Các Sơ Sót Sai Lầm Cần Tránh Khi Phát Nguyện

Các Sơ Sót Sai Lầm Cần Tránh Khi Phát Nguyện“Tín-Nguyện-Hạnh” là ba tư lương của người niệm Phật vãng sanh. Pháp hộ niệm nói lên nói xuống cũng quy tụ vào ba điểm này.

Ngày hôm qua chúng ta nói về chữ “Tín”. Chữ “Tín” này được thể hiện ở những người niệm Phật. Ví dụ khi bệnh người ta an nhiên niệm Phật thì người đó có “Tín”. Lúc trở ngại gì cũng an nhiên tự tại để niệm Phật thì đó là “Tín”. Con đường tu hành chuyên nhất không còn lao chao phân đo giữa pháp này pháp nọ nữa, như vậy là “Tín Lực” của họ mạnh vô cùng, họ đã định rồi. Nhờ lòng tin này mà phát khởi thiện căn. Những người thiện căn cao thì tín tâm càng cao. Những người thiện căn yếu thì thường hay phân vân, do dự. Cho nên “Tín Tâm” liên quan mật thiết với “Thiện Căn”.

“Thiện Căn” là gì? Nói cho đơn giản, khỏi cần triết lý làm chi, là những người hiền lành. Trong quá khứ người ta có cúng dường chư Phật, có tu hành, đó là những người hiền lành. Trên cõi Tây Phương toàn là chư Thượng-Thiện-Nhân hết. Chính vì vậy, khi xét thấy rằng niềm tin của mình còn yếu, thì biết là thiện căn trong nhiều đời kiếp mình tu yếu. Như vậy thì bây giờ làm sao? Hãy hạ quyết tâm tin tưởng vào câu A-Di-Đà Phật. Khi bắt đầu tin tưởng vào câu A-Di-Đà Phật, mình vùng lên, mình nguyện tha thiết, mình lập công cứ vững vàng. Thì cái niềm tin này nó làm tăng thiện căn lên, rồi nhờ cái thiện căn đó nó mới giúp cho niềm tin của mình vững vàng. Hai cái nó giống như nấc thang, cái này hỗ trợ cho cái kia, cái kia hỗ trợ cái nọ…

Khi tâm mình chao đảo, phân vân, lo lắng điều gì đó, không nghĩ rằng pháp niệm Phật này vi diệu như vậy, thì chứng tỏ niềm tin của mình yếu! Bây giờ đừng nên phân đo nữa. Phật nói như vậy thì mình cứ quyết lòng tin đi, hạ quyết tâm niệm Phật thì tự nhiên thiện căn của mình từ đó mà tăng trưởng lên.

Hôm nay chúng ta nói qua cái “Nguyện” một chút. Hễ người mà có tín tâm mạnh thì sự phát nguyện sẽ tha thiết. Người không có tín tâm mạnh thì phát nguyện không tha thiết. Như vậy, sự phát nguyện không tha thiết nó bắt nguồn từ niềm tin yếu. Bây giờ, nếu mình đã thấy một bà Cụ kia niệm Phật được vãng sanh, cái hình tượng đó động viên cho mình tin, dù mình không hiểu lý do tại sao? Mình thấy bà Cụ đó không biết chữ nghĩa gì, không biết kinh điển gì, nhưng Cụ cứ thành tâm chắp tay Nam Mô A-Di-Đà Phật cho con được vãng sanh Tây Phương. Chính Bà cũng không biết Tây Phương là chỗ nào cả, chỉ nghe Phật nói vậy thì tha thiết vô cùng, ngày đêm niệm, ngày đêm nguyện, thế mà bà đó vãng sanh! Chính chỗ này đáng làm cho mình phải giựt mình, tỉnh ngộ. À! Nhất định phải có một điều gì nhiệm mầu trong này? Phát khởi niềm tin lên.

Đối với người căn cơ hạ liệt như chúng ta thì nên nhớ điều này:
– “Nguyện” là tha thiết nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải là nguyện hết bịnh.
– “Nguyện” là tha thiết nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải là nguyện cho con giải quyết xong hết tất cả nợ đời rồi con mới tu.
– “Nguyện” là quyết lòng nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ đừng có nguyện tôi làm cho xong công chuyện gia đình, tôi giúp vợ, giúp chồng, giúp con, giúp cái, giúp dâu, giúp rể… cho xong, rồi tôi mới an tâm niệm Phật.
– “Nguyện” là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải: ” Nam Mô A-Di-Đà Phật, cho con thân thể tráng kiện, khai mở trí huệ để con niệm Phật.

Quý vị phải nhớ cho thiệt kỹ điểm này. Diệu Âm nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần. Có nhiều người tu cũng rất lâu nhưng sau cùng lại có những lời nguyện sai lầm! Mình là hàng phàm phu tục tử thì bệnh khổ, nghiệp chướng, nợ đời… nó cứ đeo mình, nó đeo cho đến khi mình tắt hơi rồi nó vẫn còn đeo, đến nỗi mình phải mở mắt ra để cố làm cái gì đó(?) chứ nhắm mắt không được đâu!

Đừng bao giờ nghĩ rằng:
– Tôi làm cho xong cái nợ đời rồi tôi mới tu”.
Không bao giờ có đâu. Không bao giờ:
– À! tôi phải lo cho đứa con gái, tôi phải lo cho đứa con trai, tôi lo cho đứa cháu nội, tôi lo cho đứa cháu ngoại… Nếu tôi không lo thì không còn ai lo!…
Không phải đâu! “Dép dưới giường lên giường vội biệt. Sống ngày nay há biết ngày mai?”. Không bao giờ có chuyện như vậy đâu!

Đừng bao giờ để cho những đứa cháu, đừng bao giờ để cho những đứa con, đừng bao giờ để cho những người thân nhân của mình chịu tội. Vì chính họ là nguyên nhân làm mình đọa lạc.
Hôm trước mình đã nói chuyện này. Nếu biết thương con cháu thì phải biết lo tu hành. Để chi? Để làm sao khi nó chết mình là người thuộc chư Thượng-Thiện-Nhân trên cõi Tây Phương xuống đây cứu nó. Đây là người biết điều. Chứ còn không, thì cha dắt con xuống địa ngục, rồi con dắt cháu xuống địa ngục… Trên cũng địa ngục, dưới cũng địa ngục. Cùng nhau đi vào con đường đó, nhất định không ai cứu ai được cả! Hiểu đạo là hiểu thấu chỗ này.

Mình là người phàm phu tục tử thì:
– “Nguyện” là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải nguyện cho con được “Nhất tâm bất loạn”.
– “Nguyện” là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải nguyện cho con niệm phật cho đến “Vô Niệm”.
– “Nguyện” là con được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, sớm ngày nào con mừng ngày đó, chứ không phải nguyện cho con niệm Phật cho được “An khang”.
– “Nguyện” là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nam Mô A-Di-Đà Phật, con quyết lòng đi về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải nguyện cho con niệm Phật được chứng đắc, “Niệm Phật Tam Muội”.
Vì nên nhớ, “Niệm Phật Tam Muội”, “Nhất Tâm Bất Loạn”… đều là trong kinh phật nói, nhưng mà Ngài dành cho những người thượng thiện căn, đại thượng đại thiện căn, là những vị đại Bồ-Tát. Các Ngài đó muốn nguyện sao cũng được. Còn đối với mình thì Phật dạy, phàm phu tục tử là phải nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Còn chuyện “Nhất tâm bất loạn” ra sao, kệ nó! Chuyện “Niệm bất niệm” ra sao, kệ nó! Đừng để trong tâm.

Chư Tổ nói niệm Phật không cầu nhất tâm bất loạn thì mới có thể nhất tâm bất loạn. Người cầu nhất tâm bất loạn, thì nhất định vọng tâm nó sẽ nổi lên, không bao giờ nhất tâm bất loạn được!
– “Nguyện” là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải nguyện cho con hết vọng tưởng để con niệm Phật được nhất tâm, để vọng tưởng đừng xảy ra.
Vọng tưởng nó đến sao đến kệ nó, mình niệm cứ niệm, chứ không phải khi vọng tưởng nổi lên thì đối trước bàn Phật: “Nam Mô A-Di-Đà Phật, xin cho con hết vọng tưởng”.

Như vậy, Diệu Âm đã nhắc lên nhắc xuống không biết bao nhiêu lần câu: “Nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc”. Tất cả mọi vấn đề khác xin buông hết.

Vọng tưởng đến? Vọng tưởng càng đến càng biết rằng mình là hạng phàm phu tục tử. Đã biết rằng mình là phàm phu tục tử thì bắt buộc phải có vọng tưởng. Có vọng tưởng rồi thì nhất định hãy nhờ cái vọng tưởng này mà nhắc nhở để làm tăng thượng duyên cho mình niệm Phật. Còn những người cứ cố gắng đối trị với vọng tưởng, tức là cứ làm sao diệt cho hết vọng tưởng, thì vô tình càng niệm Phật càng bị nhức đầu!…

Cho nên Ngài Hạ-Liên-Cư mới nói: “Niệm Phật không cầu hết vọng tưởng. Niệm Phật không cầu cho nhất tâm bất loạn. Niệm Phật chỉ để cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc”. Vì mình biết mình là hàng phàm phu tục tử, cho nên càng niệm càng loạn. Càng loạn thì càng biết mình là phàm phu. Biết là phàm phu rồi thì lo mà mua cái máy bấm. Cái máy bấm tức là cái máy công cứ. Bây giờ đây chùa nào cũng có cái máy bấm hết. Bấm, bấm, bấm, bấm… Thay vì mình đếm thì nó bấm dùm cho mình. Cứ niệm, cái tay cứ bấm, bấm, bấm, bấm… Đó là máy công cứ.

Những người nào khởi phát tâm lập công cứ, thì bắt đầu chúng ta đi. Những người nào chưa khởi phát tâm lập công cứ thì đi quá chậm, hoặc là ngồi một chỗ. Nhiều khi người kia niệm một ngày hai mươi lăm ngàn, còn ta niệm mới có hai ngàn! Hai ngàn ta cũng phải niệm. Vì chỉ có hai ngàn như vậy, ta mới bắt đầu suy nghĩ… À! Tại sao mình yếu vậy? Mình phải tiến lên ba ngàn, tiến lên bốn ngàn… Nghĩa là cái máy của mình khởi phát chậm, nhưng khi bắt đầu mình đi… đi… đi… Sau khi nó đã có trớn thì nó sẽ đi được. Cho nên khi mà người có tín tâm thì tự nhiên cái nguyện của họ tha thiết vô cùng và cái hạnh của họ được lập một cách tự nhiên. Phát được tín tâm, người chưa lập hạnh sẽ phát tâm lập hạnh liền.

Tôi xin kể ra đây một câu chuyện, câu chuyện này có thật. Có nhiều người thường nói, để từ từ rồi tôi mới lập hạnh?!… Có một ông Cụ đó 77 tuổi, đúng rồi, 77 tuổi. Cụ đã tu và ăn chay trường ba mươi mấy năm. Cụ từng tu qua hình như là mười lăm mười sáu chùa. Trong vùng Sài Gòn ít có chùa nào mà cụ không đến. Tất cả những khóa thọ Bát Quan Trai Cụ tham dự đầy đủ, những khóa Phật Thất cũng đều dự đầy đủ. Nhưng về nhà, khi có những người biết được phương pháp hộ niệm, đến khuyên Cụ niệm Phật thì Cụ không niệm. Cụ nói:
– Ta tu như vậy đã tốt quá rồi, đâu cần phải niệm sớm như vậy. Ta chưa chết mà, để từ từ sẽ tính…

Cỡ chừng sáu tháng sau, có một lúc Cụ đang đứng trước cửa nhà thì Cụ thấy có một cái bao gạo đổ ra, rồi có một đàn gà tới ăn cái bao gạo đó. Cụ ở trong nhà chạy ra đuổi mấy con gà, thì Cụ vấp phải cái ngạch cửa và té xuống, rồi bị chấn thương mê man bất tỉnh. Khi Cụ tỉnh lại, Cụ mới nói tại sao gà ở đâu mà tới nhà mình nhiều dữ vậy? Nhưng thật ra hoàn toàn không có gạo gì hết, cũng không có gà gì hết! Cụ vô nằm trong bệnh viện khoảng một tháng gì đó… có lúc tỉnh lúc mê. Bệnh viện chịu thua mới đem về nhà, và chính tôi là người có đi tới hộ niệm cho ông Cụ đó. Tôi không phải là người chính thức hộ niệm. Chương trình của tôi không có ở nơi đó lâu được. Ông Cụ mê man bất tỉnh, cứ tỉnh tỉnh mê mê, tỉnh tỉnh mê mê như vậy cho đến lúc chết không được vãng sanh.

Khi tôi tới hộ niệm cho ông Cụ, tôi hộ niệm cũng được hơn một tuần, tận sức để khai thị mà ông Cụ không tỉnh lại. Tôi mới kêu gia đình ra hỏi, hỏi cặn kẽ từ đầu tới đuôi, thì mới phát hiện được ra những chuyện này. Là trước những ngày mà ông ta mất, ông thường đứng trước cửa nhà cầm cái tay lái xe Honda nói chuyện rầm rì rẩm rỉ, rầm rì rẩm rỉ gì đó? Sau cùng thì ông ta thấy một đàn gà… Nhưng mà thật ra không có đàn gà đó?…

Quý vị coi, hôm trước mình nói rằng là người hạ căn phàm phu tục tử thì oan gia trái chủ đi kèm sát bên mình. Cho nên khi muốn phát tâm mình phải phát tâm liền, mình phải làm liền. Mình niệm năm ngàn không được thì niệm hai ngàn. Hai ngàn không được thì lúc “Cờ tướng” hay “Nói chuyện”… bắt đầu niệm Phật. Nếu mà có cái máy bấm, lúc mình đang đứng giữa ba-bốn người, họ đang nói chuyện, mình không biết trốn đâu, thì hãy đút tay trong túi, cứ để tay vô túi mà bấm bấm trong đó: “A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật”. Thật ra mình giả đò cười cười với họ, nhưng mà cái tâm của mình là chìm trong câu A-Di-Đà Phật. Nhờ cái máy bấm đó nó giúp cho mình niệm. Đó gọi là công cứ. Cái máy bấm đó gọi là máy công cứ chứ không có gì khác. Nhờ như vậy mà chiều lại ta có chút công đức. Đem công đức này hồi hướng liền cho oan gia trái chủ. Xin đừng chờ!…

Hôm trước, có vị nào đó nói rằng, để tôi làm ăn cho ngon lành, sắp sửa chuẩn bị cho ngon lành xong rồi tôi mới niệm Phật? Không được. Đã phát tâm thì nên phát tâm liền. Người ta phát tâm lớn thì có khả năng lớn. Mình không có khả năng thì phát tâm nhỏ. Để chi? Để tạo công đức liền lập tức, để hồi hướng cho oan gia trái chủ liền đi. Tại vì nếu không, thì họ sẽ xúi mình hãy chờ sáu tháng nữa, ba tháng nữa mới làm công cứ… Nhưng thực ra, họ đã biết cái vận mạng của mình sẽ tới lúc nào rồi!… Quý vị ơi! Có những cái thế nó cài lạ lùng lắm!

Cho nên khi biết được như vậy rồi, đã tu thì phải phát tâm tu liền đi chư vị ạ. Vì huệ mạng của mình mà tu, chứ không phải vì một người nào khác. Không phải vì một đứa con, vì một đứa cháu, một người vợ hay một cái đạo tràng, mà chính vì mình. Mình không biết ngày nào ra đi. Hơi thở, thở ra không hít vào là xong liền. Chính vì vậy mà hộ niệm là nhắc nhở cho chúng ta phải lo tu hành liền, để rồi khi mình nằm xuống, thì tất cả những kiến thức này mình biết hết, biết hết thì hộ niệm dễ lắm. Chỉ ngồi bên cạnh: À bác Sáu ơi! Niệm Phật đi nha. Ừa!… Có gì nói với tôi nghen. Ừa!… Biết hết trơn rồi. Lúc đó tất cả mọi người ngồi chung quanh niệm “A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật”. Ta nằm đó ta cũng niệm “A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật”. Nhất định sẽ cảm ứng, nhất định sẽ tương ưng với đại nguyện A-Di-Đà Phật. Ta về Tây Phương dễ dàng!…

Nam Mô A-Di-Đà Phật!

Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)

Hãy Nắm Vững Chữ “TÍN” Trong 3 Món Tư Lương

Hãy Nắm Vững Chữ TÍN Trong 3 Món Tư LươngChúng ta nói chuyện hộ niệm mà sao nói hoài không bao giờ hết! Ấy thế mới biết là muốn cứu một người vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc khó lắm, không có dễ đâu. Ta phải cố gắng tối đa, dùng đủ mọi cách để cho người có duyên phát được tâm nguyện đi vãng sanh về Tây Phương và người ta thực hiện đúng phương cách vãng sanh.

Nói cho rõ ra là Tín-Nguyện-Hạnh đầy đủ. Tất cả đều nằm trong ba điểm này chứ không có gì khác. Đến ngày nay vẫn có nhiều đọc tiếp ➝

Thiện Căn Hiện Ra Lúc Đang Công Phu

Thiện Căn Hiện Ra Lúc Đang Công PhuKhi công phu thiện căn chúng ta hiện ra. Công phu hiện ra có 3 thứ:

1- Trong khi đang niệm Phật không có ý tưởng (trong vô ý) đột nhiên trong tâm thấy Phật tu hành chứng quả, độ hóa chúng sanh và chủng chủng tướng hảo quang minh rất rõ ràng minh bạch. Đây là tướng lành niệm Phật thiện căn hiện tiền.

2- Trong định, ta tịnh tọa niệm Phật, ta không nhập định như những người tu thiền định, chúng ta đang tu Phật thất lúc tịnh, khi Phật hiệu ngưng lại, có cảm giác thân tâm thanh tịnh, đột nhiên thấy được tướng Phật hiện tiền. Đây là hiện tiền thấy được tướng lành.

3- Trong mộng thấy được Phật giảng kinh thuyết pháp hoặc thấy Phật xoa đầu thọ ký: thấy được tướng lành.

Nên nhớ, tướng thiện căn xuất hiện chớp nhoáng. Nếu thấy được lâu dài đó không phải là tướng lành mà có thể là ma hiện ra làm mê hoặc chúng ta. Dù những tướng lành thù thắng đến đâu cũng không nên sanh lòng vui mừng. Vì sao? Vì sự việc nầy rất bình thường, chẳng có gì phi thường, công phu chưa sâu lắm. Được thấy tướng thiện căn giúp chúng ta vững lòng tin mà tinh tấn tu hành.

Trích Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương Sớ Sao Tinh Hoa
Lão hòa thượng Tịnh Không chủ giảng

Hộ Niệm Là Một Pháp Tu Từ A Đến Z

Hộ Niệm Là Một Pháp Tu Từ A Đến ZNgười ta hay nói là hộ niệm lúc lâm chung, chứ thực ra thì hộ niệm có thỉ có chung, mà tại vì người ta vô ý quên cái “Thỉ” tức là khởi đầu, mà cứ nhớ cái “Chung” tức là lâm chung. Thực ra thì phương pháp hộ niệm là một pháp tu nó có từ A tới Z. Nó là một quá trình toàn bộ.

Từ A, ví dụ cụ thể như chúng ta đi chùa bắt đầu niệm Phật là từ A. Rồi từ B là khởi tâm ăn chay, làm việc thiện lành. Rồi từ C là chúng ta bỏ cống cao ngã mạn, bỏ thị phi ganh tỵ… Nói chung, đây là một pháp tu hướng dẫn chúng ta từ khởi thỉ, cho đến lúc lâm chung cuối cùng. Tới Z tức là cái bước cuối cùng để vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.

Nhiều người không hiểu, nên cứ nói khi lâm chung thì kêu ban hộ niệm tới, cho đó là phận sự hộ niệm. Cho nên người ta cứ để cho đến mê man bất tỉnh trong bệnh viện, cái lúc mà sắp hấp hối, sắp lìa khỏi cái báo thân này mới kêu ban hộ niệm. Thực là lầm lẫn quá lớn! Ngay tại Niệm Phật Đường của chúng ta có trương một tờ thông cáo thật lớn, màu vàng, dán trên bảng trắng. Nếu người nào mới tới thì chúng ta nên hướng dẫn họ đọc cái thông báo đó. Thông báo đó nói rằng, hộ niệm là một cái phương pháp giúp cho mọi người có đầy đủ Tín – Nguyện – Hạnh. Thực hiện đầy đủ những thứ đó để vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải là cứ đợi cho đến lúc bệnh sắp chết, sắp lâm chung hay đang hấp hối mới kêu ban hộ niệm tới. Nếu mà đợi tới lúc đó thì xin thưa thực, đã quá muộn màng!

Ở đây chúng ta thường xuyên nói về hộ niệm, thì chúng ta cũng phải hiểu một cách liễu nghĩa, rõ ràng. Hòa Thượng Tịnh-Không nói ba điều:

– Một là tỉnh táo.
– Hai là gặp thiện tri thức khai thị.
– Ba là người đó phải mau mau thực hiện liền những lời của người thiện tri thức đó hướng dẫn.

Như bây giờ chúng ta đang ở đây, chưa bệnh, chưa mê man bất tỉnh, tức là chúng ta đang “Tỉnh táo”. Điều kiện thứ nhất chúng ta có. Chúng ta đang nghe Hòa Thượng thuyết pháp, khai thị, hướng dẫn niệm Phật vãng sanh, là ta “Gặp thiện tri thức khai thị”. Cái điều thứ ba là ta có chịu mau mau “Y giáo phụng hành”, ứng dụng lời dạy của Ngài để thực hiện liền hay không? Nếu chúng ta làm được ba điều đó tức là chúng ta thực hiện phương pháp hộ niệm vãng sanh, sau cùng ta được vãng sanh.

Ta bây giờ đang tỉnh táo, hàng ngày chúng ta đang nói chuyện hộ niệm với nhau, dẫn dắt rất là kỹ, từng chút từng chút, tức là chúng ta đã có điều kiện có người hướng dẫn vãng sanh, thì gọi là gặp thiện tri thức khai thị. Ta có chịu áp dụng lời khuyên này để thực hiện liền, thì với ba điều kiện này đúng, sau cùng chúng ta vãng sanh.

Nếu ta đang tỉnh táo như thế này, đã gặp được người hướng dẫn pháp vãng sanh, nhưng ta không chịu làm. Ta cứ chờ cho đến lúc lâm chung rồi mới kêu ban hộ niệm tới, tức là hoàn toàn ta đã sai! Tức là tỉnh táo, nhưng thực ra thì ta bị lầm lẫn ở chỗ nào đó, không tỉnh táo đúng mức!

Ta nghe thiện tri thức nói chuyện về hộ niệm, mà ta không áp dụng, tại vì ta nghe lướt qua, rồi bỏ qua. Ta cho chuyện này là quá tầm thường, nên ta tiếp tục nằm ở đó để chờ chết! Sắp chết rồi mới kêu ban hộ niệm tới, thì tất cả ba điểm: tỉnh táo, gặp thiện tri thức và áp dụng ta đã bị thiếu sót quá nhiều.

Đây chính vì từ cái niềm tin không vững. Tất cả những cái đó đều là “Duyên” hết. Ví dụ như tôi từng đi các nơi, tôi gặp những người đã nghe pháp của Hòa Thượng Tịnh-Không, không phải họ ngồi để mà nghe đâu à, mà người ta sắp hàng với nhau rồi quỳ xuống, chắp tay lại để nghe suốt đoạn khai thị. Mà nhiều ngày người ta cũng làm như vậy nghen, không phải là một ngày đâu à. Người ta có những cái bồ đoàn thế này, tất cả họ quỳ dọc dọc như vậy, quỳ xuống chắp tay để mà nghe lời pháp của Hòa Thượng.

Chính vì họ có cái tâm chân thành như vậy, nên nơi đó vãng sanh rất nhiều. Ta ở đây thì trực tiếp nghe, lại gặp qua Hòa Thượng, ta nghe chính Ngài khai thị. Nhưng mà nhiều khi cái tâm chúng ta không có để ý, ta chỉ nghe cho vui! Có nhiều người mỗi khi nghe Hòa Thượng về thì tìm đến gặp Hòa Thượng cho vui. Thật ra, đâu cần cái vui này!

Ở Việt Nam người ta có gặp trực tiếp Ngài đâu à? Người ta chỉ nhìn thấy trên màn ảnh thôi. Người ta để Ti-Vi đó, rồi sắp hàng dài quỳ xuống như vậy. Một phần thành tâm, một phần lợi ích, hai phần thành tâm hai phần lợi ích; mười phần thành tâm mười phần lợi ích. Tại đây chúng ta không có đủ thành tâm, nên nhiều khi đến gặp Ngài mà ta còn lười biếng. Mà thực ra gặp Ngài để làm chi? Gặp Ngài chính là gì? Chính là nghe những lời giảng pháp của Ngài, rồi thực hiện theo cho đúng.

Pháp hộ niệm là một pháp tu có từ A tới Z. Trong đợt nói chuyện trước, ta đã nói đến đề tài này. Tại sao ở nơi đó người ta thành tựu? Thành Tâm!… Còn trong khi chúng ta ở đây trực tiếp nói chuyện với nhau, ngày ngày nói chuyện thẳng luôn hầu củng cố phương pháp hộ niệm được vững vàng, nghĩa là đường vãng sanh chúng ta không bị sơ suất. Nhưng mà coi chừng! Hễ chúng ta để ý thì chúng ta sẽ vãng sanh, còn nếu không để ý thì chúng ta mất phần vãng sanh, trong khi đó người ở xa mà lại được vãng sanh. Lạ vậy đó chư vị.

Cũng như Hòa Thượng ở tại đây, nhiều người ngày nào cũng gặp Hòa Thượng. Mỗi lần Hòa Thượng đến là tổ chức đi đón. Nhưng mà coi chừng, chưa chắc những người này sẽ được vãng sanh. Còn những người ở xa, người ta chỉ thấy trên màn ảnh thôi. Dù chỉ thấy trên màn ảnh nhưng người ta quỳ xuống lạy. Nghe pháp trên màn ảnh, mà người ta chắp tay lại, quỳ xuống, suốt một tiếng đồng hồ để lắng nghe lời pháp của Ngài. Chính cái lòng chân thành này, chính cái lòng thành kính này, khiến cho từng lời từng lời của Ngài lọt vào tâm của họ và họ đi rất vững. Họ đi liền. Họ không chần chờ. Họ được vãng sanh.

Rồi ở mỗi nơi như vậy họ sao chép giảng pháp ra, phổ biến tiếp… Họ ráng cố gắng theo dõi để ứng dụng. Thế mà, thực sự ở chỗ đó lại có người vãng sanh. Ở Việt Nam, có một ban hộ niệm đến nay hộ niệm được một trăm lẻ một người, có ban hộ niệm khác hộ niệm một trăm ba mươi mấy người… Hiện tại ban hộ niệm ở Việt Nam, bây giờ tổng kết lại, không đếm được. Có thể trên mấy trăm ban hộ niệm.

Tại sao người ta được vãng sanh? Là tại vì người ta thấy cuộc đời này khổ quá! Là tại vì khi gặp được pháp hộ niệm này làm cho người ta ngỡ ngàng! Trong suốt cuộc đời của họ, người ta không ngờ có chuyện này đâu à! Trong bao nhiêu năm tu hành, người ta không ngờ có chuyện được vãng sanh đâu à! Nhưng bây giờ gặp được rồi, người ta mừng quá. Quá vui mừng thành ra người ta mới nghiên cứu từng chút, từng chút, từng chút như vậy, rồi ứng dụng liền.

– Chính vì cái lòng Thành Tâm.
– Chính vì cái lòng Kính Cẩn.
– Chính vì cái lòng Tin Tưởng… mà họ vãng sanh.

Cho nên muốn được vãng sanh không có gì khác hơn là chúng ta phải bắt đầu đi từ A, rồi tới B, tới C, tới D… để sau cùng chúng ta tới Z. Z là lúc lâm chung. Tức là cố gắng tu hành, cố gắng buông xả, cố gắng lập nguyện. Nhiều khi mình còn phải đi làm, thì khi về nhà dành ba mươi phút… Ba mươi phút có thể niệm được hai ngàn tiếng Phật hiệu, ba ngàn tiếng Phật hiệu rồi. Chiều lại mình niệm thêm ba mươi phút nữa, ba mươi phút có thể niệm ba ngàn nữa. Sáu ngàn câu A-Di-Đà Phật. Phải làm như vậy. Để chi? Để cho đến lúc Z, tức là khi chúng ta lâm chung, chúng ta sẽ có một cái số vốn niệm Phật.

Những người không đi làm, thì khi đến Niệm Phật Đường niệm Phật, rồi về thay vì chúng ta đánh cờ tướng để làm chi? Thay vì bàn luận lý lẽ làm chi? Hãy cố gắng cầm xâu chuỗi mà niệm Phật. Ta niệm ba mươi phút rồi ta đếm thử coi? À! Ta niệm được mấy chục chuỗi. Rõ ràng ba mươi phút ta có thể niệm hai ngàn, ba ngàn câu A-Di-Đà Phật. Có người niệm nhanh, trong ba mươi phút có thể niệm tới năm ngàn câu A-Di-Đà Phật. Người ta niệm nhanh như vậy.

Niệm Phật…

– Để cho cái tâm mình hòa nhập với câu A-Di-Đà Phật.
– Để cái miệng mình mở ra là A-Di-Đà Phật.

Khi miệng mình mở là niệm A-Di-Đà Phật rồi thì…

– Nhất định những chuyện thị phi.
– Nhất định những chuyện nói người này tốt người kia xấu… sẽ xa lần, xa lần, xa lần…

Câu A-Di-Đà Phật thâm nhập vào trong tâm mình, nó đuổi những cái đó ra. Nghiệp chướng của mình cũng theo cái dòng đó mà trôi ra ngoài. Thay vì mình bệnh, mê man bất tỉnh, thì mình không còn bệnh nữa. Thay vì mình bị chướng ngại, thì mình không còn chướng ngại nữa. Nghiên cứu mười điều lợi của sự niệm Phật quý vị sẽ thấy, chư Thiên mà còn phải đảnh lễ người niệm Phật nữa.

Cho nên khi vô trong Niệm Phật Đường này, xin thưa quý vị chú ý, khi chúng ta đã là người niệm Phật rồi thì đừng nên sơ ý. Đừng nên nói chuyện trong Niệm Phật Đường. Đừng thấy rằng trong Niệm Phật Đường chỉ còn có một mình mình thôi, thì muốn làm gì làm. Không phải như vậy đâu à. Đừng bao giờ bước ngang qua khoảng giữa này, mà chúng ta phải đi vòng. Nên nhớ, “Tuy vô tân khách chí, diệc hữu Thánh Nhân hành”, chính là chỗ này. Những chỗ tu hành tinh tấn, thường có chư vị Thánh Nhân, Thiên-Long, Hộ-Pháp tới lui, các Ngài kinh hành, các Ngài niệm Phật với mình…

Nếu mà mình làm đúng như vậy thì chư vị đó sẽ hỗ trợ cho mình, phước đức của mình tăng lên, nghiệp chướng của mình giảm đi, và chúng ta sau cùng được an nhiên tự tại vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc.

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)

Ngọc Hoàng Thượng Đế Vẫn Chưa Thoát Khỏi Sanh Tử

Ngọc Hoàng Thượng Đế Vẫn Chưa Thoát Khỏi Sanh TửChữ Phật có nghĩa là giác ngộ. Học Phật có nghĩa là học làm người giác ngộ, tức là “phá mê khai ngộ”. Tâm giác ngộ là tâm Bồ Tát, ngược lại, cái tâm mê hoặc điên đảo là cái tâm sinh tử luân hồi. Dùng cái tâm sinh tử luân hồi mà tu tất cả các pháp thiện thì cũng vô ích, cũng không thể thoát khỏi luân hồi. Tuy nhiên vẫn có được phước báo. Phước báo đó, theo như trong kinh nói, sẽ được sinh vào một trong sáu nẻo luân hồi nằm trong ba cõi, mà phước báo cao nhất là được sinh vào cõi Đại phạm thiên. Vua của cõi trời Đại phạm thiên vẫn là phàm phu, cũng không có cách gì để có thể thoát khỏi sự trôi lăn trong sáu nẻo. Hưởng hết phước báo rồi lại bị đọa lạc, luân hồi. Cho nên, làm Thượng đế cũng không phải là cứu cánh.

Học Phật cần phải có một cái tâm giác ngộ. Tâm giác là tâm thanh tịnh. Cho nên, người học Phật phải luôn luôn giữ cho cái tâm của mình được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh chính là tâm giác ngộ, trong tâm không có nghi hoặc, không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, luôn luôn sống với cái tâm thanh tịnh, bình đẳng. Trong cuộc sống hằng ngày, bất kể chúng ta làm việc gì, ở đâu, tiếp xúc với ai, đều phải giữ cái tâm không nghi hoặc, không vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, sống với cái tâm thanh tịnh. Giữ đư?c cái tâm thanh tịnh như thế thì đó chính là “lục độ vạn hạnh” của Bồ Tát tu tập. Điều đó cho thấy Bồ Tát tu tập không tách rời cuộc sống, từ trong cuộc sống này mà tu tập thành tựu hạnh nguyện Bồ Tát một cách viên mãn. Không cần phải thay đổi cách sống và môi trường làm việc, đó mới là tinh thần của Phật giáo Đại thừa.

Trong kinh luận Đại thừa thường nói “lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”, chúng ta phải lãnh hội cho được ý nghĩa của câu kinh này. Hoàn cảnh xã hội, môi trường làm việc, tính chất công việc, phương pháp làm việc của mỗi người có thể khác nhau, nhưng tất cả đều có thể thực hành tu tập hạnh nguyện của Bồ Tát và thành tựu đạo hạnh như các bậc Bồ Tát. Thực hành được như vậy chính là thể hiện tinh thần “lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”.

Tâm của Bồ Tát là chân thành, thanh tịnh, từ bi; hạnh của Bồ Tát là lìa tất cả các tướng, tu tất cả các điều thiện. Tu tập được như vậy thì có được an lạc, hạnh phúc mỹ mãn ngay trong hiện tại. Chỗ khác biệt giữa phàm phu với Bồ Tát là: phàm phu thì chỉ biết lo cho bản thân mình, còn Bồ Tát thì trong mỗi ý niệm đều nghĩ đến cứu độ chúng sanh, vì tất cả chúng sanh mà phục vụ. Dù làm tất cả những việc ấy, trong tâm của Bồ Tát vẫn không phân biệt, chấp trước, cho nên “làm mà coi như không làm, không làm mà làm tất cả”. Điều đó có nghĩa là tuy làm mọi công việc, nhưng trong tâm thì coi như không làm việc gì hết. Vì vậy mà tâm của các ngài luôn luôn thanh tịnh, trong sáng. Đó là chỗ khác biệt giữa phàm phu và Bồ Tát.

Kẻ phàm phu thì làm việc gì cũng đắn đo, phân biệt, chấp trước, có tu có được. Trong tâm chỉ có một ý niệm mê mờ, luyến ái, chấp thủ. Vì không thể nào thoát khỏi ý niệm vô minh, luyến ái, chấp thủ cho nên mãi mãi bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi, không bao giờ thoát khỏi tam giới, không bao giờ tu hành được chứng quả. Đừng nói đến là quả vị của Bồ Tát Đại thừa, mà ngay cả quả vị đầu tiên (sơ quả) của Tiểu thừa cũng không đạt được, niệm Phật cũng không thể vãng sinh. Điều kiện cần và đủ để người niệm Phật có thể vãng sinh là thân tâm phải thanh tịnh. Trong tâm nếu còn một chút tham đắm, luyến ái đối với hoàn cảnh thế giới, với tất cả mọi việc trong sáu nẻo không thể nào buông bỏ được thì không bao giờ được vãng sinh. Điều này những người mong muốn cầu vãng sinh không thể không biết. Cho đến những vấn đề như cuộc sống trong tam giới, trong lục đạo so với cuộc sống siêu thoát ngoài tam giới, ngoài lục đạo khác nhau như thế nào, chúng ta đều phải biết một cách thấu đáo, rồi sau mới làm phát khởi cái tâm từ bỏ luân hồi, cầu thành Phật đạo.

Con người nếu không thoát khỏi được tam giới thì phạm vi cuộc sống của họ chỉ luẩn quẩn trong sáu nẻo luân hồi, không gian cuộc sống rất nhỏ bé, và đương nhiên cuộc sống cũng rất khổ đau. Thí dụ, cuộc sống của trời Phạm thiên vương, mặc dù phạm vi sinh hoạt của ông ta là bao quát cả lục đạo, nhưng nói cho cùng thì cũng chỉ trong ba cõi mà thôi, không thoát ra ngoài sáu nẻo luân hồi được. Ngày nay chúng ta được làm thân người, sống trong lục đạo cũng rất đáng thương! Phạm vi cuộc sống của chúng ta không ra khỏi quả địa cầu này. Nếu như sinh vào đường súc sinh, thí dụ làm một con chó người ta nuôi trong nhà chẳng hạn, thì phạm vi sinh hoạt của nó không ra khỏi ngôi nhà của chủ. Chúng ta phải hiểu điều này, trong lục đạo, địa vị và phạm vi sinh hoạt của chúng ta rất nhỏ bé, rất đáng thương! Đó là nguyên do vì sao đức Phật dạy chúng ta phải cố gắng tu tập thành Phật, thành Bồ Tát. Mục đích là muốn chúng ta có một không gian cuộc sống bao la không giới hạn.

Trong đời này, chúng ta chỉ có một điều duy nhất để nắm giữ, một việc lớn nhất để làm, đó là cầu nguyện được vãng sinh sang thế giới Tây phương cực lạc. Sau khi sinh sang thế giới Tây phương cực lạc, phạm vi không gian cuộc sống của chúng ta, giống như trong kinh “Vô lượng thọ” đã nói, là tận cùng hư không, biến khắp pháp giới, giống như thế giới của các chư Phật. Trong mười phương quốc độ của chư Phật, nghĩ đi liền đi, nghĩ về liền về, rất tự do tự tại! Còn trong sáu đường luân hồi thì rốt cuộc không thể thoát khỏi quả báo sinh tử ‘xả thân thọ thân’, nghĩ đến thật nói không hết khổ!

Được sinh sang thế giới Tây phương cực lạc thì tuổi thọ vô lượng vô biên, mãi mãi không bị sinh tử luân hồi. Tướng mạo thân thể thì tùy theo ý niệm của tất cả chúng sanh mà biến hóa ra, giống như trong kinh “Phổ môn” đã nói: “Chúng sinh muốn được độ bằng hình thức thân thể như thế nào, liền hiện ra thân như thế ấy để độ”. Tôn Ngộ Không có 72 phép biến hóa, người đời ai nấy đều ngưỡng mộ, trong khi đó thần thông biến hóa của chư Phật, Bồ Tát thì vô lượng vô biên, không giới hạn, không phải tư duy, tưởng tượng của con người có thể hiểu hết được, lại còn có quả báo rất thù thắng và cuộc sống hạnh phúc rất mỹ mãn, tại sao chúng ta lại không muốn? Nếu như thật sự muốn vãng sinh sang thế giới ấy thì nhất định phải đem cái tâm niệm tham luyến thế giới này buông bỏ hết, lấy cái tâm thanh tịnh chân thành niệm Phật. Trong một đời này nhất định thành tựu, tuyệt đối không quá.

Trích SANH TÂM VÔ TRÚ
Nguyên tác: Tịnh Không Pháp sư
Việt dịch: Thích Nguyên Hùng

Vì Huệ Mạng Của Mình Hãy Cứu Lấy Chính Mình

Vì Huệ Mạng Của Mình Hãy Cứu Lấy Chính MìnhTrong những ngày này chúng ta hô hào chuyện phát tâm lập nguyện. Vì thực sự nhìn cho rõ ra thì cái huệ mạng của mình quá nguy hiểm rồi, không phải đơn giản đâu! Nếu mình tu mà không có lập nguyện, thì nhiều khi mình bị liệt vào cái hạng người tu thử, tu tà tà, tu lai rai, tu chơi chứ không phải tu thực! Nếu bị liệt vào cái hạng người đó, thì thường thường là nghiệp chướng của mình nặng lắm rồi! Đến lúc lâm chung xuống sợ rằng ta cự với nó không được, mà ngược lại nó hành hạ ta cho đến mê man bất tỉnh, cho đến tâm trí quay cuồng, lúc đó có hộ niệm cũng đành chịu thua!

Cho nên trước tiên mong muốn chư vị cố gắng lập công cứ. Ở đây chúng tôi có cái công cứ gọi là “Cửu Phẩm Liên Đài Vãng Sanh Tịnh Độ”, chúng ta có thể phát tâm nhận về làm. Đây giống như cái nấc thang cho mình đi vậy.

– Mình không dám nói chuyện với người ta tại vì mình trân quý từng chút thời giờ.
– Mình không dám ngồi trước bàn cờ tướng vì mình trân quý câu A-Di-Đà Phật.
– Mình không dám nghĩ này nghĩ nọ thì cái tâm sẽ nhiếp vào trong câu A-Di-Đà Phật.

Tập sự được như vậy thì trước những giờ phút ra đi mình có hy vọng được “Tâm bất điên đảo”, tâm không bị khủng bố, không bị não loạn, vì trong tâm của mình luôn luôn xuất hiện câu A-Di-Đà Phật. Và mình niệm liên tục, niệm cho đến cái giây cuối cùng trước khi mình tắt hơi ra đi vẫn còn tiếng Phật hiệu. Sau đó cái tâm thức của mình vẫn tiếp tục niệm Phật.

A-Di-Đà Phật phát cái đại thệ rằng, Người nào trước lúc lâm chung niệm danh hiệu của Ngài cầu vãng sanh về Tây Phương, dẫu cho mười niệm mà không được vãng sanh về Tây Phương thành vị Bồ-Tát bất thối chuyển ở đó, Ngài thề không thành Phật.

Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói rằng, Một người nào mà thành tâm niệm Phật, một ngày niệm được 30.000 câu A-Di-Đà Phật, cứ giữ cái mức này mà niệm, đến cuối đời mà không được vãng sanh thì chư Phật trên mười phương nói lời vọng ngữ. Ngài nói như vậy!

Ngài Thiện-Đạo cũng nói như vậy. Ngài đưa ra cái tiêu chuẩn 30.000 ngàn câu. Người nào thành tâm niệm 30.000 câu Phật hiệu một ngày, mà đến lúc lâm chung không được vãng sanh chẳng lẽ chư Phật mười phương chịu tội vọng ngữ sao?.

Các Ngài khẳng định cho ta niệm Phật tới mức độ đó, nói chung từ sáng đến chiều, từ chiều đến sáng chúng ta hoan hỷ cái tâm của mình, vui tươi cái tâm của mình trong tiếng Phật hiệu, tự nhiên khuôn mặt càng ngày càng sáng ra, nghiệp chướng càng ngày càng tiêu đi, tự nhiên bao nhiêu những ách nạn, những khó khăn gì của mình trong đời nó biến đi hồi nào không hay! Rồi khi đối trước cơn hấp hối, cái bệnh khổ hình như nó không còn hiện hình nữa. Lúc đó mình mới thấy rõ rệt là một câu A-Di-Đà Phật mà chí thành niệm đã phá tan 80 ức kiếp nghiệp chướng sinh tử trọng tội. Một câu chí thành mà niệm được trong lúc lâm chung thì một người tội xuống địa ngục A-Tỳ được đi thẳng về Tây Phương thành đạo luôn.

Cái năng lực này không có cái gì có thể sánh bằng được. Có nhiều người khi bệnh xuống thì sợ bệnh, lo chạy đọc kinh này đọc kinh nọ, đọc chú này đọc chú nọ để giải nghiệp. Tốt hay xấu? Tốt! Chứ không xấu. Nhưng thực sự chư Tổ đã nói: “Đọc kinh không bằng niệm chú, niệm chú không bằng niệm Phật”. Đọc chú nhiều lắm là xóa cho mình cái nghiệp đó, còn vạn cái nghiệp khác ai xóa đây? Còn niệm Phật xóa được nghiệp thì tốt. Không xóa được cũng không sao, vẫn có thể vượt về tới Tây Phương Cực Lạc. Nên nhớ rằng, dù phá được nghiệp nhưng ta vẫn còn trong sanh tử luân hồi, vì cái nghiệp của mình đã “Năng địch Tu-Di” rồi! Mà phá làm chi? Hãy gói lại là được rồi. Lấy câu A-Di-Đà Phật gói lại. Cái năng lực của câu A-Di-Đà Phật đưa một người phàm phu, đưa một chúng sanh tội lỗi từ địa ngục A-Tỳ lên tới Tây Phương Cực Lạc. Ấy thế có nhiều người niệm Phật mấy chục năm rồi mà chưa chịu hiểu đến chỗ này!… Chính vì vậy, khi tu hành cần phải hiểu cho liễu nghĩa, hiểu cho rõ lý đạo để chúng ta áp dụng đúng đắn thì mới được vãng sanh về Tây Phương.

Chủ yếu cái chương trình chúng ta nói về “Khế Lý – Khế Cơ” là như vậy! Hiểu lý của Phật nhưng chúng ta áp dụng không đúng, nhiều khi vẫn bị trở ngại. Với hạng phàm phu tục tử như chúng ta, nếu chúng ta chú tâm diệt nghiệp thì không cách nào diệt được. Vì sao vậy? Vì trong lúc muốn diệt nghiệp tức là sợ nghiệp, sợ nghiệp chính là duyên với nhiều nghiệp khác. Cố tình diệt cái nghiệp này thì cái nghiệp khác nó tràn ra, “Duyên Khởi Trùng Trùng”. Chúng ta diệt không nổi! Nếu chúng ta không sợ nghiệp, chúng ta sẵn sàng đón nhận tất cả những nghiệp đến, nó đến nhiều ta chịu nhiều, nó đến ít ta chịu ít, an nhiên tự tại đi. Trong lúc đó là lúc tâm ta an nhiên niệm câu A-Di-Đà Phật. Câu A-Di-Đà Phật đi trên cái nghiệp đó, bao cái nghiệp lại. Thành ra, là một người phàm phu tục tử, nhưng nhờ đại lực của A-Di-Đà Phật, đại nguyện của A-Di-Đà Phật đưa ta về Tây Phương. Tuyệt vời vô cùng.

Chính vì vậy mà phát nguyện, lập nguyện hay vô cùng, tốt vô cùng. Nếu không lập nguyện coi chừng tưởng là tu giỏi, nhưng mà không đâu ạ! Oan gia trái chủ sẵn sàng tới sát bên mình, âm thầm, lặng lẽ chờ đến lúc lâm chung mới ra tay. Một sáng một chiều thì chịu thua, không còn cách nào có thể cứu vãn được nữa!

Liên quan tới chuyện lập nguyện, Diệu Âm nhớ ra một câu chuyện như thế này, có thực. Diệu Âm kể chư vị nghe thử để coi cái nguyện của mình như thế nào?…

Đó là khoảng năm 2003-2004 gì đó, thì ngày đó là cái ngày tiễn đưa anh Bốn (Anh Phước) đi về Mỹ, nên mới để cái đồng hồ báo thức reng lên lúc hai giờ rưỡi, mà quên đi không lấy lại. Đêm đó ngủ, hai giờ rưỡi nó reng lên. Thông thường thì 4 giờ rưỡi mới reng, vì bốn giờ rưỡi reng thì tôi thức dậy rửa mặt, vệ sinh, xong đi vào trong Tịnh Tông Học Hội lạy Phật, rồi năm giờ rưỡi ra tụng kinh với người ta.

Đêm đó là một đêm trăng sáng vằng vặc. Hai giờ rưỡi đồng hồ reng lên, tôi thức dậy rửa mặt đánh răng, rồi lủi thủi mở cửa, âm thầm đi ra ngoài đường, cầm xâu chuỗi trên tay cứ niệm “A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật” đi vô trong Tịnh Tông, chứ không coi giờ. Đường thì vắng teo, ánh trăng sáng vằng vặc, lại có mưa phùn phùn nữa… Khi tới cổng của Tịnh Tông thì cửa còn đóng…

Tôi lấy làm lạ! Ủa tại sao kỳ vậy? Từ trước đến nay, tới giờ này thì cửa đã mở rồi, tại sao bây giờ người mở cửa lại quên đi? Cái cổng đó rộng lắm, nên tôi lách qua được, vì tôi nhỏ con mà. Lách một cái, chen vô để vào bên trong. Khi tôi vừa vô bên trong rồi, thì có một chuyện xảy ra làm tôi ngỡ ngàng, giật mình!…

Có một ông Cụ trên 70 tuổi, ông trải cái khăn tắm(?) ra giữa đám cỏ trước căn liêu phòng số 18, ở giữa trời gần mấy cái gốc cây bự mà lạy Phật… Cứ niệm “A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật”… Vừa niệm vừa lạy.

Lúc đó tôi vô đúng là 3 giờ. Vì thường khi tắm rửa xong, tôi vô đó là đúng 5 giờ. Hôm nay thức dậy 2 giờ rưỡi thì tôi vô tới đó chắc chắn là đúng 3 giờ. Tôi thấy ông ta cứ niệm: “A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật”… và lạy. Ông cứ tiếp tục lạy… Tôi không biết là do trời mưa hay vì mồ hôi của ông ta ra mà cả cái khăn và người ông ta đều ướt. Tôi đi ngang qua, ông vẫn làm thinh coi như không có gì xảy ra. Ông cứ tiếp tục lạy, cứ lạy xuống niệm “A-Di-Đà Phật”… Cứ lạy như vậy, lạy giữa không trung. Tôi giật mình! Sửng sốt! Một ông Cụ hơn 70 mấy tuổi, lạy Phật giữa trời qua đêm! Không biết ông đã bắt đầu lạy từ hồi nào?…

Nếu giả sử như đêm đó tôi không tới, thì chắc chắn không bao giờ phát hiện ra chuyện này!… Mà vì vô tình thức sai giờ, tôi tới đó trong lúc quá sớm, mới phát hiện lúc ba giờ sáng có một ông cụ đã thức dậy từ hồi nào, trải cái khăn giữa bãi cỏ lạy Phật qua đêm…

Quý vị nghĩ đi? Cái tâm hạnh người ta lớn như vậy, người ta quyết lòng đi về Tây Phương như vậy, mới có thể vượt qua những ách nạn để đi về Tây Phương! Còn ở đây, mình nghĩ rằng có làm được như vậy không?

Xin thưa, cái Niệm Phật Đường ở đây trang bị không phải là cao sang gì, nhưng cũng vừa đủ tiện nghi để niệm Phật, phương tiện đầy đủ. Nếu người đi làm bận bịu thì không nói gì, có những người không đi làm mà khi đến giờ niệm Phật nhiều khi cũng trằn lên trụt xuống, không chịu niệm Phật. Như vậy thì…

– Làm sao dám gọi mình là người tu thực?
– Làm sao dám gọi mình là người muốn về Tây Phương?
– Làm sao mà oan gia trái chủ thông cảm cho mình?…

Rõ rệt mà! Cho nên, hãy trực nghĩ lại, hãy thương lấy thân phận của mình, mà quyết tâm hạ thủ công phu niệm Phật. Ở đây có ai dám từ chỗ này cứ một bước một lạy, lạy ra tới cổng kia không? Mười thước thôi đó. Có ai dám không? Tôi sợ rằng không ai dám đâu à! Ấy thế mà đã có lần, cũng một lần khác đi vào hớ như vậy, tôi đã gặp một vị Sư Cô lạy chung quanh cái Niệm Phật Đường đó, lạy từ hồi nào không biết mà hai đầu gối của Cô đã rướm máu ra rồi! Cứ ba bước một lạy… Ba bước một lạy… Ngài làm như vậy đó!…

Quý vị thấy cái nguyện của người ta không? Quý vị thấy cái quyết tâm đi về Tây Phương không? Trong khi đó thì chúng ta ở đây một ngày niệm Phật đều đều như vậy, đó là cái căn bản thôi, cái tập sự thôi! Cố gắng lên chư vị. Phát tâm lên chư vị. Vì cái huệ mạng ngàn đời ngàn kiếp của mình, mình phải cố gắng cứu mình, không tự cứu mình thì không ai cứu mình được.

Cố gắng quyết lòng phát tâm, quyết lòng lập nguyện để chúng ta cùng nhau đi về Tây Phương thành đạo, cứu độ vô lượng vô biên chúng sanh!…

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)