04 10 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Nhân tiện trong những giờ nói về tu hành cần phải “Khế Lý – Khế Cơ”, Diệu Âm xin nêu ra một vài điều sơ suất rất tế vi trong pháp tu niệm Phật mà kinh nghiệm đã gặp qua, từ sự sơ suất đó mà nhiều người đã không được vãng sanh một cách hết sức đáng tiếc! Nói đáng tiếc có nghĩa là đúng ra họ được vãng sanh, nhưng chỉ vì một sơ suất nhỏ, chú ý lắm mới thấy, không chú ý không thấy, nên cứ tưởng là đúng, nhưng sau cùng thì kết quả thực sự là hơi buồn!…
Hôm qua chúng ta có nhắc đến lời nguyện vãng sanh, là chúng ta phải đơn giản gọn gàng:
– Nam Mô A-Di-Đà Phật con nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
– Con thèm vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
– Xin Phật cho con về Tây Phương Cực Lạc.
– Con muốn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Nói sao nói, mình nói gọn như vậy cũng được, nhất là trước những giờ phút lâm chung xin đừng có nên dài dòng cái đuôi phía sau, nhiều khi chính cái đuôi đó nó lộ ra một cái gì sơ suất chính trong tâm chúng ta. Ví dụ như hôm qua mình có nói một người đã nguyện: ” Nam Mô A-Di-Đà Phật, nếu mà con số phần đã hết thì cho con vãng sanh liền, nếu mà số phần con chưa hết thì xin cho con hết bịnh để con tiếp tục tu hành…”. Nghe qua thì thấy không có cái gì sai hết, tại vì người ta vẫn nguyện vãng sanh, nhưng thực ra cái tâm nguyện này là tâm nguyện sợ bịnh, mà nhiều khi còn sợ chết nữa trong đó! Thực ra thì chính những lời này là lời mà chư Tổ dùng để dặn dò những người không biết pháp môn niệm Phật. Ngài dặn như vậy để cho mình an tâm quyết lòng nguyện vãng sanh, mình vô tình lại bỏ lời nguyện vãng sanh mà đem cái lời giải thích của các Ngài thành lời nguyện, nên sức nguyện của mình không đủ mạnh, thành ra không có cảm ứng, không có tương ưng với đại nguyện, và sau cùng có thể mất phần vãng sanh một cách oan uổng!
Hôm nay mình nói thêm một chút nữa về những điều tế vi trong lời nguyện. Có nhiều người khi bịnh xuống rồi thì phát nguyện như thế này:
– Nam Mô A-Di-Đà Phật, một đời con làm thiện làm lành, con quyết đi về Tây Phương để cứu độ chúng sanh. Hôm nay con bịnh quá cho nên niệm Phật không được, nguyện Phật thương tình cho con hết bịnh để con niệm Phật để về Tây Phương. Khi con hết bịnh rồi con phát nguyện con sẽ làm tất cả những việc thiện lành khác để giúp đỡ cho chúng sanh, còn ngày nào con làm việc thiện lành ngày đó.
Đại khái như vậy… Lời nguyện này nếu những người không hiểu đạo, nghe qua người ta thấy vĩ đại lắm. Nhưng thực ra lời nguyện này cũng đi lệch với pháp tu rồi. Tại vì chư Tổ thường hay dặn chúng ta: Nguyện là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, không được nguyện hết bịnh. Các Ngài khuyến tấn chúng ta rõ rệt là cái thân bịnh này nhất định nó có định kỳ rồi. Nếu ta là một vị ở trên Tây Phương Cực Lạc giáng sanh xuống đây, tái lai xuống đây để làm đạo, chúng ta cũng giả đò bịnh, giả đò sao đó cũng được, thì các Ngài muốn nguyện sao nguyện, và các Ngài muốn đi thì đi, muốn về thì về. Thực ra nhiều khi các Ngài không cần nguyện nữa là khác. Các Ngài giáng sinh xuống đây thấy một chúng sanh khổ các Ngài cứ lăn xả vào làm việc giúp đỡ chúng sanh, các Ngài không niệm Phật nữa, vì các Ngài là người đã ở trên cõi Tây Phương thị hiện xuống đó thôi. Còn chúng ta là một người hạ căn phàm phu, thì nghiệp chướng nhiều đời nhiều kiếp nó đã đúc kết đến đời này rồi. Cái thọ mạng này thực ra là để trả nghiệp. Mình sinh ra mình phải trả nghiệp 70 năm, nhất định cầu trước một năm, tức là 69 năm không được, tại vì mình phải trả cho đủ 70 năm. Khi thọ mạng đến rồi, trong khi phước báu của mình nhiều quá, mình cầu thêm nửa tháng nữa để hưởng cũng không được.
Thực sự như vậy. Đây là lời Tổ dạy, cho nên xin chư vị, chúng ta hãy an tâm về vấn đề sanh tử. Tại vì khi đi hộ niệm mình mới thấy rõ rệt điều này, có những người ngày đêm cầu chết: “Con đau quá rồi, cầu Phật, cầu trời, cầu miễu gì đó cho con chết”. Họ cầu chết từng ngày, từng giờ, thế mà không chết. Ở tại quê của Diệu Âm có một bà Cụ, 99 tuổi, bà thèm chết đến nỗi bà làm một cái quan tài để tại đầu hè, bà trải chiếu trong cái quan tài và bà nằm trong cái quan tài đó để cho chết. Khi bịnh không ai dám tắm nước, còn bà thì khi bịnh bà lấy nước xối ướt hết áo quần, rồi đến nằm trong cái quan tài đó cho chết, thế mà không chết. Bà thọ trên 100 tuổi, không chết là không chết, không kiêng không cử gì hết, mà cứ nằm… nằm trong quan tài rồi đậy cái nắp lại một nửa, để ló cái lỗ chui vô vậy thôi. Trông chết mà không chết. Tại vì cái thọ mạng người ta nó có định rồi, không mắc mớ gì mà mình sợ hết.
Khi bịnh xuống, lời nguyện của mình nó xác định cái tâm nguyện vãng sanh của mình. “Nam Mô A-Di-Đà Phật, con một đời làm thiện làm lành, chắc chắn con muốn về Tây Phương với Phật, nhưng mà bây giờ đau quá xin Phật thương con cho con hết bịnh để con niệm Phật”. Rõ ràng mình đang nguyện hết bịnh. Chư Tổ dạy nếu mà mình nguyện hết bịnh thì cái bịnh của mình không hết, nhưng nếu lúc đó cái thọ mạng của mình hết thì vì lời nguyện hết bịnh, bắt buộc mình phải trôi theo thân bịnh này mà tiếp tục thọ sanh trong lục đạo luân hồi, không biết là cảnh giới nào. Nếu mình nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc một cách tha thiết, nếu cái thân mệnh này hết hạn thì nhờ lời nguyện này mà cảm ứng với 48 đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật, mình được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nếu cái thọ mạng của mình chưa hết, có nghĩa là ba tháng nữa, năm tháng nữa, một năm nữa… thọ mạng mới hết, thì nhờ cái lòng tha thiết có đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh tự nhiên được chư Bồ-Tát gia trì, được thần lực của A-Di-Đà Phật gia trì, vì đây là một hành giả đã đủ Tín-Nguyện-Hạnh để đi về Tây Phương, thì tự nhiên cơn bịnh sẽ giảm, nó giảm một cách rõ rệt. Có rất nhiều người, Diệu Âm nói rõ ràng là rất nhiều người, đã có hiện tượng này. Lạ lắm! Có nhiều người đã hết bịnh một năm rồi ra đi, có nhiều người hai năm, có nhiều người ba năm, có nhiều người đến nay hiện tại bây giờ là gần sáu năm rồi, từ một bịnh ung thư chuẩn bị chết mà không chết. Có nhiều người bác sĩ đã khám, có ung thư khắp người, như vậy mà niệm Phật tự nhiên cũng khoảng mấy tháng sau thì thực sự không còn ung thư nữa. Lạ lắm chư vị!
Những điều này nói ra đối với khoa học người ta không tin, nhưng Diệu Âm tha thiết nói với chư vị, hãy tin đi, vững vàng tin đi, chắc chắn. Ví dụ như hồi chiều này có khoe mấy tấm hình cho anh Thiện Bình coi, tôi chỉ cho Thiện Bình về cô bác sĩ Vân Hương ở bên Đức, chính người thân của chị là người bị ung thư chuẩn bị chết. Chị là một người bác sĩ trị bệnh ung thư nhưng đành phải bó tay! Nhờ khuyên cô đó niệm Phật, quyết lòng buông xả, không cần gì nữa hết, niệm Phật bảy tháng sau thì tự nhiên bịnh ung thư không còn nữa. Lạ lùng! Hiện tại bây giờ vị đó vẫn còn sống và chính Diệu Âm có gặp trực tiếp được người bịnh đó. Quý vị thấy lạ lùng chưa? Không thể nào mà mình tưởng tượng ra được!
Cho nên khi bịnh xuống mà mình nguyện cầu cho hết bịnh, với lời nguyện này mình tưởng rằng mình tha thiết đi về Tây Phương, nhưng thực ra nó đã dấu cái tâm sợ chết trong đó. Hay nói rõ hơn, mình giả đò nguyện vãng sanh, chứ thực ra mình sợ chết. Chư Tổ nói, đã sợ chết thì nhất định không thể vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Những người có phước báu, những người có tiền bạc thường là người sợ chết. Còn những người khổ khổ một chút, người ta thấy đời này quá khổ, nên không tha thiết nữa. Vì không tha thiết nữa, nên trước những cơn đau họ thèm vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Sự thèm muốn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, sự nguyện cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc quá mạnh, nó mạnh đến nỗi mà họ quên mất cái đau luôn…
Hôm qua chúng tôi nêu ra một trường hợp như chính Phụ Thân của Diệu Âm. Là một người bị bịnh, hai vị bác sĩ đứng nhìn thấy một hiện tượng lạ mà phải ngỡ ngàng! Những hiện tượng này nếu ở trong bệnh viện, họ phải chích cái thuốc giảm đau cực mạnh, nếu không thì Ông Cụ đau đớn phải lăn lộn từ trên giường lăn xuống đất. Thế mà Ông Cụ cười hè hè. Mà đặc biệt nữa, là Ông Cụ quyết định không chịu đi vào bệnh viện. Không chịu đi! Nói đi về Tây Phương thì đi chứ đi nhà thương thì không đi. Ông Cụ cười hè hè cho đến khoảng chừng mười-mười lăm phút trước khi ra đi là hết cười nữa rồi, rồi ra đi.
Quý vị hãy coi cái phim của bà Nguyễn Thị Cúc ở Gia-Lai, tám năm nằm trên giường bệnh, hộ niệm mười ngày tỉnh dậy, tỉnh dậy rồi nhưng ngồi dậy không được mà nằm trên giường, chắp tay bái: “A-Di-Đà Phật cho con về Tây Phương”. Bà tha thiết đi về Tây Phương. “Nam Mô A-Di-Đà Phật cho con về Tây Phương”. Chỉ vậy mà thôi, bà Cụ đã biết được giờ vãng sanh. Vì sao vậy? Vì trong những giờ phút trước khi xả bỏ báo thân cái tâm nguyện của Cụ quá mạnh, nó mạnh đến nỗi cảm ứng đến 48 lời nguyện của Đức A-Di-Đà mà được vãng sanh. Quý vị coi bà Phan Thị Diệu Anh, người ta xúi dục bà, người ta củng cố tinh thần bà, khuyến tấn bà đến nỗi trước giờ chết bà nói, “Bây giờ tôi mừng quá rồi, tôi muốn nhảy, tôi nhảy múa”. Có nhảy được không? Nhảy mà mấy người chung quanh sợ bà té. Nhờ nỗi vui mừng đó, cộng thêm sự thèm muốn đi về Tây Phương, quyết đi về Tây Phương, bà quên hết tất cả, cơn đau cũng quên luôn, không còn nữa. Nói về tâm lý cũng đúng, mà nói Phật lực gia trì thì thật sự là có. Không phải dễ!…
Còn trước những giờ phút đó mà ta nói Nam Mô A-Di-Đà Phật, con tu nhiều quá rồi, sao Phật không cho con hết bịnh để con niệm Phật cho nhất tâm để con về Tây Phương… Đó là cái tâm sợ chết! Đó là lời nguyện sợ bịnh! Nguyện hết bịnh thành ra mất phần vãng sanh. Có rất nhiều cuộn phim vãng sanh, quý vị coi lại những phim vãng sanh rồi, thấy đó mình mới hiểu rằng, được vãng sanh hay không đều nằm trong giây phút này.
Chúng ta nói ở đây là trong lúc chúng ta còn tỉnh táo chứ không phải nói trong lúc chúng ta lâm chung. Nếu không chuẩn bị ngay bây giờ, chưa chắc gì khi lâm chung tinh thần của chúng ta mạnh bằng những người đó. Trong khi những người đó lại tu ít hơn ta, mà người ta thì có tinh thần mạnh hơn ta. Tại sao ta lại thua họ?
Không chịu vững mạnh ngay từ bây giờ, cứ chờ đến giờ phút lâm chung tưởng rằng ta ngon hơn sao? Nhưng mà coi chừng tinh thần chúng ta hình như yếu hơn đó. Vì yếu hơn nên oan gia trái chủ cũng có những đòn thế dành cho những người tu hành với tâm không vững!… Sau cùng vướng nạn là tại vì vậy.
Mong tất cả chư vị quyết lòng nguyện vãng sanh. Rõ ràng! Minh bạch! Đừng ngại, đừng ngùng gì nữa cả, chắc chắn chúng ta được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)
12 09 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Trong những pháp môn Phật dạy, tôi cả đời chuyên tâm nơi pháp môn Trì danh niệm Phật. Pháp tu niệm Phật có nhiều, trì niệm danh hiệu Phật là một trong những pháp niệm Phật. Đây là pháp môn dễ tu, dễ thực hành nhất, dễ thành tựu. Về chỗ thành tựu cũng như chỗ đạt được rất rõ ràng từng bước, từng nấc tiến, có thể diễn nói, có thể khắc nghĩa. Do cái rõ ràng mà người được nghe, người được biết, nghe cũng dễ mà biết đúng cũng dễ. Chỉ quan trọng là phải có lòng tin chân thật, chí nguyện vãng sanh chân thật và thực hành đúng pháp siêng năng. Được vậy, thì đã nắm vững ở pháp môn niệm Phật. Nếu lúc tu hành có sai cũng dễ nhận biết, làm đúng mình cũng tự biết, khi được mình cũng tự biết. …
11 09 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Con người sống trên đời cần nên tạo phước đức
Là người Phật tử, tôi biết được một sự thật là tiền tài, quyền lực, địa vị, danh vọng không thể che chở cho con mình mỗi khi gặp tai họa mà chỉ có phước đức, công đức mới là chiếc áo giáp vô hình chắc chắn khiến cho con mình có thể vượt qua bao nhiêu khó khăn hiểm trở trong cuộc đời.
Tôi lấy sự kiện sóng thần Nhật Bản năm 2011 làm minh chứng, thiên tai đó đã cướp đi biết bao nhiêu sinh mạng nhưng trong đó có một em bé bốn tháng tuổi lại may mắn sống sót. Trải qua ba ngày sau cơn sóng thần động đất, người ta mới tìm ra em và đưa em về đoàn tụ cùng gia đình. Cha mẹ cũng không bảo vệ em được. Bởi vì khi đó, bản thân họ cũng phải chống chọi với tử thần. Vậy lúc đó, ai che chở cho em? Chỉ có phước đức của em mới tự bảo vệ mình.
Bản thân tôi cũng là một ví dụ. Năm lên 12 tuổi, một hôm tôi ngồi chơi, vô tình chạm tay vào sợi dây điện 220V hở múi nên bị giật. Ba tôi ngồi ở cái bàn phía sau lưng tôi mà không biết gì cả, mặc dù lúc đó trong tâm thức tôi gào lên: “Ba ơi cứu con!” Trong lúc tuyệt vọng, tôi buông thả sợi dây điện rớt xuống đất, nhờ vậy mà thoát chết. Sau đó, tôi hỏi lại thì ba tôi bảo không nghe, không biết gì việc tôi bị điện giật, dù rằng ông ở cách tôi chưa đầy bốn mét. Cha mẹ ở bên cạnh đó nhưng cũng không thể bảo vệ được con mình huống gì là ở xa? Sau ấn tượng đó, không bao giờ tôi quên; nếu như thiếu phước có lẽ tôi cũng vĩnh viễn ra đi.
Nhờ vậy mà tôi rút ra được bài học, “con người sống trong đời mà thiếu phước đức thì mọi việc đều hỏng, khổ đau sẽ triền miên.”
Vì sao tôi dạy con mình niệm Phật?
Người xưa thường nói: “Dạy con từ thuở còn thơ…..”
Là gia đình Phật tử, hai vợ chồng tôi tu tập tại gia và hướng dẫn các con làm theo những điều tốt, điều thiện. Tôi thường nói với các con mình: “Các con à! Không ai có thể che chở được cho các con ngoại trừ các con. Các con phải cố gắng niệm Phật, bởi vì công đức niệm Phật rất lớn. Đó chính là áo giáp an toàn nhất có thể che chở cho các con chứ không phải ba mẹ hay của cải vật chất. Các con hãy ghi nhớ kỹ điều này.”
Khi tôi có thai các bé thì tôi không hiểu nhiều về Phật pháp nên tôi không thể giáo dục con lúc còn ở trong thai kỳ như các Quý Thầy đã dạy. Vì vậy, bây giờ tôi dạy các con hướng về thiện. Các cháu còn nhỏ nên tôi nghe lời Pháp sư Tịnh Không giảng, thường cho các cháu xem các phim về Nhị Thập Tứ Hiếu, Câu Chuyện Nhân Quả (Cảm Ứng Thiên), Phép Tắc Người Con. Quan niệm của vợ chồng tôi là phải dạy cho các cháu đạo đức, nhân quả khi các cháu còn nhỏ. Sau này nhất định các cháu sẽ trở thành những người có ích cho gia đình và xã hội. Các bậc cha mẹ đừng để con mình lớn rồi mới dạy thì sẽ gặp nhiều khó khăn; bởi vì tính cách hình thành từ bé đã ăn sâu nên khó thay đổi. Nếu như con cái lớn rồi mà tính cách đã quá xấu thì cha mẹ phải thành tâm niệm Phật hồi hướng cho con may ra mới có thể thay đổi được.
Khi tôi học Phật, được biết đến uy lực của câu vạn đức hồng danh A Di Đà Phật thì cảm xúc không thể tả. Công đức niệm danh hiệu Ngài quả thật không thể nghĩ bàn. Chính mắt tôi thấy, tai nghe những câu chuyện về bạn đồng tu, những người niệm Phật thật nhiệm mầu rất chân thật, nhiệm mầu nhất vẫn là một đời này có thể giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Trong cuộc sống xung quanh và ngay trong cuộc sống gia đình tôi cũng cảm nhận được có Phật lực gia trì mỗi khi gặp một chuyện gì đó tổn hại.
Con còn nhỏ không thể giải thích tường tận, nên chúng tôi chỉ khuyến khích các cháu hàng ngày lên trên gác thờ Phật, niệm danh hiệu Phật khoảng mười lăm phút, cũng phát nguyện vãng sanh và hồi hướng về Tây phương. Tuy là thời khóa ít, nhưng hạt giống Bồ-đề cứ gieo cho các cháu cho đến khi trưởng thành chắc chắn sẽ có được lợi ích.
Làm cha mẹ ai cũng mong muốn đem lại những gì quý nhất, tốt nhất để lại cho các con. Tôi lại nói với con: “Trong cuộc đời này, mẹ chỉ biết có một thứ mà không của cải quý giá nào sánh bằng mà ba mẹ có được dành cho các con bằng công đức của việc niệm danh hiệu “A Di Đà Phật”. A Di Đà Phật là VÔ LƯỢNG QUANG, VÔ LƯỢNG THỌ, VÔ LƯỢNG CÔNG ĐỨC, VÔ LƯỢNG TRÍ TUỆ, cái gì Ngài cũng vô lượng. Các con niệm Phật thì bao nhiêu công đức của Phật, cái quả mà Ngài đã thành tựu được con mang đến làm nhân cho mình rồi. Vậy quả của mình cũng sẽ thành Phật trong tương lai, nhân nào quả nấy. Khi con niệm A Di Đà Phật thì người con sẽ có một ánh sáng phát ra, ánh sáng này khiến cho yêu ma quỷ quái và mọi thứ xấu không thể đến gần con được”.
Tôi dạy thêm cho con: “Trong thế gian này ngoài niệm Phật A Di Đà ra các con nên niệm thêm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài đại từ đại bi thường cứu khổ cho nhân gian rất là nhiều. Ngài sẽ che chở cho các con mỗi khi lâm nạn”. Kể cho các cháu nghe một vài chuyện thật về cảm ứng của Ngài cứu khổ trong cuộc sống này và cho các cháu xem thêm đĩa Sự Tích Quán Thế Âm Bồ Tát giúp các cháu tăng thêm niềm tin. Và chính niềm tin này sẽ tạo nên cảm ứng.
Là người học Phật, tất cả chúng ta đều biết mỗi người có một nghiệp riêng. Cha mẹ hay con cái cũng vậy. Cho nên ngoài việc khuyên con niệm Phật, chúng tôi dạy cho con ăn chay, giúp đỡ người khác, biết bố thí, phóng sanh và cúng dường Tam bảo….để các con tự tạo phước báo cho riêng mình. Và đó chính là áo giáp vô hình che chở cho các cháu, hơn tất cả tiền bạc và quyền lực cũng không che chở được. Bên cạnh đó, việc hướng dẫn cho con biết tốt xấu, biết nhân quả, sống biết yêu thương chia sẻ là những bài học giáo dục đầu tiên khi con vừa chuẩn bị vào tiểu học thiết nghĩ rất quan trọng. “Tiên học lễ, hậu học văn” – câu nói này của người xưa không bao giờ thừa. Khi trẻ còn nhỏ mà biết hiếu, nghĩa, yêu thương, nhân quả thì tương lai các bé sẽ là một người có ích cho xã hội và ngược lại nếu như trẻ khi còn nhỏ chỉ biết hưởng thụ, quen được cung phụng và sống ích kỷ, không biết nhân quả thì cho dù tương lai có giàu sang hay quyền lực bao nhiêu thì cũng hỏng, đều là không tốt cho gia đình và cả xã hội. Thời nay chúng ta có thể thấy nhiều, rất nhiều vị đều có tài nhưng thiếu đạo đức – đã làm tổn hại cho xã hội biết bao nhiêu. Từ thực tiễn này nên chúng ta cần chú ý kỹ việc dạy con lúc còn thơ. Hạt giống trồng không tốt nó sẽ cho ra trái đắng, nếu biết cách chăm sóc thì nó sẽ trở thành trái ngọt. Tất cả đều tùy thuộc vào mình – bậc phụ huynh chúng ta. Nhờ Phật pháp tôi hiểu được những điều này, cũng nhờ Phật pháp mà tôi biết đến công đức niệm Phật rất vi diệu, nhiệm mầu không thể nghĩ bàn. Đó cũng chính là lý do mà tôi muốn các con mình niệm Phật.
Diệu Âm Lệ Hiếu
09 09 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Ăn chay đối với nhân loại mà nói, không kể là giữ được thân thể khỏe mạnh, hay tránh được nhân quả nghiệp báo, những lợi ích khác không thể nói cùng. Lại từ một người khuếch đại đến quốc gia xã hội, khiến cho xã hội an lành, thế giới hòa bình, có thể thấy lợi ích của ăn chay thật không thể tính đếm.
Trong vô lượng lợi ích, tôi cho rằng lợi ích lớn nhất của ăn chay, phải là tăng trưởng lòng từ bi. Nghĩa là sao? Đại Trí Độ Luận nói: từ bi là gốc của Phật đạo. Nói rõ hơn một chút, người có lòng từ bi khả vọng thành Phật, làm pháp vương vô thượng cho tam thiên đại thiên thế giới đọc tiếp ➝
05 09 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Có nhiều vị đã tham gia hộ niệm hoặc quan tâm đến pháp Hộ Niệm Vãng Sanh đã phát hiện ra những sơ suất từ các Ban Hộ Niệm (BHN) trong nước cũng như ở ngoài nước.
Nghe được những thông tin này làm Diệu Âm cũng khá ưu tư. Hôm nay muốn xin chia sẻ một số điều với tất cả các Ban Hộ Niệm, cùng chư vị quan tâm như sau:
Pháp hộ Niệm là chánh pháp có thể cứu huệ mạng một người phàm phu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc đọc tiếp ➝
03 09 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
“Việc đi hộ niệm cho bạn đồng tu sẽ mang lại nhiều hạnh phúc và lợi lạc cho mình. Đồng thời giúp cho người mất được vãng sinh, về với thế giới Tây phương Cực lạc” – cô Nhàn cười vui nói.
Người mất vãng sinh, mình hạnh phúc
Gặp gỡ cô Nhàn tại nhà riêng ở xóm chạy thận Bạch Mai (ngõ 93 Lê Thanh Nghị), tôi ngạc nhiên khi trên tầng 2 nhà cô có 1 phòng thờ Phật hết sức gọn gàng và trang nghiêm.
Cô Nhàn chia sẻ: “Đây là nơi sinh hoạt của đạo tràng. Hàng ngày mọi người vẫn đến đây để cộng tu, tụng Kinh, niệm Phật. Khi nào có tư gia muốn đạo tràng đến hộ niệm thì chúng tôi lại đi”.
Vấn đề hộ niệm vãng sinh là thể hiện tình cảm trong đạo của nhau vào giờ phút người lâm chung. Bên cạnh đó, đức Phật cũng dạy cận tử nghiệp (thời điểm người bị hấp hối – PV) đóng một vai trò quan trọng trong việc tái sinh của một chúng sinh.
Cầm trên tay cuốn sách “Những điều cần biết khi lâm chung” của Pháp sư Tịnh Không, cô Nhàn bộc bạch tâm sự: “Năm 2007, lần đầu tiên cô đi hộ niệm cùng đạo tràng Minh Khai ở chùa Hưng Ký. Lần đó có nhiều kỷ niệm vui và xúc động lắm”.
Cô Nhàn kể là lần đó, có một cụ mất. Cả ban hộ niệm có 16 người đến, chia thành ca, thay phiên nhau niệm Phật trong vòng 14 tiếng. Cứ niệm được 30 phút thì khai thị và lạy sám hối một lần. Chúng tôi niệm Phật mà không thấy đói, không thấy mệt gì cả.
Càng niệm Phật thì mặt cụ càng hồng hào, thân thể mềm mại và ấm dần lên. Điều này, chứng tỏ cụ đã được sự tiếp dẫn vãng sinh của đức Phật A Di Đà mà vào pháp giới tự tính A Di Đà của chính mình.
Cả ban hộ niệm ai cũng vui mừng và biết được cụ đã vãng sinh nên niệm Phật thêm 4 tiếng nữa để giúp bà cụ tăng cao phẩm vị. Sau khi hộ niệm hoàn mãn, cả đạo tràng ra về và cô lại đi chạy thận… như thường.
Nhưng sẽ bị “lúng túng” khi có nhiều oan gia trái chủ
Vừa dứt lời kể kỷ niệm vui lần đầu tiên cô Nhàn tham gia hộ niệm, mặt cô bắt đầu trầm ngâm và bắt đầu kể một câu chuyện khác cho tôi nghe. Đó là sự lúng túng trong một lần đi hộ niệm.
Đạo tràng của cô đi hộ niệm cho một người bị bệnh ung thư ở phố Thụy Khuê (Hà Nội) liên tục trong vòng 3 tháng. Đến lúc người ấy mất, rất nhiều người bán hàng ở chợ gần đó đã vào nhà người đó và niệm Phật cùng đạo tràng.
Lúc đó, tự nhiên có nhiều oan gia trái chủ đã nhập vào con trai người đã mất và có nhiều thoại ứng (hiện tượng – PV) xuất hiện. Trong lúc này cả ban hộ niệm đã lúng túng, không biết xử lý thế nào thì cô đã gọi cho cư sĩ Diệu Thường (TPHCM) là người hay đi khai thị cho người lâm chung.
Cư sĩ Diệu Thường đã khai thị qua điện thoại và bảo mọi người cứ tiếp tục niệm bốn chữ “A Di Đà Phật”, lúc này cậu con trai kia mới tỉnh trở lại, oan gia trái chủ đã biến mất. Mọi người lại nhất tâm niệm Phật quanh người mất.
Còn đối với cậu con thì từ lúc đó, cứ thế niệm Phật liên tục trong ba ngày liền cho đến khi bà mẹ đi hỏa thiêu. Điều ngạc nhiên là người mất để suốt 3 ngày liền mà không thấy có mùi hôi gì cả, nhìn họ vẫn hồng hào.
Người đi hộ niệm phải có tâm thì hộ niệm mới có lợi lạc và năng lượng cao.
Kể đến đây, cô Nhàn có chia sẻ thêm với tôi về những điều cần thiết nhất của người đi hộ niệm và người được vãng sinh về Tây Phương Cực lạc.
Theo cô thì những người đi hộ niệm nên ăn chay, điều này thể hiện lòng chân thành, cung kính đối với người mất, công đức này càng lớn hơn. Ngay nơi trợ niệm mà hút thuốc, uống rượu, ăn thịt sẽ không tốt. Làm như vậy là không có tâm cung kính đối với người chết.
Thêm vào đó lúc hộ niệm, không được đụng chạm hoặc cho người nhà đụng chạm đến người mất, chí ít cũng phải để qua 8 tiếng đồng hồ. Bởi khi thần thức chưa rời khỏi xác họ sẽ khởi tâm sân, tâm sân hận này sẽ kết oán thù với bạn và chính họ sẽ bị đọa vào ba đường ác.
Đặc biệt, người đi hộ niệm phải dùng tâm chân thành, thanh tịnh, tâm từ bi. Đừng cầu mong thoại tướng (hình tướng – PV) hay thoaị ứng xuất hiện. Niệm Phật không được chuyên tạm, nếu không có thành ý thì từ trường niệm Phật sẽ không tốt và gây bất lợi cho người mất.
Còn đối với người mất được vãng sinh thì tuyệt đối phải có ba thứ: Tín (niềm tin có đức Phật A DI ĐÀ tiếp dẫn – PV), Nguyện (nguyện vãng sinh về Tây phương Cực lạc – PV), Hạnh (hằng ngày trì tụng kinh, niệm Phật – PV).
“Đặc biệt là khi mất phải buông xả hết những thứ của trần tục như tiền bạc, nhà cửa… Như thế mới được vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc được” – cô Nhàn hoan hỉ nói.
Bùi Hiền (theo kienthuc.net.vn)
Ảnh trên: Cô Nhàn, người chuyên đi hộ niệm ở Hà Nội
128/189Đầu«...10...127128129...140...»Cuối
Các Phúc Đáp Gần Đây