Cả Đời Niệm Phật Nhưng Bệnh Gần Chết Thì Lại Không Thích Niệm Phật

Cả Đời Niệm Phật Nhưng Bệnh Gần Chết Thì Lại Không Thích Niệm PhậtHỏi: Kính bạch thầy, mẹ con là người chuyên tu theo pháp môn Tịnh độ niệm Phật. Con biết bà đã niệm Phật thường xuyên trên 20 năm, nhưng không hiểu tại sao trong lúc bà bị bệnh nặng nằm ở bệnh viện điều trị, con mở máy niệm Phật cho bà nghe, bà la rầy con, vì bà không thích nghe niệm Phật. Con không biết lý do tại sao, kính nhờ thầy giải đáp giùm. Cám ơn thầy.

Đáp: Vấn đề nầy, nó thuộc phạm vi tối hệ trọng trong lãnh vực chuyên sâu về lý nhân quả. Nếu Phật tử không hiểu rõ thì cũng dễ sanh nghi, đôi khi còn mất tín tâm nữa không chừng. Thật ra, sự niệm Phật lâu năm của cụ bà, đó là tích lũy nghiệp. Nghiệp niệm Phật nầy không bao giờ mất. Tuy nhiên, Phật tử nên hiểu rằng, nhân quả Phật nói, được đặt định trên chiều thời gian, phải xuyên suốt qua ba thời kỳ: quá khứ, hiện tại và vị lai. Cái nghiệp nhân mà cụ bà niệm Phật hiện nay, chắc chắn là bà sẽ được lợi ích ngay trong hiện tại và mai sau nữa.

Còn sở dĩ bà bị bệnh nặng mà bà có thái độ không chịu niệm Phật và cũng không thích nghe tiếng niệm Phật, theo tôi, có thể là có hai nguyên nhân: xa và gần. Nguyên nhân xa, đó là vì do cái nghiệp nhân mà bà đã gây tạo trong quá khứ. Nghiệp nhân nầy đến đây nó thuần thục, chín muồi nên bà phải trả cái quả báo. Có thể trong quá khứ, ở một kiếp xa xưa nào đó, bà không tin Phật pháp, khi có người bị bệnh nặng, người ta niệm Phật thì bà lại tìm cách cản ngăn không cho, nên nay bà phải chịu trả cái quả báo như thế. Đó là luận theo cái nhân xa xưa.

Còn nếu xét cái nhân trong hiện tại, biết đâu trong lúc bà bị bệnh nặng, cơ thể của bà bị hoành hành đau nhức gây ra tình trạng thật khó chịu, nên tâm thần bà đâm ra bấn loạn. Do đó, nên khi nghe tiếng niệm Phật bà cảm thấy thật khó chịu hơn. Vì vậy, mà bà không cho Phật tử mở máy niệm Phật. Vả lại, Phật tử cũng nên kiểm điểm lại thật kỹ, xem mình hay những người thân khác có làm điều gì trái ý nghịch lòng bà không? Có gây ra điều gì bà hờn giận không? Vì người bệnh nhất là đang trong lúc đau đớn khó chịu, rất dễ sanh tâm tự ái giận dỗi hờn mát lắm. Đây là một tâm lý rất thường tình của bệnh nhân mà Phật tử và những người thân nên lưu tâm cẩn thận. Có đôi khi Phật tử làm cho bà buồn giận mà Phật tử không hay biết. Trái lại, bà thì đã ôm ấp sự tức giận nầy chất chứa sâu trong lòng. Do đó, nên có thể bà ghét Phật tử mà bà không nói ra để làm theo ý muốn của Phật tử chăng!

Có thể hằng ngày lúc khỏe mạnh, bà chỉ biết niệm Phật ngoài miệng suông thôi, nhưng sự tu hành để sửa đổi tâm tánh, thì bà không mấy hiểu để thật hành đúng như lời Phật dạy. Có người niệm Phật cả đời, nhưng thật ra chỉ là miệng niệm mà tâm không có niệm. Do đó, nên gặp cảnh xúc duyên trái ý nghịch lòng, thì tam bành lục tặc vẫn nổi lên mạnh mẽ la ó mắng chửi om sòm. Vì tập khí sân hận của họ còn quá sâu nặng ngập tràn. Đó là vì không có học hỏi để biết cách chuyển hóa phiền não và pháp môn mình đang tu. Tình trạng nầy đa số Phật tử chúng ta đều mắc phải.

Thiết nghĩ, vấn đề nầy, Phật tử cũng nên theo dõi bệnh trạng và cá tánh của bà để tìm hiểu rõ hơn. Nếu như căn bệnh của bà không có gì hành hạ đau nhức khó chịu, mà bà lại sanh tâm không thích nghe tiếng niệm Phật như thế, thì có thể là bà bị trả cái quả báo trước kia mà bà đã gây ra.

Để Phật tử hiểu rõ hơn về lý nhân quả, từ khi gieo nhân cho đến khi kết quả, trong Duy Thức Học có chia làm ba loại:

1. Dị thời nhi thục.
2. Biến dị nhi thục.
3. Dị loại nhi thục.

1. Dị thời nhi thục, có nghĩa là từ khi gây nhân cho đến khi kết quả, phải khác thời gian mới chín ( thục ). Như một học sinh, khi mới bắt đầu vào trường học là nhân, đến khi đổ đạt thành tài là quả. Từ khi đi học cho đến khi đổ đạt lấy bằng tốt nghiệp cuối cùng như tiến sĩ chẳng hạn, phải trải qua mất thời gian rất lâu. Đó gọi là khác thời gian mới chín. Cũng thế, trường hợp của bà biết đâu do cái nhân cản ngăn kích bác người ta niệm Phật xa xưa, nay đến thời gian thuần thục chín muồi, nên bà phải trả cái quả báo đó.
2. Biến dị nhi thục, nghĩa là biến đổi khác đi rồi mới chín. Như trái xoài, lúc nhỏ thì màu xanh và chua, nhưng khi chín thì biến đổi màu vàng và ngọt.
3. Dị loại nhi thục, nghĩa là khác loài mới chín. Nghĩa là từ khi gây nhân cho đến khi kết quả phải trải qua thời gian biến đổi rồi mới chín. Như ta gieo hạt lúa cho đến khi thành bông lúa để gặt hái phải trải qua thời gian biến đổi. Từ lúc gieo mạ, rồi nhổ mạ ( không gọi là nhổ lúa ) đem cấy, thành bụi lúa ( không gọi là bụi mạ ) v.v… cho đến khi lúa chín rồi mới gặt. Phải trải qua thời gian biến đổi như thế mới kết thành quả.

Do đó, cho ta thấy, cái nhân mà bà đã cản ngăn không cho người ta niệm Phật trải qua thời gian lâu xa, nay đến lúc chín muồi, tất nhiên, là bà phải trả cái quả báo đó. Luật nhân quả không bao giờ sai chạy. Tại vì chúng ta chưa có hiểu rõ đó thôi. Nếu luận về cái quả hiện tại, thì cái cận tử nghiệp ( nghiệp gần chết ) của bà không mấy tốt. Chúng ta nên tìm mọi cách để thức nhắc cho bà để cho bà sớm hồi tâm chuyển ý. Để chuyển nghiệp nặng mà thành nghiệp nhẹ. Song có điều cái tích lũy nghiệp công phu tu hành niệm Phật trong hai mươi năm qua của bà chắc chắn sẽ không bao giờ mất. Nghiệp nhân nầy, nó sẽ kết thành quả báo mà bà sẽ thọ hưởng trong tương lai.

Tóm lại, lý nhân quả rất phức tạp, không phải đơn thuần như chúng ta tưởng. Vì từ khi gieo nhân cho đến khi kết quả, nó còn đòi hỏi các trợ duyên, tức những điều kiện phụ thuộc khác. Chính những điều kiện phụ thuộc nầy giúp cho cái chánh nhân được thành tựu tốt hay xấu. Nếu những điều kiện trợ giúp tốt, thì cái chánh nhân kia sẽ phát triển theo chiều hướng tốt. Ngược lại, thì cái chánh nhân sẽ không phát triển tốt được. Vì thế, Các điều kiện phụ thuộc nầy là những trợ duyên rất quan trọng. Trong nhà Phật có nêu ra nhiều loại trợ duyên. Vì phạm vi trả lời câu hỏi có hạn định, nên chúng tôi không tiện trình bày hết các loại trợ duyên nầy.

Một khi chúng ta đã hiểu được lý nhân quả phần nào rồi, thì chúng ta sẽ không có gì phải thắc mắc những việc xảy ra trong đời sống. Bởi tất cả đều do chúng ta định đoạt tạo lấy. Nhân tốt thì quả tốt, nếu chúng ta chịu khó quan tâm chăm sóc tốt. Nhân và quả như bóng theo hình, như vang theo tiếng. Tùy hình và tiếng như thế nào, thì bóng và âm vang sẽ đáp lại như thế đó. Luật nhân quả rất công bằng không thiên vị một ai. Do đó, chúng ta phải nên cẩn thận trong khi nói năng, hành động, hay suy nghĩ, tất cả đều có nhân và quả cả.

Hy vọng qua những điều trình bày đại khái trên, sẽ giúp cho Phật tử hiểu qua phần nào về hiện tượng không mấy tốt của bà hiện nay. Phật tử nên tìm đủ mọi cách để khuyên lơn an ủi nhắc nhở cho bà. Nếu thường ngày trong lúc còn mạnh khỏe bà hay tin tưởng nghe theo vị Tăng, Ni nào đó, thì Phật tử có thể thỉnh vị đó đến để khuyến nhắc khai thị cho bà. Có thể nhờ đó mà bà hồi tâm chuyển ý nghe theo. Đó là điều rất tốt cho bà trong lúc bà bị bệnh nặng hay hấp hối. Phật tử và tất cả người thân trong gia đình, nên cố gắng nhẫn nại chiều theo ý muốn của bà, đừng gây ra bằng những lời nói, thái độ hay hành động không tốt mà làm cho bà khởi tâm sân hận nóng giận, thì quả đó là điều rất tai hại cho cận tử nghiệp của bà.

Kính chúc Phật tử được dồi dào sức khỏe, đạo tâm kiên cố để làm tròn bổn phận của một người con chí hiếu.

Thích Phước Thái

Tấm Hình Người Quá Cố Chảy Nước Mắt Suốt 49 Ngày Vì Khi Sống Không Chịu Tu

Tấm Hình Người Quá Cố Chảy Nước Mắt Suốt 49 Ngày Vì Khi Sống Không Chịu TuHôm nay Diệu Âm xin kể ra một câu chuyện, quý vị nghe thử có thấm không? Tất cả những chuyện này xin hứa rằng hoàn toàn có thực, không bao giờ có điều gì ra khỏi sự thật hết.

Có một vị kia tuổi trong khoảng tám mươi. Vị đó có một người con đã xuất gia đã hơn bốn chục năm. Vị Sư Cô đó về nhà khuyên ông Cụ niệm Phật tu hành. Ông Cụ không chịu niệm Phật, không chịu tu hành, mà luôn luôn trả lời rằng:

– Cô lo niệm Phật, Cô lo tu hành sao đọc tiếp ➝

Niệm Phật Sẽ Vãng Sanh Phật Nói Trong Các Kinh Nào?‏

Niệm Phật Sẽ Vãng Sanh Phật Nói Trong Các Kinh Nào?‏Hỏi: Đã nói nguyện vãng sanh Tịnh Độ, thọ mạng vừa dứt liền được vãng sanh, điều ấy có kinh giáo nào làm bằng chứng?

Đáp: Xin dẫn 7 thứ Kinh Luận để xác minh điều đó. Kinh Đại A Di Đà Phật dạy: “Này A Nan! Nếu có chúng sanh muốn được hiện đời thấy được Phật Vô Lượng Thọ, nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, tu hành các công đức, nguyện sinh về nước kia, liền được vãng sanh. Có bài tụng rằng:

“Nếu nghe đức hiệu A Di Đà
Hoan hỉ tán ngưỡng lòng nương về
Cho đến một niệm được lợi lớn
Là vì có được châu công đức.
Dù đầy đại thiên lửa cháy lớn
Cũng phải đi đến nghe Phật danh
Nghe A Di Đà chẳng lui sụt
Cho nên một lòng chí thành lễ”.

Quán Kinh dạy: “Trong chín phẩm, phẩm nào hành giả lâm chung chánh niệm, liền được vãng sanh.”

Luận Khởi Tín nói: “Dạy các chúng sanh khuyên quán chơn như thật tướng bình đẳng, cũng có Bồ Tát mới phát tâm, trong lòng mềm yếu, tự nói mình không thể thường gặp chư Phật trực tiếp cúng dường, trong lòng muốn lui sụt. Nên biết, đức Như Lai có phương tiện thù thắng nhiếp hộ lòng tin, dạy phải chuyên lòng niệm Phật, nhờ nhơn duyên đó, theo nguyện vãng sanh, vì thường gặp Phật, nên xa lìa đường ác.”

Kinh Cổ Âm Đà La Ni nói: “Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo rằng: Ta sẽ vì các ông mà diễn nói thế giới An Lạc ở phương Tây, hiện nay có Phật hiệu A Di Đà, nếu Tứ chúng có thể thọ trì danh hiệu Phật kia, giữ chắc trong lòng, nhớ tưởng không quên, trong 10 ngày 10 đêm trừ bỏ tán loạn, siêng năng tu tập niệm Phật tam muội. Nếu có thể làm cho mỗi niệm tiếp nối không dứt, trong 10 ngày chắc được thấy đức Phật A Di Đà liền được vãng sanh.”

Kinh Pháp Cổ nói: “Nếu người khi lâm chung, không thể niệm Phật, chỉ biết hướng kia có Phật ý muốn vãng sanh, cũng được vãng sanh.”

Kinh Thập Phương Tùy Nguyện Vãng Sanh nói: “Nếu có người đã lâm chung, hoặc chết đọa vào địa ngục. Quyến thuộc trong gia đình vì người mất mà niệm Phật, hoặc chuyển tụng cầu phước, người mất có thể ra khỏi địa ngục vãng sanh Tịnh độ. Huống chi người ấy hiện tại tự có thể tu niệm làm sao không được vãng sanh.

Kinh Đại Pháp Cổ nói: “Nếu thiện nam tử và thiện nữ nhơn nào thường hay buộc ý xưng niệm danh hiệu Chư Phật, thì mười phương chư Phật và tất cả Hiền Thánh thường thấy người này như luôn hiện trước mặt, nên biết người này tùy theo ý nguyện mà được vãng sanh Tịnh độ trong 10 phương.”
Kinh Đại Bi nói: “Vì sao gọi là đại bi? Nếu người chuyên niệm danh hiệu Phật không gián đoạn, người ấy mạng chung chắc sanh về cõi An Lạc. Nếu có thể lần lượt khuyên người cùng nhau niệm Phật, người ấy được gọi là người đại bi.”

Kinh Niết Bàn nói: “Phật bảo này Đại Vương! Giả sử nhà vua cứ mỗi nửa tháng, mở tất cả kho lớn đem bố thí cho tất cả chúng sanh, chỗ được công đức đó không bằng có người xưng danh hiệu Phật một lời, công đức người này hơn người kia không thể so lường.”

Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: “Này A Nan! Có người cúng dường y phục, ngọa cụ, y dược cho chúng sanh khắp cõi Diêm Phù Đề này, công đức người ấy có nhiều chăng? A Nan thưa: Bạch Thế Tôn rất nhiều không thể kể xiết. Phật bảo: Này A Nan! Nếu có chúng sanh tâm lành tiếp nối xưng danh hiệu Phật nhỏ bằng hạt sửa, công đức người ấy hơn kẻ bố thí kia không thể so lường.”

Kinh Đại Phẩm nói: “Nếu người tâm tán loạn niệm Phật cũng được dứt khổ, phước đức không thể kể hết. Nếu người dâng hoa cúng Phật niệm Phật, cũng dứt hết khổ, phước đức không thể kể hết. Nên biết niệm Phật lợi ích rất lớn, không thể nghĩ bàn.”

Trích An Lạc Tập của Thiền Sư Đạo Xước

Chúng Ta Sanh Vào Thời Này Đều Thuộc Hạng Hạ Căn

Chúng Ta Sanh Vào Thời Này Đều Thuộc Hạng Hạ CănXin chư vị tự hứa với mình rằng, ta đã thấy rõ ràng mình là hàng hạ căn thấp nhất. Thấy cái chỗ thấp nhất đó thì ta mới ứng dụng cái phương pháp cụ thể nhất và an toàn nhất của người thấp nhất, thì tự nhiên ta được vãng sanh không có gì trở ngại. Nếu sơ ý chúng ta khởi tâm cao ngạo một chút, hay là sơ ý thấy mình cao một chút, thì ngay giờ phút đó ta sẽ có chướng ngại ngăn cản con đường vãng sanh. Mình biết mình hạ căn thì thường thường với công phu mình tu hành như thế này chưa đủ để xóa những nghiệp chướng đó đâu.

Những người đang còn khỏe mạnh đừng bao giờ nghĩ rằng ta sẽ tiếp tục khỏe mạnh cho đến giây phút cuối cùng và được an nhiên tự tại ra đi. Không phải!… Thường thường nghiệp chướng nó đổ ra rất bất ngờ!… Khi nó đổ ra như vậy thì sẽ cản trở rất nhiều công phu tu hành của mình. Lúc đó…

– Mình muốn mở lời niệm Phật, niệm cũng không được… Đau quá!…
– Mình muốn mở lời nguyện vãng sanh, nguyện không được…
– Lúc đó tự nhiên bao nhiêu mối u sầu, sợ hãi, lo lắng tới dồn dập… làm mình quên hết, quên trụi lủi trụi lui…

Chính vì vậy, dù sao đi nữa cũng khuyên tất cả phải cố gắng phát tâm dũng mãnh tinh tấn hơn nữa, để cho nghiệp chướng nhẹ đi, có vậy chúng ta mới hy vọng sẽ được tỉnh táo trong giờ phút cuối cùng để nghe những lời của người hộ niệm đến khai thị, rồi niệm Phật theo người ta, nhờ đó mà A-Di-Đà Phật sẽ phóng quang tiếp độ ta về Tây Phương.

Hôm trước có một số vị tới thăm đạo tràng và hỏi chuyện. Có một vị hỏi:

– Đạo tràng của anh có tổ chức tu tinh tấn để đạt được “Niệm-Vô-Niệm” hay không?… Thì Diệu Âm có trả lời:

– Ở đây không chủ trương niệm Phật cho đến Vô-Niệm.

“Niệm-Vô-Niệm” là khởi đầu của cảnh giới chứng đắc “Nhất tâm bất loạn”. Vị đó lại hói:

– Tại sao vậy?… Nếu không được “Niệm-Vô-Niệm” thì làm sao được vãng sanh?

(Niệm-Vô-Niệm nghĩa là tự mình niệm mà không cần niệm nữa, tức là trong tâm mình tự niệm)… Diệu Âm mới nói là:

– Vì hầu hết đồng tu tại đây đều là hạ căn. Mà đã là hạ căn thì đạt đến cảnh “Vô-Niệm” không dễ đâu! Đạt không được tới cảnh giới đó, mà lại xúi dục người ta ráng sức niệm cho đến “Vô-Niệm”, thì cái lực này nhiều khi vượt qua giới hạn chịu đựng của họ. Lúc đó không cách nào cứu được.

Chính vị hỏi đó cũng đang tu để cầu cho được “Vô-Niệm”, được “Nhất tâm bất loạn”. Khi nghe nói vậy, thì mấy vị kia cũng nói:

– À!… Anh Diệu Âm nói đúng đó…

Vị đó nghe vậy, có vẻ hơi giật mình! Tôi nói tiếp:

– Vấn đề niệm Phật để đạt tới cảnh giới này cảnh giới nọ!?… Chuyện này hãy để tự nhiên đi, đừng nên mong cầu. Thay vì hồi giờ mình lấy cái công phu này, công phu rất cao này, để cầu cho “Nhất Tâm Bất Loạn”, cầu cho “Vô-Niệm”, thì tại sao mình không đơn giản lại một chút… Nghĩa là, cũng tu y hệt như vậy, cũng tinh tấn như vậy, cũng siêng năng như vậy… nhưng mà chú tâm vào lời nguyện vãng sanh, để cầu mong mình được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc…

Còn chuyện “Vô Niệm” hay “Nhất Tâm Bất Loạn” nó đến cũng kệ nó, nó đi cũng kệ nó, muốn đến hay đi cũng khỏi cầu mong làm chi. Như vậy mình thấy có vui sướng không? Chứ như trong ba tư lương Tín-Nguyện-Hạnh, thì chữ Nguyện này chư Tổ nói là nguyện vãng sanh, tại sao mình không nguyện vãng sanh, mà lại cầu nguyện cho được “Vô-Niệm” làm chi? Cầu nguyện cho “Nhất tâm bất loạn” làm chi? Nếu đến lúc lâm chung, mình chưa được cái cảnh giới gọi là “Niệm Vô Niệm”, chưa được cảnh giới gọi là “Nhất Tâm Bất Loạn”, chẳng lẽ mình nằm đó chờ cho nhất tâm bất loạn sao? Rồi lỡ giai đoạn mãn báo thân đến rồi… Mình đi đâu đây?!…

Cho nên tôi nói, đã có công phu quyết lòng cầu cho vô niệm thì bây giờ hãy lấy công phu đó để cầu vãng sanh đi. Chư Tổ nói: “Không cầu nhất tâm bất loạn thì mới có thể nhất tâm bất loạn”… Chớ đã cầu nhất tâm bất loạn thì không thể nào là nhất tâm bất loạn được, mà nhiều khi vì cái lực của mình không theo kịp cái tâm, mà mình cứ cầu cho nhất tâm bất loạn, thì coi chừng cái “Bất Loạn giả” xảy ra, cái “Vô Niệm giả” đưa đến, nhiều khi chính mình không kềm chế được, mà sau cùng có thể bị trở ngại!…

Nếu thật sự có những người tu được chứng đắc nhất tâm bất loạn, thì đây là những hạng người căn cơ rất cao. Căn cơ cao thì họ chỉ âm thầm tìm đến những người căn cơ cao, chứ không bao giờ phổ biến rộng rãi ra đâu, vì phổ biến vấn đề này rộng ra có thể khiến cho nhiều người vọng tưởng! Tôi nói như vậy thì vị đó có lẽ hơi ngộ!

Trong kinh Phật có nói, chúng sanh thời mạt pháp này căn cơ thấp lắm! Như chúng ta đây cũng vậy, rõ rệt là căn cơ thấp lắm! Căn cơ thấp mà muốn được vãng sanh, muốn được thành tựu, thì tốt nhất hãy nhắm đến việc tu hành cần cù, siêng năng. Thay vì về nhà buổi trưa mình ngồi trên giường đọc báo, bây giờ mình hãy nghĩ rằng tờ báo này nó không giúp ích gì cho đường thành đạo! Vậy thì, liệng tờ báo đi. Thay vì mình mở phim Tàu ra coi, bây giờ mình hãy nghĩ rằng… À!… Nghiệp chướng mình sâu nặng, khi đến giai đoạn hết báo thân mình sẽ bị đọa lạc, sự đọa lạc này dễ sợ lắm!… Thôi mạnh dạn bỏ phim Tàu đi, lập tức cầm xâu chuỗi lên niệm Phật. Khi niệm Phật, niệm hai ba chuỗi cảm thấy mệt, ta lại muốn đi chơi?… Ta liền tự nghĩ, đây chính là nghiệp chướng đó!.. Mới tu như vậy đâu thể là đủ được! Cố gắng tự quán xét lấy…

Mấy ngày nay chúng ta đưa ra chương trình công cứ. Khi cầm công cứ lên niệm Phật, mình thấy tờ công cứ của mình sao còn trống rỗng!? Người ta thì đầy hết trơn rồi, còn mình thì trống rỗng, chứng tỏ công phu của mình còn quá yếu!… Đã không được nhất tâm bất loạn rồi, mà công phu còn yếu nữa, thì khi nằm xuống mình sẽ không có đủ công đức để hóa giải chướng nạn, mình sẽ bị trở ngại! Thấy vậy thì nên biết giật mình. Thôi! Hãy ráng niệm thêm năm sáu ô nữa đi. Tự mình phải làm chứ không ai bắt mình hết. Một ngày mình niệm một ngàn, tức là tô một ô cũng được. Một ngày mình niệm mười ô, cũng do chính mình chứ không ai bắt mình hết. Nhưng mà mình làm được hai ô, ba ô… chắc chắn mình sẽ an tâm hơn một ô. Mình thấy… À!… Còn yếu quá! Tại sao người kia lại niệm được hai mươi lăm ô trong một ngày, tức là 25.000 câu Phật hiệu. Như vậy họ đã quyết tâm về Tây Phương. Nhìn họ mà mình phải ráng lên, tinh tấn lên. Cứ tấn tới… Phải tấn tới… để cho giải bớt ách nạn của mình đi…

Mình không cầu nhất tâm bất loạn vì mình không có khả năng niệm Phật đến nhất tâm bất loạn. Mà không có khả năng niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, thì chướng ngại nhất định vẫn còn ê hề trước mắt, không bao giờ mất! Mình vẫn biết có những người đồng tu tới hộ niệm cho mình, khai thị cho mình. Nhưng phải nhớ:

– Căn bản là mình cần phải có cái Công-Phu.
– Căn bản là mình cần phải có cái Tín-Lực.
– Căn bản là mình cần phải có cái Nguyện-Lực.
– Căn bản mình cần phải có cái Hạnh-Lực.

Hạnh-Lực chính là tô màu vào những cái “Nút” nhỏ trong bản công cứ đó. Cái nút này hay lắm, nó tăng cái phước mình lên, nó giảm cái nghiệp mình xuống. Nhờ giảm nghiệp mình xuống, nên bệnh hoạn cũng giảm bớt đi. Khi lâm chung mình bớt đau đầu, bớt nhức óc… Nhờ thế mới dễ được vãng sanh.

Nói tóm lại, trong pháp tu của người hạ căn như chúng ta là xin cố gắng hơn nữa, siêng năng thêm một chút nữa để tự mình giải cứu cho mình. Xin đừng đợi đừng chờ…

Hôm nay, xin kể một câu chuyện khác, gọi là “Xin đừng nên chờ!”. Câu chuyện này đã xảy ra tại một làng cận kề với làng của Diệu Âm. Ở nơi đó cũng có ban hộ niệm, có chùa cũng biết hộ niệm. Có một anh năm đó mới 42 tuổi thôi, anh rất có hiếu với người Mẹ. Mỗi thứ bảy, Chúa Nhật anh dùng xe Honda chở người Mẹ lên chùa niệm Phật, tụng kinh, nhưng còn anh thì luôn luôn ngồi ở ngoài hút thuốc lá, nói chuyện, không chịu vào Niệm Phật Đường để niệm Phật. Người ta mời anh vào niệm Phật, Anh nói:

– Bây giờ tôi chưa niệm Phật được đâu!… Tôi phải lo cho bà Mẹ của tôi xong đã. (Bà Mẹ lúc đó 86 tuổi, năm 2006… 86 tuổi). Khi mà Mẹ tôi xong phần rồi tôi sẽ tu sau, bây giờ tôi còn nhiều chuyện lắm…

Thì một bữa nọ anh bị cảm. Ngày hôm trước cảm sơ sơ, ngày hôm sau anh chết… Chết trong lúc 42 tuổi. Bà Mẹ đến nay là hơn 90 tuổi rồi vẫn còn sống một mình, không có ai nuôi hết. Còn anh đó thì đã chết bốn-năm năm nay rồi. Chết mới 42 tuổi, lúc còn đang khỏe mạnh, lái xe Honda chạy ào ào.

Thật sự, “Vô-Thường tấn tốc!”… Rõ ràng là “Triêu tồn tịch vong, sát-na dị thế!”. Ấy thế:

– Đừng bao giờ ỷ lại là ta còn khỏe thế này, còn lâu lắm mới đi.
– Đừng bao giờ nghĩ rằng một người đó bệnh thì người ta đi trước mình…

Không phải vậy đâu!…

Ông Già của Diệu Âm cách đây bốn-năm năm… Khi nói chuyện về bà Sui-Gia của ông. Bà bác đó đã nằm một chỗ không đi được, bị bán thân bất toại… Ông Già tôi nói:

– Chắc bà sui phải đi rồi!… Chắc chắn trước sau cũng đi liền thôi!…

Trong khi ông Già của Diệu Âm lúc đó còn vác cuốc ra đồng, còn cuốc cỏ được. Thì bây giờ đây, ông Già đã ra đi ba-bốn năm rồi mà bà bác đó hiện vẫn còn sống. Lạ quá!

Chính vì vậy, nghĩ tới chuyện vô thường, xin chư vị đừng nên bao giờ ỷ lại rằng sức khỏe của mình còn khỏe?… Không đâu!… Một sớm một chiều, nó đến lúc nào không hay! Mà lỡ nó đến quá sớm, trong khi công phu của mình không có, công đức mình không có… Xin thưa thật chư vị, nghiệp chướng trùng trùng trong vô lượng kiếp, oan gia trái chủ đang chờ từng ngày từng giờ… Nó sẽ đổ dồn tới làm cho mình hứng chịu những hậu quả rất đau đớn đó!…

Hiểu được chỗ này, xin ráng phát tâm tu hành. Không ai bắt phải “Nhất tâm bất loạn”, nhưng mà phải tạo công phu, phải siêng năng, phải cần cù để tự mình giải ách nạn trước. Rồi khi lâm chung đồng tu sẽ đến hộ niệm, nhờ thế thì phần vãng sanh Cực Lạc mới an toàn được…

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)