10 Điều Khó Khi Tu Ở Thế Gian Này So Với Cực Lạc

10 Điều Khó Khi Tu Ở Thế Gian Này So Với Cực LạcBồ-tát Long Thọ nói: “Tu hành trong cõi Ngũ trược gọi là khó hành đạo, như người què đi trên đường hiểm trở, một ngày chẳng đi quá mấy dặm. Tu hành ở Tịnh độ gọi là dễ hành đạo, như kẻ phàm phu nương vào sức mạnh của Chuyển Luân Vương, trong một ngày đi khắp tứ thiên hạ”.

Nay đem mười điều khó ở cõi Ta-bà để so sánh với mười điều dễ ở Tịnh độ:

1. Ta-bà không thường gặp Phật. Phật Thích-Ca đã diệt độ, tà pháp mạnh mẽ; Cực Lạc thì Phật thường chẳng diệt, hiện đang làm giáo chủ.

2. Ta-bà mạt pháp nhiễu nhương, có nhiều ngoại đạo, dù bàn Phật pháp nhưng đa số nghiêng lệch sai lầm; Cực Lạc thì Phật và Bồ-tát, nước, chim, cây rừng thường tuyên thuyết Diệu pháp.

3. Ta-bà bạn bè tà ác, mong cầu lợi dưỡng, làm mê lầm người tu hành đọa vào ba đường ác; Cực Lạc thì Quán Âm, Thế Chí làm bạn thù thắng, các bậc Thượng thiện nhân ở chung một nơi.

4. Ta-bà có các loài ma não loạn, phá hoại chánh pháp; Cực Lạc tuy có Thiên ma nhưng đều hộ trì chánh pháp, giúp người tu hành mau được thành tựu.

5. Ta-bà luân hồi trong sáu nẻo, như bánh xe xoay vòng không có ngày dừng nghỉ; Cực Lạc thì hoa sen hóa sinh, không còn luân chuyển trong đường sinh tử khổ đau.

6. Ta-bà qua lại ba cõi theo nghiệp chịu quả báo, tuy sinh lên cõi Trời nhưng khó tránh con đường ác; Cực Lạc thì danh từ của ba đường ác còn không nghe, huống chi có thật.

7. Ta-bà trần duyên ác trược, thường làm chướng ngại đối với việc xuất thế; Cực Lạc thì lầu vàng điện ngọc, áo đẹp cơm ngon đều làm phương tiện trợ giúp tu hành.

8. Ta-bà con người sống trăm năm nhưng phần nhiều chết yểu, thời gian mau chóng, đại đạo khó thành; Cực Lạc thì tuổi thọ của chúng sinh ngang bằng với Phật.

9. Ta-bà tu hành phải đoạn trừ Kiến hoặc, Tư hoặc mới có thể được Bất thối chuyển. Người mới tu chưa tránh khỏi sự thối chuyển đọa lạc; Cực Lạc thì chúng sinh khi sinh về đều vào Chánh định tụ mãi không còn thối chuyển.

10. Ta-bà người tu hành trải qua muôn kiếp khó thành, như các vị đồ đệ nghe pháp trong thời Phật Đại Thông, thối chuyển Đại thừa chấp vào Tiểu thừa, trải qua vô số kiếp còn ở bậc Thanh văn; Cực Lạc thì chỉ một đời này thường theo Phật học, tiến thẳng đến đạo tràng, thành tựu đạo giác ngộ Vô Thượng.

Mười điều khó và dễ nói trên đây, thật cách xa nhau như trời với vực. Nếu cậy vào sức mình thì chỉ luống uổng tự nhọc nhằn. Nhưng nếu nương nhờ vào duyên thù thắng thì được sự lợi ích cao rộng.

Người tu hành nên chọn lựa!

Trích TỊNH TỪ YẾU NGỮ
Thiền Sư Nguyên Hiền
Thích Minh Thành dịch

Hào Quang Tỏa Sáng Khi Niệm Phật

Hào Quang Tỏa Sáng Khi Niệm PhậtCó 2 vị Lạt-Ma là Ajo và Reto cùng theo học 1 thầy. Reto là 1 học giả tinh thông Kinh điển, có thể giảng giải, trích dẫn hầu như tất cả sách vở 1 cách dễ dàng, trong khi Ajo chỉ chuyên tâm Lễ Bái và Thiền Định.

Lạt Ma Reto ghi danh vào Đại Học Drepung, tốt nghiệp thủ khoa, trở nên 1 Pháp Sư nổi tiếng của Tây Tạng, trong khi Lạt Ma Ajo vẫn ẩn tu tại làng Chumbi.

Sau nhiều năm không gặp nhau, 1 hôm Pháp Sư Reto có dịp công du qua làng cũ. Nhớ đến người huynh đệ đồng môn, ông ghé lại ngôi chùa xưa thăm hỏi. Gặp nhau cả 2 đều mừng rỡ chuyện trò vui vẻ, Reto bèn hỏi Ajo đã tu học đến đâu. Lạt Ma Ajo thành thật thưa rằng: “Bao năm nay chỉ chuyên tụng 1 bộ Kinh A Di Đà mà thôi”. Pháp Sư Reto lắc đầu than cho chú em quê mùa hủ lậu, Kinh điển thiên kinh vạn quyển không đọc mà chỉ đọc tụng có 1 bộ Kinh tầm thường mà gần như ai cũng biết. Reto bèn giảng giải cho Ajo một hồi về những pháp môn cao siêu cho đến tận khuya mới đi ngủ.

Vừa chợp mắt ít lâu, ông đã giật mình tỉnh giấc vì thấy ánh sáng ở đâu chói loà cả 1 vùng. Ánh sáng này phát ra từ phía chánh điện ngôi chùa nên ông ngạc nhiên rời trú phòng bước ra xem thế nào.

Ông thấy Lạt Ma Ajo đang chắp tay đảnh lễ, trì tụng Hồng Danh Đức Phật A Di Đà nhưng quanh ông này hào quang sáng rực cả chánh điện. Ông thấy trong hào quang đó có 1 ao sen lớn bằng các thứ ngọc báu với những lâu đài, dinh thự toàn bằng vàng. Ngoài ra, còn có những giống chim lạ cất tấu lên những điệu nhạc hoà nhã, vi diệu nghe như tiếng giảng Kinh, rồi trời đổ mưa hoa, những bông Mạn Đà La rơi xuống ao báu toả ánh sáng khắp nơi.

Pháp sư Reto nín thở theo dõi cho đến khi Lạt Ma Ajo trì tụng xong bộ Kinh A Di Đà thì linh ảnh đó mới biến mất. Quá xúc động, Reto vội bước vào hỏi làm sao Ajo lại có được thần thông như vậy. Lạt Ma Ajo cho biết ông không hề có thần thông gì cả mà chỉ chuyên tâm trì tụng 6 chữ Hồng Danh mà thôi.

Lạt Ma Reto lại hỏi: “Nhưng ta thấy hào quang sáng ngời trong chánh điện và những linh ảnh lạ lùng. Chắc chắn chú phải có những phương pháp tu luyện gì nữa chứ?”

Lạt Ma Ajo cho biết không hề áp dụng 1 phương pháp gì ngoài việc gìn giữ Thân-Khẩu-Ý cho thật thanh tịnh, trang nghiêm để trì tụng Hồng Danh Phật A Di Đà mà thôi.

– Làm sao có thể như vậy được? Như ta đây làu thông Kinh điển, tu tập bao năm nay mà đâu đã có kết quả gì? Lạt Ma Reto thắc mắc.

– Có lẽ huynh chỉ đọc văn giải nghĩa để thoả mãn trình độ trí thức giỏi biện luận như 1 nhà thông thái mà thiếu hành trì, không chí thành cung kính, đọc Kinh còn nghi ngờ, chỉ trọng về Lý Tánh mà không chuộng sự tu dưỡng Thân-Tâm chăng? Như em đây thì chuyên tâm tin tưởng vào lời khuyên dạy của Chư Phật, tin rằng có cõi Tây Phương Cực Lạc, tin vào Đại Nguyện của Phật A Di Đà và tha lực tiếp dẫn của Ngài, rồi chí thành nguyện cầu sẽ được sinh sang cõi nước Cực Lạc (Tín-Nguyện-Hạnh).

Pháp Sư Reto bừng tỉnh vội vã chắp tay đảnh lễ người em đã khai ngộ cho mình. Ông trở về Lhassa trình bày sự việc cho Đức Đạt Lai Lạt Ma, rồi xin từ chức Pháp Sư về nhập thất tu Thiền trong dãy Tuyết Sơn.

Đức Đạt Lai Lạt Ma truyền lệnh cho xây 1 ngôi Chùa nguy nga rộng lớn để xứng đáng với công đức tu hành của 1 vị Cao Tăng và phong cho Lạt Ma Ajo chức Hoà Thượng (Rinpoche). Tuy nhiên, Hoà Thượng Ajo không thích việc có 1 ngôi chùa riêng như vậy, ông chỉ muốn tiếp tục sống trong ngôi chùa nhỏ bé nơi thung lũng Chumbi mà thôi. Vị quan trông coi việc xây cất lấy làm lạ bèn hỏi tại sao, thì Ngài cho biết dù chùa cao to đẹp đẽ, dù cung vàng điện ngọc cũng chỉ là hình thức bên ngoài, hữu sinh hữu hoại, nay còn mai mất, không thể so sánh với cảnh giới của cõi Cực Lạc được.

Sau cùng, người ta đành mời Ngài về trụ trì Chùa Tse Cholin, 1 ngôi chùa lớn trong vùng, vì vị trụ trì tại đây đã qua đời trước đó ít lâu. Hoà Thượng Ajo nhận lời quản trị ngôi chùa này nhưng vẫn tiếp tục sống tại ngôi chùa nhỏ bé cũ gần đó, vì ông biết rằng vị trụ trì Tse Cholin sẽ Hoá Thân trở lại đây trong 1 thời gian không lâu nữa.

Theo Hoà Thượng Ajo, thì Đức Phật đã chỉ dẫn rất nhiều Pháp môn khác nhau, các đệ tử tuỳ theo căn cơ trình độ lãnh hội mà tu hành được giải thoát. Tuy nhiên vì biết vào thời Mạt Pháp (Kali Yuga), chúng sanh nghiệp sâu, trí mỏng khó có thể trông cậy vào tự lực cá nhân mà giải thoát, nên Đức Phật đã truyền dạy riêng 1 phương pháp giản dị là Pháp môn Niệm Phật cầu Vãng Sanh. Pháp môn này giản dị mà công năng vô cùng mầu nhiệm, bất khả tư nghì, vì ngay như Đức Di Lặc chỉ còn 1 Kiếp nữa sẽ thành Phật mà Ngày Đêm 6 thời còn đảnh lễ, trì niệm Hồng Danh Chư Phật.

Theo Hoà Thượng Ajo, thì cách trì tụng Hồng Danh phải đặt căn bản trên sự chí thành, khẩn thiết thì mới được Cảm Ứng. Dù làm đúng các Nghi thức nhưng tâm không thành thì khó có kết quả gì, tóm lại vấn đề trọng yếu vẫn là ở TÂM. Ngài chỉ phương pháp Quán Tưởng, là lúc nào cũng giữ trong Tâm hình ảnh của Đức Phật A Di Đà và cảnh giới cõi Cực Lạc mà trong đó bất cứ thứ gì cũng phát ra hào quang sáng chói, nơi mà tiếng gió thổi, chim hót, lá cây rụng cũng phát ra những Diệu Âm. Ngài cho biết làm sao để lúc Đi-Đứng-Nằm-Ngồi cũng đều chú tâm vào hình ảnh Đức Phật A Di Đà cho đến lúc thật thuần thục, không thấy có mình là Người Niệm Phật và Phật là 1 Vị mà mình đang Niệm, chỉ có 1 ánh sáng vô tận, vô lượng chiếu soi. Niệm đến chỗ Vô Niệm, cho đến Nhất Tâm Bất Loạn, thì sẽ được cảnh giới bất khả tư nghì.

Hoà Thượng Ajo cho biết 6 chữ Hồng Danh A Di Đà Phật có 1 oai lực vô cùng rộng lớn với những Mật nghĩa sâu xa, mà chỉ có Phật với Phật mới hiểu rõ cùng tận mà thôi. Phật A Di Đà là Pháp giới tàng thân, bao nhiêu công đức của Chư Phật trong 10 phương pháp giới, nơi 1 Đức Phật A Di Đà đều đầy đủ cả. A Di Đà có nghĩa là nguồn sáng vô tận (Vô Lượng Quang), tuổi thọ vô lượng (Vô Lượng Thọ); hay nói theo nghĩa khác là bao gồm toàn thể không gian (ánh sáng) và thời gian (tuổi thọ) tượng trưng cho chân lý tuyệt đối bất khả tư nghì.

Trích Đường Mây Qua Xứ Tuyết
của Lama Anagarika Govinda
Việt văn của Nguyên Phong

Sáu Chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” Thay Đổi Đời Tôi

Sáu Chữ Nam Mô A Di Đà Phật Thay Đổi Đời TôiTôi gặp anh tại một ngôi chùa với bộ áo “lam hiền”. Mở đầu câu chuyện, anh đều niệm danh hiệu Đức Phật Di Đà. Một gương mặt sáng với vết sẹo lớn giữa chân mày, anh ví mình như con thuyền nhỏ giữa dòng thác loạn, điên cuồng, xô đẩy.

Và, con thuyền nhỏ đó cứ bị trôi đi trong sự va đập, đảo điên không có bến dừng. Anh tâm sự, sự điên đảo đó là kết quả của một gia đình bị rạn vỡ, không tình thương yêu. Sinh ra trong một gia đình không hạnh phúc, anh đã lao vào thế giới giang hồ, trôi giạt giữa chợ đời tối tăm và không lối thoát. Và, nhờ thiện duyên, anh đã gặp Phật. Sáu chữ: Nam mô A Di Đà Phật nhiệm mầu đã làm thay đổi cuộc đời anh. Anh là Lê Thừa Dương Hùng…

Tuổi thơ lưu lạc

Ngồi bên hiên chùa, đôi mắt nhìn xuống, giọng âm hưởng Quảng Trị ấm, ký ức một thời được tái hiện, như thể những thước phim về một số phận…

“Những trận đòn, những xung đột với cha dượng trong ngôi nhà của mẹ làm đứa trẻ lên 7 như tôi cảm thấy bị hất hủi, đuổi xua. Trong tâm hồn đứa trẻ con lên bảy như tôi chứa đầy mặc cảm, tôi luôn tự hỏi tại sao những đứa trẻ như tôi lại có đủ ba mẹ, có một gia đình hạnh phúc, chúng được hồn nhiên vui vẻ, được cha mẹ chăm sóc và được đến trường vui đùa cùng chúng bạn… Tôi lại một mình và cảm thấy không thể sống nổi nơi mà mình tưởng như là mái ấm. Mái ấm ở làng quê nhỏ của xã Hải Khê, huyện Hải Lăng (Quảng Trị) không đủ tình thương yêu để níu kéo tôi ở lại. Tôi đã bỏ nhà, đi lang thang đầu đường xó chợ. Đêm đến tôi ngủ vật vờ ở bãi biển quê. Ngày ngày nối tiếp đêm đêm, bước chân tôi thúc giục phải đi và cho đến khi tôi dừng lại ở TP.Huế. Tôi bắt đầu chuỗi ngày lang thang ở chợ đời. Đứa trẻ quê miền biển nhỏ thó như tôi chứa đầy mặc cảm, bắt đầu vật lộn với cuộc mưu sinh đói khát ở chợ Đông Ba.

Ở chợ Đông Ba, hàng ngày tôi làm phụ hàng cho những chủ hàng, đêm ngủ vật vờ ở các sạp. Tôi là đứa trẻ bị khinh miệt, đói khát và cảm thấy vô cùng cô đơn. Nhiều khi vô tình bắt gặp những gia đình sum vầy bên mâm cơm hay những đứa trẻ đồng lứa bên cha mẹ hạnh phúc, tôi càng thấy mình lạc lõng, tủi phận và nổi giận. Dù vất vả, đơn độc nơi xứ lạ quê người nhưng trong tôi có một thứ tình cảm luôn thúc giục và luôn “thức” trong tâm trí mình. Đó là nỗi nhớ mẹ. Nó là thứ gì đó mà đứa trẻ như tôi luôn cảm thấy phải hướng đến, nỗi nhớ ấy ngày càng day dứt và nó lớn hơn bất cứ cái gì, lúc này.

Ròng rã hai năm bằng những chuỗi ngày đơn độc ở chợ đời Đông Ba với nỗi nhớ mẹ không nguôi ngoai trong tâm trí và tôi quyết định kiếm đường quay về tìm mẹ.

Nhưng, bao nhiêu vụn vỡ trong lòng lại một lần nữa lan ra đau đớn, tôi không tìm được hơi ấm và tình thương của mẹ. Bởi lẽ, mẹ còn có chồng và các em, phải lo toan cuộc sống nghèo nàn. Tôi không được đi học, tiếp tục lêu lổng trong buồn tủi. Không chịu thêm được, một lần nữa, tôi quyết định ra đi”.

Nhìn những chiếc lá rơi nhẹ trước hiên chùa, giọng anh vẫn trầm buồn:

“Tôi trở lại chợ Đông Ba, bấy giờ tôi cũng đã lớn hơn. Tôi kết bạn với những đứa trẻ lang thang khác. Ban ngày chúng tôi làm bốc vác, làm thuê làm mướn, bán trà đá, đánh nhau, ăn cắp vặt ở bến xe Gia Hội, ban đêm rủ nhau xuống dưới gầm cầu Trường Tiền để ngủ. Những ngày bôn ba bán sức khỏe để kiếm chút tiền mọn cho cuộc sống ở chợ, bến xe, dần dần tôi trở thành đứa trẻ rắn rỏi, lạnh lùng, dày dạn kinh nghiệm sống giang hồ. Tuy vậy, nỗi nhớ mẹ lúc nào cũng luôn đầy ắp, nỗi nhớ ấy lớn khôn cùng. Mười ba tuổi, một lần nữa tôi quyết định quay về quê tìm mẹ…”.

Bước ra giang hồ

Anh xòe hai bàn tay ra và đan chúng lại với nhau, đôi mắt anh nhìn xuống nó và quá khứ lại thoảng hiện trên gương mặt:

“Cuộc sống ở mái nhà của mẹ tôi không thể xoay chuyển được, tôi tiếp tục cuộc sống buồn chán, lêu lổng và quậy phá. Tôi trở thành người bất trị. Chính nơi quê mình, tôi gặp đại ca Lê Lam, người cùng xóm vừa mới đi Nhật trở về và bắt đầu một cuộc sống giang hồ thật sự. Tôi được đại ca Lê Lam “chấm” bởi người nhỏ mà có máu lạnh, vài trận đâm chém với giang hồ cũng đủ điểm cho đại ca cho gia nhập hội.

Những lần đối đầu với các nhóm giang hồ quanh vùng đã cho tôi thêm “số má”, và là người khá thông minh, lanh lợi, có máu lạnh, hung hãn bất chấp người đó là ai, cỡ nào. Tôi cũng là người dễ nổi giận với bản thân, tôi được đại ca Lê Lam để ý và tạo điều kiện để có dịp “xung trận”. Trong một dịp một mình đụng độ với hai anh bộ đội, tôi chụp kéo và đâm mấy phát vào bụng, ngực. Tôi bị bắt đi cải tạo 9 tháng. Tôi nhớ lúc đó vừa bước vào tuổi 15. Đó là bước ngoặt mở đầu cho chuỗi ngày tù tội…”.

Trong câu chuyện về số phận của mình, thỉnh thoảng có những quãng ngừng… anh đang tìm lại một ký ức tưởng chừng đã qua nhưng thật ra nó như là nỗi ám ảnh không thể chối bỏ:

“Ra trại, trong một lần đại ca cử đi dò la tin tức, tôi đi ngang quán nước cách quê 7km và bị một nhóm 6 người phát hiện “Nó đây rồi, đánh chết mẹ nó đi, thà giết lầm chứ không bỏ sót”. Một mình thân cô, thế cô, tôi lùi lại phía sau quán và nhanh mắt nhận ra một người đang cầm dao xắt thịt, tôi chụp lấy và chém đứt lìa một cánh tay của một thằng trong nhóm, chưa hả giận tôi sấn tới xẻo tiếp một lỗ tai mang về cho đại ca làm chiến tích.

Vụ này giúp tôi dày thêm những ngày tù tội, tôi bị bắt với 2,5 năm tù giam, ở trại giam được 9 tháng tôi vượt trại và trốn vào Sài Gòn. Vào đây tôi thay tên đổi họ, mới trải qua hai ngày trên đất mới tôi nghe có băng Tâm Voi, một băng rất lớn hoạt động bảo kê, đòi nợ mướn tại Sài Gòn, Bình Dương, Hà Tây và đang chốt tại An Sương nên tìm đến xin gia nhập. Tham gia hội này hai năm thì theo lệnh truy nã, công an Huế vào Sài Gòn bắt, tôi bị kết án thêm 2,5 năm tù.

Được ra tù, ngựa quen đường cũ và bản tính độc ác, tôi nghe nói đại ca Lê Lam đã vào Sài Gòn sinh sống, đang làm nghề xe ôm. Tôi quay lại Bình Dương và tiếp tục tham gia vào đường dây bảo kê, đòi nợ mướn ở Dĩ An. Thời gian này, Tâm Voi “tử nạn”, tôi lên làm đại ca, thỏa sức sống bằng đồng tiền dơ bẩn, ăn chơi trác táng và hút chích. Một lần đi đòi nợ 12 triệu đồng ở Bình Phước, con nợ là một phụ nữ đang mang bầu không có tiền trả, tôi liền xiết chiếc xe máy. Người phụ nữ ôm chân tôi lại van xin đừng lấy xe vì nó là phương tiện duy nhất nuôi sống gia đình, nhưng tôi co chân đạp thẳng vào bụng chị, sau đó biết chị đã bị sẩy thai… đó là nỗi dằn vặt trong tôi suốt những năm sau này, khiến tôi sám hối cho đến tận bây giờ”.

Một lần nghe Nam mô A Di Đà Phật

Một thoáng niềm vui chợt hiện ra trên gương mặt, chất giọng Quảng Trị vẫn nhẹ và đều:

“Sau sự vụ trên, tôi về thăm em gái ở Hóc Môn và được em gái cho biết đại ca Lê Lam đã “đi tu”. Tôi nghe với tâm thế hết sức ngờ vực. Em gái cũng khuyên: “Anh nên quay đầu, đến anh Lê Lam mà còn đi tu, anh làm vậy suốt đời cũng không được gì. Anh bỏ đi, làm vậy hoài mẹ khổ, nếu anh không tin thì gặp anh Lê Lam đi”. Lúc bấy giờ tôi là một gã giang hồ nghiện ngập và độc ác, trong tôi đầy ắp sự ngờ vực. Tôi ngờ vực một đại ca lừng lẫy oai hùng, từng hoạt động giang hồ ở Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản và các cứ khắp nơi trong nước như Lê Lam sao lại có ngày “đi tu”.

Không tin đại ca Lê Lam đã “đi tu” nên tôi tìm đến nhà, gặp lại đại ca tôi rất mừng. Lê Lam bảo anh đã quy y Tam bảo với pháp danh Tịnh Long, sám hối tội lỗi trước kia mỗi ngày để được làm người lương thiện. Trong đầu tôi lờ mờ những chữ nghĩa xa lạ về Phật pháp, Đức Phật, nghiệp báo, xả bỏ… nhưng có điều gây ấn tượng cho tôi lúc bấy giờ là Lê Lam nói về đại ca Năm Cam lừng lẫy có bốn vợ, nắm trong tay hàng chục tỷ đồng nhưng cũng đã chịu nghiệp báo, phải đền tội. Còn anh sám hối vì đã gây ra biết bao đau khổ cho đàn em, mải mê với những trò chơi quái đản, không phân biệt chính tà, đã gây nghiệp ác cho nhiều người. “Em có theo con đường của anh thì em theo. Học lại bài học vỡ lòng này: lấy thiện trừ ác” – tôi còn nhớ lời của Tịnh Long nói chắc rõ từng chữ.

Tôi đã vô cùng ngạc nhiên, không biết Phật pháp là gì mà làm cho đại ca khét tiếng như Lê Lam thay đổi đến như vậy. Tôi đã nghĩ ngợi rất mông lung…

Một hôm, đi ngoài đường và nhìn thấy một ngôi chùa, vì tò mò nên tôi đã ghé vô. Tôi còn nhớ, đó là chùa Đông Linh, ở Hóc Môn. Vừa bước vô chùa tôi nhìn thấy tượng Đức Bồ tát Quán Thế Âm và thoảng đâu đó một câu niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Tôi đã cảm nhận một sự an lành, thư thái trong lòng không giải thích được. Từ đó, thỉnh thoảng tôi lại đến chùa… để chỉ nhìn ngắm Đức Quán Thế Âm. Tình cờ, tôi gặp một người bạn đang tu tập ở chùa Hoằng Pháp, được bạn rủ đi chùa nhiều hơn. Lúc này, đang là con nghiện nặng, nên lúc đến chùa tôi nguyện nếu Phật pháp nhiệm mầu thì gia hộ cho tôi từ bỏ ma túy, đừng hại người và làm người tốt”.

Một lần nữa hai bàn tay anh nắm chặt vào nhau, đôi mắt hướng nhìn về phía tượng Bồ tát Quán Thế Âm đằng xa xa:

“Tôi hạ quyết tâm cai nghiện. Mua thùng mì gói, thùng nước uống và thuê một nhà trọ, nhờ khóa trái, một mình tôi trải qua 21 ngày vật vã đối diện giữa sự sống và cái chết, lúc nào tôi cũng niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm Bồ tát cho đến khi tôi thấy lòng mình tỉnh táo, cảm thấy mình đã dứt hẳn với ma túy.

Từ đó, ngày nào tôi cũng vô chùa, khi đứng trước Đức Bổn sư và Bồ tát Quán Thế Âm tôi luôn bộc bạch tâm sự trong lòng và cảm thấy có sự cảm ứng. Và, hàng giờ, hàng ngày, hàng tháng tôi chỉ nhờ vào 6 chữ Nam mô A Di Đà Phật.

Một điều lạ lùng là tôi rất thích nhìn ngắm gương mặt và hình tướng của Đức Quán Thế Âm, tôi xem Ngài là chỗ nương tựa vĩnh cửu, trong thâm tâm tôi nghĩ Ngài là Mẹ của tôi, của mọi chúng sinh. Hàng ngày, mỗi khi chiêm ngưỡng Ngài, tôi nguyện: “Đôi tay của con đã từng vấy máu, tạo bao tội lỗi, hôm nay con gặp được Mẹ và cũng đôi tay này con nguyện làm cái gì đó tốt đẹp hơn”. Không hiểu vì sao, trong đầu tôi luôn luôn khắc ghi gương mặt của Bồ tát, tôi cũng thường vẽ, khắc gương mặt Ngài lên mặt đất, lên giấy, lên gỗ…

Sáu Chữ Nam Mô A Di Đà Phật Làm Thay Đổi Đời Tôi

Hiện nay, Phật tử Tịnh Tín đang cưu mang, dạy nghề cho 23 bạn trẻ tại cơ sở điêu khắc với tâm nguyện không để cho các em sa vào con đường tội lỗi như mình ngày xưa. Anh cho biết, cuộc đời mình tự hào nhất là thời gian qua đã giúp cho 50 em cơ nhỡ học nghề, 2 em có cơ sở riêng và đặc biệt có hai em xuất gia đầu Phật. Hiện tại, anh yên tâm vì thấy mẹ hạnh phúc. Thỉnh thoảng, anh cũng đến các đạo tràng để nói chuyện, chia sẻ về cuộc đời đã qua của mình như cách sám hối với mong muốn có được sự thông cảm và nhẹ lòng. – Ảnh: H.Diệu

Tôi tự mình đi thăm dò tại các xưởng gỗ, đứng nhìn họ thực hiện các thao tác khắc trên gỗ, vậy là tôi mua đồ nghề về tự học. Hàng tháng trời tôi chỉ đục khắc gương mặt Đức Quán Thế Âm dù đôi tay có tróc da chảy máu. Dịp may, một công ty Đài Loan tuyển thợ điêu khắc gỗ, vậy là tôi đi làm, ngày đi làm ban đêm tôi đi chùa Hoằng Pháp để niệm Phật.

Tay vuốt lại tà áo lam cho thẳng nếp, anh nhoẻn miệng cười. Một nụ cười thoảng thôi nhưng trông anh rất hạnh phúc:

“Tháng 4-2005 với số tiền 47 triệu đồng dành dụm được, tôi đi thuê xưởng, mua gỗ và một chiếc xe máy để mở tiệm. Người quen thân cho là tôi điên rồ, với số tiền này tôi có thể mua nhà, mua đất sao lại mua một đống gỗ. Nhưng, tôi muốn thực hiện lời nguyện trước Đức Quán Thế Âm: đôi tay này có thể làm điều có ích.

Nhờ vào sự chăm chỉ và quyết tâm hướng thiện, tôi đã cất công đi tìm những em cơ nhỡ như mình ngày xưa để nuôi và dạy nghề tại cơ sở. Những pho tượng Bổn Sư, Quán Thế Âm của tôi được hình thành ngày càng đẹp và được các chùa đến đặt, tôi cũng làm thêm các loại hoa lam gỗ. Tin này bay xa tận quê nhà Quảng Trị nhưng không ai tin vì lẽ một thằng giang hồ chuyên đâm chém như tôi làm sao có thể là người làm ra những pho tượng Phật được. Tôi cũng đã gởi về cúng dường ở chùa quê tôi một pho tượng Bồ tát Quán Thế Âm…

Điều tốt lành đã đến với tôi, năm 2006 tôi được TT.Thích Chân Tính quy y Tam bảo với pháp danh Tịnh Tín. Chùa Đông Linh cũng cho tôi đi tham gia khóa đào tạo huynh trưởng do THPG TP tổ chức và nhờ đó tôi bắt đầu có những ngày tháng gắn với gia đình áo lam. Cuộc đời tôi thật sự đã bước sang một trang mới.

Đôi lúc ngẫm lại, tôi tự cảm nhận mình như được tái sinh lần nữa, nhờ vào năng lượng nhiệm mầu của 6 chữ “Nam mô A Di Đà Phật”, nhờ vào Đức Bồ tát Quán Thế Âm…”

H.Diệu ghi theo lời kể của Phật tử Tịnh Tín
Theo Giacngo

Sự Tối Kỵ Trong Niệm Phật

Sự Tối Kỵ Trong Niệm PhậtSự tối kỵ trong niệm Phật: “Tinh thần phân tán, câu chữ mơ hồ, đã không âm tiết lại không liền lạc, tâm chẳng ứng với miệng, tiếng chẳng nhiếp với niệm, khinh lờn thành quen”.

Người niệm Phật chủ yếu dễ phát sinh sai lệch, thì cần ngăn chặng.

­ Tinh thần phân tán: Lúc niệm Phật tư tưởng không tập trung, đưa tinh thần lên không được. Tâm tình rơi rớt, ý chí thì chìm mất, không tinh ròng khơi dậy, tạp niệm thì vô cùng, chẳng hôn trầm cũng trạo cử, đây là vấn đề tối kỵ. Còn vấn đề kiêng kỵ là câu chữ mơ hồ.

­ Câu chữ mơ hồ: Một câu hiệu Phật nầy, thanh âm phát ra thì lờ lờ mờ mờ, người khác nghe không rõ ngay cả chính mình nghe cũng không rõ. Cho nên có câu rằng: “Mình còn chưa nghe thì Phật làm sao nghe”.

­ Ðã không âm tiết: Âm tiết điều hòa thích ứng thì niệm Phật dễ nhiếp tâm, phương pháp hữu ích thì lực mới to lớn; Ngược lại, sáu chữ trong một câu Phật hiệu, bất kể nhịp gõ chữ nào, lúc thì một nhịp, nửa nhịp, một phần tư nhịp, một phần tám nhịp, thế thì làm cho mỗi câu hiệu Phật bị biến đổi, niệm loạn thành một mảng, còn bàn luận nhiếp tâm thế nào. Không những thời gian từng chữ sắp đặt được tốt, mà sự cao thấp nhẹ nặng của thanh âm cũng phải hợp với tiết tấu. Bỡi vì niệm Phật có tiết tấu thì giống nước chảy róc rách, tự nhiên hợp vận, niệm Phật dễ dàng rõ ràng. Không âm tiết đã chẳng tốt, cọng thêm lại chẳng liên quan thì càng sai.

­ Lại chẳng liền lạc: Là câu sau không tiếp câu trước. “Tịnh niệm tương tục” rất là trọng yếu của sự niệm Phật, mà nếu không liên quan làm sao kế tục với nhau.

­ Tâm chẳng ứng với niệm Phật: Là trong miệng thì niệm Nam Mô A Di Ðà Phật, mà ở trong tâm tính toán riêng một việc ở bên ngoài như: mua chiếc xe mới, hoặc muốn đến chỗ nào, vì tính toán những việc đó thì tâm và miệng làm sao có thể ứng với nhau. Ðến nỗi ngoài ra có một tình huống là: ngay lúc niệm Phật, tạp niệm lăng xăng không biết tạp niệm nhiều thế nầy từ đâu đến, đây khởi kia mất, không cách nào trừ bỏ. Tuy vậy chẳng nên buồn lo, vì đây là hiện tượng tất nhiên trong quá trình niệm Phật, chẳng nên quan tâm nó (mặc cho vọng niệm lăng xăng, hãy nghe chính mình và niệm Phật rõ ràng), đây là yếu quyết. Then chốt vẫn là khởi lên một câu hiệu Phật nầy.

­ Tiếng không nhiếp niệm: Tiếng – chỉ cho lúc niệm Phật, tiếng niệm Phật trong miệng phát ra, âm thinh nầy có tác dụng rất lớn, then chốt của pháp môn tịnh độ, cũng có thể nói là “Mật quyết”, tức ở nơi tự niệm tự nghe. Cái được niệm là Nam Mô A Di Ðà Phật, cái được nghe cũng là: Nam Mô A Di Ðà Phật. Cho nên đều nhiếp sáu căn, trước tiên thì thiệt căn (lưỡi) và nhĩ căn (tai) đều nhiếp. Lúc nầy niệm là danh hiệu Phật, mà nghe cũng là danh hiệu Phật, tưởng cũng là danh hiệu Phật, nên ý căn (ý) cũng được nhiếp, tay giữ chuỗi niệm (thân), (mắt) thì nhìn tượng Phật, trong tỷ căn (mũi) được nghe là mùi hương đốt cúng Phật, cho nên ba căn nầy cũng được nhiếp. Nhiếp sáu căn đều là then chốt ở nơi nghe. Thông thường chúng ta tự tu, dùng cách “Kim cang trì” tốt nhất, tức là có một tí âm thanh vừa vừa ở giữa miệng môi và chân răng, không phải to lắm. Cách nầy niệm đã có âm thanh lại vừa dưỡng khí, gọi là Kim cang trì. Mặc nhiên cũng có thể nghe, song mặc niệm thì mệt một chút. Âm thanh lớn nhỏ có thể linh hoạt, lúc tán loạn và lúc phiền não khởi có thể niệm lớn, dùng âm thanh để nhiếp niệm. Nếu niệm được yên tịnh thì có thể niệm nhỏ, niệm cách Kim cang trì hoặc nhỏ một chút đều có thể được. Cần có tiếng, cần nghe được tiếng nầy. Âm thanh nầy thì có nhiếp được niệm; đây là chỗ thù thắng của pháp môn niệm Phật, then chốt là ở nơi “Tự nghe”.

­ Khinh lờn thành quen: Nếu như lúc niệm tự tâm phiền tạp tán loạn, tiếng được niệm tất nhiên lộn xộn khó nghe. Tâm không chuyên chú tai cũng mất linh nghiệm, tác dụng của tiếng niệm tự nhiên không nhiếp niệm một chút nào cả. Ở tình huống nầy đâu có tác dụng nhiếp đều sáu căn. Ngược lại cái hay dẫn khởi là kết quả xấu có hại “Khinh lờn thành quen”, đây là thành ngữ thường dùng ở trong đạo Phật. Niệm một cách khinh thường không thể chuyển thức thành trí, mà là nuôi lớn cái thói quen (Thức). Chúng ta niệm Phật tức là chuyển ý thức phân biệt thành “Diệu quán sát trí”. Nên khiến nó chuyển. Nếu niệm như thế nầy: vừa không âm tiết, tán loạn, tinh thần lăng xăng, lại vừa không liền suốt, tưởng trong tâm và niệm trong miệng không giống nhau, âm thanh được niệm cũng nhiếp không được ở nơi tâm, phép niệm nầy không phải là “chuyển” Thức mà là “nuôi dưỡng” Thức, Thức được bồi dưỡng ở trong đó, đây chính là “nỗi buồn của cổ đức”, tức là niệm cách nầy rất đáng tiếc! – Khó được thân người, khó sinh ở quốc gia trung tâm, khó nghe được Phật pháp, khó tin tịnh độ; Dù còn chịu niệm, nhưng lại niệm kiểu nầy cho nên Cổ đức rất là buồn tiếc. Niệm cách nầy thì “vĩnh viễn khó thành từng loạt”, niệm Phật niệm đến khi nhất tâm bất loạn rất khó, trước nhất phải đạt đến niệm Phật thành thói quen. Chúng ta nên phải niệm cho được thành thói quen, ít thì mười mấy câu, nhiều thì ba chục câu, nhiều nữa thì một tràng hai tràng, trong lúc nầy tâm không được động chạy, từ đầu đến cuối đều là: Nam Mô A Di Ðà Phật, đây gọi thành tràng, mức độ chính mình là thế nào, chính mình hoàn toàn có thể biết. Cho nên pháp niệm nầy, kiểu như trên, tức là “vĩnh viễn chẳng thành loạt”, đây là phép niệm không tốt, thì nên tránh đi, nên tránh khỏi chỗ dễ sinh sai lệch, mà nên tập trung tinh thần sức lực mặt hướng về ánh sáng.

Trước mắt chỉ nêu ra sự cấm kỵ của niệm Phật, cần gắng sức trừ bỏ, sau đây chính là con đường vạch ra nên tuân thủ đối với việc trước mắt:

+ Âm thanh hài hòa vận tiết ổn định: Thanh hòa, chỉ cho tiếng và ý khi niệm Phật nên hài hòa, hòa mỹ, yên hòa. Bỡi vì âm rất là quan hệ, nếu niệm quá gắt gao hay khàn giọng thì âm thanh chẳng được hòa. Tiếng của người đến chỗ mà âm thanh tốt đẹp vi diệu, thanh tịnh trang nghiêm, thì tự nhiên tâm sẽ khoáng đạt tinh thần vui vẻ, thân tâm được an hòa. Ngược lại thì khiến tâm người loạn, nóng nảy không an.

Vận ổn: Vận là âm thanh hài hòa, lại chỉ cho khí độ của thần vận cao nhã. Ổn là chỉ cho sự an định thỏa đáng, vận ổn là âm thanh an hòa trầm tĩnh, khí vận thì cao nhã, tự nhiên có một sự điều hòa của âm vận.

+ Khẩn thiết chu đáo: Khẩn thiết, ta niệm Phật như đang ở trước Phật, cách nầy mỗi niệm một tiếng, đều là từ trong tâm chí thành phát ra, khẩn khẩn thiết thiết niệm: Nam Mô A Di Ðà Phật, cần phải từng câu từng câu, đây tức là cách niệm chu đáo, cũng tức là tịnh niệm nối nhau. Ðối với người đã có thời khóa ổn định, trước nhất yêu cầu là phải rất chu đáo ở trong thời khóa, thời gian nầy không nên lệch lạc. Lại nói thêm rằng, thế thì không chỉ vỏn vẹn trong định khóa mới chu đáo, mà nên phải xuyên suốt được tùy lúc tùy chỗ, đều cần phải thường thường khởi lên một câu Phật hiệu nầy. Nếu có thể được như vậy, thành tràng thành hạt cũng chẳng khó. Pháp môn tịnh độ (niệm Phật) có cái hay ở trong đây, người đời có thể làm được, không phải là cao không vói tới. Cần anh khai ngộ, thế thì khó rồi, không phải là người người đều có thể, anh cũng có tánh khả năng, chỉ cần làm được cho dù một hai người của ngàn vạn người khó, hiện tại anh có thể kể ra mấy chục người khai ngộ không? Niệm Phật vãng sanh cũng không phải là kiểu nầy, mà ai cũng đều có thể niệm. Cần chu đáo, thường có một câu nầy, sự tình là có thể làm được, vấn đề là tự mình không chịu niệm. Phiền não một khi khởi lên thì không chịu niệm. Giận dữ gấp rút là phiền não, vui vẻ đắc ý cũng là phiền não; Kỳ thật xét kỹ trong phiền não cũng có thể niệm, chỉ là chính mình không chịu niệm, nếu hay tỉ mỉ chu đáo, trì niệm khẩn thiết, tự nhiên sẽ thành loạt thành tràng, nhất tâm bất loạn. Cho nên việc niệm Phật vãng sinh thường xuyên lúc nào cũng được quan tâm.

+ Trầm lắng an nhàn: Câu nói nầy chính là chỉ thẳng những chỗ bệnh trước mắt rất nhiều của người tu hành. Có người dụng công chỉ có lòng muốn gấp gáp, bực tức chẳng thể mau mau liền có chỗ thành tựu, do đó rất là khẩn trương, rất là gấp rút. Ðây cũng là có tâm mong cầu. Nhưng sự thù thắng của niệm Phật thì từ nơi “hữu niệm” mà thầm hợp với “vô niệm”, từ “hữu cầu” mà khế hợp với “vô cầu”, từ “vãng sanh” mà chứng được “vô sanh”. Nên “trầm lắng”, trầm lắng đến mức bình tĩnh, tâm tư không có một chút lo nghĩ bồi hồi sợ được sợ mất nào, lo nghĩ bất an nào. Mà vả lại nên “an nhàn”; Bỡi vì có người nổ lực, cũng bỡi ở tâm tư nôn nóng mà rơi vào sự khẩn trương, bề bộn, rối loạn, lo lắng, gấp rút… Như vậy là đi ngược lại lời dạy của bậc Thánh rồi!

“An nhàn”, hai chữ này tiến đến một bực nữa mà nói, không những chỉ là sự bình tĩnh (trấn định), mà còn là muôn duyên đều nhất loạt buông mất, không giữ không cầu, cho nên là một người đại nhàn giữa trời đất. Trong tâm chỉ nhớ câu niệm Phật, một câu danh hiệu Phật rõ ràng trước mặt, đã không có điều ngăn ngại lại chẳng điên đảo, vắng lặng an tâm. Cho nên có thể thấy rằng hai chữ AN NHÀN quan trọng cần yếu mười phần. Ngược lại, nếu gấp rút ở trong lòng, muốn thấy Phật thấy hào quang, muốn thấy xuất hiện điềm lành, niệm thế nầy thì sẽ sinh ra tâm bệnh; Vả lại không phải là do niệm Phật mà sinh ra bệnh đâu, mà là do trong lòng, gấp rút như thế nên sinh ra tâm bệnh. Chúng ta nên rất là an nhàn, vì sao có thể an nhàn? – Vì tín tâm! Người có tín tâm thì rất an nhàn. Có người hỏi rằng: Ta sao lại niệm chưa tốt, còn vọng tưởng tạp niệm? Ngài Ngẫu Ích đại sư giảng rất rõ: “vãng sanh hay không, hoàn toàn do nơi chỗ có hay không có tín nguyện”. Vậy thì anh có hay không có tín tâm sâu xa? Phải là phát nguyện chân chánh hay không? Chân chánh đó là không muốn lưu luyến thế giới Ta Bà nầy, mà ưa thích Cực Lạc nguyện cầu vãng sanh. Trên thực tế rất nhiều người còn lưu luyến, chẳng thể lìa bỏ, tham luyến tài sản, sự nghiệp, danh vọng, vợ con, vật chất, hưởng thụ, cuộc sống hiện tại tốt đẹp v.v… nên cố sức ham muốn nhiều nhưng sống được mấy năm, rồi lại muốn tốt nhất là trường sinh bất lão! Chính là lưu luyến thế giới nầy mà bỏ lìa không được. Cho nên ưa thích Cực Lạc cần phải phát “đại nguyện”. Nhiều kiếp trở lại đây tất cả chúng sinh đều là quyến thuộc của mình đang ở trong biển khổ đợi chờ ta cứu độ, nhưng ta làm sao mới có thể độ chúng sinh đây! Tự ta còn là người đang giãy giụa trong biển khổ, không có một chút năng lực nào cứu độ người khác, chỉ sau khi vãng sanh, nương sức gia trì của Phật, ta sẽ có được trí tuệ rồi cứu độ lập tức tất cả những quyến thuộc nầy. Phải là tâm tình như thế nầy và nguyện lực như thế nầy. Có tín và nguyện tự nhiên sẽ niệm, thì nhất định vãng sanh, cho nên vãng sanh hay không, hoàn toàn nhờ ở sự có hay không có tín nguyện. Mọi người nói muốn vãng sanh, thì trước nhất mọi người ở ngay nơi tín nguyện mà dốc sức công phu. Nguyện nầy của ta có chơn chánh hay không? Nếu tín nguyện thiết tha thì chắc chắn vãng sanh; Lại nữa vấn đề niệm Phật, trong tâm không nên gấp rút nôn nóng mà phải tự nhiên an nhàn.

+ Tiếng hợp với tâm, tâm ứng với tiếng: Tiếng niệm Phật từ trong tâm thành khẩn thanh tịnh phát ra tự nhiên hài hòa an ổn, âm thanh câu niệm Phật nầy vi diệu, trải qua tai mình mà đạt đến bản tâm, được nghe chính là được niệm, cho nên tự nhiên họp nhau, tiếng họp với tâm. Âm thanh nầy là danh hiệu Phật muôn đức trang nghiêm, cũng tức là âm thanh muôn đức trang nghiêm vậy. Âm thanh nầy vào từ nhĩ căn là tự tâm được niệm, tự tâm niệm Phật, tự tâm là Phật. Cho nên tự tâm chắc chắn tương ứng với tiếng được nghe. Tiếng hợp tâm, tâm hợp tiếng, cho nên nói rằng: “tâm và tiếng nương nhau”. Nói một cách đơn giản: Ta niệm Phật, mà niệm Phật có tiếng thì âm thanh trở lại trợ giúp cho ta. Do ta phát ra tiếng, tiếng trở lại giúp ta, cho nên nói nương nhau. Niệm như thế nầy không cần dùng cách bài trừ vọng niệm mà vọng niệm tự tiêu mất.

Chưa có thể “nhất tâm” thì trước phải cầu “chuyên niệm”, chưa có thể được “bất loạn” thì trước phải học tập “thành từng loạt”.

Nhất tâm bất loạn là lúc niệm Phật tâm không tán loạn, dẫn tới tâm chí thành, chuyên niệm danh hiệu Phật. Trong “Kinh Vô Lượng Thọ”, một điều kiện căn bản được yêu cầu của “ba hạng vãng sanh” đó là: “một hướng (lòng) chuyên niệm”. Thường xuyên chuyên niệm một câu A Di Ðà Phật nầy, là thời gian niệm rất chuyên tâm, không có vọng tưởng tạp niệm. Chưa thể đạt được nhất tâm thì trước phải chuyên niệm. Chuyên nhất chẳng biến đổi, là đối với người thấy khác hay suy nghĩ dời đổi mà nói, đứng núi nầy trông núi nọ, nói chung là chẳng thể yên được ở pháp môn mình tu, có nghĩa là ngày nay muốn niệm Phật, ngày mai muốn tham thiền, ngày mốt lại muốn tu mật, tóm lại muốn học nhiều bao nhiêu cách mới có thể nương nhờ được?

+ Chưa có thể “bất loạn”, trước phải “học thành từng loạt”: Làm chưa đạt được cái tâm “hoàn toàn đều không tán loạn”, thì trước nên khiến nó thành từng loạt. Ta không thể suốt không tán loạn, nhưng ta có cách làm mấy mươi câu thành một loạt, trong một loạt mấy mươi câu nầy không có vọng tưởng tạp loạn; Nếu người không chân thật dụng công thì ngay cả lập thành loạt niệm như thế nầy cũng khó mà làm được. Cho nên nói rằng: “Chơn siêng chơn chuyên, công hiệu tự thấy, không cần hỏi người, xin tự nghiệm lấy”. Như người uống nước, lạnh hay nóng tự biết.

Từng câu niệm mà chơn, chắc chắn ra khỏi Ta Bà. Thế nào gọi là CHƠN? – Một câu giải thích rất bình thường, nếu muốn niệm được chơn, chỉ cần niệm của chơn. Không phải là ngụy trang dối người, không phải là làm trên hình thức, không phải là có mục đích khác, không phải là vọng cầu điều quấy, không phải là cái vỏ bề ngoài. Phải nên khẩn cầu thiết tha, thường thật tín nguyện trì danh, một câu danh hiệu Phật nầy tự mình niệm rất rõ ràng, toàn bộ rất rõ ràng, tức là niệm chơn rồi vậy.

Niệm Phật chẳng thể cầu trước tiên là nhất tâm bất loạn, vì nhất tâm bất loạn rất là khó, có thể được một loạt một tràng, tức là ba mươi, năm mươi hoặc ba trăm, năm trăm câu… mà không loạn, lại có thể tùy lúc tùy nơi mà có thể khởi tưởng niệm Phật.

Niệm Phật mà có thể “nhất tâm bất loạn” đương nhiên là điều tốt rồi, nhưng có thể niệm được thành loạt thành tràng mà chẳng loạn đều không phải là dễ đâu. Có thể niệm được thành loạt thành tràng không loạn, tùy lúc tùy nơi khởi được tưởng niệm cũng là niệm Phật rồi. E rằng chỉ biết niệm Phật trong thời khóa nhất định, ngoài ra lúc bình thường chẳng tưởng được để niệm Phật!

Lúc niệm Phật nhất định nên niệm một cách “chánh tâm thành ý” và “cung kính”, đây là bí quyết nhiệm mầu của niệm Phật trì danh, mà vả lại trong lúc niệm Phật cần tâm không nên thêm việc, chuyên tâm chỉ Nam MôA Di Ðà Phật, niệm được thuần thục, thì có thể nhất tâm bất loạn rồi.

Trích Pháp Môn Trì Danh Niệm Phật, Vãng Sanh Cực Lạc
Tác giả: Huỳnh Lão cư sĩ
Hải Huyền Viên Giáo dịch

Câu Chuyện Giáng Sinh Của Đức Phật A Di Đà

Câu Chuyện Giáng Sinh Của Đức Phật A Di ĐàTheo lời đức Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật chỉ dạy trong kinh A-Di-Đà, cách thế giới Ta-Bà của chúng ta 10 muôn ức cõi Phật về hướng Tây rất xa, có một thế giới tên là Cực Lạc, Đức Phật giáo chủ cõi đó là Phật A-Di-Đà hiện đang thuyết pháp độ sanh.

Trong kinh Đại Bổn A-Di-Đà, đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni dạy cho các đệ tử biết về sự tích về đức Phật A-Di-Đà rằng, về đời quá khứ lâu xa về trước ở nước Diệu Hỷ có vị quốc vương tên là Kiều-Thi-Ca. Bấy giờ có đức Phật tại thế hiệu là Thế-Tự-Tại Vương Như Lai vì nhà vua mà thuyết pháp. Vua nghe xong liền giác ngộ, khước từ ngôi vua xuất gia làm tỳ-kheo hiệu là Pháp Tạng.

Một hôm, Pháp Tạng tỳ-kheo đảnh lễ Phật, quỳ xuống chấp tay cầu Phật Thế-Tự-Tại Vương chứng minh 48 lời phát nguyện của Ngài. Do nguyện lực ấy, sau này trãi qua nhiều kiếp tu hành, Ngài viên thành lời nguyện và thành Phật hiệu là A-Di-Đà, có nghĩa rằng vị Phật có Ánh Sáng Vô Lượng, Thọ Mạng Vô Lượng, và Công Đức Vô Lượng. Đức Phật đó và dân chúng của Ngài sống lâu vô lượng, chỉ hưởng điều an lạc, và có nhiều công đức chẳng thể nghĩ bàn.

Tuy rằng, Đức Phật A-Di-Đà là một vị Phật giáo chủ thế giới Tây-Phương Cực-Lạc, nhưng vì Ngài thương xót chúng sanh ở cõi Ta-Bà nên thường thị hiện giáng sinh đó đây để tủy duyên cứu độ. Những ai đã có duyên với Ngài phát lòng tha thiết tu học và niệm danh hiệu của Ngài thì họ đều được sớm thoát vòng sinh tử luân hồi khổ não. Có một lần, Đức Phật A-Di-Đà thị hiện vào đời nhà Đường bên Trung Hoa làm một vị Hòa-Thượng tên là Thiện Đạo. Đại Sư hoằng dương Tịnh Độ, dạy người chuyên niệm Phật cầu hóa sanh về cõi Tây-Phương Cực-Lạc, và Ngài cũng là vị Tổ thứ II trong Tịnh Độ Tông. Một lần khác cũng vào đời nhà Đường, Ngài hiện thân làm một vị Đại-sư tên là Pháp Chiếu, mở ra “Ngũ Hội Đạo-Tràng” độ người về Cực Lạc, sau được suy tôn làm vị Tổ Thứ IV của Tịnh Độ.

Thù đặc nhất là câu chuyện giáng sinh của đức Phật A-Di-Đà vào đời nhà Tống, Trung Hoa, Ngài thị hiện làm một vị danh Tăng khác tên là Vĩnh-Minh Thiền Sư, suốt thông tông giáo, triệt ngộ Thiền-cơ, nhưng tận lực hoằng dương Tịnh-Độ, là vị Tổ thứ VI của Tịnh Độ Tông.

Câu chuyện như thế này: nhằm thời vua Việt Vương, nhân vua đến chùa lễ Phật và tham vấn Phật Pháp. Vua hỏi Vĩnh Minh Đại-sư rằng:

– Bạch Tôn-Đức, thời nay có bậc chân-tăng nào khác ngoài Ngài nữa không?

Vĩnh-Minh Đại-Sư đáp:

– Có! Hòa-Thượng Hành-Tu, vị có đôi tai dài, người ấy chính là Phật Định Quang ứng thân.

Vua nao nức liền tìm đến Hòa-Thượng Hành-Tu cung kính đảnh lễ và lớn tiếng tôn xưng Hòa-Thượng là Đức Định Quang Như Lai tái thế.

Hòa-Thượng Hành-Tu nghe vậy liền bảo Vua rằng:

– Vĩnh-Minh Đại-Sư thật khéo nhiều lời thì thôi! Ông ấy cũng chính là Đức Phật A-Di-Đà ứng-thân đó.

Nói xong, Hòa Thượng Hành Tu liền nhắm mắt thâu thần nhập tịch ngay trên bản-tọa.

Vua Việt Vương cả kinh sợ kính phục, và trong lòng rất vui vội vã liền trở lại chùa Ngài Vĩnh-Minh để gạn hỏi và hy vọng có thêm cơ may thân cận lễ bái cúng dường Vĩnh-Minh Đại-Sư học đạo.

Về đến cổng chùa thì hay tin Tăng chúng báo:

-Vĩnh-Minh Đại-Sư cũng đã thị hiện nhập Niết-bàn!

Vừa để lộ tông tích hóa độ chúng sanh thì các Ngài bèn nhập tịch liền, đó là điểm yếu mật của chư Phật. Do đó, người đương thời truyền khẩu nhau rằng Vĩnh-Minh Đại-Sư chính là Phật A-Di-Đà ứng hóa, và từ đó hàng Tăng, Tục mới lấy ngày sinh-nhật của Đại-Sư là ngày 17 Tháng 11 Âm lịch để làm lễ vía (kỷ niệm) cúng dường kính mừng Đức Phật A-Di-Đà thị hiện GIÁNG SINH.

Thích Tuệ Uy cẩn soạn

Công Khóa Niệm Phật Hằng Ngày Cho Người Bận Rộn

Công Khóa Niệm Phật Hằng Ngày Cho Người Bận RộnSớm tối mỗi ngày, rửa xong, hướng về tượng Phật hoặc mặt hướng về tây, quì gối hay ngồi hay đứng ngay ngắn, chắp tay ngay ngực, mười ngón tay ngay ngắn không rỗng ở trong lòng bàn tay, tâm giữ sự quán tưởng. Miệng niệm:

– Nam mô thập phương thường trụ tam bảo (3 lần 3 lạy)

– Nam mô đại từ đại bi bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần 3 lạy)

– Nam mô tây phương Cực Lạc thế giới tiếp dẫn đạo sư A Di Ðà Phật (3 lần 3 lạy)

– Nam mô A Di Ðà Phật. (vài trăm hay vài ngàn câu, càng nhiều càng tốt) (3 lần 3 lạy)

– Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần 3 lạy)

– Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát (3 lần 3 lạy)

– Nam mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ tát (3 lần 3 lạy)

(Thế giới Cực Lạc có rất nhiều Bồ tát là thầy – bạn chúng ta. Cũng nên cần phải lạy).

– Ðệ tử (tên) nguyện qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng (1 lạy)

– Ðệ tử (tên) nguyện sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. (1 lạy)

– Ðệ tử (tên) phát bồ đề tâm, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sinh. (1 lạy)

– Ðệ tử (tên) nguyện đem tất cả công đức làm được của ngày nay, trang nghiêm tịnh độ của Phật, trên báo đáp bốn ơn nặng, dưới cứu giúp ba đường khổ, nếu có người thấy nghe, đều phát tâm bồ đề, hết một báo thân nầy, đồng sinh nước Cực Lạc. (1 lạy)

Thời khóa niệm buổi tối, cũng có thể thêm hồi hướng nhỏ:

– Ðệ tử (tên) xưa kia đã tạo các ác nghiệp, đều do tham sân si từ vô thỉ, sinh ra bỡi thân – miệng – ý, tất cả nay đây con đều sám hối. (1 lạy)

(Nếu có làm ác cũng có thể ở tại đây mà sám hối)

Niệm Phật định số từ ít đến nhiều, chỉ cần lấy sự thường siêng mà trì, chẳng nên gián đoạn, chẳng được mượn kế làm hỏng công phu, tối kỵ làm cho đủ vẻ, vì đủ hình thức thì khó được lợi ích thật sự.

Trích Pháp Môn Trì Danh Niệm Phật, Vãng Sanh Cực Lạc
Tác giả: Huỳnh Lão cư sĩ
Hải Huyền Viên Giáo dịch