, muốn tìm ai thì có thể tìm, tự nhiên tìm được, không cần địa chỉ.

Sau đó, tâm cha bắt đầu ổn định, ông niệm Phật rất chuyên tâm, có lúc trong một hơi niệm đủ mười câu danh hiệu Phật, có lúc vì đau mà kêu lên. Tôi càng kiên định bảo cha:

– Ba hãy chuyên tâm niệm Phật, còn những thứ khác không cần lo. Pháp sư Tịnh Không nói, vãng sinh về thế giới Tây phương là đi vào cõi sống, tuyệt đối không thể chết, đã chết thì không đến được.

Cha hỏi:

– Phải chuyên tâm như thế nào, có phải là ngay cả đau đớn cũng không nghĩ đến nó?

Tôi đáp:

– Đúng rồi, đau đớn cũng không cần để ý nó, phải chú tâm vào danh hiệu Phật.

Cứ luôn nhắc nhở, hỗ trợ như thế, cha tôi đã chuyển tiếng kêu rên thành tiếng niệm Phật. Dần dần cha vừa đau liền có thể tự mình niệm thánh hiệu Phật A-di-đà. Nhìn biểu hiện trên gương mặt của cha, có thể thấy là cha rất đau, nhưng vẫn mười phần kiên định cắn răng niệm Phật. Thời gian này cha cũng từng nói: “Ngày mai là ngày bắt quỷ”, “chúng rất đói” v.v…” Hễ cha tôi quên niệm Phật, thì tôi vội nhắc nhở cha: “Ba, mọi thứ đều không nên nghĩ đến, chúng ta phải chuyên tâm niệm Phật”.

Lúc này, chúng tôi lại phải đối mặt với mấy vấn đề nan giải:

1. Cha rất hay nói, nếu để ông nói ra những nghi ngờ suy nghĩ trong lòng ông thì có tốt không? Hay nhắc nhở cha chuyên tâm niệm Phật là tốt?

2. Khi niệm Phật phải niệm lớn tiếng một chút có tốt không? Hay là niệm nhỏ tiếng thì hay hơn?

3. Khi cảm thấy cha rất đau đớn, nếu niệm Phật lớn tiếng hơn thì có làm cho cha đau đớn hơn không?

Khoảng 5 giờ chiều, tôi lại điện thoại đến Đài Bắc thỉnh giáo cư sĩ Liêu. Ông nói: “Cứ để phụ thân nói hết những suy nghĩ, nghi ngờ trong lòng mình ra, để tránh trong lòng ông còn những trở ngại, nhưng cũng không thể chỉ nói kể lể mà quên đi niệm Phật. Lúc niệm Phật, điểm quan trọng không phải ở âm thanh lớn hay nhỏ, mà là ở chỗ danh hiệu Phật phải niệm thật trang nghiêm. Nếu niệm lớn tiếng danh hiệu Phật thì rất chói tai, sẽ khiến người sắp ra đi khó chịu. Nếu niệm danh hiệu Phật trang nghiêm thì có thể giảm nhẹ nỗi đau của người sắp lâm chung”. Ông còn nói: “Quán tượng Phật cũng là một phương pháp rất hay. Người trợ niệm có thể quán tượng Phật, quán tưởng hào quang của Phật tỏa chiếu toàn thân của người sắp mất, có thể giảm nhẹ nỗi đau của họ, đồng thời cũng có thể khai thị cho những oan gia trái chủ của cha mình, hy vọng mọi người cùng giúp đỡ ông vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Như thế mọi người đều có công đức. Huống gì hôm nay thân phụ vãng sinh, hoàn toàn chẳng phải là đã đi rồi không còn lo nữa; phụ thân đến thế giới Tây phương Cực Lạc sẽ có năng lực đến giúp chúng ta. Vì vậy, hôm nay chúng ta thành tựu việc vãng sinh cho cha thật ra cũng là thành tựu vãng sinh cho chính mình. Hãy đem toàn bộ công đức vãng sinh của phụ thân hồi hướng cho oan gia trái chủ của ông”.

Ông nói: “Chí thành khẩn thiết trợ niệm cho cha là quan trọng nhất. Nếu có thể nên thắp hương hướng về Tây phương, đem tâm chí thành cung kính khẩn cầu Phật và Bồ-tát đại từ đại bi, Phật lực gia trì phụ thân chính niệm rõ ràng, tiếp dẫn người về thế giới Tây phương Cực Lạc. Cũng là một trợ duyên rất tốt”.

Vì vậy, tôi nói với cô út và hai em, có thể quán tượng Phật, niệm Phật, cầu hào quang soi chiếu cha để giảm bớt nỗi đau đớn của ông. Đồng thời, chúng tôi cũng bắt đầu thắp hương hướng về Tây phương cầu nguyện:

– Nam Mô A-di-đà Phật (10 câu), Nam Mô Quán Thế Âm Bồ-tát (10 câu), Nam Mô Đại Thế Chí Bồ-tát (10 câu), Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát (10 câu). Con Diệu Âm đệ tử của Phật A-di-đà, cầu xin Đức Phật và Bồ-tát gia hộ cho cư sĩ Lạc Toàn Thông, mỗi mỗi câu thánh hiệu A-di-đà, niệm niệm sinh Tây phương Tịnh Độ, phút lâm chung từ một niệm đến mười niệm mong Phật tiếp dẫn, vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, làm Bồ-tát bất thoái chuyển, một đời bất thoái thành Phật.

Tôi cũng thỉnh bức thánh tượng Phật A-di-đà lớn trên tường phòng khách dời sang an trí trên tường bên giường của cha. Hơn 7 giờ tối, cha yêu cầu treo bức tượng Phật A-di-đà trên tường trước mắt ông. Ông muốn quán tượng Phật. Lúc này, cậu em trai vừa về đến, đột nhiên cha nắm chặt lấy tay tôi và em trai nói:

– Hai đứa con có trách nhiệm rất lớn.

Tôi không hiểu ý cha. Ngay tối hôm đó, cha niệm Phật rất tốt, có lúc cha tự mình xướng lên danh hiệu Phật, và còn có thể niệm liên tục trong một thời gian dài.

Buổi tối do cô út trực ca trợ niệm trước, đến khuya lúc gọi tôi dậy đổi ca, cô nói: “Tình trạng cha cháu rất tốt, có lúc có thể tự mình niệm danh hiệu Phật trong một thời gian dài, vãng sinh có lẽ không thành vấn đề”.
b) Trợ duyên hiện tiền.

( Ngày thứ năm, mùng 8 tháng giêng năm 1998).

Trưa ngày mùng 8 tháng giêng năm 1998, tôi và mẹ hỏi cha:

– Chúng ta đi tắm, tắm rửa sạch sẽ để theo Đức Phật A-di-đà về thế giới Tây phương Cực Lạc được không?

Cha đáp: “Được”.

Ngay từ hôm thứ hai, cha đã không ăn gì, sau khi trợ niệm cho cha, tôi nhiều lần hỏi cha có đói không? Cha đều nói không. Vì vậy chúng tôi chỉ dùng ống hơi mớm cho cha ít nước. Lần này, sau khi tắm rửa sạch sẽ, cha nằm trở lại giường tiếp tục niệm Phật. Lát sau, cha bảo tôi:

– Nghê à! Họ cần tiền, con đến ngân hàng lãnh tiền cho họ.

Mỗi khi cha không niệm Phật, nói những chuyện phiếm khác (hình như đang trò chuyện với ai khác), tôi liền nhắc nhở cha:

– Ba hãy chuyên tâm niệm Phật đi nhé.

Vì tôi liên tưởng đến hôm qua cha thường nói: “Họ đói lắm”. Tôi còn hỏi cha: “Có phải là ba đói không?”. Cha đáp quả quyết: “Không phải, cha không đói, họ đói đấy”.

Có người từng hỏi pháp sư Tịnh Không: “Siêu độ vong hồn đốt tiền giấy, họ có sử dụng không?”

Pháp sư đáp: “Nếu như những vong hồn được cầu siêu đang ở trong đường địa ngục, súc sinh thì đốt tiền giấy, họ đâu sử dụng được, chỉ có vong hồn ở trong đường ngạ quỷ, đốt tiền giấy cho, họ mới sử dụng được”.

Vì vậy, bây giờ cha tôi nói: “Bọn họ cần tiền”. Hơn nữa cha còn nói: “Họ rất đói”. Trực giác cho tôi biết những oan gia trái chủ của cha đang ở trong đường ngạ quỷ. Thế nên, chuyên tâm nhất ý mong mỏi trợ niệm cho cha đúng như lý, như pháp, cũng không biết đốt tiền giấy có đúng như pháp không? Trong lòng tuy rất muốn điện thoại hỏi cư sĩ Liêu, nhưng vì đã liên tục điện thoại hỏi nhiều lần, thật ngại ngùng lại quấy rầy ông nữa.

Tôi suy nghĩ rất lâu, liền bảo em gái đi mua rất nhiều giấy tiền, định phân ra đốt cho những oan hồn trái chủ của cha. Lần đầu, tôi đốt vào buổi trưa. Hơn 5 giờ chiều, tôi lại đốt lần thứ hai. Khi đốt buổi chiều, đứa con gái nhỏ cứ bám chặt lấy tôi (nó đã hơn 1 tuổi, bình thường có thể chơi một mình), tôi bảo bé đến phòng khách chơi, nhưng nó vừa nhìn vào cửa phòng khách thì khóc thét lên, không chịu vào. Đứa con trai nhỏ của em gái cũng khóc ngằn ngặt. Không bao lâu, mẹ tôi lại vô duyên cớ té sóng soài trong phòng khách, đau chịu không nổi, dường như đứng lên không được. Tôi vội chạy qua nhắc mẹ lớn tiếng niệm Phật. Tôi nói với mẹ: “Mẹ xem ba đau như thế mà còn có thể tự mình niệm danh hiệu Phật, chúng ta cũng phải học theo gương của ba. Vả lại, nếu bây giờ mẹ đau quá kêu rên, không niệm Phật thì sẽ làm thỏa mãn ý những oan gia trái chủ của ba, cắt đứt tiếng niệm Phật”.

Sau khi nghe xong, mẹ nén đau, lấy lại tinh thần, lớn tiếng niệm: A-di-đà Phật.

Lúc đó, tôi cảm thấy chúng tôi cần phải chuyên tâm hơn, niệm Phật chú tâm hơn nữa, vì cha tôi đang gặp một số chướng duyên. Ví dụ như: Muốn cầm tượng Phật ra ngoài, ông còn nói: “Không cần đâu! Không cần niệm Phật đâu!”. Ông lại muốn tốc chiếc mền vãng sinh đang đắp trên người ra.

Tôi nói với ông:

– Ba, tượng Phật không thể đem đi, chúng ta nên quán tưởng Phật, niệm Phật, chuyên tâm niệm Phật nhất định có hữu dụng.

Vì những hiện tượng này, lại thêm tiếng khóc ồn náo của hai đứa trẻ, khiến tôi cảm thấy phải chuyên tâm niệm Phật mới được. Mỗi lần thắp hương, tôi lại khẩn cầu Phật, Bồ-tát từ bi gia hộ cho cha chính niệm rõ ràng và đọc bài văn cầu nguyện một biến.

Mười một giờ đêm, ngày mùng 8 tháng giêng, luân phiên đến tôi trực ca. Đang lúc phải thắp hương, vì vậy hai tay tôi cầm hương, miệng niệm Phật đi ra ngoài sân, vừa bước ngang qua cửa phòng khách liền cảm thấy từ da đầu đến bắp vai toàn thân tê cứng. Con chó nhà hàng xóm cứ sủa mãi, tôi không do dự quỳ xuống đất, cung kính đọc một biến văn cầu nguyện, tiếp theo niệm thánh hiệu Phật A-di-đà rồi trở vào nhà. Mười hai giờ khuya, cậu em trai trở về. Tôi bảo em gái vào phòng trợ niệm trước, tôi đến phòng khách đem tình hình của cha ngày hôm nay, và cả những việc đã xảy ra trong nhà kể cho em trai nghe. Tôi nói: “Hôm nay chị ba về, nhất định trợ niệm cho cha đến cùng, nhưng nếu có sự giúp sức của em, tin rằng có thể giảm nhẹ sự đau khổ của cha”. Lát sau, tôi đi vào phòng cha, cậu em trai cũng bước vào theo cùng niệm Phật. Đột nhiên tôi cảm nhận ra hàm ý tối qua cha nắm chặt tay tôi và em trai nói: “Hai đứa con có trách nhiệm trọng đại”.

Khoảng 2 giờ 40 sáng, cha nói một câu: “Đến giờ rồi”. Con chó lại bắt đầu sủa. Tôi và em trai không dám lơ là, càng chuyên tâm niệm Phật trang nghiêm hơn. Cha cũng niệm theo chúng tôi. Khoảng 3 giờ rưỡi sáng, em trai nói với tôi:

– Chị ba, em phải đi nghỉ, sáng mai còn phải đi làm.

Tôi bảo: “ Ừ, em đi”.

Vì niệm Phật phải chuyên tâm, không thể có mảy may miễn cưỡng, nếu em trai đã mệt thì phải để nó đi nghỉ. Nó vừa ra khỏi cửa phòng cha thì con chó ngoài cửa lại sủa lên. Em trai vội trở vào niệm Phật cho cha. Niệm suốt đến khoảng 4 giờ 45 phút, tôi bảo nó:

– Có lẽ không sao rồi, bây giờ em đi nghỉ một chút, đợi lát nữa còn phải đi làm.
c) Phật A-di-đà từ bi tiếp dẫn.

( Thứ sáu, ngày mùng 9 tháng giêng năm 1998).

Sáng sớm, khi cô út đến tiếp ca niệm Phật, cha nói ông rất mệt, liền chìm vào giấc ngủ, nhưng chúng tôi vẫn ngồi một bên trợ niệm. Do tình hình đêm qua khá căng thẳng, tôi lại không biết đốt giấy tiền rốt cuộc có tốt hay không, vì vậy tôi vội điện thoại thỉnh giáo cư sĩ Liêu. Ông bảo tôi: “Bây giờ chính là lúc binh tướng đến. Nếu như lực niệm Phật lớn hơn lực của oan gia trái chủ thì có thể vãng sinh”. Ông lại nói: “Gần đây ở Đại lục có một cư sĩ tên Trương Hạnh Tài sắp vãng sinh, mọi người giúp ông trợ niệm, trợ niệm đến bốn ngày, bốn đêm mới vãng sinh. Hai ba ngày trước khi vãng sinh, oan gia trái chủ hiện ra trước mặt ngăn trở hai, ba lần. Lúc ấy, vị cư sĩ này bứt rứt không an, cầm chuỗi niệm ném đi, cũng không chịu niệm Phật. Sau đó, các bạn trong hội mới khai thị cho các oan gia trái chủ, và cầu xin Đức Phật A-di-đà từ bi gia hộ, sau cùng cư sĩ cũng vãng sinh đến thế giới Tây phương Cực Lạc”.

Tôi hỏi lại: “Có thể đốt giấy tiền không?”

Cư sĩ nói: “Tốt nhất không nên đốt giấy tiền, đốt giấy tiền không phải là cách làm của nhà Phật”.

Tôi rất xấu hổ, nói: “Nhưng đêm qua, tôi đã đốt rồi”.

Cư sĩ từ bi nói: “Đốt rồi thì thôi, nhưng không nên đốt nữa. Chúng ta phải hiểu, nghiệp nhân trong đường ngạ quỷ là tham. Vì tham mới đọa vào đường ngạ quỷ. Nếu lòng tham không chán, chúng ta có đốt bao nhiêu giấy tiền, cũng không thể giải quyết được vấn đề của cha cô, nhất là khi rơi vào đường ngạ quỷ, phải chịu sự đau khổ trong khoảng thời gian rất lâu, rất khó có cơ hội nghe được Phật pháp. Nếu muốn cho họ được lợi ích chân thật thì nên đem pháp môn niệm Phật giới thiệu cho họ, để họ cũng niệm Phật, mới có cách thoát khỏi đường ngạ quỷ. Chúng ta đem tâm vui vẻ an hoà, lời khả ái giảng cho thông suốt, bảo cho họ biết cơ duyên về thế giới Tây phương Cực Lạc rất thù thắng khó gặp. Hôm nay cha cô nhân duyên đã chín mùi, có thể vãng sinh về thế giới Tây phương. Chúng ta mọi người nên cùng nhau trợ niệm cho ông ấy. Mọi người đều có công đức, chúng ta cũng hãy đem toàn bộ công đức trợ niệm này hồi hướng cho oan gia trái chủ của ông”.

Sau khi trò chuyện điện thoại với cư sĩ Liêu xong. Tôi bảo cô em không cần đốt giấy tiền vàng bạc nữa, chúng ta phải thành kính, siêng năng niệm Phật hơn.

Do tình hình tối qua khiến cho mọi người căng thẳng, không biết oan gia trái chủ của cha đến bao nhiêu, cũng không biết còn đến nhiều ít, vì vậy chúng tôi phải sắp xếp ca luân phiên trợ niệm, tôi và cô út đều có thể duy trì thể lực, chúng tôi dự định trường kỳ trợ niệm. Tôi nói với cô út:

– Tuy chúng ta ít người nhưng không sao. Vì chúng ta có Phật A-di-đà. Nếu họ có thể tương ưng với Phật A-di-đà, thế thì càng tốt, chúng ta mọi người cùng đi đến thế giới Tây phương Cực Lạc.

Sau bữa cơm trưa, tôi trở về phòng nghỉ ngơi trước, vừa nằm xuống, tôi cảm thấy nơi đỉnh đầu có ánh vàng rực chiếu xuống, mở mắt ra thì không thấy gì cả, nhưng vừa nhắm mắt lại thì cảm thấy nơi đỉnh đầu có ánh sáng vàng đó rọi xuống, tôi không để ý đến, để duy trì thể lực cho trợ niệm, tôi cần phải nghỉ ngơi một lát.

Vì dự định trường kỳ trợ niệm, buổi chiều tôi và cô út vừa niệm Phật, vừa quét dọn qua căn phòng của cha một lượt, và trải tấm nệm da, phương tiện cho chúng tôi lễ Phật, niệm Phật, kinh hành v.v… Hơn 4 giờ chiều, đột nhiên tôi nghe có nhiều tiếng chim hót, nghe vui tai rất hay. Bình thường, tôi về nhà từ trước đến giờ, chưa hề nghe tiếng chim hót nhiều như vậy. Tôi hỏi con gái nhỏ của em gái:

– Giai Giai, bình thường có nhiều chim như vậy không?

Cô bé lắc đầu. Tôi chạy đến sân nhìn xem, thấy chim đậu trên hai cội cây trước cửa sổ phòng cha, khoảng mấy mươi con. Tiếng hót nghe rất sinh động vui tai, tôi vội mời mẹ đến xem, mẹ nói bình thường không có chim nhiều như thế, trước giờ bà cũng chưa hề thấy.

Vì việc trợ niệm khá quan trọng, cho nên tôi không dám đứng trong sân lâu. Bốn giờ rưỡi, tôi cầm hương, miệng niệm Phật, lại đến sân nguyện cầu chư Phật, Bồ-tát từ bi gia hộ cho cha chính niệm rõ ràng. Sau khi dâng hương xong, tôi trở vào phòng cha trợ niệm. Phụ thân vẫn ngủ rất say. Tôi lại lễ Phật một lần nữa cầu xin Phật và Bồ-tát gia hộ cho cha chính niệm rõ ràng (văn cầu nguyện y như trước). Sau khi lạy Phật xong, bỗng nhiên trong tâm khởi lên ý muốn nhìn thử cha (tôi luôn để ý tình trạng của cha). Lúc đó, tôi thấy miệng cha máy động ba cái, rồi không còn thở nữa. Khi ấy là 4 giờ 50 phút ngày thứ sáu, mùng 9 tháng giêng năm 1998.
d) Trợ niệm sau khi tắt thở.

1. Chí tâm niệm Phật.

(Tối ngày thứ sáu, mùng 9 tháng giêng năm 1998).

Phát hiện cha không còn thở nữa, ngay khi ấy tôi rất hồi hộp. Sau đó, tôi lập tức nghĩ đến lời cư sĩ Liêu nhắc nhở: “Trong quá trình trợ niệm, tuyệt đối không được hoảng loạn, tâm phải thanh tịnh mới có thể tương ưng với Phật”. Tôi nhè nhẹ chạm vào bàn tay cha, vẫn còn ấm, tôi không dám sờ vào nơi khác vì sợ thần thức cha trong quá trình rời thân thể, tạo thành sự đau đớn cho ông. Tôi vội đi đánh thức cô út vừa mới nghỉ ngơi, mời cô thay phiên trợ niệm trước, đồng thời lập tức điện thoại đến Đài Bắc thỉnh giáo cư sĩ Liêu. Cư sĩ hỏi tôi: “Cha cô, mạch còn đập không?” Tôi nói: “Không biết nữa, tôi không dám sờ vào mạch”.

Ông lại hỏi một số vấn đề, cuối cùng ông nói: “Suốt cả quá trình niệm Phật hộ niệm đúng như lý, như pháp, sự việc quả là rất viên mãn”.

Ông bảo tôi tiếp tục trợ niệm cho cha ít nhất là tám tiếng đồng hồ nữa.

Để bảo đảm cho chắc chắn, chúng tôi quyết định sau khi cha mất, trợ niệm thêm 24 giờ nữa cho tốt. Đồng thời mỗi lần dâng hương, ngoài việc cầu xin chư Phật, Bồ-tát tiếp dẫn cha vãng sinh thế giới Tây phương Cực Lạc, chúng tôi còn khai đạo cho cha:

– Ba, ba, ba (kêu to 3 lần), tuổi thọ của ba nơi thế giới này đã hết rồi, bây giờ con xin ba theo chúng con niệm Phật, thấy Đức Phật A-di-đà cầm đài hoa sen đến đón ba, ba phải vui vẻ đi theo Ngài đến thế giới Tây phương Cực Lạc, ba sẽ mãi mãi thoát khỏi khổ đau, mãi mãi được an vui.

Tôi lại đem tất cả công đức vãng sinh của cha lần này hồi hướng cho oan gia trái chủ của cha. Đến 12 giờ khuya, để giữ gìn sức khỏe chuyên tâm niệm Phật, tôi đi nghỉ trước. Tuy người đã nằm trên giường nhưng tôi vẫn nghĩ đến sự việc đáng chú ý sau khi tắt thở, có phải là đã giao nhận rõ ràng hay chưa? Một điểm quan trọng nhất trong đó là: Không được để một con côn trùng hay một con ruồi muỗi đến cắn chích vào thân thể người đã mất, để tránh cho người mất cảm thấy quá sức đau đớn mà tâm không cách nào vui vẻ niệm Phật, như thế sẽ làm lỡ mất cơ hội tốt vãng sinh. Điểm này tôi và em trai đã đề cập đến, cô út đã xem qua quyển sách “Làm cách nào niệm Phật vãng sinh bất thoái thành Phật” nên biết rõ. Nhưng tôi vẫn không sao ngủ được. Thế là, tôi ngồi dậy sang phòng cha dặn dò cô út, phải chú ý không được bất kỳ con kiến hay con muỗi chạm vào thân thể cha.

2. Điềm lành vãng sinh ứng hiện.

(Thứ sáu ngày mùng 10 tháng giêng năm 1998)

Trưa ngày mùng 10 tháng giêng, tôi và em gái bắt đầu liên hệ với đội nghi thức tẩn liệm. Chúng tôi mong mỏi theo nghi thức của Phật môn làm hậu sự cho cha, tôi nói cho đội mai táng biết, nhưng cần phải thuê trước một cỗ quan tài ướp lạnh thật đẹp, đem di thể của phụ thân an trí trong cỗ quan ướp lạnh, chúng tôi cả nhà đều không biết có tốt không? Tôi thỉnh giáo sư phụ ở thư viện Hoa Tạng. Sư phụ nói: “Phật pháp rất trọng thực chất, không trọng hình thức, làm hậu sự không cần phô trương, không nên chạy theo cái đẹp ở bên ngoài, để có thể khiến cho thân phụ được lợi ích chân thật là nguyên tắc, tất cả tùy duyên là tốt”. Hóa ra vì muốn mời đội mai táng mà phiền muộn, rối rắm. Tôi nghĩ: “Tâm của tôi như thế này thì không thanh tịnh rồi!”. Thế là, tôi an định tâm lại, quyết định tiếp nhận sự sắp xếp của đội mai táng và thiết lập linh đường ở trong sân nhà.

Do hậu sự phức tạp, tất cả việc trợ niệm phần lớn đều dồn hết cho cô út. Sau bữa cơm trưa, cô út tranh thủ thời gian rảnh nghỉ ngơi một chút. Cô vừa nằm xuống không lâu thì ngồi dậy kể cho tôi nghe một số cảnh tượng. Cảnh tượng tốt là thế giới Tây phương Cực Lạc. Cô út vì không ngủ được nên lại thức dậy niệm Phật. Lúc cô đi vào phòng của cha, em gái tôi nói với cô: “Chị Lưu may mà chị đến, em đi ngủ đây”.

Trong khi cô út đang niệm Phật, bỗng nhiên cô cảm nhận được nhiệm vụ lớn lao của mình. Thế là, cô mang ghế dựa ngồi trước giường của cha, mắt chăm chú nhìn ông. Không bao lâu, cô út thấy một con sâu nhỏ dường như muốn bay đến gần chót mũi của cha, cô vội giơ tay đuổi nó. Niệm Phật đến khoảng 2 giờ 25 phút chiều. Cô nhìn thấy một luồng khí trắng từ đỉnh đầu cha phóng ra, tiếp theo còn có luồng khí từ đầu xông lên. Sau đó khi đến niệm Phật cho cha, tôi cũng có nhìn thấy luồng khí trắng xông lên. Tôi nhẹ nhàng lấy lưng bàn tay mình đặt lên lưng bàn tay của cha thì cảm thấy lạnh thấu xương. Điều này và trong sách nói rất tương ứng.

Ngay trong quá trình trợ niệm sau khi tắt thở, tôi chỉ chạm vào thân cha ba lần. Một lần là khi cha vừa tắt thở, tôi đã nhẹ đặt vào lòng bàn tay của cha; phát hiện tay vẫn còn ấm; lần thứ hai là sau khi thỉnh giáo cư sĩ Liêu, bắt mạch cho cha, lần thứ ba là sau khi cha tắt thở trợ niệm đủ 24 tiếng, tôi lấy lưng bàn tay chạm vào lưng bàn tay cha. Tuy trong sách nói có thể nhẹ nhàng sờ nhẹ lên đỉnh đầu để phán đoán xem người chết đã vãng sinh Tây phương Tịnh Độ chưa? Nhưng chúng tôi không làm như thế, vì rất sợ làm tán loạn sẽ gây nên phiền não cho cha mà còn làm lỡ mất cơ hội tốt vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Sau việc đó, tính ra chúng tôi bắt đầu niệm Phật từ 11 giờ tối ngày mùng 6 tháng giêng cho đến 5 giờ chiều ngày 10 tháng giêng, tổng cộng đã trợ niệm cho cha 90 giờ.

Khoảng 6 giờ 30 phút chiều ngày hôm ấy, ông chủ của đội mai táng điện thoại hỏi y phục của cha tôi đã thay xong chưa? Tôi trả lời: “Chưa, chúng tôi đợi các anh đến thay!” Sau khi gác máy điện thoại, bỗng nhiên tôi phát hiện ra là con cái nên thay y phục cho cha mới đúng. Thế là, tôi và em gái cùng thay cho cha bộ y phục cư sĩ đã chuẩn bị xong từ trước. Áo tràng và vớ mới, giày mới… Quá trình thay y phục khá thuận lợi. Thân thể cha rất mềm mại, dễ di chuyển; rất nhanh chóng. Sau khi chúng tôi đã giúp cha hoàn thành việc thay áo, thay mũ, tôi chỉ lên trán và nói với em gái: “Dung, em xem trên đầu chị toàn là mồ hôi”. Tôi nhìn thấy em gái cũng mồ hôi đầy mặt. Em còn bảo tôi: “Áo sau lưng chị đều ướt hết rồi”.

Lúc đó chúng tôi đều cảm thấy rất lạ, vì đang là mùa đông, do luôn niệm Phật, không thấy lạnh nên mỗi người chỉ mặc cái áo mỏng tay dài, nhưng cũng không đến nỗi đổ mồ hôi. Sau đó lúc chúng tôi đang niệm Phật, đột nhiên cảm nhận ra đó là do có sự liên quan đến hào quang Phật tỏa xuống.

Từ sau khi cha ngừng thở, trong 24 giờ chúng tôi tiếp tục trợ niệm, hai gò má của cha từ đen hóp dần chuyển sang màu da bình thường, còn trên mô bàn tay những gân máu lồi lõm màu xám xịt cũng chuyển sang màu tươi hồng. Những điều này là việc tôi chưa từng thấy. Khi ông trưởng đội mai táng sắp đem di thể của cha từ phòng trong dời sang nhà khách, vì di thể rất mềm mại, cần phải ba người giúp sức, một người ở đầu, người ở chân và người ở chính giữa đỡ phụ mới đem đi được, vậy mà vẫn còn hơi trơn.

3. Một bầu không khí trong lành.

(Chủ nhật ngày 11 tháng giêng năm 1998).

Ngày 11 tháng giêng, từ kiếng lưu ly trong suốt của quan tài, chúng tôi có thể nhìn thấy quầng đen ở mắt cha hoàn toàn đã mất đi. Đến ngày thứ hai, nét mặt cha bắt đầu xuất hiện màu hồng tươi sáng, mẹ nhìn thấy bà khen là việc hiếm có, vì hiện tượng này và những cảnh tượng lâm chung trước đây bà đã thấy không giống nhau. Buổi trưa ngày 12 tháng giêng, sau khi hậu sự của cha sắp xếp ổn thỏa, tôi cùng cô út và đứa con gái nhỏ trở về Đài Bắc.

Ngày 13 tháng giêng, chồng của chị hai, mẹ chồng chị và sư phụ thân cận của họ cùng mấy người đến nhà tụng kinh niệm Phật cho cha. Mẹ tường thuật quá trình niệm Phật vãng sinh cho cha, sư phụ rất tán thán. Và bày tỏ ý không khí trong nhà rất an tịnh trong lành, không có cảm giác âm u.

Chủ nhật ngày 18 tháng giêng, cử hành lễ tống táng. Buổi chiều cách một ngày, tôi và đứa em trai thứ hai đến kiểm xương nơi hỏa táng. Vì chúng tôi không thấy xá lợi, mới thỉnh sư phụ kiểm xương. Từ trong mớ tro xương của cha, ông đã nhặt được xá lợi rải rác các nơi trên toàn thân, chúng tôi chỉ nhặt được một số trao cho mẹ làm kỷ niệm. Một mặt để cho mẹ an lòng, mặt khác tăng thêm lòng tin niệm Phật cầu sinh thế giới Tây phương Cực Lạc của bà. Những viên xá lợi nhặt được mang về tỏa màu xanh lam sáng dìu dịu. Đến trung tuần tháng 2, từ Đài Bắc tôi đã thỉnh được một tháp đựng xá lợi mang về thôn Trung Hưng Tân, khi chuẩn bị an trí xá lợi của cha, tôi phát hiện xá lợi đã chuyển sang màu quít đỏ.
e) Sự tích cảm ứng trước và sau khi trợ niệm.

1. Trước khi trợ niệm.

Cuối năm 1997, mẹ điện thoại báo tin: Cha nói ông ta sắp đi rồi, buổi tối thường không chịu tắt đèn ngủ.v.v…Tôi liền bắt đầu tụng kinh Vô Lượng Thọ và đem những công đức đó hồi hướng cho những oan gia trái chủ của cha.

Vào buổi sáng nọ, đứa con gái lớn ( học lớp 5 tiểu học) nói với tôi:

– Mẹ, tối qua con mộng thấy Đức Phật A-di-đà đến đón ông ngoại.

Tôi hỏi:

– Cảnh con mộng thấy là ở đâu?

Nó đáp:

– Ở nhà bà ngoại.

Tôi lại hỏi:

– Đức Phật A-di-đà mà con thấy hình dáng như thế nào?

Con bé đáp:

– Toàn thân màu vàng chói lọi.

Tôi hỏi tiếp:

– Lúc đó, còn có người nào ở trong nhà không?

Nó đáp:

– Mẹ và dì quỳ trước giường ông ngoại niệm Phật cho ông. Phật A-di-đà sắp đến đón ông ngoại. Mẹ muốn giúp ông mang giày. Ông nói không cần đâu.

Đây là lúc cha đang bệnh nặng, chúng tôi vẫn không có về trước trợ niệm, con gái lớn mộng thấy cảnh tượng cha được Đức Phật A-di-đà dẫn đi.

2. Trong khi trợ niệm.

Mẹ bảo tôi: “Trước khi các con vẫn chưa trở về niệm Phật, toàn thân cha không biết đau bệnh gì, chỉ cần chạm nhẹ là đau chịu không thấu, lúc thay áo quần, thay tã lót càng đau thấu tim. Nhưng từ sau khi các con trở về không ngừng niệm Phật thì cơn đau của cha đã giảm nhẹ rất nhiều, nửa thân trên có thể tự do hoạt động, lúc thay tã lót cũng không kêu đau; thậm chí đến sáng ngày vãng sinh mùng 9 tháng giêng, nửa thân dưới của cha cũng có thể hoạt động, còn có thể tự trở mình. Giấc ngủ sau cùng của cha là cánh tay phải đặt gần gương mặt phía bên phải, mặt ngủ nghiêng về bên phải ( Sư phụ nói ngủ kiểu này là dáng nằm cát tường).

Mẹ cũng bảo tôi, trước lúc chúng tôi chưa trở về niệm Phật, phụ thân luôn kêu lạnh lắm, đắp rất nhiều mền vẫn cảm thấy lạnh. Nhưng sau khi chúng tôi không ngừng niệm Phật, cha đã không cảm thấy lạnh, có lúc còn bảo với chúng tôi là ông nóng quá, lòng bàn tay của ông nóng như hòn than. Ban đầu, tôi vẫn rất lo có phải là cha phát sốt không, nhưng sờ lên trán ông lại không có dấu hiệu phát sốt. Vì vậy, có lẽ là trong tiếng danh hiệu Phật, thân thể cha đã chuyển thành ấm áp.

Ngoài việc này ra, trở về niệm Phật cho cha là việc quan trọng đầu tiên, cho nên mấy ngày đó, tôi đều không liên lạc với người nhà ở Đài Bắc. Mãi đến tối mùng 9 tháng giêng, trong điện thoại con gái lớn nói với tôi: “Mẹ, tối qua con mộng thấy ông ngoại bị quỷ bắt, sau đó con và mẹ luôn niệm Phật A-di-đà, niệm tới khi mấy con quỷ đó vừa bắt đầu nắm lỗ tai. Sau đó, nó dần dần biến mất không thấy nữa”.

Điều này thật là khớp với nhau không thể nghĩ bàn, đích xác tối hôm mùng 8 tháng giêng là căng thẳng nhất, nhưng tôi hoàn toàn không điện thoại báo với người nhà ở Đài Bắc, làm sao con gái lớn biết mà mộng thấy cảnh như thế. Hơn nữa ở trong mộng nó còn giúp sức niệm Phật.

Cô em gái cũng nói với tôi, nửa đêm mùng 7 tháng giêng, cô không ngủ được, đang ngồi trong phòng khách, đứa em trai đang trực ca niệm Phật cho cha, tôi và cô út nghỉ ở phòng ngoài nhưng cô em gái vẫn nghe tiếng những người con gái trợ niệm từ phòng cha vọng ra. Lúc ấy, cô em ý thức rất rõ ràng, cô cũng phân biệt được đó không phải là tiếng của tôi. Đồng thời nơi phía sân ngoài phòng khách cũng có tiếng rất nhiều người cùng niệm Phật. Sáng ra, khi chúng tôi đến đổi ca, phát hiện em trai đang nằm nghỉ trên ghế. Sau khi sự việc xong, tôi hỏi em trai: “Em có nghe tiếng các người nữ niệm Phật không?”.

Em trai nói: “Không”. Tôi đoán có thể là em trai đã ngủ say rồi. Vì muốn khiến cho không gián đoạn việc niệm Phật của cha nên chư Phật, Bồ-tát từ bi gia hộ, có sự hộ niệm trợ duyên khác.

3. Sau khi trợ niệm viên mãn.

Ngày 12 tháng giêng, sau khi tôi trở về Đài Bắc, cách một ngày, vào sáng sớm, đứa con trai nhỏ ( học lớp 1 tiểu học) vừa thức dậy liền nói với tôi:

– Mẹ, hôm qua con mộng thấy Phật A-di-đà đến đón ông ngoại.

Tôi hỏi:

– Chỗ con mộng thấy ở đâu vậy?

Nó bảo:

– Ở phòng khách nhà bà ngoại, mẹ đang giúp ông niệm Phật, Phật A-di-đà liền từ trong bức tượng bước ra, nói muốn đưa ông ngoại đi, để chúng ta không buồn nữa.

Ngày 15 tháng giêng, em gái điện thoại cho tôi, nói:

– Chị ba, có một việc nhất định em phải nói với chị. Hai hôm nay, cứ vào mỗi chiều liền có một luồng gió từ sân đối diện phòng ba thổi qua, hơn nữa còn có rất nhiều chim bay đến đậu trên hai cội cây trước phòng ba, giống như ba trở về thăm chị em mình đó. Còn nữa, Giai Giai (con gái của em gái) một hôm vừa thức dậy đã bảo em: “Mẹ, tối qua con mộng thấy con và ông ngoại đang ở trong căn phòng lớn, rất đẹp”.

Hai mẫu chuyện trên là cảnh tượng đứa con trai nhỏ thấy sau khi cha vãng sinh.

4. Đức Phật A-di-đà từ bi sắp đặt.

Sau 2 năm rưỡi khi cha bắt đầu tụng kinh, tôi bắt đầu lợi dụng những lúc trò chuyện giới thiệu cho cha những bạn bè thân cận. Trong đó, có một vị là bác Trương ở phố Nam Đầu, đã để lại cho tôi ấn tượng rất là sâu sắc. Mẹ bảo tôi:

– Bác Trương đối với ba quả thật không có gì để nói hết, không giờ nào, không phút giây nào không quan tâm đến ba.

Sau đó, bác Trương cũng bị bệnh. Cha đặc biệt điện thoại cho tôi, muốn tôi đến thư viện Hoa Tạng thỉnh cho bác kinh Vô Lượng Thọ, thánh tượng Phật A-di-đà và chiếc máy niệm Phật v.v… Khi trường nghỉ hè, tôi và mẹ tự mang tất cả những thứ đó đến nhà bác Trương ( vì cha tôi đi lại không thuận tiện, lên bậc thang lầu chân đau, cho nên không đi được).

Trước mấy hôm cha vãng sinh, có một buổi sáng sớm nọ cha bảo mẹ, ông mộng thấy bác Trương cứu ông, nhưng không nói rõ tình huống.

Sáng ngày mùng 6 tháng giêng, bác Trương đến nhà thăm bệnh cha và căn dặn mẹ nên mau chóng đưa cha đến bệnh viện chẩn trị. Trưa hôm đó, mẹ liền xin xe cứu hộ đưa cha đến bệnh viện, buổi chiều em gái điện thoại cho tôi biết cha bệnh nặng nằm bệnh viện, tôi mới phát hiện ra sự thể đã nghiêm trọng, cũng không thể kéo dài nữa. Nếu không phải là cha nằm viện, có thể tôi không nhận ra tình hình nghiêm trọng và cũng không thể kịp thời trở về nhà. Những thế sự nhân duyên này và điều cha mộng thấy bác Trương cứu ông thật là không tính toán mà thầm hợp. Cha đã từng nằm trên giường bệnh, bảo mẹ muốn tôi chuẩn bị 100.000 đồng gởi về nhà. Sau đó, những chi phí xử lý hậu sự tính ra có lẽ xấp xỉ hơn 100.000 đồng.

Ngày 13 tháng giêng, tôi trở về trường làm việc, trên bàn làm việc của phòng nghiên cứu, tôi nhìn thấy một bức thông báo đã mở, thời hạn là ngày 14 tháng giêng năm 1998. Trong phút chốc, tôi cảm động ngỡ ngàng, tôi thật sự thể hội sâu sắc tấm lòng đại từ, đại bi của Đức Phật A-di-đà, đã chọn một cách khéo léo ngày mùng 9 tháng giêng đưa tiễn phụ thân, không những giúp chúng tôi có đủ thời gian tiếp tục trợ niệm cho cha 24 giờ, đồng thời còn có đủ thời gian xử lý hậu sự cho cha, lại không làm lỡ công việc nơi Đài Bắc, bao gồm cả giờ lên lớp chiều ngày 16 tháng giêng mà ban đầu tôi nghĩ là trở ngại nhất.
f) Tâm chuyên nhất, sức kiên định.

Trong quá trình chuẩn bị trợ niệm cho cha, tôi cũng từng nghe nói việc đọc tụng kinh Địa Tạng sẽ có sự giúp đỡ cho cha. Cho nên tôi thảo luận với cô út là có nên tạm thời gác lại kinh Vô Lượng Thọ mà chuyển sang đọc kinh Địa Tạng. Cô út nêu ra cách nhìn của mình: “Chúng ta đọc ban đầu chính là kinh Vô Lượng Thọ, văn của kinh Vô Lượng Thọ đã thuần thục mà vẫn không dừng được vọng tưởng tạp niệm, còn kinh Địa Tạng chưa hề đọc qua. Đến lúc vọng niệm không dừng được vẫn là đọc suông, công đức tụng kinh bị giảm rất nhiều”. Vì vậy, chúng tôi vẫn đọc theo kinh Vô Lượng Thọ.

Ngày mùng 7 tháng giêng, tuy cha chịu niệm Phật, chịu vãng sinh, nhưng lúc đó vẫn thường những cơn đau vô hình, hơn nữa mỗi lần đau đều rất dữ dội. Tôi nhìn thấy quả thật rất đau lòng. Khi đó, tôi nói với cô út: “Chúng ta mỗi người hãy tự tụng kinh Vô Lượng Thọ và đem công đức này hồi hướng cho cha”. Ban đầu cô út đồng ý, nhưng đến hôm sau, sau khi suy nghĩ, cô bảo tôi: “Chúng ta nên niệm Phật A-di-đà, vì A-di-đà Phật, bốn chữ này rất ngắn để nhiếp tâm, so ra dễ kiểm soát tình trạng của người lâm chung. Văn kinh của kinh Vô Lượng Thọ dài, đọc một biến ít nhất cũng phải 40 phút, còn phải chú ý tình trạng đột phát của người sắp mất. Niệm phân tâm như thế, kết quả bảy, tám phần công đức bị giảm đi rất nhiều, chúng ta cứ chuyên tâm niệm thánh hiệu Đức Phật A-di-đà”. Từ đó về sau, chúng tôi càng chuyên tâm chú ý giữ danh hiệu Phật, tâm an trụ trong một câu danh hiệu Phật. Sự chỉnh đổi những quan niệm này, đối với người trợ niệm về sau có sự giúp sức khá lớn.
g) Lời sau cùng.

Từ sau khi cha vãng sinh, tôi luôn nghĩ: “Hôm nay cha có thể thuận lợi vãng sinh, hoàn toàn phù hợp với những điều đã nói trong kinh Phật thuyết A-di-đà kinh: “Không thể nhờ một chút nhân duyên phước đức căn lành mà được sinh vào nước ta”. Cả đời cha chưa từng tham dự pháp hội nào, cũng chưa đi đến đạo tràng nào, đến 75 tuổi mới tiếp xúc Phật pháp, liền chịu đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ, lại có thể trì tụng ba năm không ngưng nghỉ, thật sự có thể nói là căn lành sâu đậm. Ngoài ra, cha đã khổ nhọc nuôi dưỡng năm chị em chúng tôi, không phải là con đẻ cho đến trưởng thành (mỗi khi khai giảng, phải nộp học phí, cha phải đi mượn tiền trước để đóng học phí). Hơn nữa, trong đời sống ăn ở và giáo dục, cha đều có thể đáp ứng hết mọi nhu cầu của chúng tôi, đây là tu thiện tích đức. Cho đến tôi có thể bỏ công việc mà không trở ngại gì. Rồi lại gặp cô út chủ động hết lòng trợ giúp, thảy đều là những nhân duyên hiếm có.

Lần này trợ niệm cho cha, khiến tôi thể hội sâu sắc được sức mạnh của việc phát khởi tâm niệm không thể nghĩ bàn. Tuy trước giờ tôi không hứa lời nguyện nào chính thức trước mặt Phật và Bồ-tát, hy vọng có thể lúc cha lâm chung, trợ niệm cho ông, nhưng từ khi phát hiện ra sự rốt ráo viên mãn của Phật pháp, ngoài việc tích cực hướng dẫn cha niệm Phật, trong tâm mình cũng thường nghĩ, hy vọng tương lai có thể trợ niệm cho cha, tự tiễn cha lên đường. Hôm nay hồi tưởng lại, tôi nhận ra cuối tháng 12 năm 1997 cha đã sớm tiết lộ tin tức, để tôi ở Đài Bắc có đủ thời gian chuẩn bị công việc xong trước khi trợ niệm. Trước tiên là thỉnh xong tất cả những y phục, các vật của Phật giáo và có thể kịp thời thỉnh giáo cư sĩ Liêu. Ngày 6 tháng giêng, sau khi được biết cha bệnh nặng, tôi vội vã trở về trợ niệm cho ông. May mắn làm sao, tất cả thời gian sự việc đều được sắp xếp khéo léo như thế, đây là điều mà tôi không cách nào giải thích được.

Viết đến đây, tôi cảm nhận sâu sắc rằng, cha quả thật là Phật và Bồ-tát, ông đã đem căn bệnh đau đớn của mình để dạy chúng tôi chuyên tâm niệm Phật, có lúc cha đau đớn quá cũng phải cắn răng niệm to bốn chữ hồng danh A-di-đà Phật. Lúc đó, tôi thấy vô cùng xúc cảm. Sau khi cha ngừng thở, đột nhiên có một ý nghĩ lóe sáng trong đầu tôi, hóa ra Đức Phật A-di-đà đã thị hiện cách thức mấy mươi chim con, ngầm bảo các Ngài đến đón ông. Sau đó, mỗi lần niệm thánh hiệu A-di-đà Phật tôi đều cảm nhận sâu sắc Đức Phật A-di-đà, Ngài quả thật từ bi đến chỗ tột cùng, chỉ cần chúng ta tin sâu, nguyện thiết, chịu niệm Phật, Phật nhất định sẽ đến đón chúng ta.

Bây giờ người mà tôi nên cảm ơn nhất là pháp sư Tịnh Không, mấy mươi năm nay ngài đã dùng các phương tiện khéo léo, giảng kinh thuyết pháp, tha thiết hết lời dạy bảo chúng ta: “Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Hôm nay, cha tôi đã vãng sinh viên mãn, xác thực minh chứng: “Gieo nhân niệm Phật, hẳn được quả thành Phật”. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Giả như cúng dường hằng sa bậc Thánh, cũng không bằng tâm dũng mãnh kiên cố cầu Chính giác”. Lại nói: “Dù cho thân chìm trong các khổ, như thế nguyện tâm vẫn mãi mãi không thoái chuyển”. Chính là đã khích lệ những bạn đồng tu chúng ta nhất định phải buông bỏ sự thống khổ của thân tâm, đại nguyện bồ-đề quyết định viên mãn trong đời này, mới là thật sự báo ân Phật.

Sau cùng, với tâm chí thành cung kính, tôi xin cảm ơn những vị thiện tri thức đã từng hiệp sức trợ giúp; các vị sư phụ nơi thư viện Hoa Tạng đã thầm lặng in ấn kinh sách và các chúng đồng tu giúp in, sao chép pháp bảo mà ngài Tịnh Không giảng dạy, và cư sĩ Liêu, bạn đồng tu của tôi, những đồng nghiệp nơi trường đại học và cô út v.v…Chân thành cảm ơn các vị.

A-di-đà Phật!

Biên soạn:

1. Bản văn do cư sĩ Ông Nghê, giảng viên trường đại học Đông Ngô soạn. Vì sự biên soạn khá dài, được cư sĩ Ông đồng ý, đã mời cư sĩ Trần Truyền Tịnh nhuận văn lược bớt, từ khâu trình bày cho đến cảm tạ.

2. Một số người gặp lúc người thân vãng sinh yêu cầu trợ niệm, không tránh khỏi lúng túng hoặc mong mỏi mọi người giúp đỡ. Bản văn cho thấy, tuy chỉ có hai người phụ nữ, nhưng lại có thể dũng cảm đảm nhận thành tựu được đại nghiệp vãng sinh kinh thiên động địa, quỷ khốc thần sầu. Mạnh Tử nói: “Có người làm được, ta cũng giống như thế”.

Chúng ta đệ tử Phật, đều nên nỗ lực tinh tấn cho bằng các bậc Hiền!

Trích Niệm Phật Công Đức của pháp sư Tịnh Không

Viên Mãn Bồ Đề, Ghi Lại Việc Vãng Sinh Của Tiên Mẫu Lý Thái Phu Nhân

Viên Mãn Bồ Đề, Ghi Lại Việc Vãng Sinh Của Tiên Mẫu Lý Thái Phu NhânTiên mẫu Lý thái phu nhân, húy là Nguyệt Phụng, pháp hiệu Tu Bích là con thứ của tiên sinh Lý Đăng ở thành phố Chương Hoá. Năm 24 tuổi, bà được gả cho họ Trịnh, vào đúng lúc sự nghiệp nhà họ Trịnh thất bại, cha chồng qua đời ở Hạ Môn. Bấy giờ, bất luận là quản lý việc nhà hay đãi người tiếp vật đều do tiên mẫu gánh vác. Hơn hai mươi năm, bà đã ngậm đắng nuốt cay, dưỡng nuôi bảy anh chị em tôi. Trong lúc gia cảnh ngày càng khá giả thì không ngờ năm tôi mười bốn tuổi, cha đột nhiên qua đời. Lúc đó, đứa em trai thứ ba năm tuổi, em trai thứ tư chỉ có hai tuổi. Gặp biến cố lớn lao này, mẹ tôi đau lòng rơi lệ máu, đến mức không muốn sống. Chỉ vì tôi và các em còn nhỏ dại không nơi nương tựa, mẹ đành nén đau thương nuôi dưỡng chúng tôi.

Sau khi cha tôi qua đời, kinh tế trong nhà cũng vì thế càng thêm túng quẩn, bữa cơm thường ngày cũng khó mà duy trì, bao nhiêu sự việc lớn nhỏ trong ngoài đều trông mong vào một mình mẹ đảm đương. Nhưng mà khó khăn, gian khổ cứ liên tục, tai họa bệnh tật cứ liên tiếp kéo đến, mẹ tôi nhẫn nhục chịu đựng, tình thế rất thê thảm, quả thật tôi chẳng thể nào thuật hết. Tôi đã từng giữ trẻ cho người ta. Mỗi lần gặp khó khăn không như ý, về nhà tôi đều chua xót thuật lại cho mẹ nghe. Mẹ thường rơi nước mắt khuyên tôi: “Bao gian khổ khó khăn này, chúng ta nhất định phải nhẫn nại kiên trì đến cùng, sau này mới mong có ngày nở mặt nở mày với thiên hạ”. Những lời nói hằng ngày ấy cũng là để khích lệ cho nhau.

Mẫu thân từ lúc được gả đến nhà cha tôi, bà đã chịu hết muôn nghìn nỗi đắng cay khổ nhọc, bà lại càng nhận rõ con người thế gian đều là khổ, không, vô thường. Vận may lớn nhất của bà là được sự tiếp dẫn học Phật của ân sư Tuyết Công. Suốt mười mấy năm bà ăn chay niệm Phật, chưa từng gián đoạn. Lòng tin của bà đối với Phật pháp ngày càng kiên định. Bất luận gió, mưa, lạnh, nóng nơi nào có cơ hội nghe kinh niệm Phật, bà nhất định tham gia, không bao giờ bỏ qua. Tôi thấy mẫu thân dù phải chịu bao gian nan khốn khổ nhưng vẫn không dao động được quyết tâm học Phật, niệm Phật và lòng tin Phật của bà. Sự kiên nhẫn và thái độ an lành ấy của bà, nhất định đã đạt đến chỗ tốt đẹp trong Phật pháp. Khi đó, tôi cũng phát khởi tâm hướng thượng, muốn học Phật pháp. Qua sự cảm hóa từ nơi Lão nhân gia, thế là cả nhà bắt đầu ăn chay.

Năm mười sáu tuổi, được sự hướng dẫn của mẹ, tôi đã tham gia lớp học bổ túc quốc văn của Hội liên xã thành phố Đài Trung tổ chức, nghe ân sư Tuyết Công giảng thuyết các môn Luận ngữ, Phật học v.v… đồng thời quy y Tam bảo, bắt đầu học Phật.

Năm mười chín tuổi, được ân sư Tuyết Công thương xót cho làm đệ tử thị giả theo hầu bên cạnh Lão nhân gia, tôi thường xuyên tiếp nhận được sự huấn luyện dạy dỗ, thu được nhiều lợi ích. Từ đó, tôi sửa đổi được những thói quen hư hỏng như: lời nói ngang tàng, mắng nhiếc người, uống rượu v.v… Đồng thời, tôi cũng hạ quyết tâm lĩnh thụ năm giới. Xét ra, ngày nay tôi có thể thâm tín Tam bảo, trường chay học Phật, nhận được sự lợi ích trong Phật pháp, là nhờ công lao của mẹ lấy bản thân mình làm gương dẫn dắt!

Bản tính của mẹ tôi luôn từ bi, trung hậu, dịu dàng, ngay thẳng, vui thích làm điều thiện, nhất là thích giúp đỡ người khác. Những ai có nhu cầu trợ niệm, bà không quản thời tiết lạnh nóng, sớm chiều, dù cho canh ba nửa đêm cũng đều đáp ứng. Bạn bè đều yêu thích điểm tốt của bà.

Dù mẹ tôi tiếp thụ nền giáo dục văn hoá của Nhật nhưng vẫn cố gắng học tiếng Trung Quốc. Hơn nữa, bà còn đem ba bản kinh “Phật thuyết A-di-đà kinh Phổ môn phẩm, Niệm Phật viên thông” v.v… làm khóa tụng thường ngày. Điều đáng quý nhất có thể nói là bà đã: “Dùng niệm Phật làm phương thuốc hay, giải tỏa ưu phiền của mình”. Suốt mười mấy năm, bà ít khi đau ốm, ngẫu nhiên gặp chút bệnh, bà không thích dùng thuốc, chỉ uống nước chú Đại-bi do chính mình trì tụng. Còn nhớ khi đứa em trai thứ hai tôi lên sáu tuổi, nó đau bàng quang, kết thành bệnh sạn, tiểu tiện rất khó khăn. Hằng ngày, nó đều đau đớn kêu khóc, nhà lại không có tiền cho thầy thuốc phẫu thuật trị liệu. Thế là, ngày nào mẹ cũng cầu nguyện, trì nước chú Đại-bi cho em trai tôi uống. Sáng sớm ba hôm sau, khi vào nhà xí tiểu tiện, đứa em cảm thấy bỗng nhiên hồi phục như thường, liền nhìn kỹ trong bồn thấy hai viên sỏi màu trắng lớn bằng hạt cơm. Từ đó về sau, cả nhà phát sinh lòng tin sâu sắc đối với nước chú Đại-bi, mẹ đã trì. Trong thôn có người bệnh hoặc khi trẻ em sợ hãi giật mình đều uống nước chú Đại-bi của mẹ trì tụng và đều có công hiệu đặc biệt. Thế là, người đến xin nước chú Đại-bi càng ngày càng nhiều. Tôi thường nói đùa: “Mẹ có thể làm bác sĩ, bệnh viện sẽ phải đóng cửa thôi!” Mẹ nói nghiêm túc mà chân thành: “Đức Phật là vị đại y vương, trị những bệnh nhỏ này, có gì kỳ lạ đâu?”

Mẹ không khéo nói, chỉ biết khuyên người niệm Phật, bất luận đối phương có học vấn hay không. Bà luôn bảo mọi người: “Niệm Phật thật sự rất tốt, Phật lực không thể nghĩ bàn! Phật Tổ không gạt người đâu!”.

Nếu như đối phương nêu câu hỏi, lúc không có cách nào trả lời thì bà liền cầm lấy quyển sách “Phật pháp thành tựu ngay trong đời sống” do ngài Tuyết Công trước tác, Hội liên xã xuất bản, mời đối phương xem thử, hoặc là bảo họ đợi con tôi về, nó sẽ trả lời cho ông.

Hai năm gần đây sức khỏe của mẹ không tốt, van tim hở rộng, lúc nghe kinh, niệm Phật, chỉ tịnh mẹ thường có hiện tượng hôn trầm, khiến tôi vô cùng lo sợ, rất sợ đại sự vãng sinh của mẹ gặp phải chướng ngại này. Vì thế, tôi luôn nhắc nhở bà không quên chính niệm. Mẫu thân vô cùng tin tưởng nói: “Không cần lo sợ, mẹ nhất định sẽ vãng sinh”. Cả đời mẹ gặp biết bao đả kích, lòng nhàm chán cõi Ta-bà rất ư bức thiết, gặp việc liền lễ Phật, cầu Phật. Cứ nhìn xem công phu niệm Phật, lòng tin sâu sắc, nguyện thiết tha thuần thục của bà, lại sự ưa giúp đỡ người khác của bà; từ cái tâm không hại người của bà, có thể gọi là chính-trợ song tu, tôi mới được chút an lòng.

Ngày mùng 7 tháng 6 năm Dân quốc 62 (1973), tôi tham gia thi tốt nghiệp của hệ ban đêm trường đại học Trung Hưng, khi đợt thi đầu tiên sắp xong, đột nhiên tôi cảm thấy trong lòng như có tảng đá đè nặng, tâm thần rất khẩn trương bồn chồn, chính mình cũng cảm thấy kỳ quái. Đến đợt thi thứ hai, tôi vẫn không cách nào bình tĩnh, đối mặt với đề thi, hoàn toàn không có cách nào phát huy, chuẩn bị làm bài cho tốt, cuối cùng nghĩ không ra, không biết mình làm đáp án như thế nào, thi xong trong lòng lại càng buồn bã.

Khi đến Thiện Quả Lâm để đón mẫu thân đi nghe kinh xong trở về nhà, tôi mới vừa xuống xe, liền nghe người bạn trong Liên xã bảo: “Khi nghe kinh, mẹ anh bị hôn mê, bất tỉnh nhân sự, đã đưa bà vào bệnh viện rồi”. Lúc đó, tôi mới biết nguyên nhân vì sao tâm thần bất an. Qua sự kiểm tra chẩn đoán của bác sĩ, mẹ tôi bị bệnh tai biến mạch máu não. Tuy đã được tiêm thuốc cấp cứu nhưng cũng không chuyển đổi. Lúc đó, tuy tôi vô cùng đau buồn nhưng cũng rất hiểu mình nên làm thế nào, lập tức tôi đến bên cạnh mẹ niệm Phật.

Ngày thứ hai, ân sư Tuyết Công đến thăm và nói: “Mẹ con phước báo rất lớn, hôn mê trong quá trình nghe kinh tại đạo tràng, ấn tượng lưu lại trong tâm thức vẫn là nghe kinh cầu đạo, nếu có thể trợ niệm tốt thì có thể vãng sinh”. Qua sự chẩn đoán của bác sĩ đã không còn cách nào cứu chữa, tôi đành phải dời mẹ đến Thánh Liên Thất chuyên tâm trợ niệm. Lúc ấy, các bạn trong Liên xã không ngừng đến trợ niệm. Đến chiều, các bạn học của lớp Trung Huệ và Minh luận xã đều phát tâm phân ban đến trợ niệm.

Trong khoảnh khắc buổi sáng ngày thứ ba, mẫu thân đột nhiên tỉnh táo khôi phục tri giác, niệm Phật theo đại chúng được vài câu, sau đó bà mỉm cười vãng sinh trong câu danh hiệu Phật…Ban đầu, tôi và chị thứ ba trong nhà bỗng nghe rất rõ ràng có tiếng niệm Phật tha thiết hòa trong tiếng niệm Phật của mọi người, liên tục mười mấy câu. Sợ âm thanh này sẽ ảnh hưởng đến chính niệm của mẹ, tôi lập tức tìm kiếm nguồn gốc của âm thanh tha thiết này, liền phát hiện mọi người đều chú tâm trợ niệm, hoàn toàn không có âm thanh hoặc biểu hiện nào bi thương, đây hẳn là mẹ đã niệm. Sau khi trợ niệm liên tục 12 giờ, lúc thay y phục cho mẹ mới phát hiện toàn thân mẫu thân mềm mại, gương mặt từ ái tươi hơn khi còn sống.

Sau khi hỏa táng mẹ xong, thu được xá lợi năm màu hình dáng như tượng Phật, cao hơn một tấc (bức tượng lớn nhất khoảng 4,2cm x 3cm), tượng Bồ-tát (tượng lớn nhất khoảng 4,5cm x 3,6cm) như ý, chim anh vũ, và hạt chuỗi lớn nhỏ gần vài trăm viên, chất màu như ngọc thúy, ánh sáng tươi đẹp ấm áp. Chúng tôi thỉnh ân sư Tuyết Công nhận định. Ân sư tán thán: “Những xá lợi này rất hiếm có, không thể chỉ đáng làm xá lợi nhà họ Trịnh các con, mà chính là sự việc hưng thịnh của nhà Phật, đáng được bảo tồn cúng dường tốt”. Những bạn trong Liên xã xem xong, đều tán thán nói mãi: “Pháp môn niệm Phật, quyết định không uổng phí công phu!”.

Ôi, khi mẹ còn sống, tuy có tâm độ người nhưng ngặt nỗi ăn nói vụng về, khó mà thu được hiệu quả. Sau khi vãng sinh, bà thị hiện các loại xá lợi thù thắng minh chứng, đồng thời lấy đây tiếp dẫn bạn đồng tu có tín nguyện thật tâm niệm Phật, cuối cùng đã đền bù được tâm nguyện trong bấy lâu nay.

Than ôi, từ 14 tuổi tôi đã mất cha, đến nay đã hơn 18 năm, mẹ cẩn thận chăm sóc nuôi dưỡng cả nhà, hy vọng không đến nỗi sai lầm, lấy thân làm gương khéo léo dẫn dụ, hướng dẫn tôi học Phật, hơn nữa được gần gũi đại thiện tri thức, hầu hạ ân sư Tuyết Công, tùy thời được lĩnh thụ, đào tạo trui rèn. Những ân đức này đều là do mẹ từ bi hướng dẫn ban cho đấy! Đáng thương mẫu thân từ khi vào nhà họ Trịnh, trải qua bao hoạn nạn, ngậm đắng nuốt cay! Suốt bốn mươi năm, mẹ không quản nhọc nhằn, không ngần ngại trách hờn, lúc nào cũng hy vọng con cái trưởng thành nên người, có thể tự lập; nhưng tôi bất tài, đã không thể gieo trồng cội đức lập nghiệp, để an ủi lòng Lão nhân gia, lại chưa thể làm tròn hết trách nhiệm của trưởng tử, chia buồn cùng mẫu thân, khiến cho mẹ phải nhọc nhằn quá độ, bỏ lại tình thân thương nhớ của con thơ mà từ biệt mãi cuộc đời. Đau lòng thay! Bất hiếu như Thắng Dương, Thắng Lô, Thắng Vinh, tội lỗi đầy trời, trăm thân khó chuộc, trời xanh mênh mông, làm sao có thể tận cùng! Thuật hết đức mẹ hiền trong muôn một, tang chế đớn đau, lời không mạch lạc, cúi xin mọi người minh giám.

Ngày mùng 7 tháng 6 năm Trung Hoa Dân quốc 62 (1973), đứa con mồ côi, Trịnh Thắng Dương rơi lệ kính thuật; Liễu Nhân sửa lại thành văn bạch thoại.

Tháng 2 năm 2003, thu thập tài liệu từ tin tức ở Tây phương.
Ghi chú:

1. Theo Nguyệt san Minh Luân, tuần thứ 22 đăng tin. Vào 7giờ 30 chiều ngày 07 tháng 6 Dân quốc năm thứ 62 (1973), cư sĩ Lý Nguyệt Phụng ở tại Thiện Quả Lâm Đài Trung đang ở pháp hội nghe ngài Tuyết Công[40] tuyên giảng kinh “Khuyến phát Bồ-đề tâm văn”, đột nhiên hôn mê bất tỉnh ngay đạo tràng. Qua sự trợ niệm của các Liên hữu, vào khoảng hơn 1 giờ sáng ngày 09 tháng 6, Lý cư sĩ đã hôn mê hơn một giờ rưỡi, bỗng nhiên hé môi niệm Phật. Sau khi niệm được mấy câu danh hiệu Phật với buồn vui xen lẫn, cư sĩ đã vãng sinh một cách rất an lành. Lúc đó, con trai con gái của cư sĩ từng thấy hai luồng ánh sáng, rồi còn nhìn thấy hoa sen xuất hiện trên không trung. Nhóm thanh niên trường Cao đẳng Phật học Minh luân xã đến tham gia trợ niệm, có người thấy ánh sáng rực đầy nhà, có người thấy hoa sen bay lên hư không, nhiều loại tướng đẹp, có thể nói là hiếm có. Trước đêm hỏa thiêu, em trai còn chưa học Phật của Lý cư sĩ, đột nhiên từ Chương Hóa điện về dặn dò chuẩn bị bình sạch đựng xá lợi; sau khi hỏa thiêu, quả nhiên lựa ra được khoảng mấy trăm viên xá lợi năm màu. Trong đó, có một số xá lợi như tượng Phật, tượng Quán Thế Âm, hoặc cầm thú, hạt chuỗi rất thù thắng đáng quý.

2. Cư sĩ Trịnh Thắng Dương nói: “Sau khi mẫu thân vãng sinh, từng báo cho tôi tin tức ở Tây phương. Vì đương thời tuy tôi rất tin mẫu từ đã vãng sinh, nhưng vẫn còn hy vọng nhận được tin tức. Do đó, sau khi mỗi chiều tắm gội xong, tôi liền ngồi xếp bằng niệm Phật đợi tin. Bấy giờ, đó chỉ là một tấm lòng thành ngu muội, kết quả qua ba ngày đều không có tin gì cả. Đến 3 giờ sáng ngày thứ tư, đột nhiên tôi nghe tiếng cánh cửa sắt dưới lầu bị kéo ra, tôi cho là kẻ trộm, nhất thời tinh thần chấn động, bỗng nhiên thấy ở phía tây có một luồng hào quang xẹt xuống. Ở mặt đất cũng có một luồng hào quang xông lên, cả hai giao tiếp nhau. Đây là cảnh thứ nhất. Tiếp đó, tôi thấy có một vị thân tướng to lớn nhìn không rõ mặt, chỉ thấy mảnh lụa trên đầu Ngài, trực giác bảo tôi đây chính là Bồ-tát Quán Thế Âm. Bên cạnh Bồ-tát có một người thân tướng hơi nhỏ. Ban đầu thì mờ mờ, sau đó dần hiện rõ, tôi mới thấy rõ ràng là mẫu thân. Tôi vội vã chạy tới nắm lấy tay mẫu thân, hỏi: “Có phải mẹ đã vãng sinh rồi không?” Mẫu thân gật đầu, khi ấy tôi chợt giật mình tỉnh giấc”.

Trích Niệm Phật Công Đức của pháp sư Tịnh Không

Chánh Hạnh Niệm Phật Vãng Sanh

Chánh Hạnh Niệm Phật Vãng SanhI.Thiền sư Đạo Xước lập Thánh đạo môn và Tịnh độ môn, nhưng bỏ Thánh đạo mà trở về Tịnh độ

TRÍCH DẪN

An Lạc Tập , quyển thượng ghi: “ Hỏi: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, lẽ ra từ bao kiếp lâu xa đến nay đã gặp nhiều Phật, vì sao đến hôm nay vẫn còn luân hồi trong sanh tử, chưa thoát khỏi nhà lửa ?

Đáp: Theo Thánh giáo Đại thừa, do chúng sanh không có được hai pháp tôn quí: Thánh đạo và Tịnh độ để dứt trừ sanh tử, nên không thể ra khỏi nhà lửa. Đời nay, nếu thực hành theo Thánh đạo môn rất khó chứng ngộ, bởi cách Phật quá lâu và nghĩa lí sâu xa, khó hiểu. Cho nên kinh Đại Tập Nguyệt Tạng ghi: “Trong thời mạt pháp của ta, vạn vạn chúng sanh khởi hạnh tu tập, nhưng không ai chứng ngộ”. Nay đúng vào đời năm trược ác thời mạt pháp, chỉ có môn Tịnh độ mới là con đường giúp tất cả chúng sanh vào đạo. Cho nên Đại kinh ghi: “Nếu có người một đời tạo ác, lúc lâm chung niệm danh hiệu ta liên tục mười niệm mà không được vãng sanh, ta sẽ không thành Chánh giác”.

Hơn nữa, chúng sanh không tự suy xét, đối với Đại thừa thì chưa từng chuyên tâm nơi Đệ nhất nghĩa không, chân như thật tướng; đối với Tiểu thừa thì chưa từng tu tập đoạn năm kiết dưới , trừ năm kiết trên để vào Kiến đế tu đạo cho đến chứng A-na-hàm , A-la-hán ; còn đối với phước báo trời người thì hiếm có người giữ được năm giới cấm, mười điều thiện. Nhưng nói về làm ác, tạo tội thì khác nào gió táp mưa sa! Do đó, các Đức Phật khởi lòng đại bi, khuyên chúng sanh trở về cõi Tịnh. Dẫu có một đời tạo ác, nhưng luôn chuyên tinh niệm Phật, ắt các chướng tự trừ, nhất định được vãng sanh. Như thế, sao không suy nghĩ kĩ mà hướng tâm về.

LUẬN RẰNG

Trộm nghĩ, tùy theo chủ trương của mỗi tông mà lập giáo nhiều hay ít để phán định giáo pháp trong một đời của Đức Phật . Như tông Hữu tướng thì lập ba thời là Hữu giáo , Không giáo và Trung đạo giáo . Tông Vô tướng thì lập hai tạng là Bồ-tát tạng và Thanh văn tạng. Tông Hoa Nghiêm thì lập năm thời là Tiểu thừa giáo, Thỉ giáo, Chung giáo, Đốn giáo và Viên giáo, gồm thâu tất cả các giáo. Tông Pháp Hoa thì lập bốn giáo là Tạng, Thông, Biệt, Viên và năm vị là sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ để gồm thâu tất cả giáo. Tông Chân Ngôn thì lập hai giáo là Hiển và Mật. Còn tông Tịnh Độ, thiền sư Đạo Xước lập hai môn là Thánh đạo môn và Tịnh Độ môn để phán định giáo pháp trong một đời của Đức Phật.

Hỏi: Về tên gọi các tông, chỉ có tám tông hoặc chín tông như Hoa Nghiêm, Thiên Thai… chứ chưa nghe nói có tên tông Tịnh Độ. Nay nói tông Tịnh Độ là căn cứ vào đâu?

Đáp: Về căn cứ để lập tên tông Tịnh Độ thì rất nhiều. Như trong bộ Du Tâm An Lạc Đạo của sư Nguyên Hiểu ghi: “Bản ý của tông Tịnh Độ gồm cả phàm phu và thánh nhân”; Tây Phương Yếu Quyết của đại sư Từ Ân ghi: “Y cứ vào Tông này…”; Luận Tịnh Độ của ngài Ca Tài ghi: “Một Tông này chính là con đường thiết yếu…”. Văn minh chứng như thế, các ông không nên nghi ngờ! Nhưng ý chánh của tập sách này, không phải bàn đến phán giáo của các tông mà chỉ nói đến hai môn của Tịnh độ mà thôi.

1. Thánh đạo môn: Môn này bao gồm Đại thừa và Tiểu thừa. Trong Đại thừa tuy có cả Hiển giáo, Mật giáo, Quyền giáo, Thật giáo, nhưng ý của tập sách này chỉ giữ lại Hiển đại thừa và Quyền đại thừa. Cho nên căn cứ theo công hạnh tu hành trải qua nhiều kiếp, thì nên giữ Mật thừa và Thật đại thừa, đó chính là các tông Chân Ngôn, Phật Tâm , Thiên Thai , Hoa Nghiêm, Tam Luận , Pháp Tướng , Địa Luận , Nhiếp Luận ngày nay. Nên biết, bản ý của tám tông chính là chỗ này. Tiểu thừa chính là giáo pháp bàn về hàng Thanh văn , Duyên giác đoạn hoặc chứng lí, nhập thánh đắc quả ghi trong kinh luật luận. Căn cứ theo đó, Tiểu thừa gồm các tông Câu-xá , Thành Thật và Luật tông mà thôi.

Đại ý của Thánh đạo môn, không luận là Đại thừa hay Tiểu thừa, tất cả đều ở nơi thế giới Ta-bà này tu pháp tứ thừa là Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật thừa mà đạt được quả tứ thừa.

2. Vãng sanh Tịnh độ môn: gồm hai phần: a. Kinh luận chính nói về vãng sanh Tịnh độ. b. Kinh luận phụ thuộc nói về vãng sanh Tịnh độ.

a. Kinh luận chính: gồm kinh Vô Lượng Thọ , kinh Quán Vô Lượng Thọ , kinh A-di-đà và Luận Vãng Sanh của ngài Thiên Thân . Ba bộ kinh này gọi là Tịnh Độ tam bộ kinh (ba bộ kinh chính của tông Tịnh Độ).

Hỏi: Về từ ngữ “Tam bộ kinh”có gì để minh chứng chăng?

Đáp: Minh chứng về Tam bộ kinh rất nhiều, như Pháp Hoa tam bộ là kinh Vô Lượng Nghĩa, kinh Pháp Hoa, kinh Phổ Hiền Quán; Đại Nhật tam bộ là kinh Đại Nhật, kinh Kim Cang Đảnh, kinh Tô-tất-địa; Trấn hộ quốc gia tam bộ là kinh Pháp Hoa, kinh Nhân Vương, kinh Kim Quang Minh; Di-lặc tam bộ là kinh Thượng Sanh Đâu-suất, kinh Hạ Sanh, kinh Thành Phật. Ở đây chỉ riêng cho ba bộ kinh về Đức Phật A-di-đà, nên gọi là Tịnh Độ tam kinh. Ba bộ kinh này nói về y báo và chánh báo cõi Tịnh.

b. Kinh luận phụ thuộc: gồm các bộ kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Huỳnh Tùy Cầu, Tôn Thắng và các bộ Luận Đại Thừa Khởi Tín, Bảo Tánh, Thập Trụ Tì-bà-sa, Nhiếp Đại Thừa… nói về hành nghiệp vãng sanh Tịnh Độ.

Tập sách này nêu hai môn Thánh đạo và Tịnh độ, mục đích là muốn khuyên mọi người bỏ Thánh đạo mà quay về Tịnh độ, với không ngoài hai lí do vừa nêu trên là, Thánh đạo cách Phật quá lâu và lí Đại thừa sâu xa khó hiểu. Tông Tịnh Độ lập hai môn này, không chỉ là ý của các ngài Đạo Xước, Đàm Loan , Thiên Thai Trí Khải , Ca Tài, Từ Ân…mà bồ-tát Long Thọ cũng đồng như thế. Như Vãng Sanh Luận Chú của Đàm Loan có ghi: “Luận Thập Trụ Tì-bà-sa của bồ-tát Long Thọ nói rằng: Bồ-tát cầu A-tì-bạt-trí cần phải có Nan hành đạo (khó thực hành) và Dị hành đạo (dễ thực hành). Nan hành là do trong đời năm ác trược không có Phật xuất thế, khó cầu được A-tì-bạt-trí. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến khó đạt, ở đây lược nói năm ý mà thôi: 1. Ngoại đạo tu pháp tương tợ thiện làm rối loạn thật pháp của Bồ-tát; 2. Hàng Thanh văn tự lợi, chướng ngại lòng đại từ bi; 3. Kẻ ác không biết hỗ thẹn, không kể tự tha, khinh chê bậc hiền thiện, phá hoại thắng đức; 4. Quả thiện trời người phá hoại hạnh thanh tịnh; 5. Chỉ có tự lực, không có tha lực nhiếp hộ. Những việc như thế nơi nào cũng có. Nan hành đạo cũng giống như đi đường bộ thì khó khăn, gian hiểm.

Dị hành là bởi chỉ cần với nhân duyên tin Phật, nguyện sanh Tịnh Độ, nương vào nguyện lực của Phật liền được vãng sanh cõi nước thanh tịnh. Nhờ oai lực của Phật nhiếp trì liền vào Chánh định tụ của Đại thừa. Chánh định tức A-bệ-bạt-trí. Dị hành cũng giống như đi thuyền thì an vui, nhanh đến”.

Trong đoạn này, nói Nan hành tức là Thánh đạo môn, Dị hành tức là Tịnh độ môn. Nan hành Dị hành, Thánh đạo Tịnh độ, tên gọi tuy khác nhưng chỉ một mà thôi. Các đại sư Thiên Thai Trí Khải, Ca Tài cũng đồng với chủ trương này. Trong lời tựa bộ Tây Phương Yếu Quyết ghi: “Kính nghĩ: Đức Thích-ca mở vận hội lớn làm lợi ích cho những chúng sanh có duyên, xiển dương giáo pháp, tùy theo quốc độ mà ban pháp nhũ thấm nhuần tất cả. Người đích thân gặp được Như Lai giáo hóa thì tỏ ngộ ba thừa , còn kẻ phước bạc nhân sơ thì khuyên quay về Tịnh độ. Tu tập pháp môn ấy là chuyên niệm A-di-đà, đồng thời đem tất cả căn lành có được hồi hướng nguyện sanh. Bản nguyện của Đức A-di-đà là độ Ta-bà , nên hoặc niệm cả một đời, hoặc mười niệm lúc lâm chung, chắc chắn đều được vãng sanh”. Trong lời bạt bộ Tây Phương Yếu Quyết cũng ghi: “Đã sanh vào thời Tượng pháp , cách Phật quá xa, tu tập ba thừa thì không có cách gì khế ngộ. Hai cõi trời người xao động bất an, chỉ bậc trí cao, tâm rộng mới có thể ở lâu; còn kẻ trí thô, hạnh thiển e chìm đắm nơi tăm tối. Như thế cần phải vượt khỏi Ta-bà, gởi tâm nơi cõi Tịnh”.

Trong hai đoạn văn trên, nói Ba thừa chính là Thánh đạo môn, Tịnh độ chính là Tịnh độ môn. Tuy hai tên khác nhau, nhưng đồng một ý, các học giả tông Tịnh Độ cần phải biết ý chỉ này. Dẫu trước đã tu học Thánh đạo môn, nhưng nếu có tâm với Tịnh độ môn thì nên bỏ Thánh đạo môn mà quay về Tịnh độ. Như pháp sư Đàm Loan bỏ giảng thuyết Tứ luận , một lòng quay về Tịnh độ. Thiền sư Đạo Xước xa lìa hạnh nghiệp Niết-bàn rộng lớn mà chỉ hoằng truyền hạnh Tây phương. Các bậc hiền triết xưa còn như thế, thì hàng ngu si thời mạt pháp lại không tuân theo sao?

Hỏi: Các tông thuộc Thánh đạo môn đều có thầy trò nối tiếp truyền trao, như tông Thiên Thai bắt đầu từ Nam Nhạc Huệ Tư, lần lượt truyền cho Thiên Thai Trí Khải đến Chương An Quán Đảnh, Trí Oai, Huệ Oai, Huyền Lãng, Trạm Nhiên. Tông Chân Ngôn thì từ Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim Cang Tát-đỏa đến Long Thọ, Long Trí, Kim Trí, Bất Không. Các tông phái khác cũng đều có huyết mạch tương thừa , còn tông Tịnh Độ chăng?

Đáp: Cũng như các tông thuộc Thánh đạo môn, tông Tịnh Độ cũng có huyết mạch tương thừa. Nhưng tông Tịnh Độ có nhiều thuyết khác nhau. Có thuyết lập huyết mạch phả là: Lô Sơn Huệ Viễn, Từ Mẫn Tam Tạng, Đạo Xước, Thiện Đạo…Ở đây căn cứ theo ngài Đạo Xước và Thiện Đạo để bàn về huyết mạch phả của tông Tịnh Độ. Trong đây cũng có hai thuyết:

– Theo thuyết ghi trong An Lạc Tập, thì bắt đầu Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi truyền đến pháp sư Huệ Sủng, pháp sư Đạo Tràng, pháp sư Đàm Loan, pháp sư Đại Hải, pháp sư Pháp Thượng.

– Theo thuyết trong Tăng truyện đời Đường Tống, thì bắt đầu từ Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi truyền đến Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo, Hoài Cảm, Thiếu Khương.

II. Hòa-thượng Thiện Đạo lập Chánh hạnh và Tạp hạnh, bỏ Tạp để tu Chánh

TRÍCH DẪN:

Quán Kinh Sớ quyển 4 ghi: “Căn cứ theo hạnh mà lập tín, nhưng hạnh lại có Chánh hạnh và Tạp hạnh”. Chánh hạnh là hạnh chỉ căn cứ theo các kinh nói về vãng sanh Tịnh độ mà tu tập. Đó là chỉ nhất tâm đọc tụng kinh A-di-đà, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ; chỉ nhất tâm quán tưởng, nhớ nghĩ cảnh y chánh báo và y báo trang nghiêm cõi Tịnh; chỉ nhất tâm kính lễ Đức Phật A-di-đà, chỉ nhất tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà, chỉ nhất tâm khen ngợi, cung kính cúng dường Phật A-di-đà. Tuy nhiên, trong Chánh hạnh lại có hai môn:

– Chỉ nhất tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà, chẳng kể đi đứng nằm ngồi, chẳng luận thời gian lâu mau, niệm niệm miên mật không buông bỏ, không gián đoạn. Đó gọi là Chánh định nghiệp, vì thuận với bản nguyện của Phật A-di-đà.

– Nếu lễ bái, đọc tụng, khen ngợi, cúng dường… thì gọi là Trợ nghiệp.

Ngoài hai hạnh Chánh và Trợ này, tất cả các nghiệp thiện khác đều là Tạp hạnh. Nếu tu tập hai hạnh Chánh và Trợ thì tâm luôn luôn gần gũi, nhớ nghĩ đến Phật, cho nên không gián đoạn. Nếu tu tập Tạp hạnh thì tâm thường bị gián đoạn, tuy có thể hồi hướng được vãng sanh, nhưng đều là hạnh xen tạp.

LUẬN RẰNG:

Đoạn văn trên có hai ý: Một là nói về hành tướng vãng sanh, hai là phân biệt về sự hơn kém của hai hạnh.

1. Hành tướng vãng sanh: Theo hòa-thượng Thiện Đạo, tuy có nhiều hạnh vãng sanh, nhưng đại để được chia làm hai là Chánh và Tạp.

Chánh hạnh lại có phân khai và tổng hợp. Phân khai thì có năm hạnh, tổng hợp thì thành hai hạnh. Năm hạnh: Đọc tụng – Quán sát – Lễ bái – Xưng danh – Khen ngợi cúng dường. Đọc tụng tức là chỉ nhất tâm tụng đọc kinh Quán Vô Lượng Thọ… Quán sát tức chỉ nhất tâm quán tưởng y báo, chánh báo cõi Cực Lạc. Lễ bái tức là chỉ nhất tâm lễ Đức Phật A-di-đà. Xưng danh tức là chỉ nhất tâm xướng niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà. Khen ngợi cúng dường tức là chỉ nhất tâm khen ngợi cúng dường Đức Phật A-di-đà. Nếu chia khen ngợi và cúng dường làm hai thì thành sáu chánh hạnh. Tổng hợp thì thành hai là Chánh nghiệp và Trợ nghiệp. Trong năm chánh hạnh ở trên, hạnh thứ tư là Chánh định nghiệp. Như trong đoạn văn trên ghi: “Chỉ nhất tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà, chẳng kể đi đứng nằm ngồi, chẳng luận thời gian lâu mau, niệm niệm miên mật không buông bỏ, không gián đoạn. Đó gọi là Chánh định nghiệp, vì thuận với bản nguyện của Phật A-di-đà”. Trợ nghiệp tức bốn hạnh còn lại. Như trong đoạn văn trên ghi: “Nếu lễ bái, đọc tụng, khen ngợi, cúng dường… thì gọi là Trợ nghiệp”.

Hỏi: Vì sao chỉ có niệm danh hiệu Phật A-di-đà là Chánh định nghiệp?

Đáp: Trong Quán Kinh Sớ nói: “Vì thuận theo bản nguyện của Đức Phật kia”, nghĩa là xưng danh niệm Phật chính là nguyện xưa của Phật A-di-đà. Cho nên người tu hành nương vào nguyện lực Phật nhất định được vãng sanh. Ý nghĩa của bản nguyện sẽ giải thích sau.

Về Tạp hạnh, Quán Kinh Sớ ghi: “Ngoài hai hạnh Chánh và Trợ này, tất cả các nghiệp thiện khác đều là Tạp hạnh”. Ý nói có vô lượng Tạp hạnh, không thể kể hết, ở đây chỉ vì muốn đối lại với năm Chánh hạnh mà nêu ra năm Tạp hạnh. Đó là:

– Tạp hạnh đọc tụng: Đọc tụng, thọ trì tất cả kinh điển Đại-Tiểu-Hiển-Mật, trừ ba bộ kinh nói về vãng sanh Tịnh độ đã nêu trên.

– Tạp hạnh quán sát: Suy nghĩ, quán sát tất cả những sự lí của các giáo Đại-Tiểu-Hiển-Mật, trừ y báo chánh báo cõi Cưc Lạc

– Tạp hạnh lễ bái: Cung kính lễ bái tất cả các Đức Phật, Bồ-tát, chư thiên, hiền thánh, thế gian, trừ Đức Phật A-di-đà.

– Tạp hạnh khen ngợi cúng dường: Tức khen ngợi, cúng dường tất cả các Đức Phật, Bồ-tát, chư thiên, hiền thánh, thế gian, trừ Đức Phật A-di-đà.

Ngoài ra còn có rất nhiều hạnh khác như: bố thí, trì giới…đều thuộc Tạp hạnh.

2. Phân biệt về sự hơn kém của hai hạnh: Quán Kinh Sớ ghi: “Nếu tu hai hạnh chánh và trợ, thì tâm luôn gần gũi, nhớ nghĩ đến Phật, không gián đoạn, đó gọi là vô gián. Nếu tu Tạp hạnh, thì tâm thường gián đoạn, tuy có thể hồi hướng được vãng sanh, nhưng cũng đều thuộc tạp hạnh”. Căn cứ theo văn thì trong Tạp hạnh có năm đôi đối đãi: Thân-sơ, gần-xa, không gián đoạn-gián đoạn, không hồi hướng-hồi hướng, thuần-tạp.

– Thân-Sơ: Thân, nếu tu hai hạnh chánh trợ, sẽ rất thân thiết với Đức Phật A-di-đà. Cho nên Quán Kinh Sớ ghi: “Chúng sanh khởi hạnh, miệng luôn niệm Phật thì Phật nghe, thân luôn lễ Phật thì Phật thấy, tâm luôn nhớ đến Phật thì Phật biết. Chúng sanh nhớ nghĩ đến Phật, Phật cũng nhớ nghĩ đến chúng sanh. Ba nghiệp của Phật và chúng sanh không bao giờ lìa nhau, cho nên nói là thân thiết”. Sơ, nếu tu Tạp hạnh, miệng không xưng danh hiệu Phật thì Phật không nghe, thân không lễ Phật thì Phật không thấy, tâm không nhớ nghĩ đến Phật thì Phật không biết. Chúng sanh không nhớ đến Phật, Phật cũng không nhớ nghĩ đến chúng sanh. Ba nghiệp của Phật và chúng sanh thường lìa nhau, cho nên gọi là xa cách.

– Gần-Xa: Gần, nếu tu hai hạnh chánh trợ, thì rất gần gũi với Đức Phật A-di-đà. Cho nên Quán Kinh Sớ lại ghi: “Chúng sanh nguyện được thấy Phật, Phật tức thời tùy ý niệm hiện đến trước mặt, cho nên gọi là gần gũi”. Xa, nếu tu Tạp hạnh thì không nguyện thấy Phật, Phật không tùy ý niệm hiện đến trước mặt, cho nên gọi là cách xa.

Thân và cận tuy nghĩa giống nhau, nhưng trong Quán Kinh Sớ, ngài Thiện Đạo chia làm hai, cho nên trích dẫn nơi đây.

– Không gián đoạn-Gián đoạn: Không gián đoạn, nếu tu hai hạnh chánh trợ, nhất định sẽ luôn luôn nhớ nghĩ đến Đức Phật A-di-đà, không bao giờ gián đoạn. Gián đoạn, nếu tu Tạp hạnh, tâm không luôn nhớ nghĩ đến Đức Phật A-di-đà, mà thường gián đoạn.

– Không hồi hướng-hồi hướng: Nếu tu hai hạnh chánh trợ, dẫu không hồi hướng cũng tự nhiên thành tựu sự nghiệp vãng sanh. Cho nên Sớ ghi: “Trong Quán Kinh nói: Mười tiếng niệm danh hiệu Phật, đã phát đầy đủ mười nguyện, tu mười hạnh. Vì sao? Vì Nam-mô tức là qui mạng , cũng có nghĩa phát nguyện hồi hướng; A-di-đà Phật tức là hạnh. Vì nghĩa này, cho nên nhất định được vãng sanh”. Hồi hướng, nếu tu Tạp hạnh thì cần phải hồi hướng mới thành tựu nhân vãng sanh. Cho nên Quán Kinh Sớ ghi: “Tuy có thể hồi hướng được vãng sanh…”

– Thuần-Tạp: Nếu tu hai hạnh chánh trợ, thì hoàn toàn là hành nghiệp Cực Lạc, còn tu các hạnh khác thì không phải thuần nhất hành nghiệp Cực Lạc. Vì chung cho cả hành nghiệp trời người và cả Tam thừa, cũng như chung cho khắp các cõi Tịnh trong mười phương, cho nên gọi là tạp. Người tu hành nghiệp Tây phương, cần phải bỏ Tạp hạnh mà tu Chánh hạnh.

Hỏi: Hai nghĩa thuần và tạp này có được xác chứng trong kinh luận không?

Đáp: Trong kinh luật luận Đại-Tiểu thừa có rất nhiều chứng cứ về việc thành lập hai môn thuần tạp. Như Đại thừa lập tám tạng , một là Tạp tạng, bảy là Thuần tạng; trong bốn bộ A-hàm của Tiểu thừa có một Tạp A-hàm, ba là Thuần A-hàm; trong Luật lập hai mươi kiền-độ để nói về giới hạnh, trong đó mười chín kiền-độ trước là Thuần, một kiền-độ cuối cùng là Tạp; Luận cũng lập tám kiền-độ để nói về tánh tướng các pháp, bảy kiền-độ trước là Thuần, một kiền-độ sau là Tạp. Về tập truyện Hiền thánh, các bộ Đường Cao Tăng truyện và Tống Cao Tăng truyện có lập mười khoa để nói về đức hạnh của các cao tăng, trong đó chín khoa trước là Thuần, một khoa sau cùng là Tạp; cho đến trong Đại Thừa Nghĩa Chương cũng lập năm tụ, bốn tụ trước là Thuần, một tụ sau là Tạp. Không chỉ Hiển giáo, Mật giáo cũng có Thuần-Tạp. Như trong Sơn Gia Huyết Mạch Phả ghi: “1, Thai tạng giới mạn-đồ-la huyết mạch phả, một thiên; 2, Kim cang giới mạn-đồ-la huyết mạch phả, một thiên; 3, Tạp mạn-đồ-la huyết mạch phả, một thiên”. Hai thiên trước là Thuần, một thiên sau là Tạp. Minh chứng về thuần tạp rất nhiều, ở đây chỉ nêu ra một số như thế thôi.

Nên biết rằng, nghĩa thuần tạp cũng tùy theo pháp mà thay đổi, không nhất định. Do đó, ở đây chỉ căn cứ theo ý của ngài Thiện Đạo mà luận về thuần tạp của hạnh Tịnh độ. Thuần tạp này không hạn cuộc nơi nội điển , mà trong ngoại điển cũng có rất nhiều, vì sợ dài dòng nên không ghi nơi đây. Nhưng trong hạnh vãng sanh, không chỉ ngài Thiện Đạo mới phân làm hai hạnh thuần tạp, mà thiền sư Đạo Xước cũng cho rằng tuy có nhiều hạnh vãng sanh, nhưng gom lại thành hai, đó là Niệm Phật vãng sanh và Vạn hạnh vãng sanh. Còn thiền sư Hoài Cảm thì nói: “Tuy có rất nhiều hạnh vãng sanh, nhưng gom lại thành hai là: Niệm Phật vãng sanh và Chư hạnh vãng sanh”. Sư Huệ Tâm cũng đồng với ý này. Như thế ba vị cùng lập hai hạnh để gồm thâu hết các hạnh vãng sanh, thật rất hợp với yếu chỉ Tịnh độ.

TRÍCH DẪN:

Vãng Sanh Lễ Tán ghi: “Nếu niệm niệm liên tục, lấy chết làm kì hạn, thì mười người tu mười người vãng sanh, trăm người tu trăm người vãng sanh. Vì sao? Vì không có tạp duyên nên được chánh niệm, tương ứng với bản nguyện của Đức Phật, không trái giáo Tịnh độ, thuận theo lời Phật. Nếu bỏ chuyên tu mà theo tạp tu thì trăm người không được một, ngàn người chẳng được năm, ba. Vì sao? Vì tạp duyên loạn động làm mất chánh niệm, không tương ứng với bản nguyện của Phật, trái với giáo Tịnh độ, không thuận theo lời Phật, niệm không liên tục, tâm có gián đoạn, hồi hướng phát nguyện không khẩn thiết và chân thật, các phiền não tham sân đến làm gián đoạn, không có tâm hỗ thẹn để sám hối, không luôn luôn nghĩ đến việc báo Đáp ân Phật. Khởi tâm khinh mạn, tuy tu tập mà luôn chạy theo danh lợi, tâm nhân ngã che mờ, khiến không thể gần gũi bạn lành đồng hạnh đồng tu. Thích gần gũi tạp duyên, làm chướng ngại chính mình và chướng ngại người khác.

Vì sao? Gần đây tôi thường nghe thấy tăng tục khắp nơi giải hạnh không đồng, dẫn đến tu chuyên, tu tạp khác nhau. Nhưng tu chuyên thì mười người, vãng sanh cả mười; còn tu tạp, vì không chí tâm, nên ngàn người tu không được một người về cõi Tịnh. Việc hơn kém của hai hạnh như trên đã trình bày, kính mong tất cả những người tu hành nghiệp Vãng sanh hãy suy nghĩ kĩ. Những người đời nay đã nguyện sanh về cõi Cực Lạc, thì nên trong tất cả mọi thời gian, khi đi đứng, lúc nằm ngồi hãy gắng lòng, khắc kỉ, ngày đêm niệm niệm liên tục chớ phế bỏ, lấy cái chết làm kì hạn. Như thế, đối với thân hầu như có một ít khổ, nhưng niệm trước mạng chung, niệm sau liền sanh về cõi Tịnh, vĩnh viễn hưởng thụ pháp lạc vô vi, cho đến cuối cùng thành Phật mà không trải qua sinh tử. Như thế, không sung sướng lắm sao?”.

LUẬN RẰNG:

Đọc đoạn văn này lại càng phải nên bỏ Tạp tu trở về Chuyên tu. Lẽ nào lại bỏ Chánh hạnh chuyên tu trăm người trăm được, mà chấp chặt Tạp hạnh tạp tu ngàn người hành mà không ai chứng được sao? Người tu tập cần phải suy nghĩ kĩ!

III. Đức A-di-đà không lấy các hạnh khác làm bản nguyện vãng sanh, chỉ lấy Niệm Phật làm bản nguyện vãng sanh

TRÍCH DẪN:

Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Như ta thành Phật mà các chúng sanh trong mười phương một lòng tin thích, muốn sanh về cõi nước của ta, dù chỉ niệm mười niệm liền được vãng sanh. Nếu không, ta không giữ ngôi Chánh giác”.

Quán Niệm Pháp Môn ghi: “Nếu ta thành Phật, các chúng sanh trong mười phương nguyện sanh về cõi nước ta, dù chỉ xưng niệm danh hiệu ta mười tiếng, liền nương nguyện lực của ta mà vãng sanh, nếu không ta không giữ ngôi Chánh giác”.

Vãng Sanh Lễ Tán cũng dẫn đoạn văn phát nguyện trên và bàn thêm rằng: “Đức Phật ấy thành Phật trong đời hiện tại. Nên biết thệ nguyện xưa rất sâu nặng, không hư dối. Nếu chúng sanh xưng niệm nhất định được vãng sanh”.

LUẬN RẰNG:

Mỗi Đức Phật đều có hai nguyện là nguyện chung và nguyện riêng. Nguyện chung chính là bốn thệ nguyện rộng lớn . Nguyện riêng, như Đức Thích-ca có năm trăm nguyện lớn, Đức Dược Sư có mười hai nguyện… Như bốn mươi tám nguyện ở đây, tức là nguyện riêng của Đức A-di-đà.

Hỏi: Đức A-di-đà Như Lai phát những lời nguyện này từ bao giờ và trước Đức Phật nào?

Đáp: Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Phật dạy A-nan: Vào thời quá khứ lâu xa, cách nay vô lượng chẳng thể tính bàn vô ương số kiếp , Đức Phật Định Quang xuất hiện ở thế gian, giáo hóa vô lượng chúng sanh, khiến tất cả đều được vào đạo rồi Ngài vào Niết-bàn. Kế đó lại có Đức Phật Quang Viễn, Phật Xử Thế cho đến Đức Phật thứ năm mươi ba xuất thế rồi vào Niết-bàn. Bấy giờ có Đức Phật hiệu là Thế Tự Tại Vương trụ ở đời. Có một vị vua nghe Phật thuyết pháp, trong lòng vui sướng liền phát tâm Vô thượng chánh chân đạo , từ bỏ ngôi vua, xuất gia làm sa-môn , hiệu là Pháp Tạng, tài cao, trí sáng, siêu việt thế gian. Một hôm Sa-môn này đến trụ xứ của Phật Thế Tự Tại Vương. Đức Phật nói rộng về trời người thiện ác, cõi nước đẹp xấu trong hai trăm mười ức Phật độ. Tất cả đều tương ứng với tâm nguyện của Sa-môn mà hiện ra. Vị Sa-môn nghe Đức Phật nói về cõi nước trang nghiêm thanh tịnh thì cũng liền thấy được tất cả. Do đó, Ngài phát thệ nguyện vô thượng thù thắng, trong tâm vắng lặng, ý không dính mắc, tất cả người thế gian không ai bằng. Trải qua năm kiếp, vị Sa-môn tư duy, giữ lấy hạnh thanh tịnh trong cõi Phật trang nghiêm.

A-nan lại hỏi: Tuổi thọ của Đức Phật ấy bao nhiêu?

Đức Phật Đáp: Tuổi thọ của Đức Phật ấy là bốn mươi hai kiếp.

Bấy giờ Tì-kheo Pháp Tạng giữ lấy hạnh thanh tịnh trong hai trăm mười ức cõi Phật vi diệu”.

Kinh Đại A-đi-đà ghi: “Đức Phật ấy tuyển chọn trời người thiện ác, cõi nước đẹp xấu trong hai trăm mười ức cõi Phật, chọn lấy những nguyện mà tâm ưa thích. Đức Phật Lâu-di-hỗ-la (Phật Thế Tự Tại Vương) lại thuyết kinh, Tất-đàm-ma-ca (Pháp Tạng) liền chuyên nhất tâm mình mà chứng đắc Thiên nhãn, thấy suốt trời người thiện ác, cõi nước đẹp xấu trong hai trăm mười ức cõi Phật, chọn những ước nguyện trong tâm đúc kết thành kinh Nhị Thập Tứ Nguyện”(kinh Bình Đẳng Giác cũng giống như thế).

Tuyển chọn nghĩa là lấy bỏ. Tức là trong hai trăm mười ức cõi Phật, bỏ trời người ác, chọn lấy trời người thiện; bỏ cõi nước xấu, chọn lấy cõi nước tốt đẹp. Nghĩa tuyển chọn trong kinh Đại A-di-đà như thế. Trong kinh Song Quyển cũng có ý nghĩa tuyển chọn, như kinh ấy ghi: “Tì-kheo Pháp Tạng giữ lấy hạnh thanh tịnh trong hai trăm mười ức cõi Phật vi diệu”. Tuyển chọn và giữ lấy cũng đồng một nghĩa. Thế thì xả bỏ hạnh không thanh tịnh mà chọn lấy hạnh thanh tịnh. Ý nghĩa trời người thiện ác, cõi nước đẹp xấu, theo đó cũng biết được.

Nay căn cứ theo bốn mươi tám nguyện, đơn phối hợp (nhất vãng), mỗi mỗi luận về nghĩa tuyển chọn, nhiếp thủ:

1. Nguyện không có ba đường ác , tức là trong hai trăm mười ức cõi Phật mà Tì-kheo Pháp Tạng nhìn thấy, có cõi nước có ba đường ác, có cõi nước không có ba đường ác. Như vậy chọn bỏ cõi nước thô xấu có ba đường ác, chọn lấy cõi nước thiện diệu không có ba đường ác. Cho nên gọi là tuyển chọn.

2. Nguyện không trải qua ba đường ác, tức trong cõi nước của các Đức Phật, tuy có cõi nước không có ba đường ác, nhưng nhân dân cõi ấy sau khi chết lại phải trải qua cõi nước có ba đường ác, hoặc có cõi nước không trải qua ba đường ác. Nay chọn bỏ cõi nước thô xấu chúng sinh sau khi chết, phải trải qua ba đường ác, chọn lấy cõi nước thiện diệu không trải qua ba đường ác. Cho nên gọi là tuyển chọn.

3. Nguyện thân đều có màu vàng ròng, tức trong các cõi nước của Đức Phật, hoặc cõi nước có hai loại trời người thân màu vàng và trắng, hoặc có cõi thuần chúng sanh thân màu vàng ròng. Nay chọn bỏ cõi nước thô xấu, có hai loại thân vàng và trắng, chọn lấy cõi nước thiện diệu có thuần chúng sanh thân màu vàng. Cho nên gọi là tuyển chọn.

4. Nguyện không có thân đẹp xấu, tức trong các cõi nước của Phật, có cõi nước mà trời người trong đó có hình sắc đẹp xấu khác nhau, hoặc có cõi nước mà chúng trời người trong đó chỉ một loại hình sắc, không có đẹp xấu khác nhau. Nay chọn bỏ cõi thô xấu có thân đẹp xấu khác nhau, chọn lấy cõi thiện diệu có thân chúng sanh đồng nhất, không đẹp xấu. Nên gọi là tuyển chọn.

Cho đến thứ 18, nguyện niệm Phật vãng sanh, tức trong cõi nước của Đức Phật kia, hoặc có cõi dùng bố thí làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng trì giới làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng nhẫn nhục làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng tinh tấn làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng thiền định làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng trí huệ (tin Đệ nhất nghĩa…) làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng tâm Bồ-đề làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng việc trì kinh làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng việc trì chú làm hạnh vãng sanh; hoặc có cõi dùng các hạnh xây dựng chùa tháp, tạo tôn tượng, cúng dường thức ăn cho sa-môn cho đến hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ làm hạnh vãng sanh; hoặc có cõi dùng hạnh chuyên xưng niệm danh hiệu Đức Phật cõi ấy làm hạnh vãng sanh. Như thế dùng một hạnh phối hợp với một cõi Phật, cho nên gọi là đơn phối hợp (nhất vãng).

Nếu luận theo phức phối hợp (tái vãng) thì ý nghĩa không nhất định, hoặc trong một cõi Phật dùng nhiều hạnh làm hạnh vãng sanh, hoặc có nhiều cõi Phật lại dùng một hạnh làm hạnh vãng sanh chung. Có rất nhiều hạnh vãng sanh như thế không thể kể hết. Nay chọn bỏ những hạnh bố thí, trì giới cho đến hiếu dưỡng cha mẹ…, mà chọn lấy hạnh chuyên xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, nên gọi là tuyển chọn.

Trên đây chỉ căn cứ theo năm nguyện, sơ lược luận bàn về nghĩa tuyển chọn như thế, thì tất cả các nguyện khác chuẩn theo đó cũng có thể biết được.

Hỏi: Căn cứ các nguyện, thì lí chọn bỏ cõi thô xấu, chọn lấy cõi thiện diệu thật đúng như vậy. Nhưng vì sao nguyện thứ mười tám chọn bỏ tất cả các hạnh, chỉ chọn lấy một hạnh Niệm Phật làm hạnh vãng sanh?

Đáp: Ý Phật thật khó lường, không thể tự ý giải thích. Tuy nhiên, nay thử dùng nghĩa hơn kém và nghĩa dễ khó để luận bàn xem.

– Hơn kém: Niệm Phật là hơn, các hạnh khác thì kém. Vì sao? Vì danh hiệu Phật là nơi trở về của muôn đức. Thế thì Đức Phật A-di-đà có đủ tất cả các công đức nội chứng (tự chứng) như bốn trí , ba thân , mười lực , bốn vô sở úy và tất cả công đức ngoại dụng (hóa tha) như tướng hảo , ánh sáng, thuyết pháp, lợi sanh…Tất cả các công đức nội, ngoại ấy đều thâu vào trong danh hiệu A-di-đà, cho nên công đức của danh hiệu rất tối thắng. Các hạnh khác thì không được như thế, mỗi hạnh chỉ có một phần công đức, vì thế cho nên kém vậy. Ví như nói ngôi nhà, thì trong từ ngôi nhà ấy đã thâu hết tất cả các loại như: kèo, cột, rui, mè, đòn dông…Nhưng kèo, cột, rui, mè thì không thể gồm thâu tất cả những loại khác được. Thế thì công đức của danh hiệu Phật hơn tất cả các công đức khác. Cho nên bỏ kém, chọn hơn làm bản nguyện.

– Dễ khó: Niệm Phật thì dễ tu, các hạnh khác rất khó tu. Cho nên trong Vãng Sanh Lễ Tán ghi: “Hỏi: Vì sao không cho tu quán, mà chỉ khuyên chuyên niệm danh hiệu? Đáp: Đó là do chúng sanh nghiệp chướng sâu nặng, cảnh quán thì vi tế, tâm tâm thì thô phù, thức lại mênh mang, thần thì bay bỗng. Nếu tu quán thật khó thành. Vì thế, bậc Đức Phật xót thương, chỉ khuyên niệm danh hiệu Phật. Hơn nữa, chỉ cần niệm liên tục thì được vãng sanh”.

Vãng Sanh Yếu Tập ghi: “Hỏi: Tất cả các nghiệp thiện đều có lợi ích, mỗi mỗi đều có thể hồi hướng vãng sanh, vì sao chỉ khuyên niệm Phật? Đáp: Khuyên niệm Phật, chẳng phải là không cho thực hành các hạnh lành khác, chỉ vì không kể nam nữ, sang hèn, không phân nằm ngồi đi đứng, không luận thời tiết nóng lạnh, chẳng quản nơi chốn gần xa…, hễ tu thì dễ thành. Cho đến lúc lâm chung nguyện cầu vãng sanh, không pháp nào hiệu quả hơn niệm Phật”.

Thế biết, niệm Phật dễ tu, nên chung cho tất cả các hạng chúng sanh, còn các hạnh khác khó hành, nên không bao trùm các loại. Vậy Đại Thánh muốn khiến chúng sanh bình đẳng vãng sanh, bỏ khó lấy dễ làm bản nguyện. Nếu lấy việc tạo tượng, xây tháp làm bản nguyện, thì những người nghèo hèn, khốn khổ ắt hết hi vọng vãng sanh, nhưng người giàu sang thì ít, kẻ nghèo hèn thì nhiều. Nếu dùng tài cao, trí tuệ làm bản nguyện thì kẻ ngu độn, trí kém tuyệt đường vãng sanh, nhưng kẻ ngu độn thì nhiều, người có trí tuệ lại ít. Nếu lấy nghiệp học rộng hiểu nhiều làm bản nguyện, thì kẻ ít học ít biết hết hi vọng vãng sanh, nhưng người học rộng thì ít, kẻ ít học thì nhiều. Nếu lấy trì giới, trì luật làm bản nguyện thì kẻ phá giới, không giới nhất định hết hi vọng vãng sanh, nhưng người trì giới thì ít, kẻ phá giới không giới thì nhiều. Tất cả các hạnh khác căn cứ theo đây cũng có thể biết được.

Hơn nữa, nếu dùng các hạnh trên làm bản nguyện thì rất ít người được vãng sanh. Thế thì Tì-kheo Pháp Tạng A-di-đà Như Lai khi xưa phát khởi lòng từ bi, vì nhiếp thủ tất cả, nên không dùng các hạnh xây tháp, tạo tượng…làm bản nguyện, chỉ lấy niệm Phật làm bản nguyện. Cho nên, trong bộ Ngũ Hội Pháp Sự Tán , thiền sư Pháp Chiếu có viết: “Đức Phật A-di-đà, trong lúc tu nhân đã lập thệ nguyện: “Người nào nghe danh hiệu ta, niệm danh hiệu ta thì ta đều đến đón, không kể nghèo hèn hay giàu sang, trí thấp hay tài cao, nghe nhiều học rộng, giữ tịnh giới hay phá giới, gốc tội sâu dày. Chỉ cần hồi tâm thường niệm Phật, thì có thể khiến cho ngói vỡ biến thành vàng ròng”.

Hỏi: Tất cả Bồ-tát dù đã lập thệ nguyện, nhưng có vị đã thành tựu, có vị chưa thành tựu, không biết bốn mươi tám nguyện của bồ-tát Pháp Tạng nay đã thành chưa?

Đáp: Tất cả nguyện của bồ-tát Pháp Tạng đã thành tựu. Vì sao? Vì trong cõi Cực Lạc không có ba đường ác, tức đã thành tựu nguyện “Không có ba đường ác”. Làm sao biết được? Vì kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ khi nói về nguyện thành tựu có ghi: “Cũng không có cõi nước có các nạn địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh”. Lại nói trời người cõi kia sau khi mạng chung không trải qua các đường ác, đó chính là thành tựu nguyện “Không trải qua ba đường ác”. Làm sao biết? Vì văn kinh ghi: “Các Bồ-tát kia cho đến lúc thành Phật cũng không trải qua ba đường ác”. Lại nói tất cả trời người trong cõi Cực Lạc đều đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, đó là thành tựu nguyện “Đầy đủ ba mươi hai tướng”. Làm sao biết? Vì văn kinh ghi: “Người sanh vào nước ấy đều đầy đủ ba mươi hai tướng”. Như vậy, từ nguyện thứ nhất “Không có ba đường ác”, cho đến nguyện cuối cùng “Đạt được ba pháp nhẫn” đều đã thành tựu. Há riêng nguyện thứ mười tám “Niệm Phật vãng sanh” không thành tựu sao?

Thế thì người niệm Phật nhất định vãng sanh. Làm sao biết? Vì văn kinh khi nói về nguyện thành tựu, có ghi: “Nếu chúng sanh nghe danh hiệu của Đức Phật A-di-đà, khởi lòng tin thích, vui vẻ, dù chỉ niệm một niệm, rồi chí tâm hồi hướng nguyện sanh về cõi nước của Ngài, nhất định được sanh, chứng Bất thoái chuyển”. Bốn mươi tám nguyện trang nghiêm cõi Tịnh, thì tất cả ao sen, lầu gác báu… đều là do nguyện lực mà thành, vì sao lại chỉ nghi ngờ nguyện Niệm Phật vãng sanh? Lại thêm, cuối mỗi mỗi nguyện còn nói: “Nếu chẳng như thế, ta chẳng giữ ngôi Chánh giác” mà Phật A-di-đà thành Phật đến nay đã mười kiếp. Nguyện thành Phật đã thành tựu, thì biết tất cả các nguyện khác chẳng phải lập suông. Cho nên ngài Thiện Đạo nói: “Đức Phật ấy hiện tại đã thành Phật, nên biết bản thệ nguyện sâu nặng thật không hư dối. Chúng sanh xưng niệm nhất định được vãng sanh”.

Hỏi: Kinh nói là mười niệm, giải thích là mười tiếng. Vậy nghĩa niệm và tiếng như thế nào?

Đáp: Niệm và tiếng chỉ là một. Vì sao? Vì trong phần Hạ phẩm hạ sanh trong kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Tiếng không gián đoạn, đầy đủ mười niệm xưng Nam-mô A-di-đà-Phật. Vì niệm danh hiệu Phật, cho nên trừ được tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp”. Nay căn cứ theo đoạn văn này thì đã rõ, tiếng tức là niệm, niệm tức là tiếng. Thêm nữa, kinh Đại Tập Nguyệt Tạng ghi: “Niệm lớn thấy Phật lớn, niệm nhỏ thấy Phật nhỏ”. Sư Hoài Cảm giải thích rằng: “Niệm lớn tức lớn tiếng niệm Phật, niệm nhỏ tức nhỏ tiếng niệm Phật”. Cho nên biết niệm tức là xướng niệm vậy.

Hỏi: Kinh ghi: “Nãi chí”, các bản giải thích là “hạ chí”, vậy có nghĩa gì?

Đáp: “Nãi chí” và “hạ chí” giống nhau. Kinh nói “nãi chí”, tức là từ nhiều xuống ít, nhiều là niệm trọn một đời, ít là xuống còn (dù chỉ) mười tiếng hoặc một tiếng. Còn giải thích “nãi chí” là “hạ chí”, thì hạ là đối với thượng. Hạ tức là dưới xuống còn (dù chỉ) mười niệm hay một niệm. Thượng tức là trên thì trọn một đời. Văn kinh luận đề cập đến thượng và hạ rất nhiều. Như trong nguyện “Túc mệnh thông” ghi: “Ví như ta thành Phật mà trời người trong cõi nước của ta không biết được túc mệnh , dù chỉ không biết các việc trong trăm nghìn na-do-tha kiếp, ta cũng không giữ ngôi Chánh giác”. Trong văn các nguyện về năm thần thông, ánh sáng, thọ mệnh đều có chữ Hạ chí, đó là ý nghĩa từ nhiều đến ít, dùng hạ đối với thượng vậy. Chữ Nãi chí trong nguyện này tức là Hạ chí. Cho nên ngài Thiện Đạo giải thích là Hạ chí, ý nghĩa cũng không trái. Nhưng ý các Sư và Thiện Đạo khác nhau. Các Sư giải thích hạn cuộc thành nguyện Thập niệm vãng sanh, ngài Thiện Đạo tổng gom, thành nguyện Niệm Phật vãng sanh. Các Sư phân biệt như thế, ý nghĩa không trọn vẹn. Vì sao? Vì trên thì không nói một đời, dưới thì không nói một niệm. Ngài Thiện Đạo lập nguyện Niệm Phật vãng sanh thì ý nghĩa trọn vẹn, vì trên thì nói đến một đời, dưới cũng giữ lấy một niệm.

IV. Ba hạng người niệm Phật vãng sanh

TRÍCH DẪN:

Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Phật dạy A-nan: Các trời và người trong thế giới ở mười phương chí tâm tin thích, nguyện sanh về nước Cực Lạc, gồm có ba hạng:

Bậc thượng, là những người xuất gia làm Sa-môn, phát tâm bồ-đề, một lòng chuyên niệm danh hiệu Đức Phật Vô Lượng Thọ, tu tập các công đức, nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc. Những người này lúc sắp chết, Đức Phật Vô Lượng Thọ và các Thánh hiện đến trước mặt, họ liền theo Phật sanh về nước của Ngài, tự nhiên hóa sanh trong hoa bảy báu, trụ nơi giai vị Bất thoái chuyển, được trí tuệ sáng tỏ, sức thần thông tự tại. Vì thế, này A-nan! Nếu có chúng sanh muốn ngay trong đời này thấy được Đức Phật Vô Lượng Thọ thì nên phát tâm Vô thượng bồ-đề, tu các công đức, nguyện sanh về nước Cực Lạc.

Đức Phật lại bảo A-nan: Bậc trung, là những trời người trong các thế giới ở mười phương, một lòng nguyện sanh về nước kia, dù không thực hành hạnh sa-môn, tu tập các công đức, nhưng phát tâm Vô thượng bồ-đề, chí tâm niệm danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ, hồi hướng tất cả những công đức có được từ việc thực hành các điều thiện như giữ gìn trai giới, xây dựng chùa tháp, tạo lập tôn tượng, cúng dường sa-môn, treo phan đốt đèn, thắp hương rải hoa nguyện sanh về cõi ấy. Người này lúc sắp chết, Đức Phật Vô Lượng Thọ hiện hóa thân có đầy đủ ánh sáng, tướng hảo như Phật thật cùng với đại chúng hiện đến trước mặt. Người này liền theo Hóa Phật sanh về nước ấy, trụ giai vị Bất thoái chuyển, công đức và trí tuệ chỉ sau bậc thượng.

Đức Phật lại bảo A-nan: Bậc hạ, là những trời người trong các thế giới ở mười phương chí tâm muốn sanh vào nước kia, giả sử họ không thể tạo các công đức, nhưng phát tâm Vô thượng bồ-đề, một lòng niệm danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ, dù chỉ mười niệm hay chỉ một niệm, với tâm chí thành nguyện sanh về nước ấy, nghe pháp sâu xa vui vẻ tin thích, không nghi ngờ. Người này lúc sắp chết, mộng thấy Đức Phật kia, cũng được vãng sanh, công đức trí huệ kém hơn bậc hạ.

LUẬN RẰNG:

Hỏi: Bậc thượng ngoài việc niệm Phật, còn có các hạnh xuất gia, lìa dục. Bậc trung còn có các hạnh xây dựng chùa tháp, tạo lập tôn tượng…Bậc hạ cũng có các hạnh như phát tâm bồ-đề…Vì sao chỉ nói Niệm Phật vãng sanh?

Đáp: Trong bộ Quán Niệm Pháp Môn của ngài Thiện Đạo ghi: “Phần đầu trong quyển hạ của kinh này ghi: Phật dạy căn tánh của chúng sanh không đồng, có thể chia làm ba bậc thượng, trung, hạ. Mỗi mỗi căn tánh, Đức Phật đều khuyên chuyên niệm danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ. Những người này lúc sắp chết, Đức Phật và các Thánh đến rước, liền được vãng sanh”. Căn cứ theo lời giải thích này, thì ba bậc đều có nói Niệm Phật vãng sanh.

Hỏi: Lời giải thích này chưa đáp ứng được câu gạn hỏi trên. Hỏi rằng vì sao không nói đến các hạnh khác mà chỉ nói đến Niệm Phật?

Đáp: Việc này có ba ý: Một là bỏ các hạnh, trở về hạnh Niệm Phật, nên mới nói đến các hạnh. Hai là trợ giúp để thành tựu hạnh Niệm Phật, nên mới nói đến các hạnh. Ba là căn cứ hạnh Niệm Phật và các hạnh, mỗi mỗi lập ba phẩm, nên phải nói đến các hạnh.

– Vì muốn bỏ các hạnh, trở về hạnh Niệm Phật: Căn cứ theo Quán Kinh Sớ của Thiện Đạo, từ trước đến đây tuy nói về lợi ích của hai môn Định-Tán, nhưng căn cứ theo ý bản nguyện Phật, khuyên chúng sanh một bề chuyên niệm Phật A-di-đà để giải thích, thì bậc thượng tuy nói đến các hạnh phát tâm Bồ-đề…, nhưng căn cứ theo ý bản nguyện, chúng sanh chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà, thì trong bản nguyện không có các hạnh khác. Ba bậc đều căn cứ theo bản nguyện, cho nên nói: “Nhất hướng (một bề) chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ”. Nói Nhất hướng là đối lại với nhị hướng, tam hướng…Ví như ở Ấn Độ xưa có ba loại chùa: Nhất hướng Đại thừa tự, chỉ tu tập theo Đại thừa; Nhất hướng Tiểu thừa tự, chỉ tu tập theo Tiểu thừa; Đại Tiểu kiêm hành tự, tu học cả Đại và Tiểu. Trong hai loại chùa Đại và Tiểu đều có chữ Nhất hướng, còn trong Kiêm hành thì không. Nhất hướng trong đây cũng như vậy, tức là một bề chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Nếu ngoài niệm Phật, còn tu thêm hạnh nào khác thì không gọi là nhất hướng. Căn cứ theo đó, nếu đã nói nhất hướng thì không gồm tu các hạnh khác vậy. Trước nói các hạnh, sau nói một bề chuyên niệm, thì biết rõ là phế các hạnh, chỉ chọn niệm Phật mà thôi. Nếu không như thế thì lời nhất hướng thật khó thông.

– Trợ giúp để thành tựu hạnh Niệm Phật: Có hai ý. Một, dùng căn lành đồng loại trợ giúp; hai, dùng căn lành khác loại để trợ giúp.

+ Dùng căn lành đồng loại: Trong Quán Kinh Sớ của Thiện Đạo có nêu ra năm hạnh để trợ giúp thành tựu một hạnh Niệm Phật, như đã nói trong phần Chánh hạnh-Tạp hạnh.

+ Dùng căn lành khác loại: Trước căn cứ theo bậc thượng để nói về trợ hạnh. Một bề chuyên niệm danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ là chánh hạnh, cũng là hạnh được trợ giúp. Bỏ gia đình, lìa dục làm sa-môn, phát tâm Bồ-đề là trợ hạnh, cũng là năng lực trợ giúp. Sự nghiệp vãng sanh lấy niệm Phật làm gốc, cho nên chuyên tâm niệm Phật. Chuyên tâm niệm Phật thì thực hành mãi mãi, không lui sụt, không bỏ phế; còn xuất gia, phát tâm bồ-đề chỉ một lần đầu mà thôi, cho nên không ngăn ngại niệm Phật. Trong bậc trung có các trợ hạnh xây tháp, tạo tượng, treo tràng phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương. Tức nơi chốn, pháp khí và các phẩm vật cúng dường cho việc niệm Phật.Về ý nghĩa của các trợ hạnh này được ghi đầy đủ trong Vãng Sanh Yếu Tập. Bậc hạ cũng có phát tâm, cũng có niệm Phật. Ý nghĩa chánh trợ niệm Phật căn cứ theo đoạn trước cũng có thể biết được.

+ Căn cứ theo hai môn: Niệm Phật và các hạnh, mỗi mỗi lập ba phẩm: Trước theo Niệm Phật, vì trong ba bậc đều nói: Một bề chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ. Nên phải căn cứ theo môn niệm Phật mà lập ba phẩm. Phần Niệm Phật chứng cứ môn trong Vãng Sanh Yếu Tập ghi: “Kinh Song Quyển nói hành nghiệp của ba bậc tuy sâu cạn khác nhau, nhưng đều có ghi: Một bề chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ” (sư Hoài Cảm cũng nói đồng với ý này). Kế đến theo các hạnh, vì trong ba bậc này đều có các hạnh phát tâm bồ-đề… Cho nên phải căn cứ theo các hạnh mà lập ba bậc. Phần Chư hạnh vãng sanh môn trong Vãng Sanh Yếu Tập ghi: “Kinh Song Quyển nói ba bậc cũng không ra ngoài các hạnh này”.

Ba nghĩa trên tuy khác nhau, nhưng đều vì môn Nhất hướng niệm Phật. Thứ nhất là nghĩa lấy và bỏ; thứ hai là nghĩa chánh và trợ, tức là vì hỗ trợ cho chánh nghiệp là Niệm Phật mà nói đến trợ nghiệp là các hạnh; thứ ba là nghĩa chánh và phụ, tuy nói cả hai, nhưng lấy niệm Phật làm chánh, các hạnh làm phụ. Nhưng ba nghĩa này cũng rất khó hiểu, xin người học tùy tâm, chọn lựa lấy bỏ. Nhưng theo ý của ngài Thiện Đạo thì nghĩa thứ nhất là cốt yếu.

Hỏi: Hạnh nghiệp vãng sanh của ba bậc đều nói niệm Phật, đó là lẽ đương nhiên, nhưng chín phẩm trong Quán Kinh và ba bậc trong kinh Vô Lượng Thọ vốn là khai hợp khác nhau. Nếu thế, vì sao ba bậc trong kinh Vô Lượng Thọ đều nói niệm Phật, còn trong chín phẩm của Quán Kinh thì hai phẩm thượng và trung không nói niệm Phật, đến phẩm hạ mới nói niệm Phật?

Đáp: Câu này có hai ý: Một, lời hỏi có nêu: chín phẩm trong Quán Kinh và ba bậc trong kinh Vô Lượng Thọ là khai hợp khác nhau. Như thế thì biết trong chín phẩm đều có niệm Phật. Vì sao biết? Vì trong ba bậc đều có niệm Phật, lẽ nào trong chín phẩm không có niệm Phật sao? Cho nên Vãng Sanh Yếu Tập ghi: “Trong chín phẩm, hạnh Niệm Phật thuộc về phẩm nào? Đáp: ‘Nếu như thuyết mà hành, lẽ ra thuộc về Thượng thượng, nhưng tùy hơn kém (có thể do căn cơ, cũng có thể do hành trì) mà phân làm chín phẩm. Nhưng hành nghiệp chín phẩm mà kinh nói, chỉ mới nêu một lẽ, thật ra là vô lượng’”. Cho nên biết chín phẩm cũng có hạnh Niệm Phật. Hai, ý của Quán Kinh, đầu tiên nói rộng về hạnh Định-Tán, để thích hợp với tất cả khả năng trình độ, sau phế bỏ Định thiện-Tán thiện để trở về niệm Phật. Đó chính là ý trong câu kinh: “Ông hãy thọ trì thật kĩ lời này…” trong Quán Kinh. Ý nghĩa đoạn văn này sẽ trình bày ở phần sau. Vì thế nên biết, hành nghiệp chín phẩm vãng sanh cốt ở niệm Phật.

V. Niệm Phật được lợi ích

TRÍCH DẪN:

Kinh Vô Lượng Thọ, quyển hạ ghi: “Đức Phật bảo Di-lặc : Nếu người nào nghe danh hiệu của Đức Phật kia mà khởi tâm vui mừng, dù chỉ một niệm xưng danh, nên biết người ấy được lợi ích lớn, đầy đủ công đức vô thượng.

Vãng Sanh Lễ Tán của Thiện Đạo ghi: “Nếu người được nghe danh hiệu của Đức Phật A-di-đà, khởi tâm hoan hỉ, dù chỉ một niệm xưng danh, người ấy sẽ được vãng sanh”.

LUẬN RẰNG:

Hỏi: Trong đoạn văn nói về ba bậc vãng sanh, ngoài công đức niệm Phật, còn có các công đức khác như phát tâm Bồ-đề… Vì sao không khen ngợi các công đức ấy, chỉ khen ngợi công đức niệm Phật?

Đáp: Ý của Đức Phật khó lường, nhất định Ngài có chủ ý sâu xa. Nhưng nay hãy căn cứ theo ý của đại sư Thiện Đạo mà trình bày. Ý của Đức Phật tuy chỉ muốn nói thẳng về hạnh Niệm Phật, nhưng nhất thời tùy căn cơ mà thuyết thêm các hạnh, chia ra ba bậc sâu cạn khác nhau. Nay sư cũng đã bỏ mà không khen ngợi, gác qua mà không luận đến, chỉ chọn một hạnh Niệm Phật để khen, thì suy nghĩ cũng có thể phân biệt được tại sao. Nếu căn cứ theo hạnh Niệm Phật để phân biệt ba bậc thì có hai ý: Một, tùy theo quán và niệm sâu cạn mà phân thành ba bậc. Hai, theo niệm Phật nhiều ít mà phân ba bậc. Theo quán niệm sâu cạn thì như trên đã dẫn, chính là nói: “Nếu như thuyết mà hành trì, đúng ra thuộc phẩm Thượng thượng”. Về niệm Phật nhiều ít, trong văn kinh nói bậc hạ có nêu số lượng: từ mười niệm xuống chỉ còn một niệm… Hai bậc thượng và trung, căn cứ theo đây mà số niệm tăng dần. Quán Niệm Pháp Môn ghi: “Một ngày niệm một vạn biến danh hiệu Phật, nhưng cũng phải cần theo thời khóa lễ lạy, khen ngợi các việc trang nghiêm của cõi Tịnh. Lại cần phải tăng tiến niệm ba vạn, sáu vạn, mười vạn, nhất định Thượng phẩm thượng sanh”. Nên biết niệm ba vạn biến trở lên là hạnh nghiệp Thượng phẩm thượng sanh; dưới ba vạn biến là hành nghiệp Thượng phẩm trung sanh trở xuống. Như thế đã rõ tùy theo số niệm nhiều hay ít mà phân biệt phẩm vị. Một niệm ở đây chính là một niệm nói trong phần “Niệm Phật nguyện thành tựu”, cũng là một niệm nói trong bậc hạ ở trên. Trong văn “Nguyện thành tựu” tuy ghi: “Chưa nói công đức lợi ích lớn của một niệm”; văn trong phần bậc hạ tuy nói: “Cũng không nói công đức lợi ích lớn của một niệm”, nhưng đến đây lại nói một niệm được lợi ích lớn và khen là vô thượng. Cho nên biết đó là chỉ cho một niệm ở trên. Lợi ích lớn là đối với lợi ích nhỏ, cho các hạnh như phát tâm Bồ-đề… là lợi ích nhỏ, “dù chỉ một niệm” là lợi ích lớn. Còn công đức vô thượng là đối với công đức hữu thượng vậy. Cho công đức niệm Phật là vô thượng, thì một niệm là một vô thượng, mười niệm là mười vô thượng, trăm niệm là trăm vô thượng, ngàn niệm là ngàn vô thượng. Cho đến lần lượt tăng tiến từ ít đến nhiều, đến hằng sa niệm Phật, vô thượng công đức cũng hằng sa. Vậy những người nguyện cầu vãng sanh, sao lại bỏ niệm Phật có lợi ích lớn vô thượng mà lại cưỡng tu các hạnh có lợi ích hữu thượng?

VI. Sau một vạn năm thời Mạt pháp các hạnh đều không còn, chỉ giữ lại môn Niệm Phật

TRÍCH DẪN:

Kinh Vô Lượng Thọ, quyển hạ ghi: “Trong đời tương lai kinh đạo diệt hết, ta rủ lòng từ bi thương xót chúng sanh, chỉ giữ lại kinh này trụ tại thế gian thêm một trăm năm. Bấy giờ, nếu có chúng sanh nào gặp được kinh này, tùy ý nguyện vãng sanh thì đều được độ”.

LUẬN RẰNG:

Hỏi: Trong kinh chỉ nói giữ lại kinh này một trăm năm, chứ đâu nói giữ môn Niệm Phật một trăm năm. Vì sao ở đây lại nói là giữ môn Niệm Phật?

Đáp: Toàn bộ nội dung kinh này đều nói đến niệm Phật, như đã trình bày ở trên, ở đây không cần phải nêu ra. Các ngài Thiện Đạo, Hoài Cảm, Huệ Tâm… đều nói đồng với ý này. Thế thì kinh này trụ thế, tức là môn Niệm Phật trụ thế vậy. Vì sao? Vì kinh này tuy nói đến phát tâm Bồ-đề, nhưng chưa nói hành tướng của tâm ấy; tuy nói đến trì giới, nhưng chưa nói hành tướng của trì giới. Về hành tướng của tâm Bồ-đề, thì trong kinh Bồ-đề Tâm trình bày rất đầy đủ. Kinh ấy, trước nói diệt các hành của tâm Bồ-đề, vậy nhờ vào đâu để tu? Còn về hành tướng của trì giới thì được nói rõ trong giới luật Đại Tiểu thừa. Giới luật ấy, trước diệt các hành trì giới, vậy nhờ vào đâu để tu? Các hạnh khác căn cứ theo đây cũng có thể biết được. Cho nên trong bộ Vãng Sanh Lễ Tán, ngài Thiện Đạo giải thích đoạn văn này như sau:

“Sau một vạn năm, Tam bảo diệt

Chỉ còn kinh này trụ trăm năm

Bấy giờ người nghe, xưng một niệm

Ắt được sanh về cõi nước kia”.

Lại nêu ra bốn ý để giải thích đoạn văn này: Một, thời gian trụ và diệt trước sau của Thánh đạo môn và Tịnh độ môn. Hai, thời gian trụ và diệt trước sau của giáo Thập phương tịnh độ và giáo Tây phương tịnh độ. Ba, thời gian trụ và diệt trước sau của Đâu-suất và Tây phương. Bốn, thời gian trụ và diệt trước sau của môn Niệm Phật và các hạnh.

+ Thời gian trụ và diệt của Thánh đạo và Tịnh độ: Các kinh của Thánh đạo môn diệt trước, cho nên nói: kinh đạo diệt hết. Chỉ lưu giữ kinh này của Tịnh độ môn, cho nên nói: trụ một trăm năm. Nên biết cơ duyên của chúng sanh đối với Thánh đạo môn rất cạn cợt, cơ duyên của chúng sanh đối với Tịnh độ môn rất sâu dày.

+ Thời gian trụ và diệt của giáo Thập phương tịnh độ và Tây phương tịnh độ: Giáo pháp dạy sanh về các cõi Tịnh trong mười phương diệt trước, cho nên nói: kinh đạo diệt hết. Chỉ giữ lại kinh này là giáo pháp vãng sanh Tây phương tịnh độ, cho nên nói: trụ một trăm năm. Nên biết, cơ duyên của chúng sanh đối với giáo vãng sanh Tịnh độ mười phương rất cạn cợt, cơ duyên chúng sanh đối với giáo vãng sanh Tịnh độ tây phương rất sâu dày.

+ Thời gian trụ và diệt của giáo vãng sanh Đâu-suất và giáo vãng sanh Tịnh độ: Các giáo dạy sanh về cõi Đâu-suất diệt trước, cho nên nói: kinh đạo diệt hết. Chỉ lưu lại kinh dạy vãng sanh Tây phương tịnh độ, cho nên nói: trụ một trăm năm. Nên biết, cõi Đâu-suất tuy gần, nhưng duyên cạn mỏng, cảnh Tịnh tuy xa nhưng duyên sâu dày.

+ Thời gian trụ và diệt của hạnh tu các giáo và Niệm Phật: Các giáo dạy tu các hạnh vãng sanh diệt trước, nên nói: kinh đạo diệt hết. Chỉ giữ kinh dạy về niệm Phật, cho nên nói: trụ một trăm năm. Nên biết cơ duyên của chúng sanh đối với giáo dạy tu các hạnh vãng sanh rất cạn cợt, còn đối với giáo dạy niệm Phật rất sâu dày. Hơn nữa, giáo dạy tu các hạnh vãng sanh ít có duyên với chúng sanh, còn giáo niệm Phật thì có duyên rất lớn đối với đời. Giáo dạy các hạnh vãng sanh chỉ hạn cuộc trong một vạn năm thời mạt pháp, còn giáo dạy niệm Phật vãng sanh nhuần thấm đến một trăm năm sau khi giáo pháp diệt tận.

Hỏi: Đã nói: “Ta vì lòng từ bi thương xót chúng sanh, nên chỉ lưu giữ kinh này trụ ở đời thêm một trăm năm”. Nếu thế, Đức Thế Tôn vì lòng từ bi mà giữ lại kinh giáo, thì sao không giữ các kinh giáo khác lại chỉ giữ kinh này?

Đáp: Dẫu có lưu giữ riêng bất cứ kinh nào, thì cũng không ngại, nhưng nay Đức Phật chỉ giữ lại kinh này là có thâm ý. Theo hòa-thượng Thiện Đạo thì kinh này nói về bản nguyện niệm Phật vãng sanh của Đức A-di-đà, cho nên Đức Thích-ca từ bi, vì giữ môn Niệm Phật mà phải đặc biệt giữ lại kinh này. Các kinh khác chưa nói đến bản nguyện niệm Phật vãng sanh của A-di-đà Như lai. Cho nên Đức Thích-ca từ bi không giữ lại.

Tuy tất cả bốn mươi tám nguyện đều là bản nguyện, nhưng đặc biệt dùng niệm Phật làm phép tắc vãng sanh. Cho nên ngài Thiện Đạo giải thích rằng:

Hoằng thệ tuy nhiều, bốn tám môn,

Nhưng chỉ niệm Phật là tối tôn.

Ai luôn niệm Ngài, Ngài nhớ nghĩ,

Chuyên tâm tưởng Phật, Phật biết lòng.

Cho nên biết, trong bốn mươi tám nguyện, đã lấy nguyện Niệm Phật vãng sanh làm vua trong các bản nguyện, vì thế Đức Thích-ca từ bi, đặc biệt lưu kinh này trụ thế một trăm năm. Như trong kinh Quán Vô Lượng Thọ không phó chúc các hạnh Định-Tán, mà chỉ phó chúc hạnh Niệm Phật. Đó là vì thuận với nguyện của Đức Phật kia vậy.

Hỏi: Lưu lại kinh này trong khoảng một trăm năm, lẽ đương nhiên, vì hạnh Niệm Phật thích hợp thời gian và trình độ của chúng sanh thời ấy. Nhưng không biết có thích hợp trình độ chúng sanh thời chánh, tượng, mạt hay không?

Đáp: Bao gồm cả các căn cơ ba thời ấy. Đó là nêu lợi ích mai sau để khuyên dạy người hiện đời, người học cần phải biết.

VII. Ánh sáng của Đức Phật A-di-đà không chiếu đến các hành giả khác, chỉ nhiếp thọ hành giả niệm Phật.

TRÍCH DẪN:

Kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Đức Phật Vô Lượng Thọ có tám vạn bốn ngàn tướng, mỗi một tướng có tám vạn bốn ngàn vẻ đẹp, mỗi một vẻ đẹp có tám vạn bốn ngàn tia sáng, mỗi một tia sáng chiếu khắp các thế giới ở mười phương, nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật, không bao giờ lìa bỏ”.

Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ ghi: “Từ câu ‘Đức Phật Vô Lượng Thọ’ đến câu ‘không bao giờ lìa bỏ’ chính là nói về pháp quán ánh sáng của thân để làm lợi ích cho những người có duyên. Đoạn này gồm năm phần: Một, số lượng tướng. Hai, số lượng của vẻ đẹp. Ba, số lượng tia sáng. Bốn, khoảng cách ánh sáng chiếu soi. Năm, nơi ánh sáng chiếu đến, tất cả đều được nhiếp thọ.

Hỏi: Tu tập đủ các hạnh, hồi hướng thì đều được vãng sanh. Vì sao ánh sáng của Phật chiếu soi khắp mà chỉ nhiếp thọ những người niệm Phật?

Đáp: Câu này có ba ý: Một, duyên thân thiết. Tức chúng sanh khởi hạnh tu tập, miệng thường tụng danh hiệu Phật, Phật liền nghe; thân thường lễ Phật, Phật liền thấy; tâm thường niệm Phật, Phật liền biết. Chúng sanh nhớ nghĩ đến Phật, Phật cũng nhớ nghĩ đến chúng sanh. Ba nghiệp của chúng sanh và Phật không lìa nhau, cho nên gọi là duyên thân thiết. Hai, duyên gần gũi, chúng sanh nguyện thấy Phật, Phật liền hiện đến trước mặt, cho nên gọi là duyên gần gũi. Ba, duyên tăng thượng, chúng sanh niệm danh hiệu Phật thì diệt trừ được tội trong nhiều kiếp. Lúc sắp chết, Đức Phật và các vị Thánh cùng đến đón tiếp, các tà nghiệp trói buộc không thể ngăn trở, cho nên gọi là duyên tăng thượng. Các hạnh khác tuy gọi là thiện, nhưng hoàn toàn không thể so sánh với niệm Phật. Cho nên trong các kinh, nhiều chỗ khen ngợi công năng của niệm Phật. Như bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ chỉ nói chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà thì được vãng sanh. Kinh A-di-đà ghi: “Từ một ngày cho đến bảy ngày, chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà thì được vãng sanh”. Lại có rất nhiều Đức Phật trong mười phương xác chứng cho sự chân thật, không dối ấy. Còn trong phần Định-tán của kinh này thì chỉ nêu chuyên niệm danh hiệu sẽ được vãng sanh. Những minh chứng như thế rất nhiều.

Quán Niệm Pháp Môn ghi: “Các tia sáng nơi thân của Phật chiếu cùng khắp các thế giới trong mười phương”. Nhưng chỉ có những chúng sanh niệm Phật A-di-đà thì mới được ánh sáng từ tâm Phật chiếu soi và nhiếp hộ, không xa lìa. Hoàn toàn không chiếu và nhiếp theo những hành giả tu tập hạnh.

LUẬN RẰNG:

Hỏi: Nói ánh sáng của Phật chỉ chiếu đến người niệm Phật, không chiếu đến những người tu các hạnh khác, là có ý gì?

Đáp: Câu này gồm hai ý: Một, tức ba nghĩa của duyên thân thiết như đã trình bày ở đoạn trên. Hai, nghĩa bản nguyện, tức các hạnh khác không phải là bản nguyện, cho nên không chiếu soi, nhiếp thọ, còn hạnh Niệm Phật là bản nguyện nên chiếu soi nhiếp thọ. Trong Lục Thời Lễ Tán của ngài Thiện Đạo có ghi:

Thân Di-đà như kim sơn vương

Ánh sáng tướng hảo chiếu mười phương

Chỉ người niệm Phật hay nhiếp thọ

Phải hay bản nguyện, sức không lường

Lại dẫn văn: “Các hạnh khác tuy gọi là thiện, nhưng hoàn toàn không thể sánh với niệm Phật”. Đó là so sánh với các hạnh trong môn Tịnh độ mà thôi. Tức hạnh Niệm Phật là diệu hạnh được chọn lấy từ hai trăm mười ức cõi nước, các hạnh là những hạnh thô đã loại bỏ từ hai trăm mười ức cõi nước. Cho nên nói hoàn toàn không thể so sánh. Hơn nữa Niệm Phật là bản nguyện, các hạnh khác không phải bản nguyện, cho nên hoàn toàn không thể so sánh.

VIII. Người niệm Phật nhất định phải đầy đủ ba tâm

TRÍCH DẪN:

Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Nếu chúng sanh nguyện sanh về nước kia thì nên phát khởi ba tâm là tâm Chí thành, tâm Tin sâu, tâm Hồi hướng phát nguyện. Hễ đầy đủ ba tâm này thì nhất định được sanh về nước kia”.

Quán Vô Lượng Kinh Sớ ghi: “Tâm Chí thành, trong đó, chí là chân, thành là thật. Ý muốn nói giải hạnh của ba nghiệp thân, miệng, ý nhất định phải được xuất phát từ tâm chân thật. Không được bên ngoài hiện tướng hiền thiện, tinh tấn, bên trong giả dối không thật, đầy dẫy tham sân, tà vạy, gian trá, tánh ác khó trừ, giống như loài rắn rết. Tuy khởi tu ba nghiệp, nhưng đều gọi là tạp độc, cũng gọi là hạnh hư giả, không gọi là chân thật.

Nếu tạo tác như thế mà tâm khởi hạnh tu tập, dẫu cho thân tâm siêng năng lao khổ, ngày đêm cấp thiết hành trì như cứu lửa cháy đầu, thì cũng đều gọi là thiện xen lẫn độc. Nếu muốn hồi hướng hạnh tạp độc này cầu sanh về cõi Tịnh của Đức Phật kia, thật không thể được. Vì sao? Chính là do Đức Phật A-di-đà khi còn là Bồ-tát, dù chỉ trong một niệm, một sát-na , ba nghiệp tu tập đều từ tâm chân thật. Tất cả những hành vi, những mong cầu cũng đều chân thật. Chân thật có hai loại là chân thật tự lợi và chân thật lợi tha. Chân thật tự lợi lại có hai: Một, trong tâm chân thật ngăn chặn, xa lìa cõi uế và các pháp ác; đi, đứng, ngồi, nằm đều quán tưởng ta đồng với các Bồ-tát để ngăn chặn và xa lìa các pháp ác. Hai, từ tâm chân thật siêng năng tu tập các pháp thiện của phàm thánh, của mình và người. Từ tâm chân thật, miệng khen ngợi Đức Phật A-di-đà và y báo, chánh báo cõi kia. Từ tâm chân thật, miệng chê bai các việc khổ đau, xấu ác của y báo, chánh báo trong ba cõi, sáu đường, đồng thời khen ngợi những việc thiện mà ba nghiệp của chúng sanh đã tạo. Nếu nghiệp bất thiện thì cẩn thận mà xa lánh, không nên vui thuận theo. Lại từ tâm chân thật, thân hành thiện, chắp tay lễ kính, dâng cúng tứ sự lên Đức Phật A-di-đà và y báo chánh báo cõi kia. Từ tâm chân thật, thân nghiệp khinh chê, nhàm lìa y báo, chánh báo của mình và người trong ba cõi sanh tử này. Từ tâm chân thật, ý nghiệp suy nghĩ, quán tưởng, nhớ nghĩ Đức Phật A-di-đà và y báo chánh báo cõi kia như hiện trước mặt. Từ tâm chân thật, ý nghiệp khinh chê, nhàm lìa y báo, chánh báo của mình và người trong ba cõi sanh tử này. Ba nghiệp bất thiện, nên xa lìa từ tâm chân thật; ba nghiệp thiện cũng phải tạo từ tâm chân thật. Không phân biệt trong tâm hay ngoài thân, tạo thiện hay lìa bất thiện, nhất định phải chân thật, cho nên gọi là tâm Chí thành.

Tâm Tin sâu: có hai nghĩa: Nhất định tin sâu thân ta hiện nay là phàm phu sanh tử gây tạo nhiều tội lỗi, từ vô số kiếp đến nay chìm đắm, lưu chuyển không có cơ hội thoát ra; nhất định tin sâu bốn mươi tám nguyện của Đức Phật A-di-đà nhiếp thọ chúng sanh, không nghi ngờ, không lo nghĩ; nương nguyện lực ấy nhất định được vãng sanh. Nhất định tin sâu Đức Thích-ca nói ba phước, chín phẩm, định thiện, tán thiện, xác chứng và khen ngợi y báo, chánh báo cõi kia trong kinh Quán Vô Lượng Thọ là để cho người ưa thích. Nhất định tin sâu kinh A-di-đà nói vô số các Đức Phật trong mười phương khuyên tất cả phàm phu niệm Phật nhất định vãng sanh. Tin sâu, tức kính nguyện các hành giả chỉ một lòng tin lời Phật, chẳng tiếc thân mạng, quyết định theo lời dạy tu hành; Phật bảo bỏ thì ta bỏ, Phật bảo làm thì ta làm, Phật bảo đi thì ta đi… Đó gọi là tùy thuận lời Phật, tùy thuận ý Phật, tùy thuận nguyện Phật, cũng gọi là đệ tử chân thật của Phật.

Tất cả người tu hành chỉ nên nương theo kinh này (Quán Kinh), tin sâu mà thực hành, nhất định Phật không dối gạt chúng sanh. Vì sao? Vì Phật là bậc có lòng đại bi tròn đủ, nói lời chân thật. Ngoài Phật ra, tất cả các bậc phàm thánh khác, trí tuệ chưa viên mãn, còn đang ở giai vị tu học, chưa dứt trừ hai chướng là chánh sử và tập khí , quả nguyện chưa thành, dẫu suy lường lời Phật, nhưng chưa thể quyết định; tuy có bình phẩm, nhưng cần phải có Phật xác chứng mới quyết định được. Nếu hợp ý Phật, mới ấn khả “như thế, như thế”. Nếu chẳng hợp ý Phật, thì nói “lời của các ông, ý nghĩa chẳng phải như thế”, chẳng ấn khả. Như vậy tức đồng với lời vô kí, vô lợi, vô ích. Phật ấn khả, tức tùy thuận chánh giáo của Phật. Nếu là lời của Phật, tức chánh giáo, chánh nghĩa, chánh hạnh, chánh giải, chánh nghiệp, chánh trí. Dù ít, dù nhiều, không luận bồ-tát, trời người… thuyết, đều phải định đúng sai. Nếu là lời Phật nói thì đó là giáo liễu nghĩa , nếu là bồ-tát… nói thì đều gọi là giáo bất liễu nghĩa. Cho nên hôm nay kính khuyên những người có duyên vãng sanh, chỉ nên tin sâu lời Phật, nương theo đó chuyên tâm hành trì, không nên tin dùng giáo không tương ưng do Bồ-tát… nói để rồi chướng ngại, ôm mối nghi ngờ, tự mê lầm, mất đi lợi ích lớn vãng sanh.

Tâm tin sâu, tức quyết định kiến lập tự tâm vững chắc, thuận với chánh giáo của Phật, vĩnh viễn trừ bỏ những nghi lầm, không bị những biệt giải, biệt hành, dị học, dị kiến, dị chấp làm xao động hay lui sụt.

Hỏi: Người đời trí huệ nông cạn, phiền não sâu dày, nếu gặp người có giải hạnh bất đồng, khéo dẫn kinh luận chứng minh rằng “tất cả hàng phàm phu nhiều tội chướng không thể vãng sanh”, gây trở ngại, thì phải làm thế nào đối trị, để thành tựu tín tâm, quyết định tiến thẳng, không sanh tâm sợ hãi, thoái lui?

Đáp: Nếu có người dẫn kinh luận, chứng minh là không thể vãng sanh, thì nên Đáp rằng: “Tuy nhân giả dùng kinh luận minh chứng cho việc không thể vãng sanh, nhưng ý ta nhất định không bị ngài phá hoại. Vì sao? Không phải ta không tin những kinh luận ấy, ta tin tất cả, nhưng Đức Phật nói kinh luận ấy cho thời gian khác, nơi chốn khác, căn cơ khác, lợi ích khác. Hơn nữa, khi Phật nói kinh ấy chẳng phải là lúc thuyết các kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà… Phật thuyết kinh giáo, thích ứng các thời đại và căn cơ cũng khác nhau. Hơn nữa, những kinh luận ấy Đức Phật nói về giải hành chung cho hàng Bồ-tát và trời người. Nay Phật nói Quán Kinh gồm hai thiện Định-Tán, là vì bà Vi-đề-hi và những chúng sanh trong đời năm trược chịu năm khổ mà xác chứng được vãng sanh. Vì lí do này mà hôm nay ta một lòng tuân theo lời Phật dạy, quyết định hành trì. Dẫu Ngài có nói trăm ngàn vạn ức lời “chẳng được sanh”, cũng chỉ giúp ta thành tựu thêm lòng tin thanh tịnh mà thôi!”

Lại nói tiếp rằng: “Nhân giả nên lắng nghe, hôm nay ta sẽ nói cho ngài nghe về lòng tin quyết định: Dẫu cho một vị Bồ-tát địa tiền , một vị A-la-hán, một vị Bích-chi-phật, hoặc nhiều vị, đầy khắp cả mười phương đều dẫn kinh luận chứng minh là không được vãng sanh, ta cũng không khởi một niệm nghi ngờ, mà chỉ giúp thành tựu thêm lòng tin thanh tịnh. Vì sao? Vì lời Phật là giáo liễu nghĩa quyết định thành tựu, không bị tất cả thuyết khác phá hoại.

Nhân giả hãy lắng nghe! Dẫu cho một vị bồ-tát từ Sơ địa đến Thập địa, hoặc nhiều vị, đầy khắp cả mười phương đồng nói rằng: “Phật Thích-ca chỉ khen ngợi Đức A-di-đà, chê trách ba cõi sáu đường. Khuyên chúng sanh chuyên tâm niệm Phật và tu các nghiệp thiện khác, hết một báo thân này, nhất định sẽ được vãng sanh cõi nước ấy. Đây là lời hư dối, không đáng tin theo”. Dù ta nghe như thế cũng không khởi một niệm nghi ngờ, mà chỉ giúp thành tựu thêm lòng tin quyết định tối thượng của ta mà thôi. Vì sao? Vì lời Phật là giáo liễu nghĩa quyết định chân thật. Vì Phật là đấng Thật tri, Thật giải, Thật kiến, Thật chứng, nên lời ấy chẳng phải từ tâm nghi hoặc xuất phát, lại chẳng bị tất cả những dị kiến, dị giải của bồ-tát phá hoại. Nếu thật là Bồ-tát, thì không trái với lời Phật.

Hành giả nên biết! Dẫu cho một Hóa Phật, một Báo Phật hoặc rất nhiều vị, đầy khắp cả mười phương, mỗi mỗi phóng ánh sáng, hiện tướng lưỡi trùm cả mười phương đồng thời nói rằng: “Phật Thích-ca khen ngợi, khuyên tất cả phàm phu chuyên tâm niệm Phật và làm tất cả các việc thiện khác, rồi hồi hướng nguyện sanh, nhất định sẽ được sanh về cõi ấy. Đây là lời hư dối, nhất định không có việc này”. Dù ta nghe các Đức Phật nói như thế, nhưng cũng không khởi một niệm nghi ngờ, sợ không được sanh về cõi Phật. Vì sao? Vì một Phật là tất cả Phật. Tất cả những tri kiến, giải hành, chứng ngộ, quả vị, đai bi… đều đồng nhất, không mảy may sai biệt. Cho nên, một Phật chế định tức tất cả Phật đồng chế định. Giống như Phật trước, chế các giới trừ diệt tội thập ác: như sát sanh… trọn vẹn không phạm, không làm, tùy thuận sáu độ . Nếu Phật sau xuất hiện, lẽ nào dạy đổi thập thiện, khiến làm thập ác sao? Suy nghiệm từ đạo lí này thì biết rõ ngôn hạnh của các Đức Phật không bao giờ trái nhau. Ví như Đức Thích-ca khen ngợi, khuyên bảo tất cả phàm phu hãy trọn một đời này chuyên niệm, chuyên tu, sau khi chết, nhất định sanh về cõi nước kia, thì các Đức Phật trong mười phương cũng đồng khen ngợi, đồng khuyên bảo, đồng xác chứng. Vì sao? Vì đồng thể đại bi vậy. Việc giáo hoá của một Đức Phật, tức là việc giáo hoá của tất cả các Đức Phật và ngược lại. Như trong kinh A-di-đà nói : Đức Phật Thích-ca khen ngợi cõi Cực Lạc có vô số trang nghiêm. Lại khuyên tất cả phàm phu, nếu từ một ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà, nhất định được vãng sanh. Đoạn sau lại nói: Trong mười phương, mỗi phương đều có vô số các Đức Phật đồng khen ngợi Đức Thích-ca có năng lực ở trong thời kì có năm trược ác, đầy dẫy bất tín: thời đại ác, thế giới ác, chúng sanh ác, kiến ác, phiền não tà ác, mà khen ngợi danh hiệu A-di-đà, khuyên chúng sanh xưng niệm, nhất định được vãng sanh. Đây là minh chứng cho việc Phật Phật đồng một phương cách giáo hóa.

Hơn nữa, các Đức Phật trong mười phương sợ chúng sanh không tin lời của Đức Thích-ca, nên liền đồng tâm, đồng thời triển tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới nói lời chân thật: “Chúng sanh các ngươi nên tin lời khen ngợi, lời khuyên bảo, lời xác chứng của Đức Thích-ca. Tất cả phàm phu, không kể tội phước ít nhiều, thời gian dài ngắn, lâu thì trọn một đời, mau thì bảy ngày hay chỉ một ngày, nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà, nhất định được vãng sanh, trọn không nghi ngờ”. Cho nên biết rằng, một Đức Phật nói ra việc gì thì tất cả các Đức Phật đồng xác chứng chân thật cho sự việc ấy. Đây gọi là căn cứ theo người mà lập tín.

Căn cứ theo hạnh lập tín. Hạnh có hai loại là chánh hạnh và tạp hạnh, như trước đã nói. Ở đây không cần thuật lại.

Tâm hồi hướng phát nguyện: Tức đem tất cả căn lành thế gian, xuất thế gian do ba nghiệp của ta tu tập từ quá khứ cho đến ngày nay. Tất cả các căn lành thế gian, xuất thế gian do ba nghiệp của các thánh phàm tu tập mà ta tùy hỉ đó, từ tâm chân thật tin sâu mà hồi hướng nguyện vãng sanh về Tịnh độ Tây phương. Hồi hướng nguyện sanh, nhất định phải từ tâm quyết định chân thật mà hồi hướng nguyện được vãng sanh. Tâm tin sâu này như kim cang, không bị những người có dị kiến, dị học, biệt giải, biệt hành phá hoại hay làm cho loạn động. Chỉ quyết định nhất tâm thẳng tiến, không được nghe lời của người khác mà thoái tâm, sanh lòng khiếp sợ, quay đầu lạc bước, làm mất lợi ích lớn vãng sanh.

Hỏi: Nếu có kẻ tà kiến, không đồng giải hạnh đến mê hoặc, nhiễu loạn, dùng nhiều lời lẽ gạn hỏi, rồi cho rằng không được vãng sanh, hoặc nói rằng: “Chúng sanh các ông từ vô số kiếp đến nay, ba nghiệp thân miệng ý đã gây tạo các tội mười ác, năm nghịch , bốn trọng , Xiển-đề , phá giới, phá kiến đối với bậc Thánh, nay vẫn chưa trừ hết, các tội này thuộc đường ác trong ba cõi. Vậy làm sao trong một đời tu phước, niệm Phật mà có thể vào cõi vô lậu vô sanh, vĩnh viễn chứng ngộ giai vị bất thoái?

Đáp: Số lượng giáo pháp của Đức Phật nhiều hơn cát bụi, cơ duyên nhận biết tùy tâm cũng chẳng phải là một. Thí như người đời, hễ mắt thấy mới tin, như sáng trừ tối, hư không hàm chứa muôn vật, đất có công năng chở và dưỡng dục, nước có công năng làm thấm ướt, lửa có công năng tạo thành và phá hoại. Các việc như thế đều gọi là pháp đối đãi. Mắt có thể thấy được muôn ngàn sai biệt, huống gì Phật pháp có năng lực không thể nghĩ bàn, há không có nhiều lợi ích hay sao? Hễ ra khỏi một cửa tức ra khỏi một cửa phiền não, hễ vào một cửa tức vào một cửa trí huệ giải thoát. Đó chính là tùy duyên, khởi hạnh cầu giải thoát. Vì sao ông lại đem hạnh tu chẳng có duyên với ta mà hoặc loạn ta? Nhưng hạnh mà ta thích, tức là hạnh ấy có duyên với ta, mà chẳng có duyên với ông. Hạnh ông thích, tức hạnh ấy có duyên với ông, mà chẳng có duyên với ta. Cho nên mỗi người tùy theo sở thích mà tu một hạnh, ắt chóng được giải thoát.

Hành giả nên biết, nếu muốn học hiểu từ phàm đến thánh, cho đến quả Phật, đều học được, hoàn toàn không ngại. Nhưng nếu muốn học tu thì nhất định phải nhờ vào một pháp môn có duyên, dụng công ít mà được lợi ích lớn. Xin thưa với những người cầu vãng sanh rằng: “Nay ta vì các vị mà nêu ra một ví dụ giữ gìn tâm tin sâu, đề phòng nạn ngoại đạo, tà tông dị kiến. Thí như có người muốn đi về phương Tây trăm ngàn dặm. Trên đường, bỗng gặp hai con sông, một là sông lửa ở hướng nam, hai là sông nước ở phương bắc, đều rộng một trăm bước, sâu không đáy, dài vô tận. Giữa hai sông có một con đường rộng chỉ bốn năm tấc, cũng dài một trăm bước, chạy từ Đông sang Tây. Sóng nước dội ướt con đường, sóng lửa cũng cháy tạt vào con đường. Bấy giờ người này đang đi trên một vùng hoang vắng, không có bóng người vật, mà lại có nhiều giặc cướp và thú dữ. Chúng thấy người này đi một mình, nên tranh nhau đến sát hại. Người này quá sợ chết, chạy thẳng về hướng Tây, bỗng thấy con sông này liền suy nghĩ rằng: Hai sông này, Nam, Bắc không thấy bờ, chỉ giữa hai sông có một con đường quá hẹp. Hai bờ tuy cách nhau không xa, nhưng đâu thể qua được. Ngày hôm nay ta nhất định chết. Người ấy vừa muốn quay đầu thì giặc và thú dữ đuổi đến. Muốn chạy tránh sang Nam sang Bắc thì ác thú, trùng độc lại tranh nhau kéo đến. Muốn chạy về hướng Tây, theo con đường vượt sông, nhưng sợ rơi vào lửa hoặc nước. Trong lúc vô cùng sợ hãi, hoảng hốt như thế, người ấy chợt suy nghĩ: “Ta quay lại cũng chết, dừng cũng chết, đi cũng chết. Thà rằng ta theo con đường này đi về phía trước, đã có con đường, ắt có thể qua được”. Đang lúc nghĩ như vậy, bên bờ Đông bỗng nhiên có tiếng người khuyên rằng:

– Nhân giả! Cứ quyết định theo con đường ấy mà đi, sẽ không chết đâu! Nếu dừng lại ngài sẽ chết!

Cũng lúc ấy, bên bờ Tây có tiếng người gọi rằng:

– Ngài nên nhất tâm chánh niệm đi thẳng qua đây, ta sẽ giúp đỡ, hoàn toàn không sợ rơi vào lửa hoặc nước!

Người ấy nghe bên này bảo đi, bên kia kêu gọi, liền tự an định thân tâm, nhất quyết theo con đường tiến thẳng về phía trước, không nghi ngờ, không khiếp sợ thoái lui. Vừa đi một hai phần đoạn đường, bọn giặc bên bờ Đông lớn tiếng gọi rằng:

– Nhân giả hãy quay trở lại đây! Con đường ấy nguy hiểm lắm, không thể qua được đâu! Nếu đi, ắt chết đó! Chúng tôi không có tâm ác với Ngài đâu!

Người này tuy nghe, nhưng không quay lại, chỉ nghĩ đến con đường, một lòng tiến thẳng. Trong phút chốc đã qua đến bờ Tây, vĩnh viễn xa lìa các nạn khổ hiểm nguy. Bạn bè trông thấy vui mừng khôn xiết.

Sau đây xin liên hệ ví dụ trên với giáo pháp: Bờ Đông dụ cho nhà lửa Ta-bà; bờ Tây dụ cho cõi báu Cực lạc; giặc cướp và thú dữ giả làm thân thuộc là dụ cho sáu căn , sáu trần , sáu thức , năm ấm , bốn đại của chúng sanh; vùng hoang vắng không bóng người vật là dụ cho chúng sanh luôn theo bạn ác, không được gặp thiện tri thức ; sông nước là dụ cho tham ái; sông lửa dụ cho sân hận, ganh ghét; con đường nhỏ hẹp bốn tấc ở khoảng giữa dụ cho chúng sanh tuy sống trong phiền não tham sân, nhưng hay phát tâm thanh tịnh nguyện vãng sanh; lại do tham sân mạnh cho nên dụ như lửa và nước, tâm thiện yếu nên dụ như con đường nhỏ hẹp; sóng nước dội ướt con đường là dụ cho tâm ái làm nhiễm ô tâm thiện; sóng lửa tạt cháy con đường là dụ cho tâm sân hận, ganh ghét đốt cháy công đức pháp tài ; người đi trên đường thẳng đến bờ Tây là dụ cho chúng sanh xoay các hành nghiệp hướng thẳng về Tây phương; nghe bên bờ Đông có tiếng người khuyên bảo nên theo con đường ấy tiến thẳng về Tây, là dụ cho việc Đức Thích-ca đã diệt độ, chúng sanh đời sau không thể gặp Ngài, thì có thể tìm nơi giáo pháp, như nghe tiếng vậy; vừa đi được một hai phần đoạn đường thì giặc cướp bảo quay lại, là dụ cho những người có biệt giải, biệt hành, ác kiến, càn loạn nêu ra kiến giải sai biệt, thay nhau làm mê loạn dẫn đến lui sụt; bên bờ tây có tiếng người gọi là dụ cho ý bản nguyện của Đức A-di-đà; trong phút chốc đã qua đến bờ Tây, bạn bè trông thấy vui mừng là dụ cho chúng sanh từ lâu chìm trong sanh tử, bao kiếp luân hồi, điên đảo tự trói buộc không có ngày thoát ra, nhờ Đức Thích-ca khuyên bảo, chỉ đến phương Tây; lại nhờ Đức A-di-đà từ bi kêu gọi, nay tin thuận ý của hai Đức Phật, không để tâm đến hai con sông nước và lửa, niệm niệm không gián đoạn, theo con đường nguyện lực thẳng tiến. Sau khi bỏ thân này, được sanh về nước kia, gặp Phật, vui sướng không cùng.

Bất kể đi đứng nằm ngồi, không luận ngày hay đêm, ba nghiệp tu tập luôn luôn tin hiểu như thế, quán tưởng như thế. Đó gọi là tâm Hồi hướng phát nguyện. Hồi hướng còn có nghĩa là sau khi đã sanh về nước Cực Lạc, lại phát khởi lòng đại bi, trở về cõi sanh tử giáo hóa chúng sanh.

Đã đủ ba tâm thì tất cả các hạnh đều thành tựu. Nguyện hạnh đã thành mà không vãng sanh thì thật vô lí. Lại nên biết, ba tâm này gồm thâu cả Định và Tán.

Vãng Sanh Lễ Tán ghi: “Hỏi: Nay muốn khuyên người vãng sanh, nhưng chưa biết, như an tâm khởi hạnh tu tập, nhất định được vãng sanh không? Đáp: Người quyết định muốn sanh về nước kia, như Quán Kinh nói thì cần phải đầy đủ ba tâm mới được. Ba tâm: Một, tâm chí thành, tức tất cả những hạnh tu tập như: thân lễ bái, miệng khen ngợi, ý chuyên niệm và quán tưởng Đức Phật A-di-đà đều phải chân thật. Hai, thâm tâm tức là tâm chân thật tin sâu, tin biết tự thân là phàm phu đầy dẫy phiền não, căn lành cạn mỏng, mãi lưu chuyển trong ba cõi, không có ngày thoát ra. Nay tin biết bản thệ nguyện của Đức Phật A-di-đà và xưng danh hiệu Ngài mười tiếng hay một tiếng, nhất định được vãng sanh, hoặc chỉ một niệm với tâm không nghi cũng được vãng sanh, cho nên gọi là tâm chân thật tin sâu. Ba, tâm hồi hướng phát nguyện, tức hồi hướng tất cả căn lành có được cầu nguyện vãng sanh. Đầy đủ ba tâm này, nhất định vãng sanh, thiếu một cũng không được sanh, như Quán Kinh đã nói.

LUẬN RẰNG:

Ba tâm vừa nêu trên là điều kiện chí yếu của người tu Tịnh độ. Vì sao? Vì kinh nói hễ đầy đủ ba tâm thì nhất định vãng sanh. Còn Lễ Tán thì giải thích là nếu thiếu một cũng không được sanh. Do đó, người muốn sanh Tịnh độ, cần phải đầy đủ ba tâm. Trong đó tâm chí thành tức là tâm chân thật. Hành tướng của tâm này như đã nói ở trên. Bên ngoài hiện tướng hiền thiện tinh tấn, bên trong hư giả. Ngoài là đối với trong, tức tướng bên ngoài và tâm bên trong không tương thích; ngoài hiện trí, trong thật ngu; hiền thiện là đối với ngu ác, tức ngoài hiện tướng hiền, trong toàn là ngu; ngoài hiện tướng thiện, trong ẩn lòng ác. Tinh tấn là đối với biếng trễ. Nếu đổi bên ngoài vào bên trong để nuôi dưỡng thân tâm thì đủ để xuất li. Bên trong hư giả… tức tâm bên trong và tướng bên ngoài không tương thích. Trong đó hư là đối với thật, tức bên trong hư, bên ngoài thật; giả là đối với chân, tức bên trong giả, bên ngoài chân. Nếu đổi trong ra ngoài thì cũng đủ để xuất li. Tâm tin sâu, nên biết ngôi nhà sanh tử lấy nghi làm nơi nương tựa, tòa thành Niết-bàn lấy tín làm cửa vào. Vì thế nay kiến lập ba loại tín tâm để quyết định chín phẩm vãng sanh. Trong đây nói: biệt hành, biệt giải, dị học, dị kiến, tức là các giải, hành, học, kiến trong Thánh đạo môn. Như thế đủ biết ý của ngài Thiện Đạo không ngoài hai môn này. Tâm hồi hướng phát nguyện thì không cần phải giải thích, hành giả xem đoạn văn trên có thể biết. Nói chung thì ba tâm này gồm tất cả hành pháp; nói riêng thì cốt ở hạnh vãng sanh. Nay nêu chung, bao quát cả riêng thì ý cũng đã đầy đủ. Hành giả nên lưu tâm, chớ bỏ qua.

IX. Người niệm Phật có thể thực hành pháp tứ tu

TRÍCH DẪN:

Vãng Sanh Lễ Tán ghi: Lại khuyên thực hành ba tu:

– Cung kính tu: tức cung kính lễ bái Đức Phật A-di-đà và tất cả các bậc Thánh. Lấy cái chết làm kì hạn, thệ không bỏ nửa chừng chính là trường thời tu.

– Vô dư tu: tức chuyên xưng, chuyên niệm, chuyên nghĩ tưởng, chuyên lễ bái, chuyên khen ngợi Đức Phật A-di-đà và các bậc Thánh, không xen các hành nghiệp khác. Lấy cái chết làm kì hạn, thệ không bỏ nửa chừng chính là trường thời tu.

– Vô gián tu: tức liên tục cung kính, lễ bái, xưng danh, khen ngợi, nhớ nghĩ, quán sát, hồi hướng phát nguyện, tâm tâm nối tiếp, không cho các việc khác xen vào. Vô gián tu còn có nghĩa là không để các niệm tham sân phiền não đến làm gián đoạn, hễ phạm liền sám hối, không để cách niệm, cách giờ, cách ngày, thường luôn thanh tịnh. Lấy cái chết làm kì hạn, thệ không bỏ nửa chừng chính là trường thời tu.

Tây Phương Yếu Quyết ghi: Chỉ nên dùng bốn tu làm chánh nghiệp.

– Trường thời tu: Tức từ lúc mới phát tâm cho đến chứng Bồ-đề, luôn luôn tạo nhân duyên Tịnh độ, không bao giờ lui sụt.

– Cung kính tu: Có năm trường hợp:

+ Cung kính những bậc Thánh có duyên: lúc đi đứng nằm ngồi không xoay lưng về phương Tây; hỉ mũi, khạc nhổ, đại tiểu tiện không hướng về Tây

+ Cung kính kinh tượng có duyên: cung kính tượng, tức là tạo tượng biến tướng A-di-đà Tây phương. Nếu không thể tạo lớn và đầy đủ các Tôn vị, thì chỉ cần vẽ một Đức Phật và hai vị Bồ-tát cũng được. Về giáo thì dùng bọc năm màu giữ các kinh A-di-đà… đồng thời tự mình đọc tụng, khuyên dạy người đọc tụng. Tôn trí tượng trong phòng, ngày đêm sáu thời lễ bái sám hối, đốt hương, dâng hoa cúng dường, đặc biệt trân trọng tôn kính.

+ Cung kính thiện tri thức có duyên: nếu có người tuyên dương giáo nghĩa Tịnh độ, dù xa ngàn dặm cũng phải gần gũi, cung kính cúng dường. Đối với những vị tu các pháp môn khác cũng phải xem chính như mình, càng phải tôn trọng. Nếu khinh thường sẽ bị tội nặng, cho nên cần phải cung kính hết thảy để trừ chướng ngại.

+ Cung kính bạn đồng tu: một mình tu tập, do chướng sâu nặng nên đạo nghiệp khó thành tựu, vì thế cần phải nhờ vào bạn tốt phò nguy, cứu nạn, trợ giúp lẫn nhau. Bạn đồng tu chính là duyên lành, nên cần phải xem trọng.

+ Cung kính Tam bảo: Đồng thể Tam bảo và Biệt tướng Tam bảo đương nhiên phải vô cùng cung kính, nhưng ở đây không trình bày, vì những người căn cơ thấp kém không thật sự nương vào đó tu tập, cho nên chỉ lược nói về Trụ trì Tam bảo, hầu làm nhân duyên tốt cho những người hiểu biết hạn hẹp tu tập.

* Phật bảo tức các linh tượng Phật được chạm khắc bằng gỗ chiên-đàn , vàng ngọc, tạc bằng đá, đắp bằng đất, họa vẽ trên lụa, trên giấy… Hành giả phải đặc biệt cung kính tôn thờ các Tôn tượng này. Bởi chỉ chiêm ngưỡng hình tượng trong chốc lát mà tội tiêu, tăng phước. Nếu có mảy tâm xem thường thì pháp thiện mất, pháp ác tăng. Chỉ cần chuyên tâm quán tưởng tôn tượng, nhất định sẽ thấy được Phật chân thật.

* Pháp bảo chính là giáo pháp Tam thừa, lưu thông cùng pháp giới, được văn tự, câu cú chuyển tải, là nhân duyên sanh ra sự giải ngộ, cho nên cần phải quí kính. Vì là nền tảng khai phát trí huệ, cho nên cần phải sao chép tôn kinh, đặt trong hòm quí, cất giữ nơi ngôi nhà thanh tịnh. Phải tắm gội thân hình, rửa tay sạch sẽ trước khi đọc tụng.

* Tăng bảo chính là những Bồ-tát Thánh tăng hay hàng xuất gia phá giới. Tất cả ta phải khởi tâm cung kính, chớ khinh thường.

– Vô gián tu: luôn luôn niệm Phật và khởi tưởng vãng sanh. Bất cứ lúc nào tâm cũng tưởng Phật. Thí như có người bị bắt làm nô lệ, chịu mọi sự gian khổ. Bỗng nhiên nhớ nghĩ đến cha mẹ, muốn trở về quê, nhưng hành trang chưa đủ, vẫn còn ở lại quê người. Do đó ngày đêm nhớ nghĩ, đau khổ khôn cùng và không lúc nào quên cha mẹ. Sau đó mưu kế thành, trốn thoát trở về quê hương, được gần gũi cha mẹ, mặc tình vui sướng. Người tu tập cũng như thế, khi xưa do phiền não phá hoại tâm thiện, khiến cho của báu phước trí tiêu tan, từ lâu đã trôi theo dòng sanh tử, không được tự do, làm nô lệ cho Ma vương, dong ruỗi trong sáu đường, khiến thân tâm vô cùng đau khổ. Hôm nay gặp duyên lành, bỗng nghe nói đến Đức Từ phụ A-di-đà không trái nguyện lớn cứu giúp quần sanh, do đó ngày đêm vội vàng phát nguyện vãng sanh. Vì thế siêng năng không biết mỏi mệt, nghĩ đến ân sâu của Phật, nên tâm hằng niệm Phật mà lấy cái chết làm kì hạn.

– Vô dư tu: tức chỉ cầu vãng sanh Cực lạc, lễ niệm Đức Phật A-di-đà, không xen các hạnh nghiệp khác. Hằng ngày chỉ niệm Phật A-di-đà, tụng kinh A-di-đà, không tu các pháp khác.

LUẬN RẰNG:

Văn nói về bốn tu có thể nhận biết, e rườm lời nên không giải thích thêm. Trong Vãng Sanh Lễ Tán, đầu tiên nêu ra bốn tu, nhưng sau chỉ luận có ba tu. Như thế, là sót văn hay có ý khác? Thật chẳng phải sót mà thật có ý riêng. Làm sao biết? Bốn tu là: Trường thời tu, Ân trọng tu, Vô dư tu, Vô gián tu. Nhưng lấy Trường thời tu dùng chung cho ba tu sau mà không chia riêng. Nghĩa là nếu tu Ân trọng mà lui sụt thì hạnh Ân trọng không thành; tu Vô dư mà lui sụt thì hạnh Vô dư không thành; tu Vô gián mà lui sụt thì hạnh Vô gián không thành. Vì giúp thành tựu ba hạnh tu sau, nên lấy Trường thời tu đưa vào dùng chung cho mỗi ba tu sau. Cho nên cuối mỗi một tu của ba tu sau đều có câu: “Lấy cái chết làm kì hạn, thệ không bỏ nửa chừng chính là Trường thời tu”. Ví như Tinh tấn ba-la-mật dùng chung cho năm Ba-la-mật sau vậy.

X. Phật A-di-đà và các Hóa Phật đến đón, không khen ngợi công đức thiện nghe kinh mà chỉ khen ngợi hạnh Niệm Phật

TRÍCH DẪN:

Kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Có chúng sanh tạo các nghiệp ác, nhưng không phỉ báng kinh điển Phương đẳng , người ngu này tạo các nghiệp ác như thế mà không biết hổ thẹn. Người này lúc sắp chết, gặp được thiện tri thức tụng đọc tên của mười hai thể loại kinh Đại thừa . Vì nghe được tên của các thể loại kinh này, nên trừ được nghiệp ác cực nặng trong ngàn kiếp lại được người trí dạy chắp tay, xưng niệm Nam-mô A-di-đà Phật. Vì xưng danh nên diệt được tội sanh tử trong năm mươi ức kiếp. Bấy giờ Đức Phật lại sai Hóa Phật và Hóa Bồ-tát Quán Thế Âm, Hóa Bồ-tát Đại Thế Chí đến trước mặt người ấy khen ngợi rằng: Này Thiện nam tử! Ngươi xưng niệm danh hiệu Phật, cho nên tội tiêu trừ, nay ta đến đón ngươi”.

Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ ghi: “Được nghe Hóa Phật và Hóa Bồ-tát khen ngợi công đức xưng niệm danh hiệu Phật, chứ không nói đến việc nghe kinh. Chỉ vì đối với chủ ý trong nguyện Phật thì chỉ khuyên chánh niệm xưng danh Phật. Nghĩa vãng sanh chuyên nhất không đồng với hạnh tu tạp tán. Như vậy trong kinh và các bộ sách giải thích đều khuyên xưng danh là chính yếu”.

LUẬN RẰNG:

Công đức thiện nghe kinh chẳng phải là bản nguyện mà thuộc tạp tu, cho nên Hóa Phật và Hóa Bồ-tát không khen ngợi. Hạnh Niệm Phật là bản nguyện thuộc chánh nghiệp, nên Hóa Phật khen ngợi. Lại nêu thêm công đức nghe kinh và niệm Phật nhiều ít khác nhau. Quán Kinh Sớ ghi: “Hỏi: Vì sao nghe tên của mười hai thể loại kinh mà chỉ trừ được tội chướng trong ngàn kiếp, còn xưng niệm một tiếng danh hiệu Phật lại trừ diệt tội trong năm trăm vạn ức kiếp? Đáp: Người tạo tội, nghiệp chướng sâu nặng, lại thêm sự khổ của cái chết đến bức bách, thiện tri thức dù thuyết nhiều kinh, nhưng tâm người lãnh thọ tán loạn. Do tâm tán loạn nên tội diệt ít. Danh hiệu Phật là bậc nhất có năng lực thâu nhiếp tán loạn, giúp tâm an trụ. Người này lại được dạy chánh niệm xưng danh, do tâm chuyên nhất nên trừ tội nhiều kiếp.

XI. Khen ngợi hạnh Niệm Phật

TRÍCH DẪN:

Kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Nên biết hành giả niệm Phật là hoa Phân-đà-lợi trong loài người. Bồ-tát Quán Thế Âm, bồ-tát Đại Thế Chí là bạn tốt của người ấy. Người ấy sẽ ngồi đạo tràng , sanh vào nhà Phật.

Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ ghi: “Từ câu ‘Nên biết hành giả’ đến câu ‘sanh vào nhà Phật’ là nói về công năng của Niệm Phật tam-muội thật siêu việt, tạp thiện không thể sánh bằng. Đoạn này có năm ý: Một, chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Hai, chỉ khen ngợi người Niệm Phật. Ba, người niệm Phật liên tục không gián đoạn thì thật hiếm có, không gì có thể so sánh được nên dùng hoa Phân-đà-lợi để ví dụ. Hoa Phân-đà-lợi còn gọi là Nhân trung hảo hoa (hoa quí trong đời), Hi hữu hoa (hoa hiếm có), Nhân trung thượng thượng hoa (hoa tối thượng trong đời), Nhân trung diệu hảo hoa (hoa tuyệt đẹp trong đời), tương truyền hoa này là hoa Thái. Như vậy người niệm Phật là người quí trong đời, người hiếm có trong đời, người tuyệt diệu trong đời, người tối thượng trong đời, người tối thắng trong đời. Bốn là nói người chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà thì bồ-tát Quán Thế Âm, bồ-tát Đại Thế Chí luôn theo bảo vệ người ấy như bạn thân. Năm, nói đời này đã được lợi ích như thế, sau khi mạng chung được sanh vào nhà Phật, tức Tịnh độ. Đã đến đây thì mãi mãi được nghe pháp, phụng sự cúng dường các Đức Phật. Đến lúc ngồi đạo tràng, nhân viên quả mãn, đâu có xa!

LUẬN RẰNG:

Hỏi: Kinh nói như vậy là chỉ căn cứ theo người niệm Phật mà khen ngợi, còn các nhà giải thích vì sao lại nói tạp thiện không thể so sánh? Đó là đối với tạp thiện mà đặc biệt khen ngợi Niệm Phật ư?

Đáp: Trong văn kinh, tuy nghĩa này ẩn kín, nhưng cũng có thể biết. Làm sao biết đưọc? Kinh này đã nói Định thiện, Tán thiện và hạnh Niệm Phật, mà ở đây chỉ ví dụ người niệm Phật như hoa Phân-đà-lợi. Nếu chẳng phải đối đãi với tạp thiện, làm sao có thể hiển bày công năng siêu việt các hạnh thiện khác? Thế thì nói: người niệm Phật là người tốt nhất trong đời, là đối đãi với ác mà khen thiện; người diệu tuyệt trong đời, là đối đãi với thô ác mà khen tuyệt diệu; người tối thượng trong đời, là đối đãi với quá thấp mà khen tối thượng; người hiếm có trong đời, là đối đãi với thường có mà khen ngợi hiếm có; người tối thắng trong đời là đối đãi với quá kém mà khen ngợi tối thắng.

Hỏi: Đã cho người niệm Phật là tối thượng, vì sao không nói từ thượng thượng phẩm đến hạ hạ phẩm?

Đáp: Đã nói hạnh Niệm Phật rất rộng, xuyên suốt cả chín phẩm. Đoạn trước có dẫn Vãng Sanh Yếu Tập: “Tùy căn cơ và việc tu tập có hơn kém mà phân làm chín phẩm”. Hơn nữa, hạ phẩm hạ sanh là những người phạm năm tội nghịch. Do đó, chỉ có niệm Phật mới đủ năng lực diệt trừ tội nghịch, các hạnh tu khác không thể. Cho nên vì những người cực ác cực kém mà nói pháp cực thiện tối thượng. Ví như căn bệnh Vô minh sâu dày mà không có thuốc Trung đạo thâm áo thì không thể chữa trị được. Cũng thế, nay căn bệnh nặng năm nghịch sâu dày này nếu không có thuốc quí Niệm Phật thì biết lấy gì chữa trị đây? Cho nên trong Luận Nhị Giáo , Hoằng Pháp đại sư dẫn kinh Ba-la-mật : “Đệ tam Pháp bảo tức là chánh pháp mà vô lượng các Đức Phật quá khứ đã thuyết và ta hôm nay đang thuyết. Đó là tám vạn bốn ngàn Pháp uẩn vi diệu dùng để điều phục thuần thục chúng sanh có duyên, giúp các đệ tử lớn như: A-nan-đà… vừa nghe liền ghi nhớ. Tất cả được gom vào năm tạng: Tố-đát-lãm , Tì-nại-da , A-tì-đạt-ma , Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Đà-la-ni . Năm tạng này dùng để giáo hóa hữu tình, tùy theo đối tượng được độ mà tuyên thuyết một tạng tương ứng. Nếu hữu tình kia thích ở núi rừng, nơi vắng vẻ tu hạnh tịch tĩnh, thì nói cho họ nghe tạng Tố-đát-lãm; nếu hữu tình thích tu tập oai nghi, bảo vệ chánh pháp thuần một vị hòa hợp, khiến trụ lâu ở thế gian, thì thuyết cho họ nghe tạng Tì-nại-da. Nếu hữu tình thích thuyết chánh pháp, phân biệt tánh tướng, suy tìm nghiên cứu đến chỗ sâu xa rốt ráo thì thuyết cho họ nghe tạng A-tì-đạt-ma. Nếu hữu tình thích tu tập trí huệ Đại thừa chân thật, lìa tâm phân biệt pháp chấp, ngã chấp thì thuyết cho họ nghe tạng Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu hữu tình không thể thọ trì Khế kinh (Kinh), Đối pháp (Luận), Điều phục (Luật), Bát-nhã, hoặc tạo các nghiệp ác nặng như: bốn tội nặng, tám tội nặng , năm tội vô gián, phỉ báng kinh Phương đẳng, Nhất-xiển-đề… mà muốn diệt tội, chóng được giải thoát, thì thuyết cho họ nghe tạng Đà-la-ni.

Năm tạng này giống như sữa, lạc, sanh tô, thục tô và đề hồ. Trong đó Khế kinh như sữa, Điều phục như lạc, Đối pháp như sanh tô, Đại thừa Bát-nhã như thục tô, môn Tổng trì như đề hồ. Đề hồ là vị thuốc tốt và quí nhất, có năng lực chữa trị các bệnh, làm cho thân tâm an ổn. Cũng như vậy, Tổng trì môn là tạng bậc nhất trong Khế kinh, có năng lực diệt trừ tất cả tội nặng, giúp chúng sanh thoát khỏi sanh tử, chóng chứng Pháp thân , Niết-bàn an lạc”.

Trong đó, năm tội Vô gián chính là năm tội nghịch, nếu không có thuốc quí đề hồ thì không thể chữa lành, niệm Phật cũng thế. Trong giáo Vãng sanh, Niệm Phật tam-muội cũng như môn Tổng trì, cũng như đề hồ. Nếu không có thuốc Niệm Phật tam-muội đề hồ, thì bệnh nặng năm nghịch khó mà trị lành.

Hỏi: Thế thì hạ phẩm thượng sanh thuộc hạng người tạo tội thập ác nhẹ, vì sao cũng thuyết môn Niệm Phật?

Đáp: Niệm Phật tam-nuội có năng lực diệt trừ được tội nặng, huống gì tội nhẹ! Các hạnh tu khác thì không thể như thế, có môn thì diệt được tội nhẹ, không thể diệt được tội nặng, hoặc trừ một phần mà không trừ hết. Niệm Phật thì tội nặng hay nhẹ đều trừ sạch, trị được tất cả bệnh. Giống như thuốc A-gia-đà trị được tất cả bệnh. Cho nên biết, pháp Niệm Phật là vua trong các tam-muội. Nếu phối hợp chín phẩm với các tội, nên theo nghĩa đơn phối. Trong đó, hàng tạo năm tội nghịch hồi tâm thì có thể sanh vào bậc thượng thượng; hàng đọc tụng có thể sanh vào bậc hạ hạ. Hạng tạo mười ác nhẹ, phá giới, hiểu Đệ nhất nghĩa và phát tâm Bồ-đề cũng có thể sanh vào bậc thượng hạ. Mỗi mỗi lại có chín phẩm, tổng cộng chín mươi mốt phẩm. Thêm vào đó, ngài Ca Tài nói: “Chúng sanh vừa khởi hạnh tu tập đã có chín bậc sai biệt, cho nên vãng sanh thấy cõi nước cũng có muôn ngàn sai biệt, chẳng nên vừa thấy nghĩa phối hợp đơn liền sanh tâm chấp trước. Trong đó Niệm Phật là hạnh tối thắng, cho nên so sánh như hoa Phân-đà-lợi. Được khen ngợi như năm hạng người cao quí vừa nói trong Quán Kinh Sớ lại được hai vị Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí theo bảo vệ, đó là lợi ích hiện đời; mai sau vãng sanh Tịnh độ cho đến thành Phật là lợi ích ở tương lai. Thiền sư Đạo Xước thì nói hạnh Niệm Phật có hai lợi ích là thỉ và chung. An Lạc Tập ghi: “Luôn luôn nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật, không bao giờ buông bỏ. Chúng sanh này khi mạng chung sẽ được sanh về nước ấy; đó là lợi ích lúc đầu (thỉ). Kinh Quán Âm Thọ Kí ghi: “Đức Phật A-di-đà dù trụ thế vô số kiếp, nhưng cũng có lúc diệt độ. Lúc Phật vào niết-bàn, chỉ còn hai vị bồ-tát Quán Âm và Thế Chí trụ trì cõi An Lạc tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương. Thời gian Đức Phật ấy diệt độ cũng bằng với thời gian trụ thế. Tất cả nhân dân cõi nước ấy không ai thấy Phật, chỉ có những người một bề chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà được vãng sanh thường thấy Phật hiện còn, không diệt độ. Đây là lợi ích sau cùng”.

Như thế, niệm Phật có hai lợi ích là hiện đời và mai sau, cũng như lợi ích lúc đầu và lợi ích sau cùng.

XII. Đức Thích Tôn không phó chúc các hạnh Định thiện Tán thiện mà chỉ phó chúc hạnh Niệm Phật cho A-nan

TRÍCH DẪN:

Kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Đức Phật bảo A-nan rằng: Ông hãy thọ trì kĩ lời này, giữ gìn lời này tức là thọ trì danh hiệu Phật”.

Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ ghi: “Từ câu ‘Đức Phật bảo A-nan’ trở về sau là nói Đức Thích-ca phó chúc danh hiệu Phật A-di-đà lưu truyền cho đời tương lai xa mai sau. Từ trước đến đây tuy nói lợi ích của hai môn Định-Tán, nhưng theo ý nghĩa bản nguyện của Phật thì nhằm vào khuyên chúng sanh một bề xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà.

LUẬN RẰNG:

Văn sớ chia ra làm hai hạnh là Định-Tán và Niệm Phật.

a. Định-Tán gồm có hai là Định thiện và Tán thiện. Định thiện lại phân làm mười ba môn: Quán tướng mặt trời, quán tưởng nước, quán tưởng đất, quán tưởng cây báu, quán tưởng ao báu, quán lầu gác báu, quán tòa hoa, quán tưởng hình tượng, quán tưởng Phật A-di-đà, quán tưởng bồ-tát Quán Thế Âm, quán tưởng bồ-tát Đại Thế Chí, quán chung, quán tưởng các tướng biến hiện của Tam tôn (Tạp tưởng). Dẫu không tu các hạnh, chỉ cần tùy khả năng tu một pháp hay nhiều pháp trong mười ba pháp quán tưởng cũng được vãng sanh. Yếu chỉ nêu rõ trong kinh, không nên nghi ngờ. Tán thiện phân làm hai hạnh: ba phước, chín phẩm.

* Ba phước: Kinh ghi: “Ba phước: Một, hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính hầu hạ thầy tổ, thể hiện tâm từ không sát sanh, thực hành mười điều thiện. Hai, thọ trì Tam qui, giữ trọn các giới, chẳng trái phạm oai nghi. Ba, phát tâm bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyên người tu tập”.

Hiếu dưỡng cha mẹ, gồm có hiếu dưỡng cha mẹ thế gian và hiếu dưỡng cha mẹ xuất thế gian. Hiếu dưỡng cha mẹ thế gian, như trong Hiếu Kinh đã nói. Hiếu dưỡng cha mẹ xuất thế gian như suốt đời phụng sự giáo pháp, như Luật đã ghi. Cung kính hầu hạ thầy tổ, lại có thầy tổ thế gian và thầy tổ xuất thế gian. Thầy tổ thế gian dạy cho ta nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Thầy tổ xuất thế gian dạy cho ta Thánh đạo môn và Tịnh độ môn. Dẫu không có các hạnh khác, thì lấy hiếu dưỡng cha mẹ và hầu hạ thầy tổ làm hạnh vãng sanh. Thể hiện tâm từ không sát sanh.

Thực hành mười điều thiện cũng có hai nghĩa: Một, thể hiện tâm từ không sát sanh, tâm từ đây chính là Từ vô lượng trong bốn tâm vô lượng (từ, bi, hỉ, xả). Ở đây nêu một tâm đầu tiên, nhưng lại gồm thâu ba tâm còn lại. Ví như không có các hạnh khác thì dùng bốn tâm vô lượng làm hạnh nghiệp vãng sanh. Hai, thực hành mười điều thiện là: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói thêu dệt, không ác khẩu, không nói đôi chiều, không tham, không sân, không tà kiến. Nếu hợp hai câu “tâm từ không sát sanh và thực hành mười điều thiện” thành một câu, thì “tâm từ không sát sanh” chẳng phải là tâm Từ vô lượng mà là chỉ chung cho chi thứ nhất không sát sanh trong mười thiện. Cho nên biết, “tâm từ không sát sanh” ở đây là chỉ cho chi thứ nhất. Nếu không có các hạnh khác thì dùng mười thiện làm hành nghiệp vãng sanh.

Thọ trì Tam qui cũng có hai loại là Đại thừa tam qui và Tiểu thừa tam qui. Giữ trọn các giới, có hai loại là giới Đại thừa và giới Tiểu thừa.

Chẳng phạm oai nghi có hai là oai nghi Đại thừa gồm tám vạn, oai nghi Tiểu thừa có ba ngàn.

Phát tâm Bồ-đề thì có các chủ trương khác nhau. Tông Thiên Thai có tâm Bồ-đề của bốn giáo Tạng, Thông, Biệt, Viên được trình bày đầy đủ trong bộ Chỉ Quán . Tông Chân Ngôn thì lập ba loại tâm Bồ-đề là Hạnh nguyện, Thắng nghĩa và Tam-ma-địa được nói trong Luận Bồ-đề Tâm . Tông Hoa Nghiêm cũng có lập tâm Bồ-đề như trong bộ Bồ-đề Tâm Nghĩa và Du Tâm An Lạc Đạo đã nói. Tông Tam Luận và Pháp Tướng cũng có lập tâm Bồ-đề như trong các bộ sách giải thích của hai tông này đã trình bày. Ngài Thiện Đạo cũng đã giải thích về tâm Bồ-đề như trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ đã ghi. Tuy đều nói phát tâm Bồ-đề, nhưng tùy theo tông phái mà ý nghĩa khác nhau. Thế thì chỉ một câu “tâm Bồ-đề” mà liên quan rộng đến các kinh, bao gồm các giáo Hiển-Mật, ý khí rộng xa, diễn bày thật sâu xa rộng lớn. Nguyện xin các hành giả chớ chấp một mà bỏ nhiều. Các hành giả cầu vãng sanh nên phát tâm Bồ-đề theo đúng nghĩa của tông mình. Nếu không có các hạnh tu khác thì nên dùng tâm Bồ-đề làm hành nghiệp vãng sanh. Về tin sâu nhân quả, cũng có hai ý là nhân quả thế gian và nhân quả xuất thế gian. Nhân quả thế gian tức là nhân quả sáu đường , như kinh Chánh Pháp Niệm đã nói. Nhân quả xuất thế gian tức là nhân quả của tứ thánh , như trong các kinh Đại Tiểu thừa đã nói. Nếu phối hợp hai pháp nhân quả với các kinh, thì các tông có các chủ trương khác nhau. Trong đó, tông Thiên Thai cho rằng Hoa Nghiêm nói nhân quả Phật và Bồ-tát; A-hàm nói nhân quả Thanh văn và Duyên giác; các bộ kinh Phương Đẳng nói nhân quả bốn thừa ; các bộ Bát-nhã nói nhân quả của ba giáo Thông, Biệt, Viên; Pháp Hoa nói nhân Phật, quả Phật; Niết-bàn lại nói nhân quả bốn thừa. Thế thì nói tin sâu nhân quả, đã bao quát cả giáo pháp trong một đời Như Lai. Những người cầu vãng sanh, ví như không có các hạnh khác, thì nên lấy tin sâu nhân quả làm hành nghiệp vãng sanh.

Đọc tụng kinh điển Đại thừa, có hai ý: Một là tụng đọc, hai là nói về Đại thừa. Đọc tụng, tức là nên chuyển đọc, phúng tụng để hiển rõ nghĩa thọ trì trong năm loại Pháp sư . Nếu căn cứ theo mười pháp hành , thì nêu hai loại xem đọc và phúng tụng để hiển rõ tám pháp hành còn lại là biên chép, cúng dường… Nói Đại thừa là để phân biệt với Tiểu thừa; nhưng không chỉ riêng một kinh nào mà chung cho tất cả kinh Đại thừa. Nói tất cả, theo ý Phật, thì chỉ cho tất cả các kinh Đại thừa mà Đức Phật đã nói trong một đời, gồm cả những kinh chưa được kết tập. Lại trong những kinh đã kết tập, có quyển còn ẩn tại Long cung, chưa lưu hành ở nhân gian, hoặc có quyển lưu hành ở Ấn Độ, nhưng chưa lưu hành tại Trung Quốc. Nay luận theo những kinh đã phiên dịch sang Hán ngữ, thì trong Trinh Nguyên Nhập Tạng Lục, kinh Đại thừa bắt đầu ghi từ bộ Đại Bát-nhã sáu trăm quyển đến cuối cùng là kinh Pháp Thường Trụ. Tổng cộng có 637 bộ, 2883 quyển kinh Đại thừa Hiển – Mật, tất cả đều gom vào câu “đọc tụng kinh điển Đại thừa”. Xin các hành giả cầu sanh Tây phương tùy theo ý thích, hoặc đọc tụng kinh Pháp Hoa, hoặc kinh Hoa Nghiêm, hoặc thọ trì đọc tụng Già-na Giáo Vương kinh cho đến các Tôn pháp làm hành nghiệp vãng sanh, hoặc giải thích, giảng nói, biên chép các kinh Bát-nhã, Phương Đẳng và Niết-bàn làm hành nghiệp vãng sanh. Đó là chủ ý trong kinh Quán Vô Lượng Thọ của tông Tịnh Độ.

Hỏi: Yếu chỉ của Hiển giáo và Mật giáo khác nhau, vì sao trong Hiển thâu nhiếp Mật?

Đáp: Ở đây không phải nói thâu nhiếp yếu chỉ Hiển-Mật, mà chỉ nói câu “đọc tụng kinh điển Đại thừa” bao quát việc đọc tụng kinh điển Đại thừa Hiển-Mật đã xếp vào trong Khai Nguyên Nhập Tạng Lục.

Hỏi: Vậy trong các kinh trước Quán Kinh, sao lại gồm thâu cả kinh Pháp Hoa?

Đáp: Ở đây nói gồm thâu, không phải nói đến các nghĩa quyền, thật, thiên, viên mà chỉ nói câu “đọc tụng kinh điển Đại thừa” thông từ trước đến sau. Trước là những kinh Đại thừa Phật nói trước Quán Kinh, sau là những kinh Đại thừa Phật nói sau hội Vương Cung . Chỉ nói kinh Đại thừa, chứ không chọn quyền hay thật, cho nên bao gồm các kinh Đại thừa như Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bát-nhã, Pháp Hoa, Niết-bàn.

“Khuyên người tu tập” tức khuyên tu các pháp Định thiện, Tán thiện và Niệm Phật tam-muội.

* Chín phẩm: Tức phân chia ba phước làm hành nghiệp của chín phẩm. Trong Thượng phẩm thượng sanh nói: “Thể hiện tâm từ không sát sanh” là hợp với câu thứ ba trong Thế phước. Nói: “Đầy đủ giới hạnh” là hợp với câu thứ hai trong Giới phước. Nói: “Đọc tụng kinh điển Đại thừa” là hợp với câu thứ ba trong Hạnh phước. Kế đến nói thực hành sáu niệm là ý thứ ba thuộc phước thứ ba trong ba phước vừa nêu. Trong Thượng phẩm trung sanh nói “hiểu rõ nghĩa thú” là hợp với ý thứ hai và ba trong phước thứ ba. Trong Thượng phẩm hạ sanh nói “tin sâu nhân quả, phát đạo tâm” là hợp với ý thứ nhất và hai trong phước thứ ba. Trong Trung phẩm thượng sanh nói “thọ trì năm giới” là hợp với ý thứ hai trong phước thứ hai. Trong Trung phẩm trung sanh nói “một ngày một đêm thọ trì tám trai giới” là hợp với phước thứ hai. Trong Trung phẩm hạ sanh nói “hiếu dưỡng cha mẹ, thực hành nhân từ thế gian” là hợp với ý một và hai của phước thứ nhất. Hạ phẩm thượng sanh dành cho những người tạo thập ác, lúc lâm chung một niệm xưng danh hiệu Phật, tội diệt liền được vãng sanh. Hạ phẩm trung sanh dành cho những người mang tội phá giới, lúc lâm chung nghe nói công đức y báo chánh báo của Phật, nên tội diệt, liền được vãng sanh. Hạ phẩm hạ sanh dành cho những người tạo năm tội nghịch, lúc lâm chung xưng mười niệm danh hiệu Phật, tội diệt được vãng sanh. Ba phẩm này dành cho những người lúc bình thường chỉ tạo nghiệp ác, không cầu vãng sanh, nhưng lúc lâm chung gặp thiện tri thức chỉ dạy, nên được sanh về. Nếu căn cứ theo ba phước thì phước thứ ba thuộc Đại thừa.

b. Niệm Phật: Tức chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Nghĩa “niệm Phật” như thường giải thích. Ở đây chỉ nói việc phó chúc danh hiệu này cho A-nan lưu truyền mãi mãi về sau. Kinh này đã nói rộng về hai hạnh Định thiện và Tán thiện, nhưng Đức Phật Thích-ca không dặn dò A-nan lưu truyền đời sau, mà chỉ dặn dò lưu truyền Niệm Phật Tam-muội.

Hỏi: Vì sao như vậy?

Đáp: Vì hành nghiệp có sâu cạn, nên không phó chúc. Trong ba phước nghiệp, có phước nghiệp cạn mỏng, có phước nghiệp sâu dày. Phước nghiệp cạn mỏng là hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính hầu hạ thầy tổ; phước nghiệp sâu dày là giữ trọn các giới, phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa. Cần phải bỏ hành nghiệp cạn mà phó chúc hành nghiệp sâu. Vì pháp quán có cạn sâu, nên Đức Phật không phó chúc. Trong mười ba pháp quán, có pháp quán cạn, có pháp quán sâu. Pháp quán cạn là pháp quán mặt trời, pháp quán nước. Pháp quán sâu gồm mười một pháp, từ pháp quán đất đến tạp quán. Như thế cần phải bỏ pháp quán cạn mà phó chúc pháp quán sâu. Trong đó pháp thứ chín, quán Phật A-di-đà tức là Quán Phật Tam-muội. Lại bỏ mười hai pháp kia, chỉ phó chúc Quán Phật Tam-muội.

Hỏi: Phần Huyền Nghĩa trong Quán Kinh Sớ ghi: “Kinh này lấy Quán Phật Tam-muội làm tông, cũng lấy Niệm Phật Tam-muội làm tông”. Đã lấy hai hạnh làm tông chỉ của kinh, vì sao chỉ phó chúc Niệm Phật Tam-muội?

Đáp: Đã nói chủ ý trong bản nguyện của Đức Phật là nhằm khuyên chúng sanh một bề chuyên ròng xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, mà hai thiện Định và Tán không phải là bản nguyện, cho nên không phó chúc. Quán Phật Tam-muội tuy rất thù thắng, nhưng cũng chẳng phải là bản nguyện, cho nên cũng không phó chúc. Niệm Phật Tam-muội là bản nguyện Phật, nên được phó chúc. Nói bản nguyện, tức là nguyện thứ mười tám trong bốn mươi tám nguyện, kinh Vô Lượng Thọ.

Hỏi: Nếu như thế, tại sao không nói thẳng vào hạnh Niệm Phật mà phải nhiều lời nói đến các các hạnh Định Tán, không phải bản nguyện?

Đáp: Hạnh bản nguyện niệm Phật đã nói rõ trong kinh Vô Lượng Thọ Phật, không cần phải bàn thêm. Nhưng nói Định-Tán là để hiển rõ Niệm Phật siêu việt các hạnh thiện khác. Nếu không nói Định-Tán thì lấy gì so sánh để biết Niệm Phật là kỳ đặc? Giống như kinh Pháp Hoa, nêu ba thừa để hiển bày thượng thừa, nếu không có ba thừa lấy gì hiển Pháp Hoa là bậc nhất. Cho nên, vì phế bỏ mà phải nói Định-Tán, vì dựng lập mà nói Niệm Phật Tam-muội. Nhưng hai thiện Định-Tán cũng thật khó lường, phàm “Quán y, chánh như gương soi vạn tượng, nguyện vãng sanh mau đến thật rõ ràng”; hoặc nhờ sức một pháp quán mà tội nhiều kiếp tiêu trừ, hoặc công nhiều vạn ức cuối cùng được Tam-muội thù thắng.

Thế thì, người cầu vãng sanh nên tu định quán. Trong đó, pháp thứ chín, quán chân thân Phật chính là Quán Phật Tam-muội. Nếu thành tựu, tức thấy được Đức Phật A-di-đà. Thấy được Phật A-di-đà thì thấy được các Đức Phật. Vì thấy các Đức Phật, nên hiện tiền được thọ kí. Pháp quán này đem lại lợi ích to lớn như thế. Nhưng đến phần Lưu thông trong Quán Kinh, khi Đức Thích-ca Như Lai phó chúc yếu pháp vãng sanh, Ngài không phó chúc pháp Quán Phật, mà chọn pháp Niệm Phật để phó chúc cho A-nan. Pháp Quán Phật Tam-muội còn không được phó chúc, huống gì các pháp quán khác. Thế thì mười ba pháp định quán đều không được Như Lai phó chúc.

Nhưng người đời nay, nếu ai thích tu quán Phật… mà không chịu niệm Phật, không chỉ trái với bản nguyện của Đức A-di-đà mà còn trái với lời phó chúc của Đức Thích Tôn, người tu hành nên suy xét kĩ!

Trong Tán thiện có các hạnh như: Trì giới Đại thừa và Tiểu thừa, người đời đều cho rằng trì giới là pháp cốt yếu để vào chân đạo, người phá giới thì không được vãng sanh. Lại có hạnh phát tâm Bồ-đề, người đời đều cho tâm bồ-đề là cương yếu của Tịnh độ, nếu không có tâm Bồ-đề thì không được vãng sanh. Lại có hạnh hiểu Đệ nhất nghĩa không, đây là lí quán, người đời cũng cho lí quán là nguồn Phật, không thể lìa lí mà cầu sanh Phật quốc. Nếu không có lí quán thì không thể vãng sanh. Lại có hạnh đọc tụng kinh điển Đại thừa, mọi người đều cho rằng đọc tụng kinh điển ấy sẽ được vãng sanh, nếu không đọc tụng thì không thể vãng sanh. Đọc tụng có hai việc là trì kinh và trì chú. Trì kinh chính là trì kinh Bát-nhã, Pháp Hoa… trì chú tức là trì các thần chú Huỳnh Tùy Cầu, Tôn Thắng Đà-la-ni, Quang Minh Chân ngôn, A-di-đà Đại Tâm chú…

Tán thiện tuy có mười một hạnh (hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính hầu hạ thầy tổ, thể hiện tâm từ không sát sanh, thực hành mười điều thiện, thọ trì Tam qui, giữ trọn các giới, chẳng trái phạm oai nghi, phát tâm bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyên người tu tập), nhưng bốn hạnh trên (trì giới, phát tâm Bồ-đề, hiểu Đệ nhất nghĩa không, đọc tụng kinh điển Đại thừa) rất được người đời ưa thích, dùng các hạnh này để phá hạnh Niệm Phật. Nhưng ý kinh không phó chúc lưu thông các hạnh này, chỉ phó chúc hạnh Niệm Phật. Đức Thích Tôn sở dĩ không phó chúc lưu thông các hạnh khác, vì đó không phải là bản nguyện của Đức A-di-đà. Ngài phó chúc hạnh Niệm Phật, vì đó là bản nguyện của A-di-đà. Ngày nay ngài Thiện Đạo sở dĩ bỏ các hạnh mà trở về hạnh Niệm Phật, vì đó không chỉ là hạnh bản nguyện của Đức A-di-đà mà còn là hạnh được Đức Thích Tôn phó chúc. Cho nên biết, các hạnh khác đã không hợp cơ mà còn không đúng thời. Hạnh Niệm Phật vãng sanh vừa hợp cơ vừa đúng thời, há cảm ứng suông ư?

Nên biết, vì tùy người, nên đầu tiên Đức Phật tạm thời mở ra hai môn Định-Tán, nhưng sau vì tùy mình nên đóng hai môn Định-Tán, mở ra môn Niệm Phật, một lần mở ra thì vĩnh viễn không đóng lại. Hành giả nên biết, ý bản nguyện của Đức A-di-đà và ý phó chúc của Đức Thích Tôn chính ở nơi đây. Nói “đời tương lai xa mai sau”, theo ý trong kinh Vô Lượng Thọ, chính là chỉ cho thời gian một trăm năm sau mạt pháp một vạn năm. Thời gian sau khi pháp diệt hết mà còn như thế, huống gì là thời Mạt pháp; mạt pháp mà còn như thế, huống gì là Tượng pháp và Chánh pháp. Cho nên biết con đường niệm Phật vãng sanh thông suốt cả ba thời Chánh, Tượng, Mạt và một trăm năm sau khi giáo pháp diệt hết.

XIII. Niệm Phật nhiều căn lành, Tạp thiện ít căn lành

TRÍCH DẪN:

Kinh A-di-đà ghi: “Không thể với nhân duyên một ít phước đức căn lành mà được vãng sanh cõi nước kia. Này Xá-lợi-phất! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe nói đến Phật A-di-đà rồi trì niệm danh hiệu ấy trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, nhất tâm không loạn. Lúc mạng chung, người này được Đức Phật A-di-đà và các vị Thánh hiện đến trước mặt, tâm người ấy không điên đảo, liền được sanh về nước Cực Lạc”.

Hòa thượng Thiện Đạo trong bộ An Lạc Hành Đạo Chuyển Kinh Nguyện Sanh Tịnh Độ Pháp Sự Tán quyển hạ, giải thích đoạn kinh trên như sau:

Niết-bàn, Cực Lạc chỉ một miền

Khó về, bởi hạnh Tạp tùy duyên

Vì thế Như Lai chọn pháp yếu

Dạy niệm Di-đà chuyên càng chuyên

Bảy ngày, bảy đêm không gián đoạn

Lâu dài tu tập lại thêm siêng

Lâm chung Thánh chúng mang hoa đến

Thân tâm vui thỏa ngự liên đài

Ngự rồi liền được Vô sanh nhẫn

Nhất niệm liền đưa đến Phật tiền

Pháp lữ tranh nhau đem y đến

Chứng ngay bất thoái, vị Tam hiền.

LUẬN RẰNG:

Không thể với nhân duyên một ít phước đức căn lành mà được sanh về nước kia. Tức những người tu tạp hạnh khó sanh về, cho nên nói “khó về”, bởi hạnh Tạp tùy duyên. Tu Tạp thiện thì ít căn lành, tu niệm Phật thì nhiều căn lành. Long Thư Tịnh Độ ghi: “Kinh A-di-đà khắc trên đá tại Tương Dương là do Trần Nhân Lăng đời nhà Tùy viết chữ, nét chữ thanh thoát rất đẹp, mọi người đều thích ngắm nhìn. Sau câu: “ Nhất tâm chẳng loạn” có ghi thêm: “Chuyên trì niệm danh hiệu, vì trì niệm, nên tội tiêu diệt, đây chính là nhân duyên nhiều phước đức căn lành. Bản kinh lưu truyền ở thế gian thiếu câu này”.

Không chỉ có nghĩa nhiều ít mà còn có nghĩa lớn nhỏ và nghĩa thắng liệt. Tức tu Tạp thiện thì căn lành nhỏ, tu niệm Phật thì căn lành lớn; tu Tạp thiện thì căn lành kém, tu niệm Phật thì căn lành thù thắng.

XIV. Vô lượng các Đức Phật trong mười phương đều không chứng thực cho tạp hạnh, chỉ chứng thực cho hạnh Niệm Phật

TRÍCH DẪN:

Quán Niệm Pháp Môn ghi: “Kinh A-di-đà nói: Vô lượng các Đức Phật trong sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài che phủ cả tam thiên đại thiên thế giới mà nói lời chân thật rằng: Hoặc Phật còn ở đời hoặc sau khi Phật diệt độ, tất cả những phàm phu tạo tội chỉ cần hồi tâm niệm danh hiệu A-di-đà Phật, nguyện sanh về cõi Tịnh, nhiều thì trọn một đời, ít thì bảy ngày, một ngày, mười niệm, ba niệm, một niệm. Người này lúc sắp qua đời, Đức Phật và các vị Thánh tự đến đón rước, liền được vãng sanh. Các Đức Phật trong sáu phương hiện tướng lưỡi như thế, nhất định là vì chứng thực cho hàng phàm phu diệt tội, được vãng sanh. Nếu chẳng đúng theo lời chứng thực này, được vãng sanh, thì các Đức Phật trong sáu phương sau khi lưỡi hiện ra khỏi miệng sẽ không thể thâu vào mà còn tự nhiên hư nát nữa.

Vãng Sanh Lễ Tán dẫn kinh A-di-đà: “Vô lượng Đức Phật ở phương Đông, vô lượng Đức Phật ở phương Tây, Nam, Bắc, trên, dưới mỗi mỗi đều ở tại trụ xứ của mình, hiện tướng lưỡi che phủ cả tam thiên đại thiên thế giới mà nói lời thành thật rằng: Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này. Thế nào gọi là hộ niệm? Đó là, nếu có chúng sanh xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, hoặc bảy ngày, hoặc một ngày, cho đến mười tiếng, một tiếng hay chỉ một niệm. Người này nhất định được vãng sanh. Chứng thực cho việc này, nên gọi là kinh Hộ Niệm”. Lại nói:

Sáu phương Như Lai đồng minh xác

Chuyên trì danh hiệu, đến Lạc bang

Đến rồi, hoa nở, nghe diệu pháp

Hạnh nguyện Thập địa tự nhiên toàn.

Quán Kinh Sớ ghi: “Các Đức Phật trong mười phương sợ chúng sanh không tin lời của Đức Phật Thích-ca, nên liền đồng tâm, đồng thời, mỗi mỗi hiện tướng lưỡi che phủ cả ba ngàn đại thiên thế giới nói lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi nên tin lời Phật Thích-ca nói, khen ngợi và chứng thực. Tất cả phàm phu, không luận là kẻ gây tội, người tạo phước hoặc nhiều hoặc ít, thời gian tu tập lâu hay mau, chỉ cần lâu thì trọn đời, mau thì từ một ngày, bảy ngày nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà, nhất định sẽ được vãng sanh”.

Pháp Sự Tán ghi:

Tâm tâm niệm Phật, đâu nên ngại

Sáu phương chư Phật chứng chẳng sai

Ba nghiệp chuyên ròng không tạp loạn

Hoa sen trăm báu tức thời lai.

Tịnh Độ Ngũ Hội Pháp Sự Tán của thiền sư Pháp Chiếu ghi:

Tịnh Độ bậc nhất trong muôn hạnh

Mau chóng cấp thiết không gì sánh

Không chỉ là lời Thích-ca Phật

Mười phương các Phật cũng chứng thành.

LUẬN RẰNG:

Hỏi: Vì sao các Đức Phật trong sáu phương chỉ chứng thực một hạnh Niệm Phật?

Đáp: Theo ý của ngài Thiện Đạo thì hạnh Niệm Phật là bản nguyện của Đức A-di-đà cho nên các Đức Phật mới chứng thực, còn các hạnh khác không phải bản nguyện, nên không chứng thật.

Hỏi: Nếu căn cứ theo bản nguyện mà chứng thực hạnh Niệm Phật, tại sao trong Quán Kinh và kinh Vô Lượng Thọ, khi Đức Thích-ca nói pháp Niệm Phật, các Đức Phật không chứng thực?

Đáp: Câu này có hai cách giải thích. Một, trong hai bộ kinh đó tuy nói hạnh Niệm Phật bản nguyện, nhưng cũng nói đến các hạnh khác, cho nên các Đức Phật không chứng thực. Kinh này chỉ một bề nói hạnh Niệm Phật, nên các Đức Phật mới chứng thực. Hai, trong hai bộ kinh trên, tuy không có lời chứng thực, nhưng đã có lời chứng thực trong kinh A-di-đà. Từ đó suy ra thì hạnh Niệm Phật trong hai bộ kinh trên thật ra cũng có nghĩa chứng thực. Lại nữa, văn kinh này có thể thông với văn của kinh kia. Cho nên Luận Thập Nghi ghi: “Kinh A-di-đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Cổ Âm Thanh Đà-la-ni đều nói khi Phật Thích-ca thuyết kinh này, có vô lượng các Đức Phật trong mười phương hiện tướng lưỡi che phủ cả ba ngàn đại thiên thế giới, nói lời thành thật rằng: ‘Tất cả chúng sanh niệm danh hiệu Phật A-di-đà, nhờ sức bản nguyện đại bi của Phật, cho nên nhất định được sanh về thế giới Cực Lạc”.

XV. Các Đức Phật trong sáu phương đều hộ niệm hành giả Niệm Phật

TRÍCH DẪN:

Quán Niệm Pháp Môn ghi: “Kinh A-di-đà nói: Nếu có chúng sanh trong bảy ngày bảy đêm cho đến trọn đời, một lòng chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà, nguyện vãng sanh, người này luôn được vô lượng Đức Phật trong sáu phương đến hộ niệm, nên gọi là kinh Hộ Niệm. Hộ niệm không để cho ác quỉ thần thừa dịp làm hại, cũng không để vô cớ sanh bệnh, chết oan, gặp nguy hiểm, tất cả tai họa tự nhiên tiêu trừ, không bao giờ đến với thân tâm”.

Vãng Sanh Lễ Tán ghi: “Nếu niệm danh hiệu Phật cầu vãng sanh, thường được vô lượng các Đức Phật trong sáu phương hộ niệm, nên gọi là kinh Hộ Niệm. Vậy nay đã có thệ nguyện tăng thượng đáng nương tựa này rồi, vì sao các Phật tử không gắng sức đi!

LUẬN RẰNG:

Hỏi: Vì sao chỉ có các Đức Như Lai trong sáu phương hộ niệm?

Đáp: Không hạn cuộc các Như Lai trong sáu phương, mà Phật A-di-đà, bồ-tát Quán Thế Âm… cũng đến hộ niệm. Cho nên trong Vãng Sanh Lễ Tán ghi: “Kinh Thập Vãng Sanh nói: Nếu có chúng sanh niệm danh hiệu Phật A-di-đà, nguyện vãng sanh, Đức Phật ấy liền sai hai mươi lăm vị Bồ-tát theo bảo vệ. Trong tất cả các thời, ngày hay đêm, khi đi đứng, lúc nằm ngồi không để cho ác quỉ, ác thần làm hại. Quán Kinh ghi: Nếu người lễ lạy, trì niệm Phật A-di-đà, nguyện sanh về nước ấy, Đức Phật ấy sẽ sai vô số Hóa Phật, vô số Hóa Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí hộ niệm. Các vị Hóa Phật và Bồ-tát ấy lại cùng với hai mươi lăm vị Bồ-tát vừa nêu tạo thành trăm lớp, ngàn lớp vây quanh, không kể khi đi đứng, lúc nằm ngồi, dù ngày hay đêm cũng không bao giờ rời người ấy. Đã có lợi ích quí báu đáng tin này, xin hành giả nên chí tâm cầu vãng sanh”.

Quán Niệm Pháp Môn ghi: “Như Quán Kinh nói: Nếu có người chí tâm niệm Phật A-di-đà và hai vị bồ-tát là Quán Âm, Thế Chí thì ba vị Thánh này luôn làm bạn lành, luôn theo bên để bảo vệ người ấy. Trong phẩm Hành, kinh Bát-chu Tam-muội , Phật dạy: Nếu người chuyên thực hành tam-muội Niệm Di-đà Phật này, thì thường được tất cả trời, Tứ thiên vương , bát bộ rồng, thần theo bên mình bảo vệ, ưa thích gặp mặt, vĩnh viễn không bị các ác quỉ thần, tai ách, chướng nạn não loạn. Trong phẩm Hộ Trì nói rất rõ điều này. Kinh này còn ghi: “Trừ lúc vào Tam-muội đạo tràng, còn hằng ngày đặc biệt niệm một vạn biến A-di-đà không gián đoạn, nhất định được Đức A-di-đà hộ niệm, giúp tiêu trừ các tội chướng. Lại được Phật và các Thánh thường đến bảo vệ, do đó mà tuổi thọ kéo dài”.

XVI. Đức Phật Thích-ca thiết tha phó chúc danh hiệu A-di-đà cho Xá-lợi-phất

TRÍCH DẪN:

Kinh A-di-đà ghi: “Đức Phật thuyết kinh này xong, Xá-lợi-phất, các vị Tì-kheo, tất cả trời, người, a-tu-la nghe dạy hoan hỉ tin nhận, lễ lạy rồi lui ra.

Trong Pháp Sự Tán, ngài Thiện Đạo giải thích đoạn này như sau: “Khi Đức Thế Tôn thuyết pháp sắp xong, Ngài đã thiết tha phó chúc danh hiệu A-di-đà. Trong thời năm trược ác tăng mạnh, nhiều người nghi ngờ phỉ báng, đạo tục khinh chê không chịu nghe. Hễ thấy ai tu pháp môn này, liền khởi tâm giận dữ, dùng mọi cách phá hoại, nối nhau sanh oán hận. Những kẻ sanh manh xiển-đề như thế, hủy diệt đốn giáo, sẽ mãi mãi chìm đắm, trải qua số kiếp nhiều như hạt bụi trong đại địa này vẫn không thoát khỏi thân trong ba đường ác. Mọi người hãy đồng tâm sám hối những nhân duyên của tội phá pháp!”

LUẬN RẰNG:

Xét kĩ chủ ý của ba bộ kinh , đều chọn hạnh Niệm Phật trong các hạnh làm chỉ thú. Trước nhất, trong kinh Vô Lượng Thọ có ba tuyển chọn là: tuyển chọn bản nguyện, tuyển chọn khen ngợi, tuyển chọn giáo pháp để lưu. Tuyển chọn bản nguyện, tức pháp Niệm Phật này là hạnh vãng sanh mà Tì-kheo Pháp Tạng đã tuyển chọn từ hai trăm mười ức cõi Phật, như đã trình bày kĩ ở trên. Tuyển chọn khen ngợi, trong ba bậc vãng sanh nói ở trên, tuy có nêu đủ các hạnh như phát tâm Bồ-đề… nhưng Đức Thích-ca không khen ngợi, chỉ khen ngợi hạnh Niệm Phật rằng: “Nên biết, dù chỉ một niệm cũng có công đức vô thượng”. Tuyển chọn giáo pháp để lưu, tuy nêu các hạnh thiện, nhưng Đức Thích-ca chỉ chọn một pháp Niệm Phật để lưu lại đời sau.

Trong Quán Kinh cũng có ba loại tuyển chọn: tuyển chọn nhiếp thủ, tuyển chọn Hóa Phật tán thán, tuyển chọn phó chúc. Tuyển chọn nhiếp thủ, trong Quán Kinh tuy nói các hạnh Định-Tán, nhưng ánh sáng của Đức A-di-đà chỉ chiếu đến chúng sanh niệm Phật, giữ lấy không lìa bỏ. Tuyển chọn Hóa Phật khen ngợi, hàng Hạ phẩm thượng sanh tuy có thực hành hai hạnh là nghe kinh và niệm Phật, nhưng Hóa Phật A-di-đà chỉ chọn người niệm Phật mà khen ngợi rằng: “Vì ngươi xưng niệm danh hiệu Phật, các tội tiêu diệt, nên nay ta đến đón ngươi”. Tuyển chọn phó chúc, kinh tuy nói đầy đủ hai thiện Định-Tán, nhưng chỉ phó chúc một hạnh Niệm Phật mà thôi.

Kinh A-di-đà có một loại tuyển chọn là tuyển chọn chứng thực. Các kinh khác tuy nói rất nhiều hạnh vãng sanh, nhưng các Đức Phật trong sáu phương không chứng thực. Đến khi thuyết hạnh Niệm Phật vãng sanh trong kinh này, vô lượng các Đức Phật trong sáu phương mới hiện tướng lưỡi rộng dài che phủ cả tam thiên đại thiên thế giới nói lời thành thật để chứng thực cho việc này.

Kinh Bát-chu Tam-muội có một loại tuyển chọn là tuyển chọn “ngã danh”. Phật A-di-đà tự nói rằng: “Nếu muốn sanh đến nước ta, thì nên luôn niệm danh hiệu ta (ngã danh) không dừng nghỉ”.

Bốn loại tuyển chọn: Bản nguyện, nhiếp thủ, ngã danh, Hóa Phật tán thán là của Đức Phật A-di-đà tuyển chọn. Ba loại tuyển chọn còn lại là của Đức Thích-ca tuyển chọn. Thế thì Đức Phật Thích-ca, A-di-đà và vô lượng các Đức Phật trong sáu phương đồng tâm chọn một hạnh Niệm Phật. Cho nên biết, ba kinh đều chọn Niệm Phật làm tông chỉ.

Phàm muốn chóng xa lìa sanh tử, cần phải bỏ Thánh đạo môn mà vào Tịnh độ môn. Trong Tịnh độ môn nên bỏ Tạp hạnh mà tu Chánh hạnh. Trong Chánh hạnh cần phải gác qua Trợ nghiệp mà chọn lấy Chánh định nghiệp. Chánh định nghiệp tức là xưng niệm danh hiệu Phật. Hễ xưng danh liền được vãng sanh, vì nhờ sức bản nguyện của Phật.

Hỏi: Các sư tông Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Chân Ngôn, Thiền, Tam Luận, Pháp Tướng đều có soạn những sớ giải cho pháp môn Tịnh Độ, vì sao không y cứ mà chỉ sử dụng các tác phẩm của ngài Thiện Đạo?

Đáp: Các sư kia tuy có soạn sớ giải cho pháp môn Tịnh Độ, nhưng không chọn Tịnh Độ làm tông chỉ, mà lấy Thánh đạo môn làm tông. Cho nên ở đây chỉ căn cứ theo chủ trương của ngài Thiện Đạo.

Hỏi: Tổ sư tông Tịnh Độ rất nhiều như: Ngài Ca Tài ở chùa Hoằng Pháp, Tam tạng Từ Mẫn… vì sao không y cứ mà chỉ theo ngài Thiện Đạo?

Đáp: Các sư ấy tuy là tông tổ, nhưng chưa đạt được tam-muội, còn ngài Thiện Đạo đã đạt Tam-muội. Đối với đạo đã có chỗ chứng ngộ, cho nên mới y cứ.

Hỏi: Nếu căn cứ theo việc đạt tam-muội, thì thiền sư Hoài Cảm cũng đã phát khởi tam-muội, sao không y cứ?

Đáp: Hòa-thượng Thiện Đạo là thầy, thiền sư Hoài Cảm là đệ tử. Vì thế nương theo thầy, không nương theo đệ tử, huống gì sự giải thích giữa thầy và trò có nhiều khác biệt. Cho nên không y cứ.

Hỏi: Nếu nói y cứ theo thầy chứ không theo đệ tử, vậy thiền sư Đạo Xước là thầy của hòa-thượng Thiện Đạo, lại là tổ sư của tông Tịnh Độ, vì sao không y cứ?

Đáp: Ngài Đạo Xước tuy là thầy, nhưng chưa phát tam-muội, chẳng biết mình được vãng sanh hay không, mới hỏi Thiện Đạo rằng: “Đạo Xước niệm Phật có được vãng sanh chăng?”. Sư bảo đặt một đóa sen trước Phật rồi hành đạo bảy ngày, nếu hoa không héo thì được vãng sanh. Ngài Đạo Xước làm theo, quả nhiên trải qua bảy ngày mà hoa không úa vàng. Ngài Đạo Xước khen Sư đã đạt đến chỗ sâu xa. Nhân đó thỉnh Sư nhập định quán xem sẽ được vãng sanh chăng. Sư liền vào định, chốc lát báo rằng: “Thầy cần phải sám hối ba tội mới được vãng sanh. Một là thầy đặt tôn tượng Phật nơi phòng dưới mái hiên, còn mình thì ở trong phòng sâu. Hai là thường sai khiến người xuất gia. Ba là xây dựng phòng ốc, nhà cửa làm tổn thương các loài côn trùng. Thầy nên đối trước các Đức Phật trong mười phương sám hối tội thứ nhất; đối trước tăng bốn phương, sám hối tội thứ hai; đối trước tất cả chúng sanh, sám hối tội thứ ba. Ngài Đạo Xước lắng tâm xét lại lỗi xưa, rồi nói: “Không sai!”. Thế là Đạo Xước tẩy tâm sám hối. Sau đó đến gặp Sư, Sư nói: “Tội của thầy đã diệt. Về sau, khi có luồng ánh sáng trắng chiếu soi, đó là tướng Thầy vãng sanh” (trích trong Tân Tu Vãng Sanh Truyện). Như thế biết được hòa-thượng Thiện Đạo đã đạt tam-muội, đủ năng lực làm thầy, hàng phàm phu đâu thể biết được giải hạnh của Sư. Huống gì người đời thường nói: “Từ khi Phật pháp truyền đến Trung Quốc đến nay, vẫn chưa xuất hiện bậc thiền sư có đức lớn”. Như thế, danh tiếng tuyệt luân của Sư không thể tán dương hết. Lại thêm lúc soạn sớ giải cho Quán Kinh, cảm được điềm lành, nhiều lần được chư thánh điểm hóa. Đã được các Thánh âm thầm gia hộ mà soạn, cho nên tăng tục thời bấy giờ gọi bộ kinh sớ này là Chứng Định Sớ, mọi người quí trọng như kinh của Phật.

Như trong phần cuối quyển 4, Quán Kinh Sớ, Sư thưa rằng: “Kính bạch tất cả các bậc tri thức hữu duyên! Tôi là phàm phu trong chốn tử sanh, trí huệ nông cạn, mà giáo pháp của Phật thì sâu xa, đâu dám tự ý sanh kiến giải khác. Do đó, tôi biểu đạt ý nguyện, cầu thỉnh chư Thánh hiển linh chứng nghiệm, ngõ hầu đạt đến chỗ sâu xa. Nam-mô qui mạng tận hư không biến pháp giới tất cả Tam bảo, Đức Phật Thích-ca, Đức Phật A-di-đà, Đức Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, đại hải chúng Bồ-tát và tất cả tướng trang nghiêm ở cõi kia ! Ngày hôm nay con muốn giải thích yếu nghĩa kinh này, làm phép tắc cho mai sau. Nếu hợp với bản nguyện đại bi của các Đức Phật trong ba đời, Đức Thích-ca, Đức A-di-đà… thì cầu xin trong mộng thấy được các cảnh giới như con đã nguyện ở trên”.

Trước tôn tượng Phật cầu nguyện rồi, hằng ngày ta tụng ba biến kinh A-di-đà, niệm ba vạn biến danh hiệu A-di-đà Phật và chí thành phát nguyện. Trong một đêm, ta mộng thấy các tướng cảnh giới như nguyện hiện ra rõ ràng trên không trung ở phương Tây. Nào là trăm lớp, ngàn lớp núi báu nhiều màu sắc phát ra vô lượng ánh sáng rực rỡ chiếu xuống mặt đất; mắt đất như vàng ròng, trên đó có các Đức Phật và Bồ-tát, hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc nói, hoặc im lặng, hoặc cử động, hoặc đứng yên. Khi thấy như vậy, ta đứng quán sát hồi lâu mới tỉnh thức. Sau khi thức, lòng ta vô cùng vui mừng liền biên soạn Nghĩa môn . Từ đó về sau, hằng đêm ta thường mộng thấy một vị Tăng đến chỉ bày khoa văn . Sau khi xong thì không còn thấy nữa. Khi soạn xong, ta lại chí tâm định kì hạn bảy ngày, mỗi ngày tụng mườì biến kinh A-di-đà, niệm danh hiệu Phật A-di-đà ba vạn biến. Đầu đêm, cuối đêm quán tưởng các tướng trang nghiêm của cõi Phật ấy, thành tâm qui mạng tất cả, nhất nhất đều thực hành như đã nói trên. Đêm thứ nhất, ta thấy ba cái cối xay bằng sức nước đang tự xoay bên đường, rồi bỗng nhiên có một người cưỡi lạc đà trắng đến khuyên: “Sư nên nỗ lực, nhất định vãng sanh, chớ lui sụt! Cõi này xấu ác, khổ nhiều, không nên nhọc lòng ưa thích”.

Ta đáp: “Được Hiền giả có lòng tốt chỉ dạy, tôi xin lấy cái chết làm kì hạn, không dám sanh tâm biếng trễ… Đêm thứ hai, ta thấy Đức Phật A-di-đà, thân màu vàng ròng, ngồi trên tòa sen vàng nơi cội cây bảy báu, có mười vị Tăng vây quanh, mỗi mỗi cũng ngồi nơi cội cây báu. Trên cây nơi Đức Phật ngồi có y trời treo quanh. Ta ngồi chắp tay, mặt quay về hướng Tây mà nhìn. Đêm thứ ba, ta thấy hai trụ rất lớn và cao vút, treo tràng phan năm màu, đường sá ngang dọc, người xem rất đông. Thấy các tướng này, ta liền thôi, không tiếp tục đến trọn bảy ngày. Các linh tướng ta thấy ở trên vốn là vì chúng sanh, chớ không phải vì mình, cho nên chẳng dám che dấu, mà ghi lại sau bộ sớ này, mong truyền đến đời sau. Nguyện cho tất cả những ai nghe được, phát khởi lòng tin, hoặc thấy được mà quy hướng Tây phương. Nguyện đem công đức này hồi hướng cho tất cả chúng sanh đều phát tâm Bồ-đề, đối xử với nhau bằng lòng từ, nhìn nhau bằng mắt Phật, quyến thuộc Bồ-đề là thiện tri thức chân thật. Nguyện cho tất cả chúng sanh đồng trở về cõi Phật, đồng thành Phật đạo”.

Bộ Sớ giải này đã cầu thỉnh Phật, Thánh chứng minh, xác định xong, không thể thêm bớt một lời, một câu. Nếu ai muốn sao chép, nhất nhất phải y như pháp chép kinh.

Kính nghĩ rằng: Quán Kinh Sớ của hòa-thượng Thiện Đạo chính là kim chỉ nam của giáo Tây Phương, là phương tiện không thể thiếu của hành giả Tịnh độ. Vậy hành giả Tịnh độ cần phải quí kính. Trong lời kể: Mỗi đêm mộng thấy một vị Tăng chỉ dạy huyền nghĩa . Vị Tăng này e là Đức A-di-đà ứng hiện. Như thế các vị nên cho rằng bộ sớ giải này là do Đức A-di-đà truyền dạy. Huống gì, vào thời Đường, người người truyền rằng ngài Thiện Đạo là hóa thân của Phật A-di-đà. Thế thì các vị nên cho rằng văn sớ này là do chính Đức A-di-đà thuyết. Đã nói: “Muốn sao chép, nhất nhất phải nên y như pháp chép kinh”, thì biết đây là lời chân thật vậy. Ngưỡng tìm về Bản địa thì Ngài chính là Pháp vương của bốn mươi tám nguyện, lời xướng niệm Phật của bậc Thập kiếp chánh giác thật có bằng chứng; cúi hỏi đến Thùy tích thì đây chính là Đạo sư chuyên tu niệm Phật, lời vãng sanh của bậc đạt Tam-muội chánh thọ thật chẳng nghi. Bản-Tích tuy khác, nhưng con đường giáo hóa chẳng hai. Lúc ấy bần đạo xem đọc sớ văn, tạm hiểu được bản ý, quyết định bỏ các hạnh khác mà trở về niệm Phật. Từ đó đến nay, dù tự tu hay độ người đều chọn lấy môn Niệm Phật. Cho nên, chỉ rõ bến bờ chung Tây phương cho người tham học, dạy khuyên biệt hạnh Niệm Phật cho những người thích hành trì. Người tin pháp này thì nhiều, người không tin rất ít.

Nên biết giáo pháp Tịnh Độ hợp thời cơ mà đang lưu thông, hạnh nghiệp Niệm Phật cảm đến triều đình mà tiến thoái. Nhưng nay chẳng vì mong được kính ngưỡng, mà vì không thể chối từ, mới gom chép những văn từ và nghĩa lí cốt yếu của môn Niệm Phật. Tôi chỉ quan tâm đến chỉ thú mà không kể mình là kẻ bất tài, thật là không biết hổ thẹn! Mong rằng mọi người một khi xem qua liền chôn kĩ nơi chân tường, chớ sơ suất để bên song cửa, khiến cho người phá pháp phải rơi vào đường ác!

Nguyên Không Pháp Nhiên Thượng nhân soạn
Thích Nguyên Chơn dịch

Trâu Và Két Vãng Sanh Lưu Xá Lợi

Trâu Và Két Vãng Sanh Lưu Xá LợiVào năm 1980, tai Phúc Kiến có một cậu bé chăn trâu nói với con trâu rằng: “Ngày mai mày sẽ bị bán cho người làm thịt.” Con trâu lập tức chảy nước mắt và quỳ hai chân trước xuống. Cậu bé chăn trâu nói cho cha mẹ và mấy người quan chức địa phương đến xem, sau đó trâu quỳ xuống và xin được tha mạng. Mọi người đều thương xót, quyên góp một số tiền để mua con trâu đó và đưa trâu đến một tu viện để phóng sanh. Sau khi trâu đến tu viện, trâu rất thích nghe giảng kinh và lạy Phật. Mỗi khi thấy những người tại gia đến tu viện, trâu thường lạy cảm ơn họ. Vào cuối cuộc đời, trâu biết trước giờ mất, nó đi chậm chạp ra đồng đọc tiếp ➝

Nếu Tâm Chuyển Được Cảnh Là Giống Như Phật

Nếu Tâm Chuyển Được Cảnh Là Giống Như PhậtKinh Lăng Nghiêm nói: “Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai”, nghĩa là tất cả các bậc Thánh hiền có thể chuyển được vạn vật mà không hề bị vạn vật chuyển, tùy tâm được tự tại, chốn chốn đều chân như. Kẻ phàm phu chúng ta bị vọng tưởng làm chướng ngại, nên mới bị cảnh chuyển, giống như ngọn cỏ đầu tường, khi gió đông thổi lại thì ngã về hướng tây, gió tây thổi qua thì ngã về hướng đông, không thể tự làm chủ được mình.

Có người suốt ngày nhởn nhơ biếng nhác, không để tâm đến việc tu đạo; tuy cũng hành trì nhưng lúc có lúc không, ngày chồi ngày hụp, thường lẩn quẩn trong vòng mừng giận, buồn vui, phải trái, não phiền. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý phân biệt, sáu căn luôn rong ruổi theo sáu trần, chưa từng tỉnh giác phản chiếu lại mình; niệm niệm chạy theo nào là xanh vàng đỏ trắng, già trẻ trai gái v.v.. Gặp điều vừa ý hợp nhãn khởi tâm vui mừng tham đắm; đụng chuyện trái ý nghịch lòng sanh tâm buồn phiền chán ghét, lòng thường khởi lên vọng tưởng. Người vọng tưởng nhẹ, còn có thể để tâm tu đạo, làm thiện sự; người vọng tưởng quá nặng, sanh khởi vô số niệm tà bất chánh, lòng đầy uế trược, loạn tạp, đến nỗi không còn thuốc chữa.

Thiền sư Bạch Vân Đoan có bài tụng rằng:

Nhược năng chuyển vật tức Như Lai
Xuân noãn sơn hoa xứ xứ khai
Tự hữu nhất song cùng tướng thủ
Bất tằng dung dị vũ tam đài.

(Ai người chuyển vật tức Như Lai
Xuân đến khắp đồi hoa rộ nở
Buồn nỗi tay thô không mềm mại
Làm sao diễn đạt điệu Tam Thai).

Trong Kim Kim Cang cũng nói: “Ưng như thị giáng phục kỳ tâm” (nên như thế mà giáng phục tâm mình – tức trụ tâm vào không chỗ trụ). Hay như cách nói của Nho gia: “Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị.” (Tâm không đặt vào đó thì tuy nhìn nhưng không thấy, tuy nghe nhưng không biết, tuy ăn nhưng không cảm nhận mùi vị của thức ăn). Nhà Nho khi nổi giận còn có thể làm chủ được mình, không để cho cảnh chuyển như thế; huống chi chúng ta là con nhà Phật, sao không nghĩ đến việc sanh tử cấp thiết như cứu lửa cháy đầu mà buông bỏ các duyên, tinh tấn tu đạo, lợi dụng cảnh động để rèn luyện, khảo nghiệm bản thân cho đến khi tâm không còn chạy theo trần cảnh, có được thành tựu trong sự hành trì. Tu hành, không nhất thiết phải ở trong cảnh tịnh, cũng có thể tu trong cảnh động, cảnh động nhưng lòng không động, đó mới thực sự tu hành.

Vào năm đầu triều đại nhà Minh, ở đầm Hồ Nam có một người thợ rèn họ Hoàng, lấy việc rèn sắt làm nghề mưu sinh, mọi người đều gọi ông là Hoàng thợ rèn. Khi ấy nhằm lúc Chu Hồng Vũ khởi binh đánh trận, cần đến rất nhiều vũ khí, Hoàng thợ rèn lãnh mệnh tức tốc chế tạo binh khí, ông làm việc ngày đêm không nghỉ. Một hôm, có vị Tăng đi đến nhà khất thực, Hoàng thợ rèn mang cơm ra cúng dường, vị tăng thọ trai xong, bảo ông rằng: “Hôm nay thọ nhận sự cúng dường của thí chủ, không có chi báo đáp, chỉ có một lời tặng.” Hoàng thợ rèn thỉnh vị Tăng nói ra. Vị tăng hỏi: “Sao thí chủ không chịu tu hành?” Hoàng sư phụ trả lời: “Tu hành tuy là việc tốt, có điều tôi suốt ngày bận túi bụi, làm sao có thể tu hành được chứ?” Vị Tăng bảo: “Có một pháp môn niệm Phật, tuy trong cảnh bận rộn, vẫn có thể tu hành được. Khi thí chủ nện xuống một búa, có thể niệm một tiếng Phật, thổi một hơi ống thổi cũng niệm một tiếng Phật, cứ làm như thế trong một thời gian dài, sẽ được chuyên tâm vào câu Phật hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, đến khi mệnh chung, tất sẽ được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.” Hoàng thợ rèn y theo lời vị Tăng dạy, tay rèn sắt, còn miệng thì niệm Phật, rèn sắt suốt ngày, suốt ngày niệm Phật, không biết mệt mỏi, ngược lại còn cảm thấy khinh an tự tại. Cứ thế tu tập, công phu ngày một trở nên thâm hậu, miệng không niệm tâm cũng tự niệm, dần được tỏ ngộ. Trước lúc mạng chung, Hoàng thợ rèn biết rõ ngày giờ, bèn từ biệt bạn bè thân thích, nói là muốn đi đến Tây Phương. Lúc sắp đi, ông bàn giao hết công việc lại, tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề, đến bên lò rèn gõ xuống mấy cái và nói bài kệ:

Đinh đinh đương đương
Cửu luyện thành cương
Thái bình tương cận
Ngã vãng Tây Phương.

(Lẻng xẻng lẻng xẻng
Luyện lâu thành thép
Thái bình sắp đến
Ta về Tây phương.)

Nói xong, an nhiên vãng sanh, lúc ấy trong nhà đầy mùi hương lạ, thiên nhạc trổi vang trời, xa gần đều nghe thấy, mọi người nhân đây mà được tỏ ngộ rất nhiều.

Hiện nay chúng ta cũng bận suốt ngày không ngơi, nếu có thể học theo như Hoàng thợ rèn, nổ lực tu hành trong cảnh động, thì còn sợ chi đến việc sống chết! Lúc trước, tôi ở núi Kê Túc – Vân Nam, có kể cho mọi người nghe việc thế độ Cụ Hành xuất gia. Khi Cụ Hành chưa xuất gia, mắc phải nhiều tật như hút thuốc, uống rượu…, trong nhà tám người đều làm công quả trong chùa Chúc Thánh. Về sau, cả nhà đều xuất gia, từ đó Cụ Hành dứt tuyệt những cố tật của mình. Tuy không biết chữ, nhưng Cụ Hành rất dụng công học tập, trải qua thời gian chưa bao lâu thuộc lòng hết cả hai thời công phu sớm tối, Phẩm Phổ Môn v.v.. Ban ngày chuyên lo trồng rau cải, ban đêm lễ Phật tụng Kinh, không ham mê ngủ nghỉ. Ở trong Đại chúng, ai thích, Cụ Hành không màng; ai ghét, Cụ Hành cũng không để ý. Thường ngày hay vá quần áo giúp cho mọi người, khi vá một mũi kim, niệm một câu Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, không mũi kim nào mà không niệm. Về sau, Cụ Hành đến bốn ngọn núi nổi tiếng của Phật giáo (Phổ Đà Sơn – Triết Giang, Nga Mi Sơn – Tứ Xuyên , Cửu Hoa Sơn – An Huy, Ngũ Đài Sơn – Sơn Tây) học tập Phật Pháp tám năm, sau đó về lại Vân Nam. Khi ấy, tôi đang xây dựng chùa Vân Thê, Cụ Hành không màng lao khổ, làm hết mọi việc lớn nhỏ, khiến cho ai nấy đều hoan hỷ. Lúc sắp mệnh chung, Cụ Hành đem bán hết những vật dụng của mình, thiết trai cúng dường Đại chúng, lo liệu hết mọi việc, sau đó cáo biệt mọi người. Cụ Hành ra sau vườn chùa Thắng Nhân, thuộc hạ viện chùa Vân Thê – tỉnh Vân Nam tự thiêu bằng những hạt cải xanh góp nhặt được trong suốt bốn tháng cùng vài bó rơm. Khi mọi người phát hiện ra thì Cụ Hành đã vãng sanh rồi. Chiếc áo dài trên thân bị cháy cong lên, tuy đã thành tro, nhưng vẫn giữ nguyên hình dạng như cũ, không hề rớt xuống; thân hình ngồi ngay thẳng trong đống tro, trong khi tay vẫn còn cầm mõ dẫn khánh, khiến ai nhìn thấy cũng đều hoan hỷ tán thán. Cụ Hành suốt ngày bận rộn không ngơi, nhưng không hề quên việc tu hành, cho nên đối với việc sanh tử khứ lai đều rất tự tại. Nếu quý vị tu được trong cảnh động sẽ dễ đạt kết quả hơn tu trong cảnh tịnh.

Đại lão hòa thượng Hư Vân