04 01 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Khi mới vào chùa, bút giả nghe được một truyền thuyết bao hàm ẩn ý, mà không biết có đúng với nguyên ngữ chăng, và phát xuất từ đâu? Câu ấy là: “Phật cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng, Phật cao nhứt trượng, ma cao quá trượng đầu, Phật cao siêu quá trượng đầu, ma quy hàng Phật.” Ý nghĩa câu này là: “Phật cao một thước, ma cao một trượng. Phật cao một trượng , ma cao khỏi đầu trượng; nếu Phật cao vượt khỏi đầu trượng nữa, ma sẽ quy hàng Phật.” Suy gẫm theo câu trên, người tu phải làm sao cho ông Phật của mình cao hơn con ma, nếu chẳng thế tất bị đọc tiếp ➝
02 01 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Con đường hoàn thành Phật đạo thật ra vẫn còn vô số chông gai thử thách có muôn ngàn duyên nghiệp sẳn sàng khảo đảo đời sống của người hành trì cũng như gây nên rất nhiều chướng ngại trên bước đường tu tập. Những sự khảo đảo ấy có rất nhiều chi tiết sai biệt, được tóm tắt đại cương trong sáu phần sau đây:
1/ Thứ nhất là Nội Khảo.
Có người trong lúc tu tập bỗng khởi lên những tâm niệm Tham lam giận hờn, dục nhiễm, ganh ghét khinh mạn, nghi ngờ, hoặc Si mê hôn trầm buồn ngủ. Những tâm niệm ấy đôi khi phát lộ rất mãnh liệt, và gặp duyên sự nhỏ cũng dễ sanh ra cau có bực mình. Nhiều lúc trong giấc mơ lại thấy các hình tướng thiện ác biến chuyển. Gặp cảnh này, hành giả phải ý thức đó là do công năng hành trì nên nghiệp tướng phát hiện. Ngay lúc ấy nên Giác ngộ rằng các thứ nghiệp tướng đều như huyễn hóa, phải nêu cao Chánh niệm thì tự nhiên các tướng ấy lần lượt tiêu tan. Nếu không nhận thức rõ ràng tất bị nó xoay chuyển làm cho thối đọa.
Tiên đức dạy rằng: chẳng sợ nghiệp khởi sớm: chỉ e Giác ngộ chậm. Có người đang lúc niệm Phật bỗng phát sanh tán loạn, mỏi nhọc khó cưỡng lại nổi, ngay khi ấy nên đứng lên lễ Phật hoặc đi kinh hành, hoặc tạm xả công phu lui ra đọc vài trang sách, chờ cho tâm tư thanh tịnh sẽ trở vào niệm Phật. Chớ nên cưỡng cầu, chớ nên tự ép buộc cho mau nhất tâm thì càng cố gắng, lại càng rối loạn. Nếu thấy quá cô tịch thì phải phụ thêm bái sám, tụng kinh, trì chú. Ðây chỉ là sự uyển chuyển trong lúc dụng công, để con đường hành trì trở nên dễ dàng và dễ chịu hơn.
2/ Thứ hai, là Ngoại Khảo.
Ðây là những nghịch cảnh thuộc về bên ngoài, làm duyên khó khăn thối đọa cho hành giả, như là sự nóng bức, ồn ào, uế tạp, hoặc ở chỗ quá rét buốc hay nhiều muỗi mòng, gặp những cảnh như thế này thì phải nên uyển chuyển chứ đừng chấp nê theo hình thức của mình, mà phải nhẫn nại để cố giữ cho vững khóa trình trì niệm. Ðừng bao giờ tỏ ra cái ý mong cầu hoàn cảnh bên ngoài phải thuận theo lòng mình.
3/ Thứ ba là: Nghịch Khảo.
Trên đường hành đạo nhiều khi hành giả bị chướng duyên làm cho trở ngại. Có người bị cha mẹ, anh em, hay vợ chồng hoặc con cái ngăn trở, phá hại sự hành trì, có người thì xác thân mang cố tật hoặc đau yếu mãi không lành. Có kẻ bị oan gia đeo đuổi ám hại. Hoặc có người bị vu oan, giá họa khiến bị tra tấn hay tù đày, hoặc bị ganh ghét bêu rao nhiều tiếng xấu xa làm cho lòng khó an khó nhẫn.
Tất cả các việc ấy đều do sự tác động của nghiệp quá khứ hoặc nghiệp hiện tiền, mà muốn vượt qua thì hành giả cần phải ẩn nhẫn sám hối một cách kiên trì, chớ buồn phiền oán trách mà phải xem đó như là những thử thách của A Di Ðà để trui luyện tín tâm của mình. Và điều cần yếu nhất là phải thường xuyên cầu nguyện sự gia hộ của chư Phật và chư Bồ tát.
4/ Thứ tư là: Thuận Khảo
Có người không gặp nghịch cảnh mà gặp thuận cảnh, và cầu mong gì đều được toại ý, Nhưng những sự đắc ý ấy lại là duyên ràng buộc chứ không phải là duyên tiến tu. Ðây là những cảnh thuận theo duyên đời, quyến rũ người tu rồi dẫn lần đến các sự phiền toái khác làm mất cả đạo niệm.
Người ta chết vì lửa thì ít mà chết vì nước thì nhiều cho nên trên đường hành trì thì thuận cảnh thật ra đáng sợ hơn nghịch cảnh.
Vì sao thế? Vì nghịch cảnh phần nhiều làm cho hành giả khổ đau nên sớm tỉnh ngộ và dễ thoát ly ý niệm Tham đắm, đôi khi còn phẫn chí mà lo tu hành. Ngược lại, thuận cảnh làm cho con người âm thầm thối đọa lúc nào không hay không biết. Ðến khi bừng tỉnh mới rõ mình đã lăn xa xuống dốc, khó mà cứu vãn cho kịp. Người xưa nói rằng: Việc thuận tốt đến ba – Mê lụy người đến già. Cho nên sự thử thách của thuận cảnh rất là vi tế và khó đối trị. Do đó cần phải chú ý.
5/ Thứ năm là Minh Khảo.
Ðây là sự thử thách rõ ràng trước mắt mà không chịu cảnh giác để tỉnh ngộ.
Chẳng hạn như có một vị tài đức không bao nhiêu nhưng được nhiều người nịnh bợ, khen là nhiều đức hạnh, có phước lớn, rồi sanh ra tự kiêu, tự đắc, khinh thường mọi người làm những điều càn rỡ, kết cuộc bị thảm bại. Hoặc có một vị có đủ khả năng tiến xa trên đường đạo, nhưng bị kẻ khác cản trở, dọa nạt, khích bác, thuyết phục phải bỏ đạo, rồi sanh ra e dè lo sợ để rồi thối thất lòng tin. Hoặc có những kẻ tự mình biết nếu tiến hành Tham vọng nào đó thì sẽ rước lấy sự lỗi lầm, thất bại, nhưng vì mù quáng và tự ái, vẫn đeo đuổi theo cho đến khi thân bại danh liệt.
Hoặc có kẻ tuy biết các duyên bên ngoài đều là giả huyễn, nhưng vì định lực yếu kém, lòng tin lung lay, cho nên không buông bỏ được, rồi sau đó tự chuốc lấy sự buồn khổ.
Có nhiều người tuy có đức tin và có hành trì, nhưng tính tình quá nhẹ dạ, nên hay bị phỉnh gạt và bị lôi cuốn vào việc đời cho đến nỗi thân bị mang lụy. Khi mà chưa diệt được lòng Tham lam, thì rất dễ bị người khác dùng tiền bạc, danh vọng, sắc đẹp lôi cuốn. Hoặc nếu còn tánh nóng nảy và khí khái tất dễ bị kẻ khác khích động mà gánh vác những việc phiền phức vào thân.
Ðây là cạm bẫy của Ðời mà cũng là của Ðạo, nếu không dè dặt để cảnh giác thì sẽ vướng vào vòng chướng nghiệp. Ðối với những duyên thử thách lộ liễu như thế, hành giả phải nhận định cho sáng suốt và phải quả quyết tiến theo ánh sáng của Chánh kiến mới vượt thẳng được
6/ Thứ sáu, là Ám Khảo.
Ðây là sự thử thách âm thầm không lộ liễu, mà hành giả nếu không khéo lưu tâm thì chắc chắn khó hay khó biết.
Có người ban sơ tinh tấn niệm Phật, rồi bởi gia kế lần lần sa sút, công việc làm ăn thất bại, cho nên sanh lòng trễ nãi sự tu. Có người công việc mưu Sinh từ từ phát đạt, rồi ham mê theo lợi lộc mà xao lãng hành trì.
Có người vì thiếu sự cứu xét nội tâm cho nên phiền não càng ngày càng tăng thêm, lần lần sanh ra lười biếng kinh kệ.
Có người vì thời cuộc bên ngoài thay đổi, tuy sự sống vẫn đầy đủ nhưng nhà cửa nay đổi mai dời, tâm trí cứ hoang man hướng ngoại, bất giác bỏ quên sự trì niệm hồi nào không hay.
Trên đây, đều là ảnh hưởng diễn biến của nghiệp thiện ác. Nhưng có sức âm thầm lôi kéo hành giả, làm cho bê trễ sự tu học, nên gọi là Ám Khảo.Do vậy mà người niệm Phật phải lưu tâm, chú ý nhiều hơn nữa và phải luôn luôn bái sám cùng cầu nguyện sự gia bị của chư Phật cũng như oai thần lực của chư Bồ tát để vượt qua những thử thách vi tế và âm thầm.
Trích Niệm Phật Sám Pháp
Phẩm Thứ Chín: Niệm Phật Phải An Nhẫn Các Chướng Duyên
Hòa thượng Thích Thiền Tâm
31 12 2011 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Trước khi Thiền tông hưng thịnh, Phật giáo Trung Hoa đã có nhiều pháp môn tu, trong đó pháp môn Niệm Phật, phát triển mạnh mẽ và phổ cập từ thời ngài Huệ Viễn (334 – 416). Đối với người đã am hiểu giáo lý và có kinh nghiệm tâm linh, thì dù Thiền hay Tịnh, đều là phương tiện tu tập để đạt được cứu cánh giải thoát. Thế nhưng, đối với nhiều người, nhất là những người mới học đạo, nền tảng căn bản giáo lý và mục đích tu tập chưa nắm vững, khi đối diện với nhiều pháp môn tu không sao tránh khỏi sự bỡ ngỡ, hoang mang, không biết chọn phương pháp nào để hành trì. đọc tiếp ➝
20 12 2011 | Gương Vãng Sanh |
Trong thế kỷ hai mươi vừa qua, Ngài Hạ-Liên-Cư là một cư sĩ, Ngài chỉ niệm A-di-đà Phật, khi vãng sanh Ngài mời bạn bè tới dự tiệc chia tay rồi đứng giữa chánh điện chắp tay mà thoát hóa, vui vẻ thoải mái. Người biết trước ngày ra đi, đứng cười mà thoát hóa như trò đùa vậy, đây chẳng phải là chuyện “Thần-kỳ” sao?
Chuyện này cũng chưa lạ, thường ngày Ngài có nuôi một con chuột, khi Ngài kinh hành niệm Phật con chuột lắc lẽo đẽo theo sau, giống như ở quê trẻ em nuôi chim se sẻ, khi khôn lớn nó cứ nhảy nhảy theo sau vậy đó. Đến khi Ngài đứng vãng sanh thì thấy nó đã vô chiếc giày của Ngài và đứng vãng sanh theo. Đây đúng thật là chuyện “Thần-kỳ” của thế kỷ!
Trong kinh Phật nói, tất cả chúng sanh nhứt tâm xưng niệm A-di-đà Phật thì được vãng sanh. Chuột là chúng sanh, nó niệm Phật thì nó được vãng sanh và nó cũng được bình đẳng thành Phật ở Tây-phương. Đây là chuyện có thực. Con chuột này, chắc chắn trong đời trước nó là con người có tu Phật, niệm Phật thành thục rồi, nhưng lúc lâm chung sơ ý nẩy lên một niệm ngu si, dại dột nào đó mà lọt vào đường súc sanh, may mắn là gặp được Ngài Hạ-Liên-Cư cứu độ, chứ giả sử như sinh ra rồi đi lang thang, gặp phải chú mèo thì tiêu đời rồi, biết kiếp nào nữa mới thoát đây?…
Hỏi: Hộ niệm cho súc sanh có được không?
Trả lời: Trong kinh Vô lượng thọ, Phật A-Di-Đà có phát lời thệ rằng:
“Tất cả chúng sanh, cho đến những kẻ ở trong cõi Diêm-ma-la (tức là điạ ngục), trong ba đường ác, sanh về nước Ta, thọ giáo pháp của Ta, ắt Thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chẳng đọa vào tam ác đạo nữa. (Nguyện 1 và 2)”
Như vậy, súc sinh nếu biết niệm Phật cầu vãng sanh cũng được vãng sanh. Chỉ có vấn đề khó khăn là liệu chúng có cơ duyên ngộ ra được đạo lý, niệm Phật cầu vãng sanh hay không mà thôi.
Nuôi con vật trong nhà, nếu ta tập cho chúng niệm Phật, thường xuyên hồi hướng công đức cho chúng, thường đến vuốt ve, tâm sự, khuyên giải, tập cho chúng niệm Phật, cầu cho chúng được vãng sanh… nhiều con vật có linh ứng tốt, chúng cũng hiểu được ý của mình và niệm Phật theo. Nếu được vậy thì mình cũng có thể cứu độ được chúng nó. Kết quả này, xét cho cùng, cũng là nhân duyên của chúng đã đến lúc thoát nạn vậy.
Ví dụ, con chuột lắt của Ngaì Hạ Liên Cư đã vãng sanh cùng ngày với Ngài, nó được Ngài nuôi và mỗi ngày đều theo Ngài đi kinh hành niệm Phật. Khi Cụ đứng vãng sanh, thì trong ngày đó, nó cũng đứng vãng sanh luôn.
Cho nên, khi con vật chết, chúng ta nên niệm Phật cho chúng, khai thị cho chúng, cầu nguyện cho chúng được vãng sanh về Tây phương. Đây là điều nên làm. Thành tâm làm, rất tốt. Còn chúng được vãng sanh hay không thì không ai dám quả quyết.
Hễ nó có linh cảm tốt, chúng biết niệm theo, cầu vãng sanh thì cũng có thể vãng sanh. Còn tâm trí chúng vẫn mê muội, thì hộ niệm sẽ kết thêm chủng tử Phật cho chúng, cầu cho tương lai được duyên lành với Phật pháp, thế thôi.
Ngay cả việc hộ niệm cho một người, đâu phải ai đuợc hộ niệm cũng được vãng sanh đâu! Chỉ người nào tin tưởng, tha thiết phát nguyện, và niệm hồng danh A-di-đà Phật mới được, còn người không tin tưởng, không chịu niệm, hoặc có niệm mà không muốn về Cực lạc thì cũng đành chịu thua!
Phật không độ kẻ vô duyên! Vô lượng vô biên chúng sanh chết bị rơi vào các cảnh giới đọa lạc, chư Phật biết vậy nhưng cũng không thể cứu được, vì họ không có duyên với Phật. Họ chống báng, bài xích, làm điều ngược lại với Phật pháp… Họ là hạng chúng sanh vô duyên với Phật vậy.
Hải Sơn muốn cứu con chó thì hãy thành tâm hồi hướng công đức cho nó, thành tâm đem hết tình thương mà khuyên giải nhiều lần, cầu mong cho nó được thoát nạn súc sanh, sanh thẳng về cõi Tịnh-độ có lẽ hay hơn cầu sanh làm người. Cứ làm vậy, được hay không, sanh về đâu… thì còn phải tùy duyên của nó.
Phật dạy, tất cả chúng sanh đều có Linh tánh, Hữu Tình thì có Phật tánh, Vô Tình thì có Pháp tánh. Phật tánh hay Pháp tánh đều là tánh linh.
Có tánh linh thì có thể giác ngộ. Hữu tình thì có thể tự giác ngộ. Vô tình thì nương theo sự giác ngộ của hữu tình mà được giác ngộ theo.
Trong kinh Hoa Nghiêm Phật nói, Y Báo nương theo Chánh Báo mà chuyển. Cháu hàng ngày đem tâm thương yêu, cứu độ… mà nói chuyện, khuyên giải con chó, thì Hải Sơn là Chánh Báo, con chó là Y Báo. Tâm Hải Sơn phải thành khẩn thì mới mong được cảm ứng. Hãy cố gắng thử coi. Chắc chắn còn nhiều thử thách trong việc cứu độ này!
Trích Khuyên Người Niệm Phật
Diệu Âm Úc Châu
Các Phúc Đáp Gần Đây