Vãng Sanh Về Cực Lạc Sẽ Đắc Sáu Thứ Thần Thông

Vãng Sanh Về Cực Lạc Sẽ Đắc Sáu Thứ Thần ThôngChúng ta tu thành công về được cõi Cực Lạc thì cùng với chư Phật, Bồ tát, La hán thật ngày ngày ở chung một chỗ. Sự vui sướng đó, ngoài thế giới Cực Lạc ra, đâu còn nơi nào có được như vậy. Các vị làm sao chẳng muốn tu để được về cõi nước Cực Lạc!

Đồng thời, khi đã đến đó rồi, thần thông của chúng ta có thể lớn vô cùng. Thứ nhất là nhãn quan của chúng ta hiện này chỉ thấy được chừng vài chục bước. Nếu như có một bức tường hoặc một tờ giấy, hay là vào ban đêm chỗ không có ánh sáng thì sẽ không thấy một chút nào. Về được Tây Phương Cực Lạc rồi thì không luận là ngày hay đêm, luôn luôn có các thứ ánh sáng, không lúc nào tối, cũng không có chỗ nào tối. Ban ngày ban đêm đều như nhau. Chỉ xem hoa sen khép lại là ban đêm, hoa sen nở là ban ngày. Và không luận là xa đến mấy ngàn muôn vạn dặm và qua mấy ngàn vạn muôn thế giới, cho dù có vô cùng vô tận núi non ngăn cách cũng không có chỗ nào là không thấy. Ngay đến chỗ tối tăm cùng cực cũng vẫn sáng sủa nhìn thấy rõ ràng. Xa cho đến thế giới Ta Bà này vẫn còn có thể thấy. Đó gọi là Thiên nhãn thông.

Thứ hai là lỗ tai của chúng ta chẳng qua nghe được thanh âm rất gần, hơi xa một chút thì nghe không rõ. Đến thế giới Cực Lạc thì không luận xa đến mấy ngàn muôn vạn dặm vẫn nghe được rõ ràng. Còn ở thế giới của chúng ta những thanh âm rất nhỏ thì nghe không được rõ ràng. Đây gọi là Thiên nhĩ thông.

Điều thứ ba, chúng ta chẳng qua có thể hiểu được tâm tư trong lòng của chính mình. Còn tâm tư trong lòng người khác, không luận là người rất thân rất tốt như cha mẹ, anh em, vợ chồng đều chẳng thể hiểu được. Về đến Cực Lạc rồi thì tâm tư trong lòng của mọi người, ta đều hiểu được. Vả lại, không luận là quyển sách nào chúng ta chưa từng đọc qua, những sự tình và những đạo lý được nói trong quyển sách đó tự nhiên chúng ta đều có thể hiểu được. Người không biết chữ tư nhiên đều sẽ biết. Đây gọi là Tha tâm thông.

Điều thứ tư là những việc đã trải qua của chính mình mà có thể nhớ được, đều là những việc từ năm sáu tuổi trở về sau. Còn những việc từ ba bốn tuổi trở về trước chúng ta chẳng nhớ được. Nếu sanh về Cực Lạc rồi, chẳng những có thể nhớ được sự việc trong một đời này mà sự việc suốt một đời, mười đời, mấy trăm, mấy nghìn, mấy vạn muôn đời về trước đều có thể nhớ được hết. Đây gọi là Túc mạng thông.

Điều thứ năm là hiện tại chúng ta đi bộ, người rất khỏe mạnh lại thường đi quen, đi suốt con đường tối đa một ngày thì đi được một trăm dặm là cùng. Sanh về Cực Lạc rồi, chẳng đến một phút là có thể đi cùng khắp thế giới vô cùng vô tận ở mười phương mà không có một chút mệt nhọc và cũng không một chút khó khăn nào. Người ở trên thế giới của chúng ta hoặc gặp những nơi có núi cao, hoặc là có sông to, dòng lớn, biển cả, hoặc găp thời tiết có gió lớn, mưa to, tuyết phủ thì đều chẳng thể đi được. Nếu sanh về cõi nước Cực Lạc rồi, làm người ở đó thì có thể muốn đến chỗ nào lập tức đến liền chỗ đó. Đã không có một trở ngại nào mà lại rất nhanh. Đây gọi là Thần túc thông.

Chỗ tôi đã nói ở trên gọi là Ngũ thông. Trong Phật pháp mà được năm thứ thần thông này thì đã hơn các vị thần tiên pháp lực cao cường, và hơn rất nhiều. Lại thêm một thứ nữa là Lậu tận thông. Đây gọi là Lục thông. Chẳng qua cái thông thứ sáu này nhất định phải là bậc A la hán đắc đạo mới có thể hoàn toàn chứng đắc. Những gì gọi là Lậu tận thông? Đó là những phiền não như tham, sân, si v.v… không còn một mảy, các thứ công đức đều được viên mãn, hoàn toàn tốt đẹp. (Ba chữ tham, sân, si giải thích như thế nào? Chữ “tham” là ý nói lòng tham lam chẳng biết đủ. Chữ “sân” là trong tâm phát lên lửa giận. Chữ “si” là nói trong tâm có chuyển đổi không hợp đúng với đạo lý. Ba thứ đó đều gọi là ý nghiệp vì là nghiệp tạo ra nơi tâm ý. Sở dĩ gọi là ý nghiệp bởi vì ba thứ tâm này tạo ra các thứ nghiệp ác, thật là nguyên nhân tạo ra các ác nghiệp. Mỗi người phải luôn cảnh giác).

Trích Sơ Cơ Tịnh Nghiệp Chỉ Nam
Hoàng Hàm Chi
Thích Hoằng Tri dịch

Biết Buông Xả Mới Có Thể Vãng Sanh

Biết Buông Xả Mới Có Thể Vãng SanhCó lần Đức Thế-Tôn gặp một đàn kiến, chỉ đàn kiến và nói với ngài A-Nan: “Con biết đàn kiến này trải qua bảy đời Phật rồi mà chúng vẫn còn làm con kiến”. Quý vị tưởng tượng đi, chúng ta ở đây là thân người, một cái cơ may vô cùng trong cái thời mạt pháp này mà gặp được câu A-Di-Đà Phật, xin thưa thực đúng là cơ hội cuối cùng cho ta thoát nạn. Đã là cái cơ hội cuối cùng thì không có cơ hội thứ hai. Nếu mà chúng ta sơ ý không chịu bám víu lấy cơ hội này để quyết lòng vãng sanh về Tây Phương, thì thôi không còn có cơ hội nào khác nữa hết.

Ngày hôm qua có một vị tới đây ngỏ ý muốn chúng tôi tới hộ niệm. Tôi mới nói hãy về liên lạc với gia đình đi, và tôi bày cho cái cách tu, là khuyên bà cụ mỗi ngày hãy niệm năm ngàn danh hiệu A-Di-Đà Phật. Nghe nói vậy thì Cụ đó giựt mình nói, “Ôi! Tôi mệt quá! Tôi niệm không nổi!”. Tôi mới nói, nếu cụ niệm không nổi thì con cũng không có cách nào có thể hộ niệm cho cụ vãng sanh được.

Thực ra, cái tiêu chuẩn năm ngàn câu đó chẳng qua là sự thử thách đầu tiên đó thôi. Tiếp theo đó phải tăng lên mười ngàn, tăng lên hai chục ngàn, tăng lên ba chục ngàn… thì may ra chúng ta mới có khả năng vượt qua cái ách nạn sinh tử luân hồi trong một đời này. Còn không thì xin thưa thực, hôm trước chúng ta đã nói rồi, “Hộ Niệm Là Một Pháp Tu”, nó:

– Bắt buộc mình phải cố gắng,
– Bắt buộc mình phải kiên trì,
– Bắt buộc mình phải vượt qua tất cả những ách nạn.

Chúng ta ở đây kiết thất niệm Phật, kiết nhất tịnh khẩu niệm Phật thực ra là để chi? Để tất cả những tập khí gì chúng ta cố gắng bỏ, ráng bỏ, ráng bỏ… Nếu không ráng bỏ thì những tập khí này nhất định sẽ lôi mình lại trong lục đạo luân hồi.

Chúng ta phải nhớ rằng, đới nghiệp vãng sanh là đới những nghiệp cũ, không thể nào đới những nghiệp mới. Đối với những ngày tháng trước chúng ta làm điều gì sai, A-Di-Đà Phật không có màng cái chuyện đó đâu à! Ngài sợ là sợ cái tập khí chúng ta không chịu bỏ. Chư Thượng-Thiện-Nhơn trên cõi Tây Phương, các Ngài mong muốn chúng ta về trên đó hội tụ với các Ngài. Các Ngài nói:

“Chư vị mà làm các điều sai lầm trong quá khứ, tôi không sợ, tôi chỉ sợ cái tập khí của chư vị không bỏ được”.

Trong kinh A-Di-Đà, Phật nói người về bên Tây Phương là để hội tụ với chư Thượng-Thiện-Nhơn. Chư vị biết là “Thiện Nam Tử – Thiện Nữ Nhân”, có cái tiêu chuẩn của nó, chứ không phải là chúng ta cứ đi tới Niệm Phật Đường niệm vài câu A-Di-Đà Phật, niệm vài giờ A-Di-Đà Phật là Thiện-Nam-Tử, là Thiện-Nữ-Nhân. Không phải đâu! Hoàn toàn không phải!

Trong những giờ tới chúng tôi sẽ cố gắng khai thác chỗ này, quý vị sẽ thấy. Trong ý định của chúng tôi là trong năm Tân-Mão này, chúng ta hô hào lần lần, tức là trước khi mở ra một chương trình gì chúng ta đều hô hào, hô hào tinh tấn hơn nữa. Tức là hiện tại bây giờ chúng ta hai tuần có nửa ngày tịnh khẩu niệm Phật. Quá ít! Chúng ta phải tiến lần lên hai tuần chúng ta có hai ngày liên tục tịnh khẩu niệm Phật, đúng 48 tiếng đồng hồ không nói một lời nào hết. Đây là tập sự.

Chúng ta tu hành cần phải có hợp lý, hợp cơ. Căn cơ chúng ta yếu quá mà áp dụng một cách mạnh mẽ thì sợ rằng chúng ta chịu không nổi! Thì bây giờ chúng ta phải tập sự trước, tập lần lần. Hôm nay chúng ta có nửa ngày tịnh khẩu, hãy vui vẻ thoải mái với thời gian này để chúng ta tập cho trong thời gian sau, chúng ta tăng lên, thay vì nửa ngày chúng ta sẽ tăng lên một ngày, rồi chúng ta tăng lên hai ngày, hai ngày, đúng 48 tiếng đồng hồ nhất định không mở miệng ra nói chuyện. Để chi vậy? Xin thưa chư Tổ dạy rằng: “Bớt đi một câu chuyện, niệm thêm câu Phật hiệu, đánh chết tập khí đi, để chân tâm hiển lộ”. Lời Tổ dạy như vậy đó. Ngài dạy cho những người phàm phu tục tử chúng ta chứ không dạy cho ai hết. Chính cái thị phi, chính cái nói chuyện nó phá tiêu hết tất cả các công đức của người niệm Phật. Cho nên Ngài dạy rõ ràng… “Bớt đi một câu chuyện”. Nói chuyện thế gian làm chi? Nói câu chuyện thị phi làm chi? Hãy “Niệm thêm câu Phật hiệu”.

Quý vị hãy phát tâm ra, quyết thề đánh chết cái tập khí đi. Cái tập khí gì? Tập khí không chịu niệm Phật mà niệm chuyện lục đạo luân hồi. Phải đánh chết cái tập khí này thì chơn tâm chúng ta mới hiển lộ, không hiển lộ tại đây thì chư Thượng-Thiện-Nhơn sẽ tiếp đón chúng ta về Tây Phương với các Ngài, rồi các Ngài sẽ giúp cho ta hiển lộ chơn tâm tự tánh. Chúng ta chỉ cần buông đi, bỏ đi. Nhất định:

– Ngày hôm qua ta ghét một người nào, hôm nay quyết định không ghét nữa.
– Ngày hôm qua ta nói một người nào xấu, nhất định hôm nay không nói xấu nữa.
– Ngày hôm qua ta giận dữ, nhất định hôm nay đừng giận dữ nữa.

Tại vì chúng ta phải làm người hiền. Chỉ làm người hiền là được.

– Người hiền thì không có tham.
– Người hiền thì không có giận, tại vì giận nó kèm chữ dữ, chứ không phải nói là lành.

Thiện lành! Cứ vậy mà tu. Sẵn sàng Niệm Phật Đường tại đây sẽ hộ niệm cho chư vị vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Chư Thượng-Thiện-Nhơn trên cõi Tây Phương sẵn sàng đón chư vị về đó, dù rằng trong quá khứ mình làm lỗi như thế nào thì các Ngài không sợ chuyện đó. Các Ngài chỉ sợ rằng cái tập khí này không chịu bỏ.

Đã không chịu bỏ thì A-Di-Đà Phật ngày đêm buông tay xuống để tiếp độ chúng sanh, nhưng mà cái hoa sen của chúng ta trên cõi Tây Phương đã tiêu rồi. Chư Thượng-Thiện-Nhơn đã biết được cái tập khí này nó còn hiển hiện ra, hễ tập khí còn hiển hiện ra thì không cách nào có cảm ứng được, không cách nào vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc được.

Chính vì vậy, xin thưa… chư vị ơi! Quyết lòng mà hạ quyết tâm tu hành, một lòng một dạ ăn ở hiền lành là được. Buông xả vạn duyên ra, thành tâm niệm Phật, chỉ vậy thôi, bao nhiêu cái nghiệp trùng trùng trong quá khứ chúng ta được đem nó về Tây Phương để hội ngộ cùng chư Thượng-Thiện-Nhơn, và chúng ta thành Phật.

A-Di-Đà Phật.

Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)

Người Niệm Phật Phải NGUYỆN Cho “Thẳng”

Người Niệm Phật Phải NGUYỆN Cho ThẳngMỗi lần nổi lên một cơn bịnh, mình mới ngộ ra rằng mình chính thị là phàm phu tục tử!

Ngài Ngẫu-Ích đại sư bị một cơn bịnh thập tử nhất sanh thì Ngài ngộ ra, Ngài lo niệm Phật và trở thành một đại Tổ Sư, còn mình chính hiệu là phàm phu tục tử, bịnh rề rề, năm này cũng bịnh, năm kia cũng bịnh, mình có quá nhiều dịp để ngộ rằng mình là phàm phu tục tử!

Vô thường đến bất kỳ lúc nào, không bao giờ nó chờ đợi, không có hẹn được. Chính vì vậy mà khi mình biết được con đường niệm Phật, mình biết trước cả khi mình bịnh nữa, tức là so ra mình hơn Ngài Ngẫu-Ích đại sư một chút. Ngài ngộ ra sau khi cơn bịnh, còn ta biết niệm Phật trước khi cơn bịnh, vậy thì phải lo chuẩn bị.

Trong đường vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, hôm trước mình có nói qua, cái điểm quan trọng nhất là Niềm Tin và Lời Phát Nguyện. Nếu mà niềm tin yếu thì ta phát nguyện không có tha thiết. Nếu ta không muốn đi về Tây Phương thì thường thường ta sẽ có những sự phát nguyện lệch đi và sau cùng thì mất phần vãng sanh. Xin đưa qua đây vài mẫu chuyện có thực…

Ví dụ như ở bên ngoài kia có cái phần hộ niệm vãng sanh, quý vị coi đĩa Sư Bà Thích-Như-Định, Ngài là Sư Bà trụ trì một Ni-Viện, nhưng mà khi Ngài bịnh, Ngài dặn dò các hàng đệ tử và Ngài viết thư nhờ các Ngài khác đừng lo gì khi Ngài chết, mà phải giao cho các ban hộ niệm họ hộ niệm. Họ hộ niệm xong rồi quý vị mới làm theo các nghi lễ. Thấy lạ lùng không? Một Sư Bà mà khi ra đi lại giao cho các vị Phật tử, tôi nhớ không lầm, chính chị Diệu Thường hộ niệm cho Sư Bà. Sư Bà ra đi bất khả tư nghì, thoại tướng tốt không thể nào tưởng tượng. Trong khi đó thì cách đây cũng không lâu cũng có một vị Ni, đã tuyên bố là nhất tâm bất loạn, định được ngày giờ ra đi và có rất nhiều vị Tăng Ni, đông lắm tới hộ niệm. Nhưng mà sau cùng thì không đi! Không đi được, mà sau đó thì những chướng nạn đến dồn dập!…

Trong những lời tọa đàm về hộ niệm trước đây, chắc quý vị còn nhớ một câu chuyện, cũng là một vị Ni, khi bị bịnh rất nặng và bác sĩ đã chịu thua. Vị này được một vị Đại Đức cùng với những ban hộ niệm, ban hộ niệm đó Diệu Âm biết, những người đó họ khai thị tốt lắm. Vị Đại Đức cũng quyết lòng hộ niệm cho vị Ni đó. Hộ niệm được mười sáu ngày thì tự nhiên căn bịnh hết, không còn bịnh nữa và vị Ni đó công phu lại được, coi như người bình thường. Sau khi có hiện tượng như vậy, thì vị Ni đó mới nói với Thầy rằng, “Chắc là con nghiệp chướng còn, nên Phật muốn con đem cái thân nghiệp chướng này để độ chúng sanh chăng?”. Vị Ni đó đã đổi lời nguyện, (nghĩa là nguyện độ chúng sanh chứ không nguyện vãng sanh nữa). Đổi lời nguyện xong thì khoảng mười ngày sau bị phát bịnh trở lại. Thì cũng chính vị Đại Đức và ban hộ niệm đó đến hộ niệm, nhưng mà vị Ni này ra đi không có một cái thoại tướng nào chứng tỏ rằng được vãng sanh Cực Lạc cả, ngay cả cái thân thể mềm cũng không được luôn!

Tại sao lại như vậy?…

Tại vì lời nguyện. Lời nguyện không chính! Lời nguyện không thẳng! Chúng ta tu hành, nhiều khi có những điều sơ suất, như vọng tâm nổi lên, một sự ngã mạn hay một sơ ý nào đó nổi lên, nó có thể đưa chúng ta đi lệch con đường vãng sanh về Tây Phương liền.

Ví dụ như hôm qua mình có nói vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc thứ nhất là do quyền lợi của chính mình. Trong vô lượng kiếp qua mình bị đọa lạc trong sáu nẻo luân hồi, chắc chắn ở đó cũng có những cảnh giới tam ác đạo trong đó mà mình không hay. Với tai nạn lớn như vậy mà bây giờ gặp được câu A-Di-Đà Phật, nhờ đại nguyện của đức A-Di-Đà mà mình được về tới Tây Phương, mà về tới Tây Phương thì ngay trong những lời nguyện đầu Ngài nói hễ về tới Tây Phương thì tất cả chư vị đều thành Bồ-Tát hết, thần thông đạo lực nhiệm mầu. Như vậy cơ hội này là để cho chúng ta thoát nạn. Ấy thế mà chúng ta sơ ý, cứ tưởng rằng là đi về bên Tây Phương là do quyền lợi của A-Di-Đà Phật… Cho nên, có nhiều người than:

“A-Di-Đà Phật ơi! Con tu hành tốt quá, con muốn về Tây Phương. Nhưng mà có gì có chứ Ngài cũng cho con hết bịnh, Ngài phải làm cho con hết bịnh… Tức là đặt điều kiện với Ngài. Con hết bịnh rồi thì con niệm Phật mới được chứ. Tại sao con niệm Ngài mà Ngài hổng cho con hết bịnh”.

Rõ ràng đây là lời nguyện sai lầm! Nhân-Quả của chúng ta chư Phật không có xen vào được. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật có nói là “Nghiệp nhân quả báo bất khả tư nghì”, chư Phật không thể chen chân vào được, mà chính chúng ta phải giải quyết. Giải quyết bằng cách nào? Nếu chúng ta bây giờ không nhớ A-Di-Đà Phật, không niệm A-Di-Đà Phật, không nguyện về Tây Phương Cực Lạc thì nhất định chúng ta nhớ lục đạo luân hồi. Nhớ lục đạo luân hồi thì “Duyên” với lục đạo luân hồi, nhất định chúng ta bị kẹt lại. Niệm Phật là để vãng sanh, khi một cơn bịnh xảy ra mà mình sợ chết. Sợ chết là gì? Thèm cái thân mạng. Thèm cái thân mạng này chứng tỏ là quyến luyến cái thân mạng, tâm chúng ta quyến luyến cái nào nhất định đây là cái “Duyên”, ta sẽ theo cái duyên đó để thọ những cái đại nạn trong lục đạo luân hồi.

Cho nên, những người không hiểu đạo, nên lúc lâm chung thường thường sợ chết. Vì sợ chết nên khi chết không bao giờ nhắm mắt được, con mắt mở trao tráo ra. Tại sao vậy? Tại vì trong lúc ngộp ngộp người ta sợ chết chứ có gì đâu, người ta ráng mở con mắt ra, hả cái miệng thiệt to ra để thở, để cố kéo lại sự sống. Vì tha thiết cái mạng sống này nên bắt buộc họ phải theo cái cục thịt này mà xuống dưới nấm mồ, rồi lang thang từ chỗ này qua chỗ nọ, bám víu vào những gốc cây… Vô tình ngàn đời vạn kiếp chịu khổ! Còn người niệm Phật lúc thấy ngốp ngốp, biết rằng sắp chết, họ quyết lòng niệm A-Di-Đà Phật, quyết lòng đi về Tây Phương, họ mừng lên, họ vui lên, tự nhiên những lúc đó họ mĩm cười. Họ mĩm cười ra đi để về Tây Phương Cực Lạc. Niềm tin tưởng của họ mạnh mẽ vô cùng! Sức nguyện của họ tha thiết vô cùng! Trong những lúc đau đớn đó, có thể họ niệm Phật không vô, nhưng nhờ những vị đồng tu hộ niệm, họ nghe lời niệm của người hộ niệm để niệm theo, dù là có thể nghe mang máng, nhưng giúp cho tâm nguyện của họ quyết chí hơn để đi về Tây Phương.

Phật dạy tất cả đều do tâm tạo. Tâm ở đâu? Ở ngay cái ý muốn của mình đó. Chính vì vậy, khi chúng ta niệm Phật mà không muốn về Tây Phương, thì dù cho mình tu có một trăm năm đi nữa, một ngày mình niệm mười vạn câu Phật hiệu đi nữa, nhất định đây cũng chỉ là phước báu nhân thiên, mà phước báu nhân thiên của những người niệm Phật lớn lắm. Nếu việc ác không làm, việc thiện làm, mà còn niệm Phật nữa thì họ sẽ trở nên những người giàu có, những người trong nhà vua chúa. Nếu biết đạo mình nên sợ chỗ này, vì khi thuộc về hàng đó rồi, thì quyền lực quá mạnh, thế lực quá mạnh rồi, thường thường không ai tu được cả, mà bên cạnh cái quyền lực đó, sinh sát ở trong tay, tạo ra nghiệp trùng trùng để đời sau nữa phải chịu nạn nặng vô cùng! Đó gọi là “Tam Thế Oán”: Một đời làm thiện, một đời hưởng quả phước báu, giàu có, sau đó đại nạn!

Chính vì vậy, mà cái cơ hội vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc này, xin chư vị nắm cho vững, đừng để sơ suất. Nếu sơ suất thì mình đi vào con đường sai lạc, sau cùng không ai có thể cứu mình được nữa. Cách đây cỡ chừng hai tuần chúng ta có đi hộ niệm cho mấy vị, gia đình đó ở ngoài Inala. Tôi dặn dò rất kỹ. Nhưng có một lần tình cờ tôi đem cái máy bấm để tới biếu cho ông Cụ, thì vì đi tới bất ngờ, khi bước vào nhà tôi thấy hai mẹ con đang ngồi coi phim. Đang coi phim Đại Hàn… Tôi không nói một tiếng nào hết, nhưng thứ bảy sau đó trong một buổi hộ niệm tôi nói rất nhẹ nhàng nhưng mà rất cương quyết:

“Nếu bác không lo cái vận mệnh của bác, nếu bác không muốn về Tây Phương, mà ngồi ôm coi cái phim này, tôi bắt lại một lần nữa, nhất định, bây giờ bác có năn nỉ, tôi cũng không đi hộ niệm. Tại vì có hộ niệm cho bác, chắc chắn bác cũng không được vãng sanh”…

“Vì sao? Vì rõ ràng là bác bị bịnh, đang chờ từng ngày để chết mà không lo cho chính cái huệ mạng của bác, không lo cho bác thì Phật cứu cũng không được, làm sao tôi có thể cứu?”. Tôi nói rất là nhẹ nhàng. Tôi nói tiếp…

“Bác phải bỏ hẳn từ ngày hôm nay, nếu để tôi bắt gặp lại một lần nữa, bây giờ bác có năn nỉ đi nữa, tôi không đi hộ niệm là không đi hộ niệm, tại vì đi hộ niệm như vậy… Vô ích!”.

Xin thưa với chư vị, không phải mình niệm Phật này là niệm cho A-Di-Đà Phật, mà niệm cho mình và phải tương ứng cho đúng với đại nguyện của Ngài. Tín-Hạnh-Nguyện phải cho đúng. Hạnh là lo niệm Phật chứ không phải là ngồi coi phim, không phải hạnh là sợ này sợ nọ. Chỉ cần đi đúng như vậy, đơn giản rõ ràng, người tội chướng nghiệp nặng này… chúng ta vẫn được Ngài tiếp độ về Tây Phương để một đời thành tựu đạo quả.

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)

Niệm Phật Không Nên Cầu Được Nhất Tâm Bất Loạn

Niệm Phật Không Nên Cầu Được Nhất Tâm Bất LoạnChúng ta là người hạ căn hạ cơ, mà hạ căn hạ cơ thì chuyện hộ niệm rất quan trọng. Hộ niệm chính là dành cho những người không có khả năng chứng đắc, nói đúng theo danh từ của người niệm Phật, tức là không có khả năng đạt đến cảnh giới “Nhất tâm bất loạn”. Chứ nếu chúng ta có thể đạt được cảnh giới “Nhất tâm bất loạn”, thì không cần hộ niệm nữa. Nói rõ ra, pháp hộ niệm chỉ dành cho những người rất dở, gọi là dở thậm tệ! Chúng ta xin tự nhận là những người dở thậm tệ, nên phải chú ý đến điểm này.

Cách đây cũng mấy năm, có một người tới nói với tôi như thế này: đọc tiếp ➝

Không Nên Giải Đãi Trên Đường Tu

Không Nên Giải Đãi Trên Đường TuĐối với những ai đã ngán ngẫm lẽ vô thường của thế gian này, muốn cầu đạo giải thoát thì phải hạ quyết tâm để dứt khoát những nghiệp duyên kéo trì, không nên chờ hẹn vì chẳng ai dám quyết đoán mạng sống của mình dài được bao lâu. Cổ thi có câu:

Ngày trước đầu đường còn ruỗi ngựa,
Hôm nay trong quách đã nằm yên.

hoặc câu:

Chờ hẹn đến già rồi niệm phật,
Đồng hoang mồ trẻ thấy đông người.

Trên đường tu, để ngăn trách về sự giải đãi, đức Phật đã răn dạy: “Thầy tỳ khưu thường hay có tám cách biếng trễ. Chẳng hạn bữa nào đi khất thực đói, liền nghĩ rằng: “Hôm nay khất thực đói, trong người tất thiếu sức khỏe, để huởn tu một đêm.” Bữa nào khất thực no, liền nghĩ: “Hôm nay ăn no, trong người nặng nề mệt nhọc, thôi tạm xả tu, mai sẽ tiếp tục.” Như thế cho đến những khi: sắp làm việc nhiều, lúc làm việc nặng vừa xong, sắp muốn đau, khi đau bịnh vừa mạnh, sắp đi xa, lúc đi xa mới về; trong các trường hợp ấy, lúc nào cũng nại cớ này, cớ khác, rồi bỏ tu để ngủ nghỉ. Trái lại, những vị tỳ khưu tinh tấn, trong tám trường hợp đó, luôn luôn nghĩ đến sự vô thường, hằng siêng năng tu tập.”

Tâm niệm giải đãi của người xuất gia đã như thế, tất tâm lý biếng trễ của hàng tại gia chắc có lẽ nhiều hơn. Hoằng Nhứt đại sư từng khuyên một thân hữu lo tu cầu giải thoát. Ông bạn viết thư gởi đến, than mình mắc bận nhiều công việc, xin để tạm xếp đặt cho ổn thỏa rồi sẽ hay. Đại sư liền biên vào bức thư đó hai câu thi, rồi gởi trả lại. Hai câu ấy như sau:

Ngay giờ quyết dứt, liền thôi dứt,
Chờ hẹn cho xong, chẳng lúc xong!

Thật thế, chuyện đời đến khi nhắm mắt cũng không rồi công việc.

Khi xưa, có vị tăng khuyên người bạn là Trương Tổ Lưu lo tu cầu giải thoát. Ông bạn bảo: “Tôi có ba việc làm chưa xong: một là quan tài ông thân còn để ở nhà mồ chưa chôn, hai là đứa con trai chưa cưới vợ, ba là đứa con gái chưa gả chồng. Chờ ba việc xong, tôi sẽ vâng lời.”

Mấy tháng sau, ông bạn bị bạo bịnh chết. Vị tăng đến tụng kinh cầu siêu và điếu một bài thi rằng:

Bạn tôi tên là Trương Tổ Lưu,
Khuyên ông niệm phật, hẹn ba điều,
Ba điều chưa vẹn, vô thường bắt,
Đáng trách Diêm vương chẳng nể nhau!

Bài thi ý nói: ông bạn hẹn khi xong ba việc sẽ lo tu, nhưng ngặt nỗi vô thường bất ngờ đến, nó có hẹn cho ông biết trước ngày nào đâu? Thế là rồi một kiếp, lại tiếp tục luân hồi!!!

Phải biết:

Vung cây huệ kiếm gươm thần,
Dứt tan sự thế nợ trần từ đây…

Khuyết Danh
Nguồn: Tam Giáo Đồng Nguyên

Có Nên Nguyện Trả Hết Nghiệp Trước Khi Vãng Sanh?

Có Nên Nguyện Trả Hết Nghiệp Trước Khi Vãng Sanh?Vãng sanh về Tây Phương, nên nhớ rõ, là do quyền lợi của chính mình và được đức từ phụ A-Di-Đà thương xót chúng sanh, do lòng đại từ đại bi của Ngài tiếp dẫn mình về Tây Phương, để một đời khi mình xả báo thân này, thay vì mình phải chịu đọa lạc trong những cảnh khổ sở đau đớn qua nhiều kiếp, kiếp này qua kiếp nọ, gọi là “Lũy kiếp nan xuất, thống bất khả ngôn”. Như vậy thì khi vãng sanh về Tây Phương chính là cái quyền lợi của mình, chứ không phải là quyền lợi của Phật.

Ấy thế mà có nhiều người tu hành lại nghĩ ngược lại, là khi ta vãng sanh về Tây Phương là do quyền lợi của Phật. Vì quyền lợi của Phật cho nên ta nguyện vãng sanh về Tây Phương. Chính vì vậy mới sinh ra những lời nguyện sai lầm, để dẫn tới chỗ sau cùng mất phần vãng sanh. Thường thường những người này họ nguyện như thế nào? Cứ… “Nam Mô A-Di-Đà Phật, Phật cho con về Tây Phương. Nhưng dù sao đi nữa Phật cũng cho con hết bịnh, dù sao đi nữa cũng cho con làm cho hết việc này, làm cho hết cái việc kia… rồi con mới đi”.

Thường thường người ta đặt điều kiện như vậy, nhiều lắm. Vì những lầm lẫn nho nhỏ này mà làm con đường đi về Tây Phương của họ bị đoạn mất. Rất nhiều chứ không phải là không có. Khi đi hộ niệm sẽ thấy những trường hợp này. Những người nghèo người ta không nguyện như vậy, mà thường nguyện rằng, “Nam Mô A-Di-Đà Phật, xin Phật cho con về Tây Phương, về lúc nào cũng được, con không sợ gì cả, con quyết lòng về Tây Phương, nguyện thành Phật độ chúng sanh”.

Tại vì họ khổ quá rồi! Họ không muốn ở đây nữa. Nhưng một người sống sướng một chút, thì thường thường họ nguyện như vầy: “Nam Mô A-Di-Đà Phật, trong một đời của con, con đâu có làm điều gì sai. Tại sao con lại bị bịnh? Nam Mô A-Di-Đà Phật, con cũng bố thí, cũng cúng dường, cũng xây chùa, cũng cất miễu, cũng làm cầu… nhiều lắm, tại sao Phật lại bất công… không chịu giúp cho con khỏe mạnh, an khang? Bất công quá!”.

Trong lúc tu hành họ có cái tâm trách móc. Mà thực ra, rõ rệt là những căn bịnh này, những sự khổ ách này, nhất định là do chính mình gây ra, chứ không phải là người khác. Chắc chắn. Nếu đời này mình có làm việc đại thiện đại lành gì đi nữa, mà mình vẫn bị tai nạn, vẫn bị đau đớn, vẫn chịu nhiều cảnh khổ là do trong tiền kiếp mình tạo ra cái nhân đó, nhất định không cách nào từ chối được. Thế gian còn có câu, “Nhất ẩm nhất trát mạc phi tiền định”. Một cái ăn, một cái uống, một cái gặp nhau trong đời này nhất định cũng do tiền định, thì một cơn đau mà đến với chúng ta, một căn bịnh ngặt nghèo đến với chúng ta, hoàn toàn là do chính chúng ta tạo ra. Vì thế, khi tu hành cần phải cố gắng nhớ điều này, “Nhân Duyên Quả Báo tơ hào không sai”!

Ba cái nó đi với nhau. Vì ưa nói gọn nên thành ra Nhân-Quả. Chứ thật ra phải nói là: Nhân-Duyên-Quả. Chính nhờ cái Duyên này mà ta mới thoát nạn đây. Duyên như thế nào? Nếu ta định vào trong câu A-Di-Đà Phật, quyết lòng đi về Tây Phương thì ta cứ một lòng niệm Phật, một lòng cầu về Tây Phương. Một cơn bịnh đến ta mừng ta vui, vì ta trả cái nghiệp này trong ngày hôm nay thì ba tháng sau ta khỏi trả. Nếu ta trả căn bịnh ngặt nghèo trong tháng này thì tháng sau ta khỏi trả. Ta trả tất cả những cái chuyện đau đớn này thì lúc lâm chung ta khỏi đau đớn. Hiểu được vậy thì tự nhiên ta an nhiên đón nhận căn bịnh.

Xin chú ý cho kỹ điểm này, là ta an nhiên đón nhận căn bịnh của ta, chứ không phải ta cầu mong cho căn bịnh đến với ta. Hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Xin nhớ kỹ, chứ không thì dễ hiểu lầm chỗ này mà chúng ta lại có thể bị đại nạn. Có nhiều người sơ ý, khi tu hành thường phát ra những lời nguyện hết sức sai lầm! Ví dụ: “Nam Mô A-Di-Đà Phật, con nguyện sẽ trả cho hết tất cả những nghiệp chướng của con để con đi vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Con quyết tâm giải cho hết mọi ách nạn để rồi con được thành tựu”.

Đây là lời nguyện hoàn toàn sai lầm đối với một người niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ. Mà đúng ra nên nói rằng, ta an nhiên tự tại đón nhận căn bịnh. Căn bịnh nó đến nhiều ta an nhiên nhiều. Tâm ta định vào câu A-Di-Đà Phật. Xin nhớ, cái lực định này tự nó phá tan nghiệp chướng ngay lúc đó hồi nào không hay. Chứng tỏ được rõ rệt rằng, có nhiều người đau trên giường, các vị bác sĩ tới thăm, họ nghĩ rằng người này phải bị tê liệt, bán thân bất toại, nằm dài trên giường, không nói được, không đi được… thế mà họ đi ngù ngù vì tâm lực của họ nó quá mạnh. Cho nên mình phải nhớ, không nên tạo cái duyên cho cái nghiệp nó nở ra.

Làm sao không tạo cái duyên cho cái nghiệp khỏi nở ra?…

– Đừng sợ cái nghiệp,
– Đừng mong cái nghiệp,
– Đừng lo cái nghiệp,
– Đừng khổ vì cái nghiệp thì tự nhiên cái nghiệp nó nằm đó, nó chờ trong tương lai một kiếp nào đó nó mới hiện ra.

Trong thời gian chờ đợi tương lai hiện ra, thì ta đã được tương ứng với đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật, đã về Tây Phương Cực Lạc rồi. Khi về tới Tây Phương Cực Lạc ta trở nên Bồ-Tát Bất-Thối-Chuyển, thần thông đạo lực vô cùng nhiệm mầu, bao trùm pháp giới. Ta dùng cái thần thông đạo lực đó vì chúng sanh chịu khổ mà xuống các quốc độ cứu độ chúng sanh. Lúc đó ta trả nghiệp nhưng không phải là ta xuống dưới địa ngục để chịu hành hình, mà ta trả nghiệp bằng cách dùng thần thông đạo lực và trí huệ của một vị Bồ-Tát Bất-Thối đi cứu độ chúng sanh, giảng kinh thuyết đạo dẫn chúng sanh đi về Tây Phương để mà trả nghiệp. Cách này hay vô cùng.

Chính vì thế, xin thưa, nghiệp nó đến với chúng ta là do chúng ta mời nó. Còn nếu chúng ta cứ một lòng một dạ:

– Duyên với Tây Phương Cực Lạc.
– Nghĩ A-Di-Đà Phật.
– Nhớ A-Di-Đà Phật.
– Niệm A-Di-Đà Phật.
– Nguyện về Tây Phương với A-Di-Đà Phật…

Thì tự nhiên cái nhân đi về Tây Phương đã chín mùi trong tâm chúng ta, nhờ do sức nguyện làm thành cái Duyên để nảy nở cho chúng ta cái Quả báo, Quả báo đi về Tây Phương thành đạo.

Chính vì vậy, khi mà mình biết được một chút tu hành rồi, mong cho tất cả chư vị cố gắng bắt đầu từ hôm nay, tất cả những căn bịnh nào đến, chúng ta hãy an nhiên tự tại lên, đừng sợ… Nhất định đời này đã có vận hạn rồi, không sao cả. Khi cái tâm chúng ta buông ra thì tự nhiên cái nghiệp nó cũng buông chúng ta ra, nó nằm im đó để cho chúng ta lấy cái Nhân “A-Di-Đà Phật” để thành cái Quả “A-Di-Đà Phật”, gọi là “Niệm Phật là Nhân thành Phật là Quả”.

Còn tất cả những nghiệp khác ta “Đới” nó. Đới là đem về Tây Phương. Đem về Tây Phương ta dùng thần thông đạo lực, biết hết trong vô lượng kiếp chúng ta làm gì, ta bắt đầu đi cứu độ chúng sanh để trả nghiệp. Đây là con đường rất là vi diệu, tuyệt vời của những người niệm Phật vãng sanh như chúng ta.

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)