Phật A Di Đà Mở Rộng Vòng Tay Cứu Độ Tôi

Phật A Di Đà Mở Rộng Vòng Tay Cứu Độ TôiĐã từ lâu, tôi cầu mong có được một cơ hội tham gia Phật thất. Tháng bảy năm nay (năm 2010), trong thời gian nghỉ giải lao của Pháp Hội Tam Thời Hệ Niệm Niệm Phật mà tôi đang tham gia, tôi đã nói về tâm nguyện của mình với một người bạn. Thế rồi cô ấy cho tôi biết tại Tinh xá Hoa Nghiêm do Hòa Thượng Tuyên Hóa sáng lập, năm nào cũng tổ chức Phật thất. Tôi vô cùng vui mừng khi biết rằng Tinh xá Hoa Nghiêm tọa lạc tại Maryland, cách chỗ tôi cư trú không xa mấy. Lúc đó đang là tháng bảy, từ ngày 10 đến 17 tháng mười mới là thời gian diễn ra Phật thất, nhưng tôi đã nôn nóng ghi danh trước hai tháng để chuẩn bị cho lần tịnh tu này.

Một tuần trước khi diễn ra Phật thất, tôi có phần căng thẳng. Bởi đây không những là lần đầu tiên tôi tham dự, mà còn do tôi không biết một chữ tiếng Hoa nào. Nhưng tôi hiểu rõ, tất cả những tín đồ Phật giáo trên toàn thế giới đều niệm hồng danh Phật A Di Đà bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Dù gì đi nữa, điều quan trọng nhất là đại đa số các Phật tử, nếu không muốn nói là toàn bộ, đều biết rất rõ lời nguyện từ bi của Ngài chính là muốn cứu độ chúng sinh, cũng biết rất rõ về Tây phương Cực Lạc thế giới. Tôi tự nhủ rằng tuy mình không biết niệm danh hiệu Phật A Di Đà bằng tiếng Hoa, nhưng mình sẽ thành tâm niệm thầm danh hiệu của Ngài bằng tiếng Việt. Như vậy sẽ chẳng còn gì để lo lắng nữa.

Điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả chính là cảm giác ấm áp của một gia đình, cùng bầu không khí an lạc thanh bình, tràn đầy pháp hỷ từ nơi các pháp sư mà tôi bắt gặp ngay từ ngày đầu đặt chân đến Tinh xá Hoa Nghiêm. Trong bảy ngày đó, tuy rằng tôi mới làm quen với các Phật hữu, cũng chẳng nói năng gì với nhau, nhưng tôi có một cảm giác mãnh liệt rằng tôi và họ đang hòa hợp với nhau về mặt tinh thần. Cảm nhận đó đến từ niềm tin sâu sắc của chúng tôi đối với Phật A Di Đà. Chúng tôi đều nguyện vãng sanh đến đất Cực Lạc, để thoát khỏi quả báo luân hồi, và để thực hiện những lời nguyện Bồ đề của mình. Tiếng niệm Phật trong pháp hội đã mang đến cho tôi một nguồn năng lượng tích cực và một niềm vui diệu kỳ.

Đã từng đọc và nghe nhiều bài thuyết giảng Phật pháp nên tôi đã quen thuộc với lời dạy của Phật Thích Ca về sáu ngã luân hồi, về thân người khó được, khó như một con rùa mù tìm được tấm ván lềnh bềnh trên biển vậy. Tuy nhiên, nếu không có kinh nghiệm đó, thì những lý thuyết kia không thể ăn sâu vào tâm thức tôi được. Trong một lần ngồi niệm thầm danh hiệu Phật Di Đà, bên tai tôi, tiếng niệm Phật hoan hỷ của mọi người vang rền cả chánh điện, tôi như chợt tỉnh ngộ! Được làm thân người thật khó làm sao, nếu đời sau phải làm súc sanh, ngạ quỷ, hay phải xuống địa ngục thì đó sẽ là một sự đau khổ triền miên. Bất chợt cảm nhận được sự vô thường của kiếp người làm tôi sợ hãi khủng khiếp. Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy mình đang sống trong một ngôi nhà nghiệp chướng ngùn ngụt lửa dữ. Và cũng là lần đầu tiên trong đời, tôi nhận ra sự cấp bách của việc thoát khỏi ngọn lửa nghiệp chướng ấy.

Cảm giác ghê sợ này khiến tôi toàn tâm toàn ý niệm Phật: “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật,…” Tôi khẩn thiết niệm Phật không ngưng nghỉ. Không hiểu sao cùng lúc đó, trong lòng chợt phát ra một âm thanh cầu nguyện: “Phật A Di Đà kính mến! Xin hãy lắng nghe lời cầu khẩn của con, xin hãy cứu con! Xin Ngài hãy mở lòng từ bi cứu lấy con!” Trong một giây phút ngắn ngủi, tôi chợt cảm thấy Phật A Di Đà đưa tay ra để tôi bắt lấy. Tôi đã được cứu ra từ ngôi nhà nghiệp chướng kia. Một cảm giác yên bình và ấm áp lan tỏa khắp người, tôi bắt đầu rơi lệ, những giọt lệ của sự giải thoát, những giọt lệ của pháp hỷ tràn đầy. Mọi thứ xảy ra trong một khoảnh khắc ngẳn ngủi, dù rằng chưa đến vài phút, nhưng cảm giác kỳ diệu ấy vẫn tồn tại trong tâm tôi khá lâu sau đó.

Trước khi kinh nghiệm được chuyện này, niệm Phật đối với tôi chẳng qua chỉ là một phương thức cung kính lễ Phật, chứ không hề có cảm giác liên hệ đến tâm linh một cách chân chính. Giờ đây, khi niệm Phật, tôi thực sự cảm thấy mình giống đứa trẻ đi lạc đường, dốc hết sức mình mà thành tâm cầu mong Phật A Di Đà, người cha từ bi, soi đường dẫn lối để tôi có thể về đến nhà ở thế giới Cực Lạc. Tôi cũng hy vọng có thể chia sẻ kinh nghiệm của lần tham gia Phật thất này, đồng thời cũng trân trọng gửi lời cảm ơn đến tất cả các vị pháp sư cùng các đạo hữu tại Tinh xá Hoa Nghiêm.

Chuyển dịch từ bài ‘Amitabha Extends His Hand to Rescue Me‘, Vajra Bodhi Sea Magazine số 448 tháng 1, 2011 trang 40-41.

Nguyễn Ngọc Trân

3 Yếu Tố Phải Có Khi Tu Tịnh Độ Và Cách Niệm Phật

3 Yếu Tố Phải Có Khi Tu Tịnh Độ Và Cách Niệm PhậtMuốn được vãng sanh phải đủ 3 yếu tố: Tín, Hạnh, Nguyện như đảnh 3 chân thiếu 1 tất ngã.

TÍN: Là tin có: tự, tha, nhơn, quả, sự và lý.

HẠNH: Là chấp trì danh hiệu Phật cho được “nhất tâm bất loạn”.

NGUYỆN: Là quyết muốn thoát khỏi cõi Ta-Bà, cầu sanh về nước Cực-Lạc.

Dưới đây là đại khái 6 lối tin về Tịnh-Độ.

Tin tự: Tin chắc rằng mình có Phật tánh sáng suốt, đủ vô lượng công đức. Nếu mình cố công lo niệm Phật thì quyết có thể chứng ngộ được.

Tin tha: Công nhận rằng lời dạy của Đức Phật Thích-Ca không luống dối; Đức Phật A-Di-Đà luôn luôn nhiếp thọ tùy theo cơ cảm của mình mà ứng.

Tin nhơn: Đinh ninh công hạnh niệm Phật hiện tại của mình có năng lực giải thoát.

Tin quả: Tin chắc ở chín phẩm sen vàng là nơi sẽ về của ta sau này.

Về được đó thì dù hạng nào cũng không thối chuyển.

Tin sự: Xác nhận ngoài cõi Ta-Bà có một cõi Cực-Lạc đúng như lời Phật nói.

Tin lý: Tin tự tâm ta cũng tức là Tịnh-Độ, nếu một khi nó đã được trong sạch.

Sự và ly viên dung không tách biệt.

Tóm lại, không tin thì thôi, nếu có tin cần phải tin sâu, tin chắc, và tin rồi phải thực hành.

HẠNH: Là thực hành, phải cho kiên nhẫn và đúng pháp.

Kế đây là bài dịch ý của mấy vần thơ mà Tổ Đức Nhuận đã bàn về sự niệm Phật để giúp vào một phần nào cho sự thực hành ấy được đúng.

Xét ra niệm Phật dễ mà không
Ý, khẩu buông lung giữ chẳng đồng.
Miệng niệm Di-Đà tâm toán loạn.
Dầu cho bể cổ vẫn là không.

Ấy đó, niệm Phật cốt phải giữ tâm và miệng đi đôi, nghĩa là miệng niệm thì tai phải nghe, tâm phải chú ý nghĩ nhớ Phật và nhất là tâm ý phải không tán loạn, không nghĩ xằng xiêng mới có hiệu quả.

Đây là bước thứ nhất của sự niệm Phật, nếu ai chưa được mà vội trách móc, vội ngã lòng rằng sao niệm hoài mà không thấy gì hết, rằng sao càng niệm chừng nào càng rối rắm chừng nấy v.v… thì thiệt là một điều oan uổng và đáng tiếc !

Để giúp sự niệm Phật được dễ dàng tôi xin nêu ra đây những bí quyết thành công của Ngài Giác Minh Diệu Hạnh đã dạy mà Thượng Tọa Trí Tịnh đã lược giải trong quyển “Đường về Cực-Lạc”:

Ðiều kiện thứ nhứt, trong lúc niệm, phải rành rẽ rõ ràng.

Rành rẽ là chữ câu ràng rẽ không lộn lạo, mù mờ. Rõ ràng, là tiếng nói rõ ràng, không trại tiếng.

Ðiều kiện thứ hai, tiếng phải hiệp với tâm, tâm phải duyên theo tiếng, tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.

Ðiều kiện thứ ba, phải chí thành tha thiết, với đức Từ Phụ, lòng ta như con thơ nhớ mẹ, với cõi Cực Lạc lòng ta như viễn khách tưởng cố hương.

Ðiều kiện thứ tư, không cho xen lộn một mảy tưởng niệm thế xự; nghĩa là phải luôn nhiếp tâm trụ nơi tiếng niệm Phật, không xao lãng. Nếu lỡ xao lãng phải liền nhiếp thâu lại.

Với trường hợp đây, chú tâm nhận chắc lấy tiếng của mình niệm là công hiệu nhứt.

Trong quyển Niệm Phật Luận ngài Đạm Hư Đại lão Pháp sư đã nói:
Một khi niệm câu A-Di-Đà Phật được tương ứng, liền đó hành giả được 6 căn thanh tịnh. Vì:

1/ Mắt thường nhìn Phật thì nhãn căn thanh tịnh.
2/ Tai nghe tiếng niệm của mình và của đại chúng thì nhĩ căn thanh tịnh.
3/ Mũi nghe biết hương thơm của nhang, trầm thì tỷ căn thanh tịnh.
4/ Lưỡi cử động để niệm Phật thì thiệt căn thanh tịnh.
5/ Thân ở trong đạo tràng mà lạy Phật thì thân căn thanh tịnh.
6/ Trong khi niệm, lạy, tâm thường tưởng Phật thì ý căn thanh tịnh.

NGUYỆN: Nguyện phải cho thiết tha, cho quyết định.

Chúng ta có thể lựa một trong các bài văn phát nguyện rồi học thuộc lòng, để trước khi lên giường ngồi xếp bằng hướng về Tây-Phương phát nguyện xong sẽ nằm ngủ.

Hoặc những vị kém trí nhớ hằng ngày phát nguyện TRÌ-DANH NIỆM-PHẬT – Niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật, đi, đứng, nằm, ngồi đều niệm, ăn cũng niệm, làm việc cũng niệm, cho đến những chỗ không sạch sẽ cũng đều niệm được cả (nhớ những lúc này niệm thầm, vì niệm lớn sanh tội bất kính).

Niệm từ buổi mai khi mới thức dậy, cho đến buổi tối, cả ngày niệm không xen hở. Khi gần đi ngủ, ngồi xếp bằng, bán già, hay kiết già, chắp tay mà nguyện rằng: Con tin lời của Đức Phật A-Di-Đà, giữ một lòng niệm danh hiệu Phật, nguyện đời này bao nhiêu tội chướng thảy đều tiêu sạch, đến khi lâm chung được Phật và các vị Bồ-Tát, đến tiếp dẫn chúng con về Cực-Lạc.

Trích An Dưỡng Tập và Phật-Học phổ-thông
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm biên khảo từ nhiều tác giả khác.

Nên Ăn Chay Hay Không Ăn Chay?

Nên Ăn Chay Hay Không Ăn Chay?Thuở ban sơ khi Phật còn tại thế, Ngài chủ trương con người nên ăn chay chứ không bắt buộc người ta phải ăn chay. Vì sao? Bởi có số người rất thích mùi vị thơm ngon, nếu Ngài kiên quyết bắt họ phải ăn chay thì e là họ sẽ không dám xuất gia. Nhân vì lúc bấy giờ có một số đệ tử của Phật thích ăn thịt mà Ngài cũng không nói gì. Người xuất gia là đi khất thực theo thứ lớp tuần tự. Người không ham ăn thì sẽ nói: “Người ta cúng dường thứ gì thì mình ăn thứ đó.” Còn người tham ăn thì có sự lựa chọn hơn.

Rốt cuộc thì ăn thịt và không ăn thịt đọc tiếp ➝

Dù Người Muốn Giết Mình Cũng Không Nên Có Tâm Sân Hận

Dù Người Muốn Giết Mình Cũng Không Nên Có Tâm Sân HậnQuý vị nên biết rằng Sư Phụ nầy của quý vị rất nghiêm khắc, chứ không ngọt ngào gì đâu. Có lúc tôi nghiêm khắc đến nỗi đệ tử tôi phải chảy cả nước mắt, nước mũi nữa đó. Nay tôi xin kể cho quý vị biết là tôi làm sao mà học được cái tánh như thế.

Khi mười sáu tuổi, tôi đã bắt đầu giảng kinh Kim Cang. Trong kinh có nói về một vị tiên nhẫn nhục, vị nầy dù bị vua Ca Lợi chặt đứt cả tứ chi mà vẫn không hề sanh tâm sân hận. Sau khi đọc câu chuyện đó, tôi bèn phát nguyện học theo và một lòng nhất tâm tu pháp môn nhẫn nhục.

Tôi biết tánh mình bẩm sinh là nóng nảy và cang cường bướng bỉnh. Cho nên tôi phải tu pháp môn nhẫn nhục là thích hợp nhất. Nhưng một khi tôi hạ quyết tâm, thì bao nhiêu khảo nghiệm thử thách từ bốn phương tám hướng ào ào kéo tới. Có người xưa nay chưa từng mắng tôi, giờ nầy cũng mắng tôi; người vốn chưa hề đánh tôi, giờ đây cũng đánh tôi. Bạn bè trước đây vốn đối xử với tôi rất tốt, kết quả lại chuyên môn công kích tôi. Thế nên tôi tự xét rằng: “Mình giảng kinh Kim Cang cho người ta, trong kinh có nói về ông tiên nhẫn nhục bị cắt đứt cả tay chân mà không sanh lòng sân hận. Hiện nay những người nầy chỉ chửi mắng mình, công kích mình, chớ họ chưa đến đổi chặt đứt tay chân của mình, nếu mình không thể nhẫn nhục thì làm sao mình còn giảng được kinh Kim Cang nữa đây?”

Vì thế tôi bèn hạ quyết tâm là phải nhẫn nhục. Bất luận những ai đối với tôi không tốt, thậm chí là họ muốn hại tôi, tôi cũng đều nhịn nhục hết. Kết quả là tôi không bị cảnh giới bên ngoài làm dao động. Kỳ thật những người nầy không phải muốn đến hại tôi, mà trái lại họ giáo hóa tôi, xem tôi có chịu nổi mấy thứ khảo nghiệm đó không. Ai mắng tôi thì tôi hướng về người đó khấu đầu đảnh lễ. Có ai đánh tôi thì tôi ngủ ngay một giấc cho họ xem. Lúc còn ở nhà, tôi vẫn thường thường bị mấy thứ như thế đả kích. Nhưng sau khi xuất gia, các bậc thiện tri thức cũng lại tới lui không dứt. Ôi thôi những vị xuất gia trước sau, tả hữu bao quanh bên tôi, chẳng một ai xem tôi ra gì. Họ đều coi tôi như cái gai trước mắt, đều muốn ức hiếp tôi. Có ông thầy khi thấy tôi thắp hương bèn mắng lớn: “Chú mà xuất gia cái gì? Thắp một cây nhang cũng không biết. Thật là đần độn! Còn dám nói tới xuất gia nữa sao!”

Lúc bấy giờ tôi nghĩ rằng: “A! Khảo nghiệm lại đến nữa rồi. Tiên nhân nhẫn nhục bị vua Ca Lợi chặt đứt tay chân mà không sân hận. Còn hiện nay mình chưa bị như thế mà. Được rồi! Thì cứ khấu đầu đảnh lễ ông ta!” Thế là tôi đến trước mặt thầy đó khấu đầu cúi lạy để cám ơn ông ta đã giúp đỡ tôi. Lúc bấy giờ, bất luận là những bậc “thiện tri thức” xuất gia hay tại gia, họ đã không ngừng đến giúp đỡ tôi như thế, nhưng lòng tôi đối với họ vẫn không một mảy may sân hận. Mỗi lần như vậy, tôi đều hồi quang phản chiếu: “Nhất định là lúc xa xưa mình đã không hề giúp họ, trái lại hôm nay họ lại giúp mình, vậy mình phải cảm tạ họ mới phải chớ!”

Bây giờ các vị đã hiểu rõ chưa? Sư Phụ của quý vị là ông thầy như thế đó. Là ông thầy chuyên môn tu hạnh nhẫn nhục, chuyên môn bị người ta ức hiếp. Tôi chuyên môn nhẫn nhịn những cái người ta không thể nhẫn, nhường những cái người ta không thể nhường. Con người như vậy thì có lợi lộc gì? Nhưng quý vị đã quá bất hạnh, vì gặp phải một người chẳng có ích lợi. Vậy sao quý vị vẫn còn muốn học tập theo cái ông Sư Phụ ngu si nầy? Nhưng khi quý vị đã theo tôi rồi, tôi cũng không thể không kể lại chuyện quá khứ từng trải của tôi, là tôi đã đến từ con đường tu hạnh nhẫn nhục đó.

Quý vị học Phật, không nên nghe cho nhiều Phật Pháp rồi lại không chịu thực hành, mà hãy nên cung hành một cách thực tiễn. Quý vị nên tự bản thân y chiếu và cố gắng áp dụng theo những điều răn dạy của đức Phật.

Chúa Giê-Su đề xướng chủ thuyết “Ái địch” là yêu thương kẻ thù địch. Đối với người không tốt với ta, thì ta lại càng phải yêu thương người đó.

Còn Phật giáo chủ trương “Oán thân bình đẳng,” là dù thân hay thù, mình cũng đều xem như nhau. Lòng nhân từ của chúng ta đối với ai cũng nên bình đẳng, không phân biệt thân sơ, khinh trọng. Nếu người học Phật không thể thực sự hành theo, thế thì học đến bao giờ cũng chỉ là học cạn cợt bên ngoài, chứ không thể nào đạt được sự lợi ích chân thật!

Hãy nhớ kỹ! Nhớ kỹ! Bước đầu học Phật nhất định là phải tu nhẫn nhục! Cứ kể như là có người muốn giết mình, mình cũng không nên có tâm sân hận. Thậm chí là nếu so với chỗ tu hành của ông tiên nhẫn nhục, chúng ta lại càng phải tiến hơn một bước. Nhưng đó cũng không phải có ý nói: “Ông tiên tu nhẫn nhục bị chặt đứt tay chân mà không khởi tâm sân hận, vậy bây giờ anh có thể chặt thân thể của tôi đi, tôi cũng không sân hận đâu!” Đó là bắt chước người ta, chứ không phải là từ ý của mình, như vậy là bị hạng nhì rồi. Không những tay chân mình dù có bị chặt, mình chẳng giận hờn, thậm chí nếu thân bị bằm tan xương thịt nát, mình cũng không nên sân hận! Bởi vậy khi có người phỉ báng tôi, hoặc giả đối xử không tốt với tôi, tôi cũng chẳng giận hờn.

Trích Hòa Thượng Tuyên Hóa Khai Thị Quyển 6
Giảng ngày 1 tháng 12 năm 1990