26 08 2011 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Chánh kinh: Lại có chúng sanh tích tập thiện căn, mong cầu Phật trí, phổ biến trí, oai đức quảng đại bất tư nghị trí; đối với thiện căn của chính mình chẳng sanh nổi lòng tin nên đối với việc vãng sanh cõi Phật thanh tịnh, ý chí do dự, chẳng thể chuyên chú, nhưng do liên tục niệm Phật chẳng ngớt, kết thiện nguyện ấy thành căn bản nên vẫn được vãng sanh.
Giải: Ðoạn kinh này nói đến một loại hành nhân khác bị sanh về biên địa: tin tha mà chẳng tự tin mình.
Tin tha mà chẳng tin nổi tự thì chính là trí còn kém cỏi. Không có trí quyết định thì chẳng sanh nổi lòng tin quyết định cho nên ‘ý chí do dự, chẳng thể chuyên chú’. Tín nguyện chẳng vững thì chỗ mình y cứ [để tu tập] chẳng chuyên nhất nổi. Tuy vậy, vì hành nhân niệm Phật liên tục nên nương theo sức niệm Phật và sức phát nguyện bèn được vãng sanh, nhưng chỉ được sanh nơi biên địa.
Chánh kinh: Những người này do nhân duyên ấy tuy sanh về nước kia nhưng chẳng thể đến ngay chỗ Phật Vô Lượng Thọ mà chỉ ở trong thành bảy báu nơi biên địa của cõi Phật. Phật chẳng hề tạo ra như vậy nhưng do thân hạnh đã tạo [của hành nhân] nên tâm tự hướng đến [nơi ấy].
[Biên địa] cũng có ao báu, tự nhiên thọ thân trong hoa sen; thức ăn uống, các thứ khoái lạc như trên trời Ðao Lợi. Ở trong thành ấy, chẳng ra ngoài được. Nhà cửa ở ngay trên mặt đất, chẳng thể lớn nhỏ tùy ý muốn. Trong năm trăm kiếp, thường chẳng thấy Phật, chẳng nghe kinh pháp, chẳng thấy Bồ Tát, Thanh Văn thánh chúng.
Người ấy trí huệ chẳng sáng suốt, biết kinh càng ít hơn nữa. Tâm chẳng khai giải, ý chẳng vui sướng. Bởi thế, gọi đó là thai sanh.
Giải: Chữ ‘những người này’ chỉ hai loại người vãng sanh về biên địa đã nói ở trên.
‘Do nhân duyên ấy’ là do cái nhân tu thiện niệm Phật, phát nguyện cầu sanh nên cảm được chốn Biên Ðịa cõi Cực Lạc, sống trong cung điện bảy báu, ao báu, hoa sen, vui thú như ở trên trời Ðao Lợi và hưởng cái quả bất thối. Nhưng vì phạm lỗi nghi hoặc nên phải cảm lấy cái quả ‘chỉ ở nơi biên địa của cõi Phật’, sống trong nghi thành chẳng thoát ra được. Trong năm trăm kiếp chẳng được thấy nghe Tam Bảo.
Những điều như thế đều chỉ là do tâm tạo, do nghiệp lực dắt dẫn nên Phật bảo: ‘Phật chẳng hề tạo ra như vậy nhưng do thân hạnh đã tạo [của hành nhân] nên tâm tự hướng đến [nơi ấy]’. Ðây chính là điều kinh Hoa Nghiêm đã dạy: ‘Nên quán pháp giới tánh, hết thảy chỉ là do tâm tạo’. Ấy là vì tâm sanh thì các pháp sanh: địa ngục, thiên đường hay Tịnh Ðộ đều chỉ do tâm biến hiện. Thân mình hướng đến đâu cũng đều do nghiệp lực của chính mình lôi kéo. Nghiệp do tâm sanh nên bảo là ‘tâm tự hướng đến’.
Sanh trong biên địa cũng ‘tự nhiên thọ thân trong ao hoa sen báu’ nên chẳng phải là kiểu thai sanh như trong thế gian mà thật sự là liên hoa hóa sanh. Sanh sống khoái lạc như ‘trời Ðao Lợi’, nhưng ở miết trong ấy chẳng ra được ngoài. Chốn họ cư ngụ là ngay trên mặt đất, chẳng thể thăng lên hư không; nhà cửa cũng chẳng thể tùy ý hóa ra cao và to theo ý muốn.
Ðiều tệ nhất là trong cả năm trăm năm chẳng được thấy Phật, nghe pháp. Về ‘năm trăm năm’, bản Hán dịch chép rõ là ‘năm trăm năm trong cõi này’. Kinh chép ‘cõi này’ chứ không ghi là ‘cõi kia’, nên chữ ‘cõi này’ phải là cõi đức Thế Tôn đang thuyết pháp (tức là cõi Sa Bà). Vì lẽ đó, ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Năm trăm năm là số năm trong thế gian này’, nghĩa là con số năm trăm năm vừa nói đó là năm trăm năm so với kiếp sống con người hiện tại.Nhưng ta chẳng thể chấp nhất định rằng năm trăm ấy chính là năm trăm năm trong cõi trần gian này bởi vì phẩm số trong Cực Lạc là vô lượng nên phẩm số trong cõi Biên Ðịa cũng sai biệt vô lượng. Chẳng hạn như trong Quán kinh bảo trung phẩm hạ sanh thì ‘ở trong hoa sen trọn mười hai đại kiếp thì hoa sen mới nở’. Ðấy là cả một thời gian dài.
Trích lục
Chú Giải Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
Vận Thành Hạ Liên Cư hội tập – Hoàng Niệm Tổ chú giải – Như Hòa dịch Việt
23 08 2011 | Suy Gẫm & Thực Hành |
So sánh cõi Ta Bà với cõi Cực Lạc:
Chúng sanh cõi Ta Bà
1. Thân máu mủ hôi dơ từ thai ngục chui ra
2. Mỗi người tạo nghiệp khác nhau, tướng mạo xấu xí, các căn không đủ.
3. Toàn là chịu khổ. Nếu có chút vui, ấy là lấy khổ làm vui, các khổ đó là:
– Khổ về sanh: từ tử cung xú uế chui ra.
– Khổ về già: thân thể suy hao, tóc bạc da nhăn.
– Khổ về bệnh: thân thể do đất nước lửa gió hợp thành, giả hợp bất thường.
– Khổ về chết: cuộc sống mong manh, cái chết thình lình.
– Khổ về ân tình chia cách: Sợi dây ân tình cha mẹ vợ con khó dứt.
– Khổ về oan gia gặp gỡ: những kẻ thù ghét thường hay gặp gỡ.
– Khổ vì cầu không được: sự nghiệp khó thành, công danh thất bại.
– Khổ vì năm ấm bức bách: thân tâm nhiễm ô, tham dục lẫy lừng.
4. Trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi:
Người có tu, nếu được chút ít định lực rồi cũng thối thất, đâu dám mong đến đạo Bồ đề.
5. Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi:
Giành giựt vật lộn với đời, rất nhiều kẻ sống lang thang, không tạo được một mái nhà. Kẻ ở vỉa hè, người nằm xó chợ, xin ăn đầy dẫy, mù điếc bơ vơ.
6. Sống trong vô minh tăm tối:
Tham dâm, sân hận, si mê, chấp thân này là thật, các căn lẫy lừng như núi lửa chờ phun, vọng tưởng, phóng túng, không lúc nào ngừng nghỉ, thường sống theo ác kiến: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ.
7. Thường gây chiến tranh để giành giựt của cải địa vị, vì quyền lợi mà giết hại lẫn nhau.
Đại chúng cõi Cực Lạc
1. Thân kim cương bền chắc từ hoa sen báu hóa sanh.
2. Đủ 32 tướng tốt, đồng xinh đẹp như nhau.
3. Đều hưởng sự vui, không có các khổ
– Không sanh khổ, vì từ hoa báu trí giác hóa sanh.
– Không lão khổ vì là thân kim cương không biến hoại theo thời gian.
– Không bệnh khổ vì là thân na la diên bền chắc.
– Không tử khổ vì thọ mạng vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, đồng với thọ mạng Phật Vô Lượng Thọ.
– Không có cha mẹ vợ con nên không bị khổ về ân tình chia cách.
– Được các bậc thượng thiện nhơn dắt dìu giúp đỡ, nên không bị khổ về oan gia hội ngộ.
– Cầu chi được nấy nên không bị khổ về đau buồn thất vọng.
– Vì là thân hóa sanh nên rất uyển chuyển linh động, do đó dứt được thân kiến vì tâm thanh tịnh, nên không bị khổ về năm ấm lẫy lừng.
4. Vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi vì đều vào bậc bất thối, tiến lên địa vị Phật.
5. Thọ dụng tự nhiên: cung điện bằng bảy báu tự nhiên hiện thành. Muốn mặc có mặc, muốn ăn có ăn, y phục bát đĩa và thức ăn tự hóa hiện ra theo ý của mình. Nếu muốn cúng dường, đồ cúng tự hiện.
6. Trí tuệ sáng suốt, biện tài vô ngại. Dứt tham sân si, không còn thân kiến, các căn thanh tịnh, không vọng duyên phóng dật. Được năm thứ thần thông: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông.
7. Trụ ở bậc chánh định, không còn thối chuyển nơi đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, phân thân khắp mười phương thế giới làm lợi ích quần sanh.
Cảnh duyên cõi Ta Bà
1. Có đủ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
2. Hầm hố, gò nỗng, rừng rậm, chông gai.
3. Thời tiết đổi dời, nóng lạnh bất thường. Hay bị tai nạn nước lụt, hỏa hoạn, bão tố, động đất.
4. Các ma cùng ngoại đạo não loạn người tu.
5. Lời ái véo von, sắc dâm khêu gợi, lò mổ, quán rượu, đảng cướp nhà dâm, ác thú muỗi mòng đâu đâu cũng có.
6. Song lâm đã khuất, Long Hoa còn xa.
7. Đèn quang minh đã tắt, chúng sanh sống mãi trong đêm dài tăm tối.
8. Quan Âm Thế Chí, chỉ được nghe danh các người chung quanh, tà sư bạn ác.
9. Đồ ăn thức uống bị nhiễm độc chất suy hao cơ thể.
10. Thọ mạng ngắn ngủi, tu tập dở dang.
Thắng duyên cõi Cực Lạc
1. Không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cả đến tên gọi ba đường ác này cũng không có.
2. Vàng ròng làm đất, cây báu vút trời, lầu chói trân châu, hoa đua bốn sắc.
3. Không có đêm ngày nóng lạnh, vĩnh viễn là thế giới trường xuân.
4. Phật hoá tinh thuần, ngoại ma tuyệt tích.
5. Không có người nữ. Nước, chim, cây, lưới, gió nhạc thường diễn pháp âm, nghe rồi liền được thanh tịnh.
6. Thường được thấy Phật, được nguyện lực của Phật nhiếp thọ gia trì.
7. Quang minh của Phật chiếu đến thân làm cho tâm Bồ đề kiên cố.
8. Thường được gần gũi các đức Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, các đại Bồ tát, thường được dắt dìu. Mọi người chung quanh đều là bậc thượng thiện.
9. Nước tắm, đồ ăn, thức uống đều làm cho căn lành thêm lớn.
10. Thọ mạng vô cùng, đồng với Phật và Bồ tát, an nhiên tu tập trải qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp.
Trên đây chỉ lược sơ so sánh đôi phần, hơn kém đã rõ, cốt giúp các bạn đồng tu chọn chỗ quy hướng cho đời mình, cùng phát tâm dự hội Liên Trì:
Tịnh Quang mãi ngóng con về.
Không về Cực Lạc, còn về nơi đâu?
Trích Di Đà Huyền Chỉ
Kim Đài
22 08 2011 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Trong pháp hội Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký trong kinh Bảo Tích có nói: ‘Nếu có chúng sanh ở trong cõi Phật ấy tu các phạm hạnh suốt cả ức trăm ngàn năm vẫn chẳng bằng ở trong thế giới Sa Bà này, chỉ trong khoảng thời gian khảy ngón tay khởi tâm từ bi đối với chúng sanh. Công đức người ấy đạt được còn nhiều hơn thế nữa. Huống hồ là trong một ngày một đêm trụ trong tâm thanh tịnh’.
Kinh Tư Ích cũng dạy: ‘Như người ở cõi tịnh trì giới suốt một kiếp; người ở cõi này thực hành lòng từ trong khoảnh khắc vẫn là tối thắng’.
Kinh còn dạy: ‘Ta thấy trong những cõi Hỷ Lạc và cõi An Lạc không có khổ não, cũng không có danh từ khổ não. Trong những cõi ấy mà làm các công đức thì chẳng đáng kể là lạ. Ở chốn phiền não này mà nhẫn được sự chẳng thể nhẫn, lại còn dạy người khác pháp này thì phước ấy mới là tối thắng’.
Kinh Thiện Sanh cũng nói: ‘Lúc Phật Di Lặc xuất thế, thọ giới suốt trăm năm cũng chẳng bằng [thọ giới] một ngày một đêm trong cõi ta. Vì sao vậy? Trong thời của ta, chúng sanh có đủ cả năm thứ nhơ bẩn. Này thiện nam tử! Bát Trai Giới đây chính là con đường dẫn tới trang nghiêm vô thượng Bồ Ðề’.
Tôi dẫn nhiều kinh như trên nhằm chứng minh rằng trong cõi này, ngay trong khoảng ‘uống khổ, ăn độc, chưa từng yên nghỉ’ này mà hành nhân lại có thể trai giới thanh tịnh, nhẫn nhục, tinh tấn thì công đức của người ấy vượt xa những người khác trong các cõi Phật phương khác. Trong cõi này, tu hành dù ‘một ngày một đêm hơn cả làm lành suốt trăm năm trong cõi Phật Vô Lượng Thọ’, ‘trong mười ngày mười đêm hơn hẳn làm việc thiện suốt ngàn năm nơi các cõi Phật phương khác’.
Trích Chú Giải Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
Vận Thành Hạ Liên Cư hội tập
Hoàng Niệm Tổ chú giải
Như Hòa dịch Việt
Các Phúc Đáp Gần Đây