29 09 2011 | Suy Gẫm & Thực Hành |
1. Chuyển biến nghịch cảnh, tiêu trừ tai nạn
Sự khổ vui của mỗi người vốn là một thứ quả báo, phải vận dụng cả ba đời để quán sát. Nếu chẳng hiểu rõ đạo lý này, làm sao thông hiểu được? Hiện tại chúng ta gặp phải nghịch cảnh, mắc phải tai nạn, đương nhiên là có dính líu đến nhân quả. Cách để chuyển biến, tiêu trừ chúng nhanh nhất chính là Niệm Phật. Trong kinh từng nói chí tâm niệm Phật một câu, tiêu trừ được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Nếu đã tiêu trừ được tội thì nào còn có nghịch cảnh, tai nạn gì nữa! Kinh còn dạy người niệm Phật A Di Ðà được vô lượng vô biên chư Phật ở bốn phương, thượng, hạ hộ niệm. Phật là bậc pháp lực vô biên vạn đức, vạn năng, đã được Phật gia bị thì còn sợ gì tai nạn cơ chứ?
2. Thoát khỏi luân hồi, trường sanh vĩnh viễn
Ngoài lục đạo lại còn có cảnh giới nào khác thì thật là chuyện lạ. A! Lục đạo là cảnh phàm, nào biết còn có cảnh Thánh. Cảnh Thánh chính là cõi Phật. Trong các thế giới ở phương Tây, có thế giới Cực Lạc, là quốc độ của Phật A Di Ðà, hoàn toàn do bảy báu tạo thành, trang nghiêm thanh tịnh.
So với bất cứ cõi thiên cung nào, thế giới Cực Lạc cũng tốt đẹp hơn ngàn vạn vạn lần. Ðiểm tuyệt diệu nhất là thọ mạng vô lượng, chẳng giống như cõi trời, cõi người sanh tử chẳng ngừng trong lục đạo. Trong kinh có dạy: Nếu ai sanh về đó thân đều sắc vàng, quang minh chói lọi, thần thông đầy đủ, nghĩ đến áo liền có áo, nghĩ ăn liền có ăn, thọ mạng vô lượng, sống mãi đến khi thành Phật.
Phương pháp rốt ráo để sanh về đó là như kinh đã dạy: Niệm A Di Ðà đến Nhất Tâm Bất Loạn. Lúc lâm chung, nhất định A Di Ðà Phật đến rước đi.
3. Nêu lời cổ huấn để chứng minh
Những điểm tốt lành vừa được đề cập trong hai đoạn trên đều được chép trong kinh, vốn ngàn lần, vạn lần chân thật, chẳng cần phải nhọc công nêu chứng minh. Nhưng càng chứng minh nhiều thì tín tâm càng thêm kiên cố nên chẳng ngại dài dòng, nêu thêm mấy câu về “mười đại lợi ích của việc niệm Phật”. Nghĩa là người niệm Phật quyết định sẽ được mười điều lợi ích:
1) Ngày đêm thường được hết thảy chư thiên, đại lực thần tướng ẩn thân thủ hộ người ấy.
2) Thường được hai mươi lăm vị đại Bồ Tát như Quán Âm bảo vệ, gia hộ.
3) Ngày đêm thường được chư Phật hộ niệm, A Di Ðà Phật thường phóng quang minh nhiếp thọ người ấy.
4) Hết thảy ác quỷ, dạ-xoa, la-sát đều chẳng hại được, chẳng bị trúng phải rắn độc, thuốc độc.
5) Nước, lửa, oán tặc, đao binh, súng ống, gông, cùm, lao ngục… đều chẳng mắc phải.
6) Những tội nghiệp đã tạo khi trước thảy đều tiêu diệt.
7) Ðêm ngủ mộng thấy điềm lành, hoặc thấy thân sắc vàng thắng diệu của Phật A Di Ðà.
8) Tâm thường hoan hỷ, vẻ mặt tươi tắn, khí lực sung mãn, việc làm tốt đẹp.
9) Thường được hết thảy mọi người trong thế gian cung kính lễ bái giống hệt như kính Phật.
10) Lúc lâm chung tâm không hãi sợ, chánh niệm hiện tiền. Tây Phương Tam Thánh dùng đài vàng tiếp dẫn vãng sanh Tịnh Ðộ, liên hoa hóa sanh, hưởng sự vui thắng diệu.
Xin quý vị chú ý: Trong mười điều lợi ích này, chín điều trước đều là những lợi ích chuyển hóa nghịch cảnh, tiêu trừ tai nạn. Ðiều lợi ích cuối cùng là thân sau thoát khỏi luân hồi.
Phương pháp niệm Phật
1. Khóa lễ sáng chiều đơn giản nhất
– Nam mô đại từ đại bi Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (niệm một lần, lễ một lạy, hoặc chỉ chắp tay).
– Nam mô đại từ đại bi A Di Ðà Phật (niệm một lần, lễ một lạy, hoặc chỉ chắp tay).
– Nam mô A Di Ðà Phật (không cần lễ bái, chỉ cung kính niệm. Quỳ niệm, ngồi niệm, đứng niệm đều được. Tối thiểu là trăm câu đến ngàn câu, vạn câu tùy theo công việc rảnh hay bận của mỗi người. Chỉ nên từ ít tăng lên nhiều, đừng từ nhiều giảm xuống ít).
– Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (một niệm, một lạy).
– Nam mô Ðại Thế Chí Bồ Tát (niệm một niệm, một lạy. Quán Âm, Thế Chí là hai vị hiệp sĩ [Bồ Tát thị giả thân cận] của đức A Di Ðà, thường gọi chung là Tây Phương Tam Thánh. Niệm Phật xong, lẽ đương nhiên nên lạy hai Ngài)
– Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát (một niệm, một lạy. Cực Lạc thế giới có rất nhiều vị Bồ Tát, tương lai đều là thầy bạn của mình nên cũng nên lễ bái)
Nguyện đem công đức này,
Trang nghiêm Phật tịnh độ
Trên đền bốn ân trọng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có ai thấy nghe,
Ðều phát tâm Bồ Ðề,
Hết một báo thân này.
Cùng sanh cõi Cực Lạc.
(Ðây là bài hồi hướng, cũng nói về nguyện lực niệm Phật của mình).
Lễ bái lui ra.
* Phụ chú:
Mỗi ngày sáng chiều hai lượt thực hành công khóa trên đây. Rửa tay, súc miệng, đối trước tượng Phật thắp hương, đảnh lễ, theo đúng pháp tụng niệm. Nếu không có tượng Phật hoặc chỗ mình ở không thuận tiện thì không đốt hương, không đảnh lễ cũng được, chỉ hướng mặt về Tây, trong lòng cung kính thì cũng có công đức tương tự. Ðừng niệm những chữ ghi trong dấu ngoặc.
2. Phương pháp niệm Phật mười hơi
Cho đến hết một hơi, niệm dăm ba câu hoặc sáu bảy câu “Nam mô A Di Ðà Phật”. Niệm hết mười hơi như vậy bèn niệm bài hồi hướng một lượt, lễ bái lui ra.
* Phụ chú:
Cách này dành cho người cực kỳ bận rộn, chỉ tốn thời gian không quá năm phút. Ðiều trọng yếu nhất là mỗi ngày sáng chiều phải thực hành một lần. Vạn phần chẳng được gián đoạn. Có tượng Phật thì đối trước tượng Phật niệm tụng, không có tượng Phật thì hướng về phía Tây mà làm.
Hai cách niệm Phật vừa đề cập trên là dành cho người quá bận rộn. Nếu có lúc rảnh rỗi thì sau khi niệm “Nam mô đại từ đại bi A Di Ðà Phật”, tụng một quyển kinh A Di Ðà, tụng ba biến chú Vãng Sanh, tán Phật một lượt thì càng hay. Cách hành trì này tối đơn giản, hợp thực tế, quyết định thành công.
Trích TUYẾT HƯ LÃO NHÂN TỊNH ÐỘ TUYỂN TẬP
(Tuyển tập những bài viết về Tịnh Ðộ của lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam)
Trích dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
27 09 2011 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Nghiệp lực của chúng sanh khó nói được. Mọi người sanh ra trong cõi này đều có vô số Nghiệp Lực đeo theo. Ta đã tạo ra Nghiệp từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ, tích tụ và tùy duyên mà phát sinh Quả Báo. Cõi này là khổ, chúng ta gây nhân tội lỗi nên phần nhiều là quả khổ. Trong Kinh Phổ Hiền nói:
“Nếu ác nghiệp chúng sanh đã tạo mà có hình tướng thì khắp cõi hư không chẳng thể đựng chứa hết được”.
Những Nghiệp Ác này chỉ có tu hành theo pháp Phật mới có thể giảm thiểu lần lần, chỉ khi nào dứt hẳn không còn mảy tơ thì chủng tử ác mới thật sự dứt sạch. Người thời nay tu hành cho sạch Nghiệp được giải thoát thật là khó. Do vậy Ðức Phật đã vì lòng từ bi mà nói ra Pháp Môn Niệm Phật, cầu sanh Cực Lạc, đới nghiệp vãng sanh. Nghĩa là mang cả khối Nghiệp mà hư không chẳng thể đựng chứa hết được này, sanh về cõi nước của Phật A Di Ðà thì an toàn, bảo đảm không phát ra quả báo khổ để phải chịu. Cõi ấy không có duyên phát khởi nên những chủng tử xấu không kết thành quả báo xấu. Chúng sinh ở đó do công năng tu hành mà những Nghiệp Dư ấy dần dần tiêu trừ, cho đến không còn nữa. Ở cõi này, ngay như thân cuối cùng để thành Phật của Ðức Thích Ca cũng còn phải chịu những dư báo xấu sót lại như bị kim đâm, ăn lúa ngựa… huống là những bậc thấp hơn, nói gì đến chúng ta là hàng phàm phu, Nghiệp Lực dẫy đầy. Người đời nay trong khi tu hành rất dễ sa vào Nghiệp tăng thượng mạn, xem Kinh thấy có chút hiểu biết, cứ tưởng mình đã được, mình là người cứu độ chúng sanh. Ta đọc trong Kinh Kim Cang có câu:
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.
Nghĩ tới ngẫm lui rất đắc ý, tưởng rằng đã được đến chỗ như trong Kinh nói nhưng không được vậy, không những là Bồ Tát mà phải là bậc Ðại Bồ Tát mới được như thế. Chúng ta là phàm phu ăn dơ, lúc tiêu hóa phải thải ra cặn bã mà chính mình còn không chịu nổi. Kinh Duy Ma Cật nói, Ngài Duy Ma đi xin cơm ở nước Chúng Hương của Phật Hương Tích để cúng dường chúng hội, mọi người ăn vào đều được nhẹ nhàng, sảng khoái. Ngài Xá Lợi Phất có bạch Phật, cơm ấy chừng nào mới tiêu? Ðức Phật dạy:
“Nếu người ăn vào mà được tăng thượng quả chứng, từ quả vị này bước qua quả vị khác thì cơm ấy sẽ tiêu, bình thường thì thế lực của nó được trong bảy ngày, nghĩa là trong bảy ngày người ấy không thấy đói, vẫn nhẹ nhàng, sảng khoái, khi tiêu hủy hết sẽ tan thành hơi thơm mà ra ngoài, không có cặn bã”.
Cũng vậy, ở cõi nước Cực Lạc, tưởng ăn thì thức ăn hiện ra rồi mình tưởng như đã ăn, chớ thật ra không có ăn nhưng vẫn cảm thấy no đủ, nhẹ nhàng. Kinh A Di Ðà đã diễn tả ở Cực Lạc ngày đêm Sáu Thời rưới Hoa Trời Mạn Ðà La. Hoa ấy sẽ tự tan biến rồi rưới hoa mới, không còn cặn bã, không như vậy thì hoa mới chồng lên hoa cũ mỗi ngày một cao lên không biết đến đâu. Ðó chính là Quả Báo thù thắng. Chúng sanh ở cõi Ta Bà Nghiệp Lực sâu dày, thứ gì cũng có cặn bã. Nói như thế để chúng ta luôn nhớ mình là phàm phu, Nghiệp Lực dẫy đầy. Nhiều khi mình quên mình là chúng sanh, cứ nghĩ là bậc này, bậc nọ đang cứu độ chúng sanh thì thật là sai lầm. Vì thế tôi mỗi khi tụng Kinh, niệm Phật đều hồi hướng cho tất cả chúng sanh, nghĩ mình là người được hồi hướng chớ không nghĩ là người đang hồi hướng.
Qua việc Nghiệp Lực, tôi khuyên nhắc các huynh đệ cố gắng tu hành, bớt việc ngoài, dành nhiều thời gian để tụng Kinh, niệm Phật. Chúng ta phải chí thành tha thiết thì Nghiệp Lực nhiều đời mới nhẹ bớt, chỉ có sanh về Cực Lạc mới có thể mang được Dư Nghiệp mà tiến tu đến ngày thành Phật.
Đại lão hòa thượng Thích Trí Tịnh khai thị
26 09 2011 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Tôi năm nay đã 95 tuổi, ngày giờ đã đến lúc phải mãn. Tôi cũng cố gắng lắm, kỳ thật những người bạn đồng tu cùng thời với tôi đều đã theo Phật từ lâu. Tôi còn ở trên đời để gặp mặt tất cả các huynh đệ là điều hy hữu lắm. Tôi tuổi đã cao, sức khỏe cũng yếu không thể nói nhiều nên chỉ nói những điều cốt yếu để nhắc nhở tất cả các huynh đệ.
Trong việc tu hành, Quả Vị cao của các bậc Thánh chính yếu là nương nơi Lý Tánh (Tánh Không). Nhưng chúng ta đều là người sơ cơ, trong Sáu Nẻo Luân Hồi dù rằng may mắn được đọc tiếp ➝
22 09 2011 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Hỏi: Người tu Tịnh nghiệp tụng kinh A Di Đà và các kinh Đại thừa khác được không?
Đáp: Nói chung tụng kinh Phật, trì các chú ngữ là quý rồi, xét riêng hành giả chuyên tu Tịnh nghiệp thì:
– Tụng kinh A Di Đà là chánh hạnh mà nghiệp phụ. Niệm Phật A Di Đà là chánh hạnh mà nghiệp chánh.
– Còn tụng các kinh khác, dù là kinh Đại thừa cũng là tạp hạnh.
Vả lại, danh hiệu A Di Đà Phật là vua các chú (Tuyết Hư Lão Nhân Tịnh Độ Tuyển Tập). Vậy niệm A Di Đà Phật là cao tột, thù thắng hơn trì tụng bất cứ chú ngữ nào khác (hãy đọc Phần 4, mục 2 Công đức niệm Phật).
Liên Trì cảnh Sách dạy: “Niệm Phật chính là tụng hết thảy kinh. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật là tinh hoa cô động của ba tạng kinh điển”.
Liên Tông thập nhất Tổ Tĩnh Am đại sư, Liên Tông Thập nhị Tổ Triệt Ngộ đại sư, Pháp sư Tịnh Không đồng dạy: “Niệm Phật phải niệm không xen tạp không gián đoạn”. Liên Tông Bát Tổ Liên Trì đại sư dạy: “Bí quyết của niệm Phật là niệm nhiều, niệm không xen tạp không gián đoạn” Tụng kinh là xen tạp gián đoạn quá nhiều rồi.
Vã lại trong bốn mươi tám đại nguyện của Phật A Di Đà có nguyện nào nói tụng bao nhiêu biến kinh để dƣợc Ngài tiếp dẫn đâu? mà nguyện thứ mười tám nói: niệm mười niệm là được Ngài tiếp dẫn. Vậy thì tụng kinh và niệm Phật cái nào hợp với bản nguyện của Đức Phật A Di Đà, hợp với lời dạy của chư Thầy, Tổ, cái nào trọng yếu hơn?
Hành giả dành thì giờ tụng kinh để niệm Phật (bốn chữ hay sáu chữ chuyên nhất, gắn gọn dể nhập tâm hơn), niệm nhiều huân trưởng hạt giống Phật càng lớn, đạt Bất niệm tự niệm bảo dảm vãng sanh, đúng chí nguyện của mình, đúng bản nguyện của đức từ phụ Di Đà, đúng lời chỉ giáo của đức Bổn sư Thích Ca, đúng sự mong chờ của chư Thầy, Tổ còn chần chờ, chọn lựa gì nữa?
Trích NIỆM PHẬT ĐẠT BẤT NIỆM TỰ NIỆM BẢO ĐẢM VÃNG SANH
Tác giả: Thích Minh Tuệ
20 09 2011 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Phật thuyết minh vì sao chẳng nên thấy lỗi người khác? Có đạo lý đấy! Trong Giới kinh thường nói kẻ phá giới Phật vẫn có biện pháp cứu được, nhưng mất chánh kiến, Phật không còn cách nào cứu nổi. Những người kia tuy phá giới, nhưng không phá chánh kiến. Vì sao? Vì họ tin tưởng Tam Bảo sâu xa, vẫn còn cứu được!
Thí dụ rõ ràng nhất là như chuyện pháp sư Oánh Kha đời Tống được chép trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục là một thí dụ rất hay. Lúc còn sống, sư Oánh Kha phá giới, tạo tác rất nhiều ác nghiệp. Sở dĩ sư được cứu là vì tin tưởng Tam Bảo, vẫn tin tưởng nhân quả, tự nghĩ mình nhất định đọa địa ngục A Tỳ. Nghĩ đến chuyện ấy, sư sợ run, cầu hỏi bạn đồng tu có cách nào cứu giúp hay không? Bạn đồng tu của sư cũng rất hiếm có, tặng sư một cuốn Vãng Sanh Truyện, bảo hãy tự xem. Sư đọc thấy người ta niệm Phật vãng sanh, tâm liền chấn động, thật sự phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Tâm sư chân thành, khẩn thiết, niệm đến ba ngày ba đêm cảm đức A Di Đà Phật hiện thân.
A Di Đà Phật dạy ông: “Ông còn sống được mười năm nữa, hãy gắng tu tập, mười năm sau, lúc ông mạng chung, ta sẽ đến rước ông”. Oánh Kha cũng hiếm có, sư thưa cùng A Di Đà Phật: “Con nghiệp chướng rất nặng, chẳng chống cự nổi những dụ dỗ, mê hoặc, người ta dẫn dụ là con lại phạm tội, phạm tội nữa thì chẳng biết mười năm sau con tạo không biết bao nhiêu là tội nghiệp, con chẳng cần sống thêm mười năm nữa đâu, bây giờ con cứ theo Phật thôi!” Phật cũng từ bi đáp ứng: “Ba ngày sau ta sẽ đến tiếp dẫn ông”. Ba ngày sau sư liền vãng sanh.
Kinh A Di Đà nói niệm một ngày, hai ngày đến bảy ngày là thật đấy, chẳng phải giả đâu. Vì sao chúng ta niệm Phật đã lâu như vậy mà chẳng được vãng sanh? Chúng ta chỉ ưa thích vãng sanh nơi cửa miệng, chứ trong tâm tham luyến thế giới này , bỏ chẳng được! Phật biết rất rõ ràng, minh bạch, biết những lời quý vị nói đều là giả, nói không thật, nên Ngài chẳng đến; quý vị thật sự muốn vãng sanh, Phật sẽ đến. Quý vị chẳng nói lời chân thật, miệng đúng, tâm sai, nên có niệm suốt đời, Phật cũng chẳng nghĩ đến, còn người ta niệm chỉ ba ngày là Phật liền nghĩ đến ngay, là vì nguyên nhân nào? Vì thật sự niệm. Nếu như ở đây chúng ta đả Phật thất đúng như thế, niệm Phật bảy ngày liền vãng sanh thì sẽ chẳng còn ai đến đây nữa đâu! Đúng vậy đó, sau bảy ngày là phải chết rồi, còn ai dám đến đây nữa!
Đoạn kinh này nói về người phá giới, nhưng chẳng phá chánh kiến, [vẫn còn là] chánh tri, chánh kiến, chẳng phải là tà tri, tà kiến. Chánh kiến đó là nhân để giải thoát, họ sẽ được cứu, được vãng sanh, không chỉ vãng sanh mà lắm khi phẩm vị vãng sanh còn rất cao nữa kia! Qua kinh điển, chúng ta thấy vua A Xà Thế, chẳng hạn theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, vua từng giết cha, hại mẹ, theo Đề Bà Đạt Đa phá hoại Tăng đoàn, tạo tội ngũ nghịch, thập ác. Đề Bà Đạt Đa đọa địa ngục, còn vua lúc lâm chung mới sám hối, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, Phật bảo nhà vua là thượng phẩm trung sanh, thật là ngoài sức tưởng tượng của chúng ta!
Bởi thế, chúng ta mới hiểu được rằng: Có hai loại người vãng sanh Tịnh Độ, một là hạng bình thời niệm Phật tích công lũy đức, hai là khi lâm chung sám hối, phẩm vị cao hay thấp phụ thuộc sức sám hối của người đó. Vua A Xà Thế chân tâm sám hối, nên đạt được phẩm vị cao như thế. Bởi thế, chúng ta chẳng được khinh mạn những người tạo ác nghiệp, “chẳng nên thấy lỗi họ”.
Trích Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh Giảng Ký
Chủ giảng: Hòa Thượng Thích Tịnh Không
Cư sĩ Truyền Tịnh chỉnh lý
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
09 09 2011 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Có người đọc kinh, thấy Phật nói lúc lâm chung chỉ cần niệm từ 1 đến 10 niệm, chư Phật và Bồ tát sẽ hiện thân tiếp dẫn. Dựa vào đó mà xem thường, lơ là việc tu niệm, đây là điểm sai lạc của rất nhiều người. Chúng ta nên biết rằng, không thể nào làm được một bài toán đạt kết quả cao, nếu như trước đó hoàn toàn không biết gì về toán học. Cũng vậy, người cả đời tham, sân, si, danh từ Phật, hay “Nam Mô” còn không biết, chưa bao giờ niệm trọn lành một câu Phật hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” mà mong niệm được 10 niệm lúc lâm chung. Lại nữa, lúc lâm chung, cơ thể vật lý rã tan, thần thức u mê hoảng loạn, tình cảm luyến thương, buồn giận lẫn lộn, mê mờ không biết đích xác mình còn sống hay đã chết. Lúc này giữ cho tâm bình an đã khó, nói chi niệm đến 10 niệm mong cầu vãng sinh. Lý giải việc này, hành giả nên tĩnh tâm quán xét ví dụ trên sẽ rõ. Lời Phật dạy hoàn toàn đúng, nhưng chỉ đúng với những hành giả tinh chuyên niệm Phật, cả đời sống với câu niệm Phật, sống với Phật của chính mình. Mười niệm này là giọt nước làm tràn ly nước, nghĩa là lúc sống hành giả có niệm Phật, dù ít hay nhiều, đã gieo vào Tạng thức (thức thứ 8 theo trường phái Duy thức) hạt giống của câu niệm Phật, nhưng lúc lâm chung do nghiệp chướng sâu dày, không thể tự niệm, cần có người giúp sức. Bấy giờ người thân, bậc thầy, hay thiện hữu tri thức cùng nhau trợ niệm, nhờ nhân duyên ấy, người sắp lâm chung nương theo tiếng niệm Phật, khởi lên câu niệm Phật trong tâm mình, thần thức lúc này phần nào an định cùng với nguyện lực của Phật và Thánh chúng tiếp dẫn vãng sinh Tây phương Cực lạc.
Ngoài ra, người niệm Phật nên chuyên tâm đọc tụng kinh điển, tư duy quán chiếu để đưa cảnh giới Cực lạc trong kinh in sâu vào trong tâm thức của mình. Lúc niệm Phật, trước tiên chúng ta nên quán tưởng đến cảnh giới vi diệu ấy, nơi đó có Phật A Di Đà, Thánh chúng, những thiện hữu đã được vãng sinh, trong đó ta quán sát thấy hoa sen của mình đang dần hé nở. Phật và Thánh chúng đang hiện ra quanh ta, nhờ tư duy như vậy chúng ta vừa có thể tịnh hóa được khu vực ta đang niệm Phật, đồng thời tạo động lực mạnh mẽ khiến tâm nhu nhuyến, dễ dàng tiến đến niệm Phật nhất tâm. Muốn vậy chúng ta cần phải nương tựa vào bậc thầy, người hướng đạo cho chúng ta.
Khi hành giả đã thuần thục câu niệm Phật, lúc nào cũng vui sống trong cảnh giới Cực lạc do tinh tấn tư duy quán tưởng, tâm đã dịu mềm, thuần khiết, mỗi hành động đều nhiếp vào câu niệm Phật, khi đó hành giả có thể đem lợi ích này áp dụng vào đời sống, nhằm chuyển hóa cho mọi người, với mong muốn mọi người luôn có được an lạc như mình.
Trích Hãy sống với Phật A Di Đà trong mỗi chúng ta
Tâm Hòa
145/188Đầu«...10...144145146...150...»Cuối
Các Phúc Đáp Gần Đây