23 07 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Lời tác giả: Phật giáo là sự giáo dục tột cùng viên mãn của Đức Phật đối với chúng sinh trong chín pháp giới.
Tất cả các kinh mà Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã giảng trong 49 năm, nội dung chính là thuyết minh về thật tướng của vũ trụ nhân sinh. Nhân sinh chính là bản thân mình, còn vũ trụ là môi trường đời sống của chúng ta. Bậc có tri giác gọi là Phật, Bồ-tát, không có tri giác gọi là phàm phu. Tu hành chính là sửa đổi cách nhìn, cách nghĩ, cách nói, cách làm sai lầm của chúng ta đối với vũ trụ nhân sinh.
Cương lĩnh tu hành của Phật giáo là giác, chính, tịnh; giác mà không mê, chính mà không tà, tịnh mà chẳng nhiễm. Đồng thời nương vào ba môn học Giới, Định, Huệ để đạt đến mục tiêu đó.
Nền tảng của tu học là Tam phước, tiếp người y cứ Lục hòa, ứng sự tu theo Lục độ, tuân thủ hạnh nguyện Phổ Hiền, hướng tâm về Tịnh Độ thì việc giáo hóa của Đức Phật có thể hoàn thành.
Pháp sư Tịnh Không
Lời giới thiệu
Nam-mô A-di-đà Phật!
Sáu chữ hồng danh này được truyền tụng khắp nhân dân Việt Nam, từ nông thôn đến thành thị, ngay cả đi vào thi ca văn học. Thánh hiệu này là câu nói thân thuộc trên đầu miệng mọi người. Gặp mặt chào nhau A-di-đà Phật. Gặp việc bất trắc thảng thốt cũng A-di-đà Phật!
Nhưng mấy ai niệm Phật mà có ước vọng mục đích việc niệm Phật của mình như thế nào. Người ta niệm Phật theo quán tính mà không biết mình niệm Phật để làm gì, với mục đích gì?
May thay! Hòa thượng Tịnh Không đã giảng giải cặn kẽ cho chúng ta mọi vấn đề về pháp môn niệm Phật.
Đọc trong quyển sách này, chúng ta sẽ biết vì sao chúng ta niệm Phật, phải niệm Phật như thế nào và được những lợi ích công đức ra sao?
Quyển “Công đức niệm Phật” này nguyên là băng giảng của Hòa thượng Tịnh Không được cư sĩ Trần Truyền Tịnh ghi chép chỉnh lý lại và sư cô Thích nữ Tắc Phú phát tâm dịch ra Việt ngữ. Nội dung bài giảng rất bổ ích cho các hành giả niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh độ. Đọc xong, chúng ta thấy lòng tin càng củng cố, ai cũng có thể niệm Phật và có phần cầu vãng sanh Tịnh độ được.
Tôi xin chân thành tán thán công đức pháp thí này và nguyện cầu:
Nhà nhà đều niệm Phật
Người người đều niệm Phật
Cực Lạc được sinh về
Đồng lên ngôi bất thoái.
Kính cẩn giới thiệu
Tu viện Huệ Quang, ngày vía Phật Di Đà
Năm Đinh Hợi-PL 2551
HT-Thích Minh Cảnh
MỤC LỤC – CÔNG ĐỨC NIỆM PHẬT
I. PHẬT PHÁP LÀ GIÁO DỤC, CHẲNG PHẢI LÀ TÔN GIÁO, CHẲNG PHẢI LÀ TRIẾT HỌC.
1. Phật pháp là giáo dục.
2. Mục tiêu giáo dục của Phật pháp: Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
3. Đột phá chướng ngại của không gian và thời gian.
4. Pháp môn niệm Phật rất dễ thành tựu.
II. TRỌNG TÂM PHẬT PHÁP HẠT NHÂN PHẬT PHÁP: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT.
1. Vui vẻ học tập – Học để ứng dụng.
2. Kết tập và dịch kinh điển Phật.
3. Tính tất yếu và nguyên tắc cần tuân thủ của việc hội tập bản kinh Vô Lượng Thọ.
4. Pháp môn niệm Phật chẳng phải điều mà người tầm thường có thể tin.
5. A-di-đà Phật là đỉnh cao của Phật pháp.
III. HIẾU DƯỠNG CHA MẸ, TÔN KÍNH SƯ TRƯỞNG LÀ CĂN BẢN TU HÀNH TRONG PHẬT PHÁP.
1. Sinh mệnh đổi thay theo nhân quả. Nhân quả là chân lý.
2. Thâm tín Tịnh Độ thật không dễ dàng.
3. Đạo tràng – Tòng lâm thời xưa, truyền hình vệ tinh thời nay.
4. Nền tảng của Tịnh Độ là hiếu dưỡng cha mẹ và tôn kính sư trưởng.
IV: TÂM HỌC PHẬT VỚI NGUYỆN-GIẢI-HÀNH
1. Đạo Phật là sự thực tiễn của Tam quy y “Giác, Chính, Tịnh”.
2. Năm năm học giới, vâng theo lời dạy của Sư trưởng.
3. Tôn Phật A-di-đà làm Thầy.
4. Tất cả pháp từ tâm sinh, niệm Phật rốt ráo thành Phật.
5. Niệm Phật, hiện đời được sống lâu, thanh tịnh, an vui.
PHỤ LỤC
I. PHÁP MÔN THÙ THẮNG.
1. Đức Phật A-di-đà – Công đức của danh hiệu không thể nghĩ bàn.
2. Yếu quyết niệm Phật là thu nhiếp cả sáu căn.
3. Đại sư Ấn Quang truyền pháp Tâm Ấn.
2. Tinh yếu pháp mười niệm.
II. TU HÀNH.
1. Người phụ nữ ở gia đình làm cách nào để tu Bồ-tát đạo trong đời sống hằng ngày.
III. THẬT CHỨNG.
Truyện thứ nhất: Dõng mãnh tinh tấn, vãng sinh bất thoái.
Ký sự vãng sinh của cư sĩ Vân Liên ở Bành Tô Úc Châu.
Truyện thứ hai: Viên mãn bồ-đề, ghi lại việc vãng sinh của Tiên mẫu Lý thái phu nhân.
Truyện thứ ba: Hiếu cảm thiên địa. Tấm lòng con gái.
Sự tích niệm Phật vãng sinh của cư sĩ Lạc Toàn Thông.
Niệm Phật Công Đức phần giới thiệu
Niệm Phật Công Đức phần 1
Niệm Phật Công Đức phần 2
Niệm Phật Công Đức phần 3
Niệm Phật Công Đức phần 4
Niệm Phật Công Đức phần phụ lục
23 07 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
PHỤ LỤC
I. PHÁP MÔN THÙ THẮNG.
1- Đức Phật A-di-đà – Công đức của danh hiệu không thể nghĩ bàn.
Đại sư Liên Trì nói:
– Chuyên trì danh hiệu Phật A-di-đà, thù thắng hơn trì chú vãng sinh, cũng hay hơn trì những chú khác, cũng vượt hơn tất cả các công đức khác.
– Thù thắng hơn trì chú vãng sinh là: Trì chú 30 nghìn biến mới thấy được Đức Phật A-di-đà, còn trì danh hiệu Phật thì một ngày một đêm liền thấy Phật.
Bài chú Vãng sinh ghi: Ngày đêm sáu thời, mỗi thời tụng chú 37 biến, có thể diệt được tội ngũ nghịch[36]; trì danh hiệu Phật thì chí tâm niệm một tiếng Phật liền diệt được 80 ức kiếp tội nặng trong sinh tử.
– Thù thắng hơn các chú khác nghĩa là: Chuyên trì danh hiệu, tức là đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú. Nhờ 10 niệm được vãng sinh, vãng sinh tức không còn thoái chuyển, oai linh chẳng lường được, đó là đại thần chú.
– Nhất tâm không loạn, đoạn vô minh, thấy tự tính, là đại minh chú.
– Chứng Vô sinh nhẫn, trở lại Ta bà, độ hết chúng sinh, là vô đẳng đẳng chú.
– Niệm Phật thù thắng hơn công đức khác, nghĩa là: Lục độ vạn hạnh, vô lượng pháp môn, chuyên trì danh hiệu, gồm thâu hết thảy, vì các pháp không ngoài một tâm.
Nguyện cho đệ tử Tịnh Độ, chuyên giữ Tín Nguyện, luôn được nhất tâm.
Bậc Cổ đức, nhiều vị chuyên tu pháp môn khác, thường chuyển sang tu niệm Phật. Huống gì người chuyên tu niệm Phật, lẽ nào thay đổi những điều mình đã gìn giữ mà bỏ theo pháp môn khác ư!
Nam mô A-di-đà Phật!
2. Yếu quyết niệm Phật là thu nhiếp cả sáu căn.
Đại sư Ấn Quang khai thị: “Thu nhiếp sáu căn là bí quyết của niệm Phật”. Khi niệm Phật cần phải nhiếp tai lắng nghe, từng chữ từng câu rõ ràng, chớ để đi qua phí uổng. Danh hiệu Phật từ tâm sinh, tiếng từ miệng ra, lại vào từ lỗ tai, tiếp nối nhau không gián đoạn. Vừa khởi vọng niệm, liền thu tâm về niệm Phật, nhiếp tai lắng nghe, không cho vọng niệm tiếp nối. Như thế, tất cả tạp niệm dần dần tiêu diệt, công phu tự nhiên thành tựu.
Pháp sư Tịnh Không nêu rõ: Vọng niệm quá nhiều thật phiền não, xưa nay rất khó mà ổn định được một niệm. Căn bệnh lớn của chúng ta là tâm không ổn định, tâm luôn tán loạn, loạn tưởng hồ đồ không thể an định, hễ tưởng bệnh liền thành bệnh, tưởng già liền biến thành già. Mục đích của niệm Phật chính là phải nhiếp phục được những vọng tưởng phiền não này.
Pháp sư còn nhiều lần khuyến khích các bạn đồng tu: Công đức của danh hiệu Phật không thể nghĩ bàn. Trong tám mươi bốn nghìn pháp môn tu thì pháp môn niệm Phật thích hợp nhất với căn cơ chúng sinh thời mạt pháp. Pháp môn niệm Phật còn xem “Trì danh hiệu Phật” là thù thắng nhất. Chúng ta cần phải vận dụng tâm “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chính giác, từ bi” để niệm Phật thì một câu danh hiệu Phật này mới có thể tương ưng, mới có thể được uy thần bản nguyện của Đức Phật A-di-đà gia hộ, mới là niệm chân thành đúng đắn!
Lại nói: Biết rõ là hiểu lý, là học vấn, buông bỏ mới là công phu chân thật; chỉ cần thật sự chịu buông bỏ; vứt bỏ vọng niệm, chính niệm tự nhiên có mặt. Điều đó Cổ đức gọi là: “Chỉ cầu trừ vọng, cần gì tìm chân”. Nên biết, niệm Phật tức là dùng một chính niệm dừng vô số vọng niệm, dùng một niệm thanh tịnh công phu thay đổi vô số vọng niệm. Nếu thật sự có thể thực hành được niệm chân thành, trong tất cả thời khắc danh hiệu Phật A-di-đà thường ở trong tâm thì tự nhiên quên đi cái Ngã. Vì quên Ngã nên khắp nơi đều được không ngăn ngại. Vì Đức Phật A-di-đà thường ở trong tâm, nên công phu thành tựu, đạt đến sự trong sáng tự tại.
Trong Tâm Thanh Lục của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng đã nêu rõ: “Chí tâm xưng niệm một câu Thánh hiệu A-di-đà này giống như luyện quặng sắt thành vàng; nghĩa là phải đào thải hết tất cả những tạp chất vốn có, loại bỏ sạch toàn bộ tất cả vọng tưởng phiền não. Nếu có thể như thế thì vàng đã luyện thành, không còn là quặng nữa”.
3. Đại sư Ấn Quang truyền pháp Tâm Ấn.
Đôn luân tận phần
Nhàn tà tồn thành
Tín Nguyện niệm Phật
Cầu sinh Tịnh Độ.
“Đôn luân tận phần”, “Đôn” nghĩa là thành tâm hoà thuận. “Luân” chỉ cho đạo đức của con người. “Đôn luân” chính là xử sự chân thành thuận hoà giữa con người với con người. Đại sư khuyên bảo chúng ta: Cần phải dốc lòng thực hành nghĩa vụ và trách nhiệm con người. Trách nhiệm và nghĩa vụ này chính là bổn phận của mỗi người nên làm trọn vẹn. Vậy những cái nào mà bổn phận làm người phải hết lòng? Chính là luân thường, cũng chính là năm mối quan hệ: Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Nếu năm mối quan hệ này đều có thể làm tốt thì gia đình mới có thể hạnh phúc; xã hội, quốc gia mới có thể ổn định.
Quan hệ vua tôi: Đây là mối quan hệ khá tốt giữa quan lớn và thuộc hạ, hoặc là mối quan hệ giữa chủ và nhân công. Phải làm sao cho tốt đẹp? Cũng chính là: “Vua sai bảo thần vì lễ, thần phụng sự vua vì trung”. Chủ đối với nhân công phải biết tôn trọng và quan tâm đến họ. Thuộc hạ hoặc nhân công đối với những việc mà cấp trên giao cho, phải trung thành đảm nhiệm, hết lòng làm việc, đó chính là đạo quân thần cư xử với nhau.
Đạo cha con: Người cha nên lấy bản thân làm nguyên tắc, làm tấm gương tốt đẹp cho con cái, quan tâm đến con cái và nghiêm túc dạy bảo chúng, khiến cho nó trở thành người tốt đẹp, người hiền lương, đó mới là lòng yêu thương đúng đắn. Nhờ vậy, phận làm con mới có thể cảm niệm được ân dạy dỗ của cha mẹ, tự nhiên sẽ hiếu kính cha mẹ.
Đạo vợ chồng: Đây là then chốt hạnh phúc của gia đình, cũng là cầu nối ổn định của xã hội. Vợ chồng hoà thuận, gia đình mới có hạnh phúc đáng kể, cũng mới có được một thế hệ kiện toàn ưu tú. Vì vậy, làm người chồng cần phải có trách nhiệm với gia đình, có tình nghĩa với vợ con, có ân nghĩa với cha mẹ, con cái. Người làm vợ cũng cần phải hòa thuận, dịu dàng, giúp chồng dạy con, đóng vai một người vợ hiền, một nàng dâu thảo, một người mẹ tốt.
Đạo anh em: Anh em, chị em giống như chân tay. Nếu như anh chị em yêu thương nhau, quan tâm lẫn nhau, không để cho cha mẹ lo lắng, đó cũng là sự biểu hiện của lòng hiếu thảo trọn vẹn.
Đạo bằng hữu: Cùng bạn bè qua lại phải kết thiện duyên rộng rãi, giảng cầu tín nghĩa, dùng tâm chân thành giao hảo, chắc chắn có thể được tình hữu nghị lâu dài.
Năm mối quan hệ trên chính là căn bản của luân thường. Năm thứ căn bản này là then chốt hiện tại lớn nhất cho hạnh phúc gia đình và ổn định xã hội đất nước.
“Nhàn tà tồn thành”. “Nhàn” nghĩa là ngăn chận, “Tà” chỉ cho sự gian ác. “Nhàn tà” là ngăn ngừa sự gian ác xâm nhập. Ngay trong đời sống thường ngày, cần phải luôn giữ gìn tâm thanh tịnh, tĩnh tọa tư duy chính mình có sai sót gì không, đồng thời ngăn chặn tất cả tà nhiễm.
“Tồn thành” là bảo vệ gìn giữ tâm tính trung thành, tiếp đãi người, xử lý công việc thường ngày phải giữ tâm cung kính chân thành, lâu ngày có thể đạt đến chỗ chân thành ở bên trong hiện ra bên ngoài. Khi bàn giao sự việc cho người, tất nhiên sẽ nhận được sự yêu thương và tôn kính sâu sắc của người khác.
“Tín nguyện niệm Phật, cầu sinh Tịnh Độ”, niềm tin chân thành đúng đắn về Đức Phật A-di-đà, thế thì chỉ cần dùng tâm chân thành, giữ nó để niệm Phật mãi mãi, chắc chắn bạn có thể vãng sinh về thế giới Cực Lạc, thân cận Đức Phật A-di-đà và các bậc thiện tri thức, cùng làm học trò của Đức Phật A-di-đà.
2. Tinh yếu pháp mười niệm.
Xin đem tinh yếu pháp mười niệm của ngài Tịnh Không đã nói, làm thành quy tắc thường lệ cho những người học tông Tịnh Độ, đời nay đời sau tự tu hoặc tu chung.
“Tự tu” chính là phương pháp niệm Phật, mỗi ngày 9 lần, mỗi lần niệm 10 câu danh hiệu Phật. Mỗi sáng thức dậy và trước khi ngủ đều niệm một lần. Ba bữa ăn trong ngày cũng đều niệm một lần. Buổi sáng trước khi bắt đầu làm việc và khi kết thúc công việc đều niệm một lần. Buổi chiều bắt đầu làm việc và khi kết thúc công việc đều niệm một lần, tổng cộng 9 lần. Mỗi lần xưng niệm mười câu bốn chữ hoặc sáu chữ danh hiệu Phật A-di-đà. Đã có thời khóa thường ngày nhất định nên chiếu theo đó mà thực hành.
“Tu chung”, ở những nơi giảng kinh, hội họp, hay chỗ ăn uống v.v… những cuộc họp không có quy tắc, nghi thức cố định, trong khi bắt đầu làm việc chung thì thực hành pháp mười niệm này, cũng tức là theo quy ước đại chúng chắp tay đồng thanh xưng niệm mười câu “Nam-mô A-di-đà Phật”. Sau đó, tiến hành các hoạt động thích hợp như giảng kinh, hội họp, dùng cơm v.v…
Theo pháp mười niệm tự tu và tu chung này, mỗi pháp có sự lợi ích thù thắng riêng của nó. Thử nêu một vài thí dụ sau đây:
1. Pháp này đơn giản dễ thực hành, dùng thời gian ít mà thu được hiệu quả lớn, quả thật là thiết yếu, có thể kéo dài lâu và có thể mở rộng.
2. Nó là phương pháp hữu hiệu cho việc “Phật hóa gia đình”. Ví dụ: Thực hành nó lúc ăn cơm trong gia đình thì những thành viên cả nhà có người tin, có người không tin đều nhờ nó được nhiếp trì đầy đủ. Hơn nữa có thể ảnh hưởng đến bạn bè làng xóm, phổ cập được lợi ích rộng lớn cho xã hội hiện tại.
3. Vì nó đơn giản dễ thực hành, một ngày 9 lần, từ sáng đến tối, danh hiệu Phật không gián đoạn. Trong sinh hoạt một ngày, liên tục niệm Phật, ngày này sang ngày khác. Nếu có thể thực hành lâu như thế thì tâm tình, khí chất của người thực hành sẽ dần dần thanh tịnh, tín tâm và pháp lạc phát sinh, được phước báo lớn vô cùng.
4. Như có thể tùy thuận vui hòa, xưng niệm mười câu danh hiệu Phật thì sẽ diệt trừ được tạp nhiễm, làm trong sáng tâm niệm, lắng đọng tâm thần, dốc lòng học đạo, những việc làm dễ thành tựu, gặp được những điều lành, nhờ Phật gia hộ v.v… thành tựu được công đức không thể nghĩ bàn.
5. Tự tu và tu chung: Nó sẽ giúp đỡ nhau, dung thông nhau, tư lương hội tụ, không những nắm chắc đường vãng sinh của một người mà đại nghiệp bồ-đề của cộng đồng cũng dễ thành tựu.
6. Pháp này có thể dùng hai tên để gọi:
“Tịnh nghiệp gia hành pháp mười niệm”[37], đây là nói đối với mình có sự tu tập thời khóa cố định, vì pháp môn này có sẵn trong thời khóa tu nên thực hành thêm pháp mười niệm.
“Giản yếu tất sinh thập niệm pháp”[38]. Đa số chỉ cho những người tu pháp môn Tịnh Độ hiện tại và sau này không có thời khóa cố định. Vì xã hội ngày nay luôn thay đổi, bận rộn, vội vàng, nên gây ra nhiều trở ngại khó khăn. Còn pháp môn này dễ hội tụ tư lương, tín-nguyện-hành, dễ đạt đến viên mãn. Hơn nữa nó cũng rất phù hợp với tiêu chuẩn “thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm không gián đoạn”.
Do thời gian mỗi lần niệm Phật ngắn ngủi nên dễ nhiếp tâm và không sinh biếng nhác. Họ đem công phu tu hành chín lần niệm Phật phân bố đều, xuyên suốt trong cả ngày thì thân tâm trọn ngày không thể không thành Phật, cũng tức là niệm Phật hóa đời sống trọn ngày, tức là niệm Phật làm thay đổi cuộc sống.
Tóm lại, pháp này đơn giản, nhẹ nhàng, không một chút khó khăn trở ngại. Nếu như pháp môn này được lưu hành rộng rãi thì người tu học pháp môn Tịnh Độ rất may mắn! Chúng sinh đời sau cũng rất may mắn! Chư Phật đều hoan hỷ.
Nam mô A-di-đà Phật.
Năm 1994, ngày chư Phật hoan hỷ, Hội Tu Học Tịnh Độ tại Mỹ, tứ chúng đồng luôn kính khuyến.
II. TU HÀNH
1. Người phụ nữ ở gia đình làm cách nào để tu Bồ-tát đạo trong đời sống hằng ngày.
Hằng ngày làm công việc giống như nhau, nhất định sẽ cảm thấy rất chán, nhất là người phụ nữ chính trong gia đình, dường như mãi mãi không có một ngày rảnh rỗi, vì thế rất nhiều người đều cảm thấy khổ sở. Nếu như có thể thay đổi quan niệm sống thì sẽ thấy rất an vui. Trong quan niệm bình thường, mọi người luôn chấp có “ngã”. Có cái ta đang làm, ta rất khổ nhọc, vì sao ta phải làm thay cho họ? Càng nghĩ thì phiền não càng nhiều. Nếu người muốn học Bồ-tát đạo, phát đại thệ nguyện, phổ độ chúng sinh thì cách nghĩ, cách nhìn của họ sẽ không như thế.
Tu hành Bồ-tát đạo, thứ nhất phải Bố thí Ba-la-mật. Nữ tu Bồ-tát là một người nội trợ phục vụ trong gia đình, chính là tu Bố thí Ba-la-mật.
Bố thí có ba loại: Tài thí, pháp thí, vô úy thí.
Tài thí có nội tài và ngoại tài. Ngoại tài chỉ cho tiền bạc ở bên ngoài, cung cấp cho sinh hoạt của mọi người. Nội tài là dùng thể lực trí huệ của mình phục vụ cho mọi người. Người phụ nữ nội trợ trong gia đình có thể ngay trong công việc nhà mà hoàn thành trọn vẹn sáu Ba-la-mật. Bạn sẽ sắp xếp việc nhà gọn gàng ngăn nắp, sạch sẽ, khiến cho cuộc sống của mọi người thoải mái, làm cho láng giềng hâm mộ, đây là Trì giới Ba-la-mật. Trì giới chính là giữ phép tắc. Bạn có thể làm việc với tâm nhẫn nại, không mệt mỏi, không chán nản, tức là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Mỗi ngày còn phải đổi mới, hy vọng ngày mai làm việc tốt hơn ngày hôm nay, chính là Tinh tấn Ba-la-mật. Dù cho, hằng ngày làm rất nhiều công việc nhà nhưng cõi lòng vẫn thanh tịnh, mảy trần không nhiễm, tức là Thiền định Ba-la-mật. Trong tâm thanh tịnh thường sinh trí huệ, pháp hỷ sung mãn, đó là Bát-nhã Ba-la-mật. Thế là đã rõ: Hóa ra sáu Ba-la-mật của Bồ-tát chính là thành tựu viên mãn ở những việc lau ghế, quét nhà, giặt áo, nấu cơm.
Đây chính là học hạnh Bồ-tát, tu đạo Bồ-tát đã được Thiện Tài đồng tử biểu đạt trong kinh Hoa Nghiêm.
Bạn làm tốt việc nhà, tức là làm tấm gương cho tất cả những người phụ nữ nội trợ trên thế gian, làm tấm gương cho tất cả những gia đình. Điều này có thể độ láng giềng, mở rộng hơn thì có thể ảnh hưởng đến xã hội, quốc gia và thế giới, cho đến tận cùng hư không, khắp cả pháp giới. Như thế mới biết nữ nội trợ Bồ-tát ở trong nhà làm các việc: quét nhà, lau bàn, nấu cơm, giặt áo chính là thực hành đại nguyện, đại hạnh độ tất cả chúng sinh trong tận cùng hư không, khắp cả pháp giới. Đây là học Phật, là chính niệm, là thật tướng của các pháp, nếu có thể quán sát như thế thì pháp hỷ sung mãn, làm sao còn có thể phát khởi lên phiền não? Dùng cách làm việc này áp dụng ở công ty, cũng là tu sáu Ba-la-mật.
Tu học Phật pháp nhất định phải thực hành ngay trong đời sống, nếu không thực hành ngay trong đời sống thì không có chỗ hữu dụng. Nếu có thể hiểu rõ điểm này ngay trong mỗi ngành nghề, Bồ-tát thị hiện các loại thân hình nam, nữ, già, trẻ không giống nhau. Tu học tức là ngay ở bổn phận trong cuộc sống, bình đẳng không có hai, tất cả đều là thứ nhất, không có thứ hai. Nếu sống được như thế thì có thể viên mãn, khắp nơi đều tự tại.
III. THẬT CHỨNG
Đại sư Ngẫu Ích nói: “Vãng sinh được hay chăng hoàn toàn dựa vào chỗ có Tín Nguyện hay không ?” Chương này góp nhặt, ghi chép hai ba truyện vãng sinh thời cận đại. Từ sự vãng sinh của họ, bảo cho chúng ta biết: Phải chắc chắn là “vạn duyên buông bỏ”, phải “nhất tâm, nhất ý niệm Phật”, để vượt qua nỗi đau khổ của xác thân; phải kiên trì nguyện lực vãng sinh Tây phương, thẳng đến sự vãng sinh trọn vẹn mà những điều này hoàn toàn được bắt nguồn từ lòng tin vững chắc, chí nguyện thiết tha.
Truyện thứ nhất, quá trình vãng sinh của cư sĩ Bành Tô Tuyết Liên ở Tuyết Lê, Úc châu. Cư sĩ niệm Phật đã ba năm, thọ 86 tuổi. Trước giờ lâm chung, bà đã niệm Phật hơn ba mươi tiếng đồng hồ ( không có người thay thế). Bà không hề ngơi nghỉ, mím chặt môi đến phút cuối; nguyện lực, nghị lực kinh người của bà đã khế hợp với hạnh nguyện tiếp dẫn vãng sinh của Đức Phật A-di-đà, cảm được Đức Phật phóng quang tiếp dẫn, thoát ly phàm tục, một bước lên thành thánh, chứng tỏ lời Phật nói không ngoa.
Truyện thứ hai, Lý phu nhân trong lúc nghe kinh bị đứt mạch máu não hôn mê, trợ niệm cho bà đến ngày thứ ba thì bà khôi phục được tri giác, niệm Phật theo mọi người rồi mỉm cười vãng sinh. Bà đã giúp cho các vị đồng tu tông Tịnh Độ, giải trừ được mối nghi ngờ: “Người niệm Phật gặp việc đột ngột ngoài ý muốn thì có thể vãng sinh Tịnh Độ không?”, cũng chứng minh được lời thuyết pháp của Đức Thế Tôn: “Cây mọc nghiêng về hướng tây, nếu đột nhiên bị người chặt phá, thì nó có ngã về hướng nào khác không?”. Đáp án là: “Nó ngã về hướng tây”. Điều đó đã nói rõ “Tin sâu, nguyện thiết” là then chốt vãng sinh của người niệm Phật. Vì vậy, khi đại hạn đến, ta không nên hoảng loạn, phải tình nguyện tiếp nhận, tránh làm cho tâm sân lại nổi lên, phải bám chặt danh hiệu Phật, cầu Phật tiếp dẫn.
Truyện thứ ba, sự vãng sinh của cư sĩ Lạc Toàn Thông.
Ngoài việc đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ trong suốt ba năm không gián đoạn của bản thân cư sĩ Vân Liên ra, “trợ niệm” là sự trợ duyên lớn nhất cho bà thuận lợi vãng sinh. Bà dạy dùng trí huệ và quyết tâm không gì sánh bằng thì có thể làm trọn đạo hiếu của người con. Dựa vào sức bà và cô gái nhỏ trong sự giúp đỡ của người nhà trợ niệm suốt chín mươi giờ, không có sự trợ giúp của người ngoài đã khiến cho chúng ta cảm động sâu sắc và thấy rõ: Trợ niệm khi lâm chung, không chủ yếu đông người mà ở nơi tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm chuyên nhất thì lực vững chắc, có thể phá trừ được tất cả chướng nạn, từng âm thanh niệm danh hiệu Phật đều có thể thấu đạt đến tâm Ngài thì cần gì lo lắng người trợ niệm quá ít? Cầu phước cho bạn.
A-di-đà Phật!
Niệm Phật Công Đức phần giới thiệu
Niệm Phật Công Đức phần 1
Niệm Phật Công Đức phần 2
Niệm Phật Công Đức phần 3
Niệm Phật Công Đức phần 4
Niệm Phật Công Đức phần phụ lục
23 07 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
I. PHẬT PHÁP LÀ GIÁO DỤC, CHẲNG PHẢI LÀ TÔN GIÁO, CHẲNG PHẢI LÀ TRIẾT HỌC.
1. Phật pháp là giáo dục.
Những năm gần đây, Phật pháp ở Đài Loan có thể nói là rất phổ biến, nhất là pháp môn niệm Phật. Kể ra người niệm Phật tuy nhiều mà vì sao phải niệm Phật? Phải niệm như thế nào? Lợi ích niệm Phật có nhiều không? Thông thường mọi người đối với những vấn đề này hầu hết đều vẫn còn một số nghi ngờ. Lần diễn giảng này của chúng tôi, đặt nặng vào phương diện công đức của niệm Phật.
Trước hết, chúng ta phải có nhận thức chính xác đối với Phật pháp, sau đó mới có thể sinh khởi lòng ưa thích việc học Phật, thì lợi ích của công đức học Phật pháp rất dễ thành tựu. Dân Quốc năm thứ nhất (1911), tiên sinh Âu Dương Cánh Vô ở trường đại học Trung Sơn Đệ tứ của Nam Kinh[1], lần đầu tiên đã có một bài diễn thuyết rất quan trọng với đề tài là: “Phật pháp chẳng phải là tôn giáo, chẳng phải là triết học mà là nhu cầu cần thiết cho xã hội hiện nay”. Nội dung của đề tài bảo chúng ta rằng: Phật pháp quả là nhu cầu cần thiết cho xã hội này, chúng ta không thể nhìn Phật pháp như là tôn giáo; vì tôn giáo mang nghĩa hạn hẹp, không thể bao quát Phật pháp, còn Phật pháp bao quát tôn giáo. Phật pháp giống như là một trường đại học hoàn chỉnh. Tôn giáo và triết học đều là một khoa trong trường học. Một khoa không thể đại biểu cho cả trường.
Phật pháp rốt cuộc là thế nào? Tiên sinh Âu Dương nói: “Phật giáo chính là giáo dục”. Đương nhiên, cách nói này chắc chắn không sai nhưng chúng ta vẫn cảm thấy hoang mang, thần bí. Thế nên, chúng ta phải quan sát tỉ mỉ hơn, phát hiện Phật giáo rất giống sự giáo dục mà chúng ta đã nói. Nói đúng hơn, Phật giáo là sự giáo dục xác thực. Khi còn tại thế, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni[2] đã sáng lập cách giáo dục này, giống như cách giáo dục gia giáo được Khổng Tử[3] thành lập ở Trung Quốc. Chúng ta đã đọc lịch sử, biết rằng: Khổng Tử là một người sau khi bất đắc chí mới lui về ẩn cư, chuyên tâm vào công việc dạy học; Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thì bỏ chính trị mà theo việc dạy học, không giống như tình trạng của Khổng Tử nhưng sự thành tựu của các ngài trong giáo dục đều rất huy hoàng vĩ đại giống như nhau.
Sau khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc, đệ tử Phật tôn xưng Đức Phật Thích-ca là “Bổn sư”, giống như những thư sinh ở Trung Quốc tôn xưng Khổng Tử là “Tiên sư”. Bổn sư là thầy giáo chính, là người đầu tiên sáng lập nền giáo dục này. Chúng ta tự xưng là đệ tử, đệ tử có nghĩa là học trò, đủ thấy chúng ta và Phật có mối quan hệ thầy trò. Chúng ta tôn kính Phật, xem Ngài là thầy của mình, hoàn toàn không phải là thần minh. Nếu nhìn Phật như nhìn thần minh thì đã biến thành tôn giáo. Người thời nay nói Phật giáo là tôn giáo, chúng ta cũng không có cách nào bác bỏ, bởi vì Phật giáo quả thật đã biến chất rồi. Vì vậy, mọi người trong xã hội đều xem Phật, Bồ-tát như thần minh. Phật giáo mà chúng ta cần học không phải là tôn giáo, mà là một bộ phận giáo dục. Như thế mới có thể được lợi ích chân thật, các Bồ-tát trong quá khứ cũng đều là học trò của Đức Phật. Các ngài đều là bậc trưởng bối của chúng ta, là những người học trò vào những năm đầu tiên học tập theo Đức Phật. Những quan hệ này mà có thể nhận thức rõ ràng thì không đến nỗi mê tín.
Phật giáo dạy chúng ta phải nên tin thật chắc chắn. Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Lòng tin là cội nguồn của đạo, là mẹ của công đức”. Nhà Phật thường đề cập đến: “Tu hành chứng quả”. Nói theo hiện nay chính là: Hoàn thành học nghiệp, thành tựu đức năng, tức là năng lực của Như Lai, trí huệ của Như Lai là trí huệ viên mãn. Trong đây, nhân tố quan trọng nhất chính là “Tín”. Phật giáo nói đến “Tin”có hai cách. Một là tin ở chính mình, hai là tin ở thầy. Phải có lòng tin chân chính đối với thầy, có thầy hướng dẫn chúng ta mới có thể nhận biết để học tập; nếu không có lòng tin đối với thầy thì dù cho thầy có giỏi đến mấy, bạn cũng không muốn học theo. Nói cách khác, nội dung chân thật của Phật pháp, bạn học không đến nơi, rốt cuộc bạn vẫn là một mảng rỗng không!
2. Mục tiêu giáo dục của Phật pháp: Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
Chúng ta và Phật có mối quan hệ thầy trò. Đức Phật chân thành dạy dỗ chúng ta, thế thì đối với mục tiêu, nội dung dạy học của Phật pháp, chúng ta không thể không biết. Phật giáo tức là sự giáo dục của Đức Phật. Những điều chúng ta theo đuổi chỉ nhằm một mục tiêu A-nậu đa-la tam-miệu tam-bồ-đề[4]. Đây là mục tiêu chính của việc dạy học trong Phật giáo, câu này được dịch âm từ tiếng Phạn. Những đại đức phiên dịch kinh thời quá khứ tôn trọng câu ấy không dịch, ý nghĩa của điều đó là Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
“Vô thượng Chính đẳng Chính giác”, nói theo từ hiện đại chính là “Trí huệ rốt ráo viên mãn”. Trí huệ này là “không có gì không biết, không có gì không làm được”, đối với hiện tại, quá khứ, vị lai đều có thể biết rõ ràng chính xác, rốt ráo viên mãn. Đây là mục tiêu chung của việc dạy học trong Phật giáo. Vì thế, điều mà chúng ta tìm cầu trong Phật pháp là trí huệ. Phật pháp là giáo dục trí huệ, dạy học trí huệ. Mới nghe qua, chúng ta không tránh khỏi nghi ngờ, điều đó có thể xảy ra không? Một con người mà đối với quá khứ, hiện tại, vị lai, nơi thế giới này hay ở nơi khác đều có thể biết rõ hết sao? Trong tôn giáo, chúng ta thường nghe ca ngợi thượng đế: “Không điều gì không biết, không điều gì không làm được”, con người cũng có thể làm được như thế sao?
Nếu các vị có chút quan tâm đến Phật giáo thì có thể hiểu rõ, thượng đế quả thật có những điều không thể làm, đó chỉ là lời khen ngợi mà thôi. Con người chỉ cần tu học theo Phật pháp, thật sự có thể đạt đến mục tiêu này. Việc dạy học của Phật pháp chỉ nhằm khôi phục lại đức năng, trí huệ vốn có mà thôi.
Kinh Kim Cang ghi: “Đức Phật độ tất cả chúng sinh nhưng thật sự không có chúng sinh để Như Lai độ”.
Đức Phật độ tất cả chúng sinh nhưng lại nói không độ một chúng sinh nào? Câu nói này có ý nghĩa thế nào? Bởi vì trí huệ là cái sẵn có của chúng sinh, không phải do Đức Phật ban cho. Lúc chúng sinh mê lầm, Đức Phật chỉ cho họ giác ngộ, trí huệ là cái sẵn có của mình.
Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Tất cả chúng sinh đều có đủ đức tướng, trí huệ của Như Lai”.
“Trí huệ” là chỉ cho trí huệ rốt ráo viên mãn, thấy hiểu cõi nhân sinh cả vũ trụ, đây là trí huệ vốn có của bạn, xưa nay đầy đủ.
“Đức năng” là chỉ cho tác dụng. Tác dụng của trí huệ rộng lớn vô biên, chân thật không thể nghĩ bàn, tận cùng hư không, biến khắp pháp giới đều là do đức năng của mình biến hiện.
Trí huệ và Đức năng của chúng ta có thật sự mất đi không? Quyết định là không. Đã không mất đi tại sao hiện giờ chúng ta trở nên khổ sở thế này? Bởi vì chúng ta mê. Nhưng mê như thế nào?.
Đức Phật nói: “Chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên không thể chứng đắc”. Đây là Đức Phật nói ra căn bệnh của chúng ta. Chỉ cần trừ bỏ vọng tưởng, chấp trước, sẽ khôi phục được trí huệ, đức năng. Vọng tưởng đã không thì trí huệ sẽ hiện tiền; chấp trước đã không thì trí huệ sẽ có mặt.
Về Trí huệ và Đức năng, trong quyển Vãng Sinh Luận, Bồ-tát Thiên Thân[5] đã nói: “Trí huệ chân thật, vô vi pháp thân”. Vọng tưởng đã không, trí huệ chân thật liền hiện tiền; chấp trước đã phá trừ thì pháp thân vô vi sẽ có mặt. Thành tựu cảnh giới này chính là quả vị Phật rốt ráo viên mãn, đó là thật sự tốt nghiệp trong giáo trình của Phật pháp.
Giáo trình của Phật pháp chia làm ba giai đoạn, giống như ba học vị của chế độ giáo dục đại học hiện đại, tốt nghiệp đại học là cử nhân, học nghiên cứu thêm những gì đã tốt nghiệp là thạc sĩ, tiến sĩ. Sự giáo dục của Đức Phật cũng có ba học vị. Học vị thấp nhất là A-la-hán[6]. Học vị cao hơn A-la-hán là Bồ-tát[7]. Học vị cao nhất là Phật[8].
Phật pháp nói: “Mọi người đều có Phật tính, mọi người đều sẽ thành Phật”. Điều này không có trong các tôn giáo khác, vì nhất định không thể ai cũng sẽ là thượng đế, còn Phật pháp đều là pháp bình đẳng, tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật. Chúng ta phải nhận thức rõ ý nghĩa A-la-hán, Bồ-tát, Phật. Danh từ ấy không phải thần minh mà là danh xưng học vị, đại biểu cho một giai đoạn đạt đến của tu đạo, chứng đắc Chính giác, gọi là A-la-hán; chứng đắc Chính đẳng Chính giác, gọi là Bồ-tát; chứng đắc Vô thượng Chính đẳng Chính giác, gọi là Phật.
Chúng ta không phải là mới mê một đời này, mà đời quá khứ đã mê, càng mê càng sâu, không cách nào giác ngộ. Thật ra, giác ngộ hoàn toàn không khó, khó ở điểm nào? Đó là không chịu buông bỏ vọng tưởng, chấp trước. Vọng tưởng, chấp trước chịu buông thì thành Phật rất dễ. Sự việc này không thể cầu nơi người khác, mà là cầu nơi chính mình. Nếu như không chịu buông bỏ vọng tưởng, chấp trước thì quả là khó, khó hay dễ do bàn tay ta điều khiển, không phải là do ngoại cảnh, hay người khác chi phối.
Mục tiêu tu học của Phật pháp là đi tìm nguồn gốc của mê, chúng ta phải thấy rõ điều này, sau đó chúng ta mới hiểu rõ giáo trình một đời của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, tức là Đại Tạng kinh được lưu truyền hiện nay. Nội dung của kinh chính là nói rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Đây là giác ngộ rốt ráo viên mãn, thấu rõ thật tướng.
Mỗi người không phải chỉ có đời này, chúng ta có đời quá khứ; đời quá khứ còn có đời quá khứ nữa; chúng ta có đời vị lai, đời vị lai còn có đời vị lai nữa; sinh mạng vĩnh hằng, bất sinh bất diệt. Không gian hoạt động, phạm vi đời sống của chúng ta là vô lượng vô biên, không hạn cuộc nơi địa cầu bé nhỏ này.
Kinh Phật ghi: “Hư không pháp giới có vô lượng vô biên cõi nước của chư Phật Như Lai”. Cõi nước của Đức Phật là chỉ cho khu vực phạm vi giáo hoá của một Đức Phật. Kinh Phật gọi là Tam thiên đại thiên thế giới, mà trong kinh nói đại khái đó là một dãy ngân hà. Những năm gần đây, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ thuộc ngành khoa học nghiên cứu đại lục ở Trung Quốc bảo chúng ta rằng: Một dãy ngân hà, chính là một đơn vị thế giới, một tiểu thế giới mà Phật pháp đã giảng. Tam thiên đại thiên thế giới là mười ức dãy ngân hà. Đây là khu vực giáo hóa của một Đức Phật.
Các vị nghĩ xem: Nếu như không có trí huệ và đức năng rốt ráo viên mãn thì làm sao Đức Phật có thể giáo hóa một khu vực rộng lớn như thế? Khu vực mà Đức Phật nói giống như vậy ở trong thái không là vô lượng vô biên. Thế giới vô lượng vô biên, chư Phật cũng vô lượng vô biên, chúng sinh càng vô lượng vô biên. Đây đều là phạm vi hoạt động, không gian đời sống của chúng ta. Chúng ta phải làm thế nào để khôi phục lại trí huệ bản năng và không gian cuộc sống đại tự tại của chúng ta? Đây chính là những điều mà Phật pháp muốn dạy chúng ta. Vì vậy, tâm lượng của chúng ta phải mở rộng. Giống như Đức Phật: “Tâm trùm thái hư, lượng đồng sa giới”.Tâm lượng này có lớn không? Bằng hư không pháp giới!
Chúng ta thử nhìn lại chính mình, thử nhìn tất cả chúng sinh xung quanh, tâm lượng nhỏ thì không có cách nào bao dung; chỉ có hai vợ chồng mà vẫn còn tranh cãi, ly hôn náo loạn. Thế mới biết Đức Phật nói chúng ta mê, mê đến mức độ nào! Vì vậy, trong kinh Đức Phật thường than thở chúng sinh là: “Những người đáng thương”. Nếu như chúng sinh không có trí huệ mà mê hoặc điên đảo thì không đáng thương, không đáng xót; còn chúng sinh có trí huệ, có đức năng giống như chư Phật Như Lai mà hiện giờ vẫn cứ mê muội đến mức như vậy, đó mới thật là đáng thương xót!
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài dạy học 49 năm, không biên soạn sách giáo khoa. Mỗi ngày giảng pháp cho đại chúng, có những pháp Ngài chủ động nói cho học trò nghe, còn đa số là học trò (đệ tử ) nêu câu hỏi, Đức Phật giải đáp; cho nên, kinh điển tức là sách giáo khoa. Tại sao đương thời Đức Phật không biên sách giáo khoa để lại cho người sau? Đức Khổng Tử cũng không biên soạn sách giáo khoa để lại cho người đời sau, đây là đạo lý gì? Chúng ta hãy thâm nhập để hiểu, thể hội, có thể đạt được một chút tin tức. Bởi vì từng chữ, từng câu mà Đức Phật đã nói đều là những lời nói sống động, không phải là lời nói chết cứng, vì vậy ghi chép rất khó khăn. Sau khi viết thành văn tự rất dễ biến thành vật chết. Đối với sự tu học của người sau thường nảy sinh nhiều chướng ngại. Then chốt vẫn là nảy sinh vọng tưởng, chấp trước, cũng chính là đối với Phật pháp đã nảy sinh vọng tưởng, chấp trước.
Cách dạy dỗ của bậc thánh nhân xuất thế gian, chúng ta cần phải thể hội ý của các ngài, không thể chấp trước vào lời nói văn tự. Cách dạy dỗ của thánh nhân là từ ngữ sống, không phải là lời nói chết. Đây mới là “trí huệ chân thật”. Nói theo cách hiện đại, ngôn ngữ của các ngài là vượt khỏi không gian, thời gian. Vì vượt khỏi thời gian nên ba nghìn năm trước, Phật dạy như vậy là chính xác. Vì vượt khỏi không gian nên đương thời Đức Thế Tôn dạy người Ấn Độ, người Ấn Độ được lợi ích, đến Trung Quốc dạy người Trung Quốc thì họ vẫn được lợi ích như vậy. Bất luận truyền đến quốc gia nào, chủng tộc nào thực hành theo lời dạy của Ngài đều có thể được lợi ích chân thật.
Chúng ta phải hiểu rõ nguyên tắc lớn, tiền đề lớn này mới có thể bàn luận đọc kinh, không cần tìm sự giải thích, vừa đọc vừa suy nghĩ xem ý nghĩa của đoạn này là gì? Đoạn kia có ý nghĩa gì? Đó chính là đã khởi vọng tưởng chấp trước. Vì kinh điển không có ý. Nếu như tìm ý trong kinh điển, há chẳng phải là vọng tưởng đó sao? Có ý thì không thể vượt khỏi thời gian, không gian, không có ý mới có thể vượt khỏi thời gian, không gian. Kinh là lời nói sống động, ba nghìn năm trước thì có cách giảng của ba nghìn năm trước, ở vào thời Trung Hoa Dân quốc hiện đại, thì có cách giảng cho Trung Hoa Dân quốc; với người Trung Quốc thì có cách giảng cho người Trung Quốc; đối với ngoại quốc thì có cách giảng cho người ngoại quốc. Tất cả đều được lợi ích. Nó không phải chỉ là một cách giảng. Nó không có ý nhưng khi vận dụng lại có vô lượng nghĩa.
Kinh Bát-nhã dạy chúng ta: “Bát-nhã vô tri” vì “không điều gì mà chẳng biết”. Kinh điển không có ý, vì nó có vô lượng nghĩa. Sự thật, mọi người phải nghĩ kỹ một chút mới có thể thấy được.
Lối chú giải mà chúng ta xem trong kinh điển chính là cách giải của thời đại ấy. Sự chú giải của triều Hán là cách giải của bộ kinh này ở thời kỳ triều Hán. Những cách giảng giải ở mỗi thời đại nhất định là mang lại lợi ích cho người đương thời. Mục tiêu chung của kinh chính là “chân thật trí huệ, pháp thân vô vi”. Cùng một bộ kinh nhưng sự chú giải của người đời Đường, nhất định là có cách giải của thời kỳ nhà Đường, không giống như cách giải của triều Hán; giả như tương đồng thì cần gì phải làm chú giải nữa? Cách giảng giải của triều Tống, triều Minh, triều Thanh đều không giống nhau, kinh văn một câu cũng không động nhưng cách giảng giải không như nhau. Đây chính là vô lượng nghĩa. Vì vậy kinh văn không có ý nhưng lúc dùng thì vô lượng ý nghĩa.
Nếu như kinh văn có ý thì chỉ có một ý, một cách giảng thì ý nghĩa đó là ý nghĩa chết, không thể giảng ra ý nghĩa thứ hai. Đây là chỗ khó của việc phiên dịch kinh điển. Người thời nay đề xướng việc phiên dịch kinh điển Phật thành văn bạch thoại, vừa dịch ra thì các kinh đều đã có ý. Chính là biến Phật pháp sống này thành Phật pháp chết. Từ điểm này, kinh văn không thể có nghĩa thứ hai. Đây là điều mà chúng ta cần phải nhận thức rõ ràng.
Những người phiên dịch qua các thời đại đều là bậc tu hành chứng quả, các vị không phải là nương theo mặt chữ để phiên dịch. Họ tự mình xác thật đã đạt đến cảnh giới đó, dù cho không thể đạt đến rốt ráo viên mãn thì cũng đạt đến cảnh giới Chính giác, Chính đẳng Chính giác[9]. Vì thế kinh văn được dịch ra không có sự thay đổi; tuy không thể phiên dịch được đến trăm phần trăm, đại khái cũng là tám chín mươi phần trăm. Quả thật, chúng ta có thể được thụ dụng.
Người thời nay phiên dịch kinh điển, họ có phải đã thâm nhập cảnh giới hay không? Nếu không thể vào cảnh giới này thì làm sao biết được chân tướng sự thật? Chân tướng sự thật mà Đức Phật đã chứng, các vị Bồ-tát, A-la-hán đã khế hội. Các ngài giảng ý nghĩa kinh cho chúng ta nghe, không phải là dùng tâm phàm phu, không phải là y văn giải nghĩa, cũng không phải là đem vọng tưởng, phân biệt chấp trước để giảng giải kinh, vậy các ngài dùng phương pháp nào để dịch kinh, giảng kinh? Đó là “chân thật trí huệ”.
Chân thật trí huệ từ đâu có? Nó đến từ sự khai ngộ của chính mình. Tại sao chúng ta không có cách nào khai ngộ? Tại sao các ngài có thể khai ngộ? Ngộ là vốn có, bản năng; Mê là vốn không. Trong “Đại Thừa Khởi Tín Luận”, Bồ-tát Mã Minh[10] đã nói: “Bản giác bản hữu, bất giác bản vô”.
Bất giác tức là mê, không có bản lai; còn trí huệ cứu cánh viên mãn là vốn có. Hiện tại vốn có đã không có. Nguyên nhân chính là do vọng tưởng chấp trước.
3. Đột phá chướng ngại của không gian và thời gian.
Sự tu hành của Phật pháp, then chốt ở ngay “thiền định”. Nhân giới được định, nhân định phát huệ; trí huệ đã mở thì bản năng khôi phục. Vì vậy, “định” là cầu nối trong sự tu hành của Phật pháp, ngay cả ba môn học “giới, định, huệ” trong Phật pháp cũng là cương lĩnh chung. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, bốn mươi chín năm giáo hoá tất cả chúng sinh chính là dạy giới, định, huệ.
“Giới” là dạy chúng ta tu phước, con người không thể không có phước báo, không có phước thì rất khổ, phước từ đâu mà có? Từ nơi đoạn ác tu thiện. Tất cả khổ nạn đều do ác nghiệp chiêu cảm ra. Hạnh phúc khoái lạc là quả báo có được từ thiện nghiệp. Nhân thiện nhất định có quả thiện, nhân ác nhất định có quả báo ác.
“Giới” là dạy chúng ta đoạn ác tu thiện. Vì vọng tưởng chấp trước trong ác nghiệp rất mãnh liệt, tâm thanh tịnh không dễ gì khôi phục. Thế nên đầu tiên Đức Phật dạy chúng ta “đoạn tất cả các ác, tu tất cả điều thiện”, nhập môn tại nơi đây và tu định tại nền tảng này.
“Định” là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, khởi lên tác dụng chính là trí huệ, nhất là tâm bình đẳng có mặt thì không điều gì không biết. Tại sao chúng ta không thể biết quá khứ vị lai? Vì sao không thể biết cõi nước này hay phương khác? Vì tâm của chúng ta không bình đẳng, có giới hạn. Giới hạn là chướng ngại. Giới hạn này không phải từ bên ngoài đến, mà là do chính mình tạo nên, làm dây buộc mình, do mình làm chướng ngại mình.
Phật pháp giảng giới học là nghĩa rộng, không phải là nghĩa hẹp. Ý nghĩa của sự trì giới, nói theo cách hiện đại, chính là tuân thủ pháp. Tuân theo phương pháp của thầy giáo dạy, không trái với nguyên tắc, nguyên lý của thầy, đây là “trì giới”. Chúng ta không thể xem trì giới như là trì năm giới, mười giới, tỳ-kheo giới, Bồ-tát giới. Nếu nhìn như thế thì phạm vi của nó rất nhỏ hẹp. Với cách nhìn này chẳng những không phá được chấp trước mà ngược lại càng thêm chấp trước; chấp vào năm giới, mười giới, Bồ-tát giới. Đức Phật dạy chúng ta phá chấp trước, chớ không phải dạy chúng ta tăng trưởng chấp trước.
Chúng ta không những vâng giữ lời răn dạy của Đức Phật mà cả pháp luật, đạo đức, phong tục tập quán của thế gian cũng đều phải tuân thủ. Như thế, xã hội mới có thể hài hoà, mọi người mới có thể sống hạnh phúc an vui. Trì giới là tuân thủ pháp, chúng ta nhất định phải nuôi dưỡng thành tựu quan niệm tuân thủ pháp, phải nhận chân được điều đó. Chúng ta có thể tuân thủ pháp thì tâm tự nhiên an. Tâm an, lý sẽ được hội. Tâm an, tâm thanh tịnh, con người sẽ thông minh; tâm thanh tịnh thì phiền não ít, vọng niệm ít, thấy sự lý tự nhiên sẽ hiểu rõ ràng hơn trước kia, đây chính là “khai trí huệ”. Sự lớn nhỏ của trí huệ và sự sâu cạn của công phu thiền định đã trở thành tỉ lệ thức; nói cách khác, có một phần tâm thanh tịnh thì có một phần trí huệ. Có hai phần tâm thanh tịnh thì có hai phần trí huệ. Tâm Phật là thanh tịnh viên mãn. Cho nên, trí huệ của Phật cũng viên mãn rốt ráo, năng lực của Ngài cũng vượt qua tất cả.
Các nhà khoa học hiện đại đã phát hiện ra trong không gian và thời gian quả thật có không ít sự chướng ngại. Thuật ngữ của khoa học là “thứ nguyên” “ba thứ nguyên”, “bốn thứ nguyên”, vô lượng thứ nguyên. Chướng ngại từ đâu phát sinh ra? Nó nảy sinh từ vọng tưởng, chấp trước. Phật pháp cao minh, sau khi được tâm thanh tịnh, vọng tưởng chấp trước sẽ không còn. Thời gian, không gian mà tất cả “thứ nguyên” có, hoàn toàn đều đột phá, mới thấy được rõ ràng chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Hiện giờ chúng ta chỉ có thể tiếp xúc được không gian ở cấp độ 3, độ 4 còn cấp độ 5 thì không tiếp xúc được. Thử hỏi không gian ở cấp độ vô hạn làm sao có thể đạt đến?
Thật ra, trong mộng thì có cảnh giới trong mộng, trong định thì có cảnh giới trong định. Tùy theo sự sâu cạn của công phu thiền định mà cảnh giới không giống nhau.
Chúng ta thấy trong kinh Địa Tạng, mẹ của cô Quang Mục đã qua đời. Cô biết mẫu thân khi còn sống tạo ra rất nhiều ác nghiệp, nhất định rơi vào đường ác, rốt cuộc bà đọa vào đâu? Cô không biết. Cô bèn cầu thỉnh A-la-hán giúp đỡ. A-la-hán nhập định liền thấy mẹ cô đang chịu khổ trong địa ngục. Điều này nói rõ thứ nguyên không gian của đường địa ngục và nhân gian không giống nhau. Nhập định thì có thể đột phá, có thể tiến vào không gian của độ thứ năm và độ thứ sáu, có thể đột phá thì có thể thấy được.
Từ trong điểm này, chúng ta quan sát, đây là sự thật, không phải là ảo giác. Khoa học đã chứng minh sự tồn tại của không gian ở cấp độ thứ 11. Công phu thiền định của bậc A-la-hán hoàn toàn không sâu lắm. Trong kinh Lăng-nghiêm, Đức Phật nói: “Sức định của bậc A-la-hán là Cửu thứ đệ định[11]. Công phu thiền định của Bồ-tát sâu hơn, Bồ-tát có rất nhiều cấp bậc”.
Nếu nhìn theo kinh Hoa Nghiêm thì từ Sơ trụ đến Đẳng giác[12], tổng cộng có bốn mươi mốt thứ bậc. Nói cách khác, công phu thiền định có bốn mươi mốt thứ bậc không đồng nhau. Thứ bậc càng cao thì thứ nguyên không gian bị đột phá càng nhiều. Như thế mới có thể thấy rõ ràng chân tướng của vũ trụ nhân sinh.
Những điều Đức Phật nói không phải là giả, những thế giới phương khác được miêu tả trong kinh điển, như thế giới Hoa Tạng của Đức Phật Tỳ-lô-giá-na trong kinh Hoa Nghiêm. Hay thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-di-đà trong kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ Phật. Những thế giới này và thứ nguyên của chúng ta nhất định không giống nhau. Vì thế giới này của chúng ta, những người tu hành trong quá khứ, tu “định” đạt đến trình độ tương đương quả vị Phật đã thấy được thế giới Cực Lạc. Trong truyện ký Cổ Đức của tông Tịnh Độ ghi rằng: “Đại sư Huệ Viễn[13] thuở đương thời, một đời đã từng ba lần thấy thế giới Cực Lạc, đều là thấy được ở trong lúc định”.
Đại sư Trí Giả[14] khi đọc kinh Pháp Hoa, ngài nhập định, thấy Đức Phật Thích-ca giảng kinh Pháp Hoa ở hội Linh Sơn trong một nghìn năm trước. Điều đó đã vượt qua thời gian, không gian. Núi Thiên Thai ở tỉnh Triết Giang Trung Quốc, cảnh giới mà đại sư thấy được là xứ Ấn Độ của hơn một nghìn năm trước. Sau khi xuất định, đại sư Trí Giả bảo đại chúng rằng: “Đức Phật Thích-ca giảng kinh Pháp Hoa, đến nay pháp hội vẫn chưa tan”. Những thí dụ kiểu này rất nhiều, rất nhiều.
Đạo lý này nhiều nhà khoa học đều khẳng định, nhưng họ nghĩ không ra là dùng cách nào có thể khiến cho thời gian đảo ngược, quay về quá khứ. Phật pháp có biện pháp, phương pháp dạy chúng ta tu định. “Định” là tâm thanh tịnh, trong Giáo quán gọi là “Chỉ quán”; Mật tông gọi là “Tương ưng”; pháp môn niệm Phật gọi là “Nhất tâm bất loạn”; Thiền tông gọi là “Thiền định”. Danh từ tuy khác nhau nhưng sự thật tương đồng.
Chúng ta hiện đang đề xướng kinh Vô Lượng Thọ là chọn lấy bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư. Bản này là bản hay nhất trong tất cả bản kinh của kinh Vô Lượng Thọ. Trên đề kinh nêu rõ ràng, người tu học Tịnh Độ hy vọng đạt đến “Đại Thừa,Vô Lượng Thọ, Trang nghiêm”. Ba điểm này là sở cầu, đặc biệt là “Vô Lượng Thọ”. Quả thật là vô lượng chứ chẳng phải là vô lượng của hữu lượng. “Trang nghiêm” là Chân-thiện-mỹ mà thế gian đã nói. Người thế gian nói Chân-thiện-mỹ là hữu danh vô thực, nhưng thế giới Tây phương Cực Lạc thật sự có Chân-thiện-mỹ. Vậy chúng ta dùng cách nào để cầu?
Đức Phật đã đề xuất cho chúng ta ba việc, đó là Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác, tiêu chuẩn của tu hành. Người muốn được “Đại Thừa, Vô Lượng Thọ, Trang nghiêm” nhất định phải tu Thanh tịnh tâm, Bình đẳng tâm; chỉ cần tâm có thể làm được thanh tịnh, bình đẳng, tự nhiên được “Giác” đó. Trước mắt những việc mong cầu có thể được đáp đền như ý nguyện.
Vãng sinh thế giới Tây phương Cực Lạc, hiện tại có thể được hay không? Nhất định có thể được. Nếu như nói hiện tiền không thể làm được mà tương lai có thể được, thì sự việc này không những không thể bảo người khác tin được mà chúng ta cũng không tin nỗi. Hiện tại có thể làm được mà bạn không thể làm, chắc hẳn có lý do không thể làm.
Thuở xưa đại sư Chương Gia nói: “Hàng đệ tử Phật có cầu tất có ứng”. Có cầu mà không ứng là vì có chướng ngại. Nếu tìm ra chướng ngại, tiêu trừ sạch nó thì cảm ứng sẽ hiện tiền. Vì thế, ngay khi bạn cầu nguyện mà không có cảm ứng thì không thể trách Đức Phật và Bồ-tát không linh, điều đó không liên quan gì đến Phật và Bồ-tát cả.
Phật pháp hoàn toàn không có mê tín. “Mê” là điều Phật pháp cần phá trừ. Phật pháp là phá mê khai ngộ, có chỗ nào là mê tín?
Chẳng qua là chúng ta mê mà lại không tự biết còn cho rằng mình là Phật tử thuần thành, vì sao Phật và Bồ-tát không giúp đỡ chúng ta?
Phật và Bồ-tát như vị thần, đây hoàn toàn đã biến thành tôn giáo rồi. Vị thần có thể giúp đỡ chúng ta chăng? Thần không thể làm được điều đó.
Cổ nhân Trung Quốc từng nói: “Thông minh chính trực gọi là thần”.
Nếu chúng ta yêu cầu điều vô lý hoặc là cầu thần giúp đỡ thăng quan phát tài, mà ta lại còn tham ô phạm pháp thì chẳng lẽ thần cũng tham ô phạm pháp giống ta sao?
Chúng ta lễ thần, cúng dường ngài một ít ( hối lộ ngài), hy vọng ngài giúp ta phát tài một trăm vạn; đây quả là làm nhục thần minh, hết sức bất kính đối với thần minh. Từ đây mà quan sát, có thể biết người thế gian mê muội, điên đảo, nhầm lẫn, chúng ta hãy quay đầu lại nhìn xem, những lời Đức Phật đã nói trong kinh điển, bạn sẽ gật đầu chấp nhận từng chữ từng câu đều là lời chân thật.
Chúng ta đã biết pháp môn này, muốn nhận thức, muốn tu học, nhất định phải xem kỹ ý nghĩa chân thật của nó. Tôi đã từng làm một chuyên đề giảng giải tại Miami của nước Mỹ. Tựa đề là “Nhận thức Phật giáo”. Có vị đồng tu phát tâm ghi âm, chỉnh sửa xong văn chữ, in thành một quyển sách nhỏ, các vị hãy nên đọc kỹ.
Bản chất của Phật pháp, chúng ta đã nhận thức rõ thì phương hướng và mục tiêu của việc tu học mới không sai lầm. Sau đó mới có thể nói đến niệm Phật, thành Phật.
4. Pháp môn niệm Phật rất dễ thành tựu.
“Niệm Phật” là một trong những phương pháp tu hành của Phật pháp. “Thành Phật” là thành tựu trí huệ rốt ráo viên mãn.
Hiện giờ, sự nghiệp gia đình, cuộc sống mà chúng ta đang đối mặt, cho đến vấn đề sinh tử, chỉ có nương theo trí huệ chân thật, mới có thể giải quyết trọn vẹn. Không có trí huệ chân thật, hàng ngày dấy lên vọng tưởng, thế thì khổ càng chất chồng thêm khổ.
Chúng ta phải từ trong trí huệ chân thật, tìm lấy bản lai diện mục của chính mình, Thiền tông nói: “Bản lai diện mục trước khi cha mẹ sinh ra”, mới là cái ta chân chính. Phật pháp nói “vô ngã”. “Ngã” là quan niệm sai lầm của phàm phu. Cái này quả thật không có. Bốn đức: “Thường-Lạc-Ngã-Tịnh”, cái “Ngã” trong đó mới là Chân Ngã, tức là: Cái bản lai diện mục trước khi cha mẹ sinh ra mà thiền gia đã nói.
“Vô vi pháp thân” mà Bồ-tát Thiên Thân đã nói trong Vãng Sinh Luận cũng là Chân Ngã. Chân Ngã đã tìm được sẽ được đại tự tại. Dáng vẻ của tự tại là cái gì?
Ba mươi hai ứng thân đã nói trong phẩm Phổ Môn, chính là dáng vẻ của đại tự tại. Nếu có thể tìm được bản lai diện mục của mình thì sẽ có năng lực phân thân, có năng lực biến hoá, “Nên dùng thân nào để độ, sẽ hiện thân ấy”. Như thế thì tự tại biết bao! Hiện tại chúng ta rất đáng thương, không có pháp phân thân. Lần này tôi đến đây, các bạn đồng tu mong tôi ở lại một thời gian lâu hơn. Nếu như tôi có thể phân thân, Đài Nam phân một thân, Đài Bắc phân một thân, nước Mỹ một thân, suốt năm ở những địa phương ấy. Tự tại biết bao! Do đây có thể biết, tôi không chứng được “Vô vi pháp thân”. Chúng ta tin rằng đây là sự thật chính xác. Sự thật này tuy không thấy được, nhưng những lý luận này Đức Phật đã nói trong kinh điển. Chúng ta nghĩ kỹ có thể biết đó là điều chính xác, là điều có thể.
Nói cách khác, tâm thanh tịnh bình đẳng của chúng ta vẫn chưa đạt đến tiêu chuẩn này nên càng phải nỗ lực tu học hơn, chuyên cần hơn.
Phật pháp giống như trường đại học, trong đó có nhiều khoa, chúng ta nên chọn như thế nào? Nguyên tắc chọn lựa, không ở nơi bản thân của các khoa này, cũng chính là nói, không ở nơi pháp môn. Tại sao? Vì pháp môn bình đẳng, trong kinh thường nói: “Pháp môn bình đẳng, không hai không khác”. Bất kỳ pháp môn nào, tiêu chuẩn tu học đều là “Vô thượng Chính đẳng Chính giác”. Mỗi pháp môn đều có thể thông đạt, then chốt của sự lựa chọn ở nơi mình. Ví dụ như: Giảng đường này có nhiều cửa; mỗi cửa đều có thể bước vào, vì mỗi cửa đều như nhau, chọn cửa nào để bước vào đó là điều kiện của bản thân bạn. Ví như bạn đang đứng nơi cửa này, thuận tiện liền bước vào, vậy là quá dễ dàng. Nhưng nếu bạn chần chừ không bước vào cửa này, cứ đi vòng quanh muốn vào cửa kia, đến cửa lại hoài nghi, lại đi sang cửa khác, vòng tới vòng lui, quanh quẩn đã mấy mươi phút vẫn không bước vào cửa. Đây chẳng phải là tự chuốc lấy phiền não sao? Có rất nhiều người học Phật, phạm vào chứng bệnh này, đều quẩn quanh ngoài cửa, không biết “Nhất môn thâm nhập”.
Đương nhiên, cổ nhân nói: Pháp môn có khó có dễ, khó dễ cũng không ở tại pháp môn, mà ở ngay bản thân chúng ta. Chúng ta vọng tưởng nhiều, phiền não nặng, có một số pháp môn tu học sinh ra cảm giác dễ dàng. Đây là do căn tính của chúng sinh không đồng. Nếu như phiền não tập khí quá nặng, thì nên chọn lựa pháp môn nào để chúng ta học dễ thành tựu? Đó là “Pháp môn niệm Phật”. Pháp môn niệm Phật dễ dàng thành tựu. Đây là pháp môn mà tất cả chư Phật, Bồ-tát tiến cử cho chúng ta. Người có nghiệp chướng rất nặng cũng có thể thành tựu, tu học pháp môn khác thì không dễ thành tựu.
Trong nhiều pháp môn, tại sao chúng ta lại chọn pháp môn niệm Phật của tông Tịnh Độ để tu học? Điều này có hai nguyên nhân:
1. Vì căn tính của chúng ta và hoàn cảnh hiện tại, khiến cho chúng ta không có năng lực bước vào học thuật của tông phái khác. Kinh luận của những tông phái khác rất nhiều, phương pháp tu hành cũng không đơn giản. Trong thời đại này, chúng ta rất khó thích ứng, còn tông Tịnh Độ thì đơn giản hơn. Kinh điển của tông này chỉ có ba kinh một luận. Sau đó những bậc đại cổ đức lại bổ sung hai phẩm kinh, trở thành năm kinh Tịnh Độ, phân lượng đều rất ít, vô cùng thích hợp đối với người hiện đại.
Cư sĩ Ngụy Nguyên triều nhà Thanh đem phẩm “Phổ Hiền Bồ-tát hạnh nguyện” trong kinh Hoa Nghiêm đưa vào phía sau phẩm kinh thứ ba gọi là Tứ kinh Tịnh Độ. Sau đó Pháp sư Ấn Quang[15] lại đem chương “Đại Thế Chí Bồ-tát niệm Phật viên thông” trong kinh Lăng-nghiêm, đặt phụ lục phía sau phẩm kinh thứ tư thành năm kinh Tịnh Độ. Phân lượng của năm bộ kinh không nhiều. Đây là những kinh luận y cứ của tông Tịnh Độ, để cho chúng ta giảng giải quả thật rất tiện lợi; hơn nữa tông Tịnh Độ được sự khen ngợi của tất cả chư Phật. Chúng ta đi sâu vào kinh tạng, mới hiểu rõ pháp môn này là pháp môn vô thượng của sự tu hành chứng quả. Quả thật không thể nghĩ bàn! Theo hoàn cảnh hiện tại mà nói, đó là pháp môn tu học thích hợp nhất.
2. Theo lời dạy của Đức Phật, pháp của Đức Phật vận chuyển mười hai nghìn năm. Chính pháp một nghìn năm, Tượng pháp một nghìn năm, Mạt pháp mười nghìn năm. Theo sự ghi chép của lịch sử Trung quốc, năm nay (1994) là 3.020 năm sau khi Đức Phật diệt độ.
Nói cách khác, chúng ta đang ở trong giai đoạn mười nghìn năm thời kỳ Mạt pháp. Trong kinh Đại Tập, Đức Thế Tôn nói:
– Thời kỳ Chính pháp “Giới luật thành tựu”.
– Thời kỳ Tượng pháp “Thiền định thành tựu”.
– Thời kỳ Mạt pháp “Tịnh Độ thành tựu”.
Chúng ta sinh vào thời kỳ Mạt pháp, theo lời dạy của Đức Phật tu học Tịnh Độ, thì không nên trái lời Đức Phật dạy. Vì hai nhân tố này mà chúng ta quyết định chọn pháp môn niệm Phật.
Niệm Phật Công Đức phần 1
Niệm Phật Công Đức phần 2
Niệm Phật Công Đức phần 3
Niệm Phật Công Đức phần 4
Niệm Phật Công Đức phần phụ lục
23 07 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
II. TRỌNG TÂM PHẬT PHÁP – HẠT NHÂN PHẬT PHÁP: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT.
1. Vui vẻ học tập – Học để ứng dụng.
Chúng ta biết rằng, Đức Phật thuyết pháp nhất định phải hợp với căn cơ của chúng sinh. Nói cách khác, nhất định phải khiến cho chúng sinh hiện tại được lợi ích nhất, tốt đẹp nhất. Giáo trình của thế gian cũng phải tuân thủ nguyên tắc “học để ứng dụng”. Nếu như những điều đã học không dùng được trong đời sống thì học thuật này không chân thật. Thật ra, Phật pháp hiện thực hơn loại học thuật này. Những điều mà Phật giáo dạy chúng ta nhất định phải có được lợi ích, được sử dụng ngay trong hiện tại. Nếu không thì ta học Phật pháp để làm gì? Vì căn tính, trí huệ, sở thích của mỗi chúng sinh không giống nhau, Đức Phật nói pháp cũng sẽ vô lượng vô biên. Pháp môn vô lượng vô biên, giống như có nhiều phân khoa trong trường học, mục đích là để thích hợp với nguyện vọng không giống nhau của học sinh. Nhờ đó, học sinh tu học mới có thể cảm nhận được sự hứng thú.
Cổ nhân Trung Quốc nói: “Đọc sách là niềm vui”, ý nói trong học tập có niềm vui. Học sinh thời hiện đại, học tập cảm thấy rất khổ sở, thậm chí bị ép học những điều không giống như sở thích và niềm say mê của chính mình, học tập kiểu này thì sẽ không được niềm vui. Phật pháp là tùy theo sự hoan hỷ và nguyện vọng chính mình, tu học pháp môn gì thì Đức Phật sẽ nói cho chúng ta pháp môn ấy. Đây là trí huệ và lòng từ bi vô lượng của Đức Phật.
Tất cả pháp môn mà Đức Phật đã nói, không cần chúng ta phải học toàn bộ. Ngay trong những phân khoa mà nhà trường đã mở, không phải là tất cả học sinh đều học hết. Đó là để bạn ngay lúc học, lựa chọn phân khoa mà mình yêu thích.
Đương thời, Đức Thế Tôn dạy học không có vấn đề chọn lựa khoa, bất cứ học trò nào thỉnh giáo, Đức Phật đều có năng lực quán sát căn tính và hoàn cảnh hiện tại của học trò, gồm cả đời quá khứ, hiện tại, vị lai của họ, Đức Phật đều biết. Vì vậy, Đức Phật thuyết pháp rất khế cơ, chỉ mấy lời khai đạo, học trò đã khai ngộ, hiểu rõ. Những ví dụ đó, chúng ta đã thấy rất nhiều trong kinh điển.
2. Kết tập và dịch kinh điển Phật.
Sau khi Đức Phật Niết-bàn, những học trò nhận thấy việc dạy học của Ngài có lợi ích rất lớn đối với chúng sinh và xã hội nhân loại. Nếu như những sự dạy dỗ này thất truyền thì thật đáng tiếc. Bấy giờ, các vị ấy liền đem bao lời dạy của Đức Phật đương thời, kết tập thành sách lưu truyền cho đời sau. Thuở ấy, Đức Phật dạy học không có sách giáo khoa, học trò cũng không có ghi chép vào nơi nào cả. Khi ấy, mọi người đặc biệt lễ thỉnh tôn giả A-nan[16] kết tập kinh điển. Tôn giả A-nan là người hầu Phật, thời gian theo Đức Phật lâu nhất. Trong học trình 49 năm của Đức Thế Tôn, ngài là người nghe Phật pháp hoàn chỉnh nhất. Thế là, Đức Thế Tôn liền giao cho tôn giả A-nan một sứ mệnh, muốn tương lai ngài phụ trách việc kết tập kinh điển.
Sức nhớ của tôn giả A-nan rất mạnh mẽ, ngài có khả năng trùng tuyên lại một lượt những lời kinh mà Đức Phật đã nói lúc ấy một cách rất hoàn chỉnh, không sai lầm. Khi kết tập kinh điển, mọi người liền đề cử ngài A-nan giảng lại, và chọn một số người để ghi chép. Mặt khác, có năm trăm vị A-la-hán đều là học trò của Đức Thế Tôn thời bấy giờ, nên thỉnh các ngài đến chứng minh. Những điều mà ngài A-nan đã giảng, nếu như có người đề xuất ý kiến: Câu nói này nên lược bỏ thì cần phải có mọi người đều đồng ý, đều tán thành. Như vậy, mới có thể được ghi chép lại thành kinh điển.
Câu đầu tiên trong kinh điển: “Tôi nghe như thế này”. “Tôi” là ngài A-nan tự xưng, chính ngài nghe Đức Phật thuyết pháp. Đức Phật nói thế nào thì ngài A-nan giảng như thế ấy. Sau khi ghi chép lại như vậy, gọi là kinh điển. Sự kết tập kinh điển, hết thảy có bốn lần. Lần thứ nhất, do tôn giả A-nan kết tập. Điều này không nói, lần kết tập sau cùng cách Đức Phật diệt độ 400 năm. Ai mà có sức nhớ tốt như thế? Khi ấy những kinh điển được lưu truyền lại, khó tránh khỏi có một số vấn đề tồn tại. Những vấn đề này đều là những điều mà chúng ta cần phải biết. Nếu người học khéo hiểu, nắm vững nguyên tắc, nắm vững cương lĩnh chung thì không có những sai lầm to lớn. Ngược lại, người không hiểu sẽ chấp trước kinh văn, chấp trước văn tự rất khổ sở.
Vận pháp của Phật có ba giai đoạn: Chính pháp, Tượng pháp, Mạt pháp.
Thời kỳchính pháp: Một nghìn năm sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn. Những nguyên tắc được lưu truyền, hướng dẫn mọi người tu học trên đại thể đều không có sự sai lầm. Vì vậy, người tu học đều có thể đoạn trừ phiền não, khai trí huệ, chứng quả vị.
Thời kỳ Tượng pháp: Một nghìn năm. Phật pháp càng truyền càng sai. Phật pháp sai lầm lẫn lộn trong đó đã dần dần biến chất. Phật pháp truyền đến Trung Quốc đúng một nghìn năm sau khi Đức Phật diệt độ, cũng chính là thời kỳ cuối củachính pháp, và là thời kỳ đầu của Tượng pháp. Những bậc đại đức Tổ sư thời xưa ở Trung Quốc từ trong công tác phiên dịch kinh điển, bất luận trong giao thông, nhân tài, vật lực, in ấn và lưu thông, đều có sự hạn chế rất nhiều, nhưng các ngài đã khắc phục được những khó khăn ấy, phiên dịch kinh điển Phạn văn thành Trung văn. Công việc này bắt đầu từ đời Hậu Hán mãi đến triều Tống, kéo dài tám trăm năm. Từ đời Tống về sau, số lượng kinh điển được phiên dịch đã ít hơn. Trong lúc ấy, số lượng kinh văn tiếng Phạn ở Ấn Độ được truyền đến Trung Quốc rất nhiều. Một phần là do những vị cao tăng ở Ấn Độ mang đến Trung Quốc để truyền bá; mặt khác là do các vị đại đức ở Trung Quốc đến Ấn Độ du học mang về. Người phiên dịch thành tựu nổi bậc nhất là đại sư Huyền Trang. Các ngài đã mang về nhiều kinh điển tiếng Phạn, và còn chọn những kinh điển hay nhất trong số đó, thích hợp nhất với sự tu học của người Trung Quốc để phiên dịch. Vì vậy vẫn còn nhiều kinh điển chưa được dịch ra. Đại Tạng kinh của Trung Quốc hầu hết không phải là toàn bộ kinh điển mà Đức Phật Thích-ca đã nói trong bốn mươi chín năm. Chỉ có thể nói là tinh hoa của tất cả kinh mà Đức Phật đã nói trong bốn mươi chín năm.
Người học Phật thường có một số nghi vấn: Kinh điển tiếng Phạn ban đầu, vì sao không được bảo tồn lưu truyền cho đời sau, mà chỉ bảo lưu bản dịch của Trung hoa? Nguyên văn bản Phạn vì sao lại mất?
Trong quá khứ, tôi đã từng thắc mắc với tiên sinh Phương Đông Mỹ: “Kinh điển tiếng Phạn đã đến nơi nào rồi?” Ngài bảo tôi: “Bản dịch Trung văn siêu việt hơn bản Phạn văn, ý tứ bản dịch được dịch rất chính xác, kỹ xảo biểu đạt văn tự cũng hay, đẹp hơn bản Phạn. Lòng tự tin của cổ nhân Trung Quốc rất mạnh, kinh Phật chỉ đọc bản dịch tiếng Trung Quốc, chứ không cần đọc bản văn tiếng Phạn”. Khẩu khí này lớn biết bao! Nghĩ xem, nó cũng đầy đạo lý.
Phương tiên sinh nói thế, tuy không nói ra căn cứ, nhưng nói rất hay, đã giải đáp vấn đề của chúng ta. Vì vậy, đối với bản dịch tiếng Trung Quốc, chúng ta nhất định phải có lòng tin. Đương nhiên bản dịch cũng có phần ưu liệt, hay và dở. Đạo tràng mà có nhiều nhân tài, trình độ văn học đạt đến chỗ sâu xa thì kinh được dịch rất hay, ngược lại sẽ dở. Chúng ta mở lần lượt Đại Tạng kinh ra thì có thể thấy.
Cùng một bản văn Phạn, cũng được phiên dịch nhiều lần. Ví dụ kinh Kim Cang cũng có sáu bản dịch giống nhau. Hiện thời những bản dịch được lưu hành rộng nhất là bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập[17]; Bát-nhã Tâm kinh cũng có mười mấy bản dịch nhưng nội dung đều không khác nhau bao nhiêu. Bất kỳ bản dịch nào cũng hay, cũng rất hiếm có. Nếu như chúng ta làm công tác nghiên cứu mà không phải là tu học thì có thể y cứ vào một bản dịch làm chủ yếu, còn lấy những bản dịch khác để tham khảo. Điều này có thể khiến cho chúng ta có thể lý giải đầy đủ ý nghĩa kinh. Được nhiều bản dịch đối với người theo công việc nghiên cứu, là có sự giúp đỡ rất lớn.
3. Tính tất yếu và nguyên tắc cần tuân thủ của việc hội tập bản kinh Vô Lượng Thọ.
Kinh điển chủ yếu nhất của pháp môn Tịnh Độ là kinh Vô Lượng Thọ. Căn cứ vào sự khảo chứng của bậc đại đức ngày xưa, Phật đã nhiều lần tuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ. Tất cả kinh, Phật nói chỉ một lần. Nếu như bộ kinh này không quan trọng thì Phật không nói nhiều lần. Như vậy, kinh Vô Lượng Thọ từ thời Hậu Hán đến giữa triều đại Tống, từng được phiên dịch qua mười hai lần. Do vì những kinh sách thời cổ đại không dễ gì gìn giữ, trong đó bảy loại đã thất truyền, chỉ còn lại năm loại. Hiện giờ đã đưa vào Đại Tạng kinh. Bản dịch của năm loại này không giống nhau, nội dung thêm bớt rất nhiều. Từ đó có thể đoán được không phải chỉ có một nguyên bản Phạn. Tuy nhiên, dù có nhiều cách phiên dịch khác nhau, cũng không đến nỗi thoát ra quá lớn. Sự thoát ra quá lớn có thể đoán không phải chỉ một lần tuyên giảng mà là đã giảng nhiều lần. Do vậy có thể biết, kinh Vô Lượng Thọ có nguyên bản Phạn không giống nhau. Đây là điều mà chúng ta phải đặc biệt chú ý!
Từ điểm này, chúng ta hiểu được, Đức Thế Tôn giáo hoá chúng sinh, đặc biệt dụng tâm đối với pháp môn Niệm Phật của tông Tịnh Độ. Đương nhiên đối với pháp môn này thì đặc biệt thù thắng.
Trong kinh Pháp Diệt Tận, Đức Phật đã nói, tương lai mạch pháp của Đức Phật, sau mười hai nghìn năm, những kinh điển đã có hoàn toàn tiêu mất hết, kinh Vô Lượng Thọ vẫn còn lưu lại một trăm năm. Sau một trăm năm, kinh Vô Lượng Thọ cũng biến mất. Hồng danh sáu chữ “Nam-mô A-di-đà Phật” còn lưu lại một trăm năm. Do đó có thể biết công đức lợi ích của danh hiệu Phật không thể nghĩ bàn. Trong thời kỳ đó, chúng sinh nào có thể nghe câu danh hiệu này, niệm tụng câu danh hiệu này, đều có thể đạt được lợi ích thật sự. Đây là điểm thù thắng nhất của tông Tịnh Độ trong tất cả pháp môn.
Bản dịch của kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều nên sự thêm bớt ấy lớn biết bao. Trên phương diện tu học của người xưa đã nảy sinh ra sự khó khăn, có một số ý bản này có, bản kia không. Có một số ý bản này không, bản kia có, cần phải đọc qua năm bản dịch thì nghĩa kinh mới có thể viên mãn. Nhưng muốn có được cả thảy năm bản dịch trong thời cổ đại rất khó. Thế nên, người xưa mới nghĩ ra cách làm bản hội tập.
Bản hội tập lần thứ nhất là do cư sĩ Vương Long Thơ triều Tống, được đưa vào trong Đại Tạng kinh, với tên là “kinh Đại A-di-đà”. Bản của cư sĩ Long Thơ là bản hội tập của bốn bản dịch nguyên tác, không có bộ “Vô Lượng Thọ Như Lai hội” trong kinh Đại Bảo Tích, được dịch vào đời Đường. Bộ kinh trong bản dịch ở đời Đường này có một số văn kinh quan trọng, mà trong bốn bản dịch kia đều không có. Vì vậy, bản hội tập của cư sĩ Long Thơ, nghĩa kinh vẫn chưa hoàn chỉnh. Đây là sự việc rất đáng tiếc. Cư sĩ Long Thơ tu hành rất thành tựu, ông đứng niệm Phật mà vãng sinh. Sự hiện thân thuyết pháp ấy minh chứng đầy đủ cho chúng ta thấy. Do đây có thể biết hội tập là điều cần thiết. Đối với sự kế thừa của tông Tịnh Độ, cư sĩ có một sự cống hiến nhất định.
Hội tập lần thứ hai là do cư sĩ Bành Tế Thanh, vào khoảng niên hiệu Càn Long, triều Thanh. Ông xuất thân từ dòng quý tộc, rất thông minh. Tuổi còn nhỏ đã đỗ tiến sĩ và đã có sự thành tựu nổi bật trong Phật pháp, quả thật là Bồ-tát hiện thân trở lại. Ông chọn bản của ngài Khương Tăng Khải[18], cắt bớt những chỗ khó đọc, trùng lặp, làm thành một quyển rõ ràng chi tiết. Ông lại chú giải cho quyển sách này tựa đề là “Vô Lượng Thọ kinh Khởi Tín Luận”.
Hội tập lần thứ ba do cư sĩ Ngụy Nguyên, vào giữa niên hiệu Hàm Phong triều Thanh, ông hội tập cả năm bản dịch, hoàn chỉnh hơn so với bản của cư sĩ Vương Long Thơ. Đây là bản hội tập rất tốt.
Các vị có thể xem trong “Ấn Quang pháp sư Văn sao”. Đại lão pháp sư Ấn Quang đều có lời phê bình đối với bản dịch của cư sĩ Ngụy Nguyên và Vương Long Thơ, nhưng quan sát kỹ, lão pháp sư hoàn toàn không phải phản đối sự hội tập mà là phản đối những chỗ không đúng. Những chỗ nào không đúng? Hội tập và dịch kinh không giống nhau. Dịch kinh có thể y cứ kinh văn, dùng ý của mình châm chước câu, từ, còn hội tập thì không được thế. Điều quan trọng của hội tập là lấy nguyên văn của kinh, không thể thay đổi một chữ. Hai vị cư sĩ thật là học gia đại học, thế pháp, Phật pháp đều thông suốt. Cư sĩ Vương Long Thơ sửa đổi nguyên văn khá hay. Còn cư sĩ Ngụy Nguyên sửa đổi cũng không có vấn đề. Nhưng pháp sư nói: “Nếu như được phép như vậy, người sau không hiểu rõ, cũng tùy tiện sửa đổi. Kinh Phật lưu truyền đến đời sau còn có thể xem được sao? Lại sửa đổi kinh văn”. Ví dụ này không được triển khai. Năm bản dịch nguyên tác có thể tập hợp lại biên tập bản mới, nhưng không thể động đến một chữ, điều này rất quan trọng. Sự việc này các vị hãy xem bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư trong bài văn tựa, Lão cư sĩ Mai Quang Hy nói rất rõ, hội tập là không thể sửa lại một chữ.
Hội tập lần thứ tư là do lão cư sĩ Hạ Liên Cư, vào Dân quốc năm thứ nhất (1911), cư sĩ Hạ đã bế quan ba năm hoàn thành bản hội tập này. Đoạn văn kinh Đức Phật A-di-đà phát 48 đại nguyện trong phần “Phát đại thệ nguyện”, phẩm thứ sáu của kinh Vô Lượng Thọ, đương thời do Hoà thượng Huệ Minh là người của Thông Tông, Thông giáo, cùng với cư sĩ Mai Quang Hy và Hạ Liên Cư, ba người đồng hợp tác làm. Họ phải mất thời gian ba tháng mới tập hợp xong đoạn kinh văn này. Do đó, chúng ta có thể hiểu được dụng tâm và sự cẩn thận của các ngài.
Sau khi bản hội tập ra đời, người hưởng ứng đầu tiên là pháp sư Từ Chu, ngài rất khâm phục bản hội tập này, hơn nữa còn làm bài phê và lời tựa cho bản hội tập. Bản hội tập đương thời chỉ phân làm 37 phẩm, bản hiện giờ là 48 phẩm. Đây là những phẩm sau này được sao lục và tu sửa đính chính. Mười năm mới tu sửa thành một bản cố định hiện tại. Đây là bản do cư sĩ Hạ Liên Cư đã dùng công phu mười năm để hoàn thành, quả thật không dễ dàng! Đáng tiếc là pháp sư Ấn Quang không thấy được. Nếu như ngài thấy được, có lẽ sẽ gật đầu nói: “Bản hội tập này thật tuyệt vời”. Lỗi hội tập của người xưa hoàn toàn không có, có thể lưu hành. Thật là mỗi chữ mỗi câu đều là nguyên văn, không thay đổi một chữ nào.
Hơn nữa việc lấy bỏ đều rất thỏa đáng, đích xác là sự tập đại thành lớn lao của năm bản dịch nguyên tác. Các vị đại đức đương thời, đều cho rằng bản này là bản tốt nhất của kinh Vô Lượng Thọ.
Pháp sư Từ Chu là vị đại đức rất có địa vị ở đại lục Trung Quốc. Ngài giới luật tinh nghiêm, đi đến khắp nơi giảng kinh, hoằng pháp lợi sinh. Ngài có hai vị học trò ở Đài Loan, chính là pháp sư Sám Vân và hoà thượng Đạo Nguyên được mọi người tôn kính.
Nếu cho rằng bản hội tập của cư sĩ Hạ có vấn đề, nhưng sư phụ của hai vị hoà thượng Đạo Nguyên và pháp sư Sám Vân đều thừa nhận bộ kinh này, còn làm bài phê cho bản kinh thì còn có vấn đề gì nữa? Vì vậy, chúng ta phải nên có đủ lòng tin sâu sắc đối với bản kinh này. Đây là pháp bảo chính xác, trước mắt chúng ta không thể bỏ lỡ.
Hơn ba mươi năm hoằng pháp, tôi đã giảng những bộ kinh như: kinh Hoa Nghiêm, kinh Lăng-nghiêm, kinh Kim Cang. Sau khi thầy Lý vãng sinh, tôi mới bắt đầu giảng bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ do chính mình thể nghiệm được, giảng kinh Hoa Nghiêm, sở đắc không bằng giảng kinh Vô Lượng Thọ. Tôi cảm nhận sâu sắc công đức hoằng dương kinh Vô Lượng Thọ không thể nghĩ bàn, được lực gia trì của chư Phật không thể nghĩ bàn, công đức tiêu trừ nghiệp chướng không thể nghĩ bàn. Vì vậy, lòng tin của tôi đối với bộ kinh này càng sâu sắc hơn, tu học theo bộ kinh này mà tiêu trừ nghiệp chướng, được lợi ích rất nhiều. Người được vãng sinh, điềm lành rất tốt, đủ để minh chứng công đức của bộ kinh này, quả thật là sự gia trì, oai thần của mười phương chư Phật Như Lai.
Nếu như chúng ta nảy sinh sự hoài nghi đối với bản hội tập này, không thể tiếp nhận, đó là vì thiện căn, phước đức ta quá ít. Nếu như không thể tiếp nhận, thì cũng phải đọc hết năm bản dịch nguyên tác. Như thế mới có thể đạt được nghĩa kinh hoàn chỉnh của kinh Vô Lượng Thọ. Bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư là sự tập đại thành của năm bản dịch nguyên tác. Điều này chúng ta phải nhận thức rõ ràng. Bản hội tập nơi hải ngoại, đại lục Trung Quốc đã được lưu hành trên toàn thế giới đều không chướng ngại. Vì vậy, nhờ đọc bản hội tập mà người niệm Phật rất nhiều. Đây là hiện tượng rất tốt, chúng ta thấy Phật pháp rất có tiền đồ, thật là rạng rỡ.
4. Pháp môn niệm Phật chẳng phải điều mà người tầm thường có thể tin.
Nội dung của kinh Vô Lượng Thọ, Đức Thế Tôn giới thiệu rõ ràng cho chúng ta về hiện thực của thế giới Tây phương Cực Lạc, có lý luận, có sự thật, có nhân, có quả, đầy đủ mọi mặt được Ngài giới thiệu khá hoàn thiện. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật là bổ sung cho kinh Vô Lượng Thọ, đặc biệt là bổ sung cho phương pháp tu học. Phương pháp tu học của kinh Vô Lượng Thọ chỉ nói giản lược cương lĩnh của “ba bậc vãng sinh”. Quán kinh giảng cho chúng ta “ba bậc chín phẩm” dạy chúng ta phương pháp niệm Phật như: Quán tưởng niệm Phật, Quán tượng niệm Phật, Trì danh niệm Phật. Những phương pháp trên được giảng rất tỉ mỉ, giới thiệu rõ nhân quả của chín phẩm, và nguyên lý vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”.
“Vãng Sinh Luận” là báo cáo tâm đắc tu học kinh Vô Lượng Thọ của Bồ-tát Thế Thân. Phương pháp niệm Phật của ngài là chọn dùng “năm pháp môn niệm Phật”. Năm pháp môn này có được từ kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Nội dung của pháp môn ấy là:
1. Lễ Phật.
2. Tán thán.
3. Tác nguyện.[19]
4. Quán sát, không phải là “quán tưởng” mà là “quán sát”( Sát là hiểu rõ ràng, ý tứ càng sâu sắc).
5. Hồi hướng.
Bồ-tát Thế Thân niệm Phật, mỗi mỗi câu danh hiệu Phật đều có đầy đủ năm ý này. Ngài do tu học năm pháp niệm này mà thành tựu. Sau đó truyền đến Trung Quốc, Pháp sư Đàm Loan[20] chọn lấy pháp môn này. Đại sư Thiện Đạo[21] không những chọn mà còn hoằng dương pháp môn này.
Phương pháp lý luận tu học của tông Tịnh Độ, đến đây đã khá đầy đủ. Bộ kinh sau cùng mà Đức Phật nói là kinh A-di-đà, mục đích Ngài muốn khích lệ chúng ta phải tu học pháp môn niệm Phật. Trong kinh A-di-đà, Đức Thế Tôn đã bốn lần khích lệ, có thể cho thấy tấm lòng ân cần khuyên bảo của Ngài đối với chúng ta. Quả nhiên chúng ta đã giác ngộ, nghe lời Đức Phật, chọn lấy pháp môn niệm Phật. Chân thành niệm Phật, một đời này nhất định sẽ thành Phật.
Đây là phương pháp “hiện đời thành Phật”, không cần quanh co vòng vèo. Tuy Đức Phật sách tấn khích lệ thiết tha khuyên bảo như thế, nhưng người học Phật được mấy ai tiếp nhận, chịu tin tưởng? Tại sao Đức Phật khuyến thỉnh như thế, mà mọi người vẫn không tiếp nhận? Điều này Đức Phật đã giảng rất rõ. Vì pháp môn niệm Phật là “pháp khó tin”. Nếu Đức Phật vừa khuyến thỉnh, mọi người liền tin ngay thì sao gọi là “khó tin”? Đức Phật khuyên như thế, chúng sinh vẫn không tin. Đó mới gọi là “khó tin”! Vì vậy, thông thường mới nghe khuyên mà có thể tin ngay, người này không phải là hạng tầm thường. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật nói: “Người này không phải phàm nhân”. Những người mà có thể tiếp nhận, chắc chắn đã có căn lành tu tập tích chứa trong vô lượng kiếp đến nay, phước đức vô lượng vô biên. Đời này gặp pháp môn này, căn lành thành tựu, hoàn toàn tiếp nhận. Thật tương ưng với câu được nói trong kinh A-di-đà: “Không thể dùng một ít nhân duyên, phước đức, thiện căn mà được sinh về cõi nước kia”.
Trong kinh A-di-đà nói “không thể nhờ một ít căn lành”. Chúng ta không biết mức độ căn lành nhiều đến mức nào? Nhưng xem trong quyển kinh Vô Lượng Thọ, vương tử A-xà-thế[22] cùng năm vị trưởng giả, vô lượng kiếp trong quá khứ từng cúng dường bốn trăm ức Phật. Thiện căn sâu dày như thế, mà khi gặp được kinh Vô Lượng Thọ, họ vẫn không chịu phát nguyện cầu xin về thế giới Tây phương Cực Lạc, chỉ phát nguyện: “Tương lai con thành Phật cũng sẽ giống như Đức Phật A-di-đà”.
Hiện giờ chúng ta khuyên một người niệm Phật. Nếu anh ta có thể không hoài nghi, lập tức tiếp nhận thì biết rằng căn lành anh ta đã tích lũy từ thời quá khứ, hơn sự cúng dường bốn trăm ức Phật. Thiện căn chưa thành thục, không cách nào tin Tịnh Độ, Đức Phật cũng không có biện pháp giúp đỡ cho; được căn lành thành thục có thể tin Tịnh Độ, điều này quả thật không thể nghĩ bàn!
Khi căn lành của bạn thành thục, không chỉ bổn nguyện của Đức Phật A-di-đà gia hộ bạn mà cả mười phương chư Phật, vị nào cũng gia hộ bạn. Hiện giờ trong hội này, mọi người nghe đều hoan hỷ, không phải vì tôi giảng hay, nên các vị mới hoan hỷ, mà là nhờ hào quang Phật gia trì; cũng chính là từ trường của chư Phật gia hộ chúng ta, để chúng ta vào đạo tràng liền sinh tâm hoan hỷ. Trong kinh thường nói, y báochính báo của thế giới Tây phương trang nghiêm, bậc Bồ-tát Đẳng giác hoàn toàn không cách nào hiểu rõ. Nếu như không được Phật lực gia hộ thì Bồ-tát cũng không thể nói, hạng phàm phu kém cỏi như chúng ta làm sao nói được.
Có thể nói, có thể nghe, đều do lực Phật gia hộ, đều là do căn lành thành thục từ vô lượng kiếp đến nay của mình. Đây là nhân duyên rất khó được, hiện tiền căn lành, phước đức, nhân duyên của chúng ta đầy đủ, như kinh A-di-đà ghi: “Không thể nhờ chút căn lành, phước đức, nhân duyên mà được sinh về cõi nước kia”. Ba điều này, chúng ta đều có đủ thì nhất định được sinh về Tịnh Độ.
Chúng ta phải quý tiếc cơ hội này, pháp duyên này, vì phàm phu chúng ta tập khí phiền não rất nặng, sẽ xoay chuyển theo cảnh giới. Nếu như không bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển thì một đời này quyết định thành tựu. Bị cảnh chuyển chính là tâm không làm chủ được mình, phải chịu sự mê hoặc của ngoại cảnh: tiền của, sắc đẹp, tiếng tăm, uống ăn và ngủ nghỉ. Tuy có căn lành phúc đức, nhưng do nhân duyên không tốt nên vẫn không thể vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Tập khí của chúng ta rất nặng, làm thế nào không bị ngoại cảnh mê hoặc? Chúng ta phải tiếp nhận sự khuyến cáo của Tổ sư. Tổ sư hướng dẫn chúng ta “Thâm nhập một môn, tu tập lâu dài”.Và theo một thầy chuyên tu một pháp môn, như vậy chúng ta mới nắm vững.
Then chốt của tu học Phật pháp ở chỗ “chuyên tinh”, không thể xen tạp, vừa xen tạp thì đã hư rồi. Những bạn đồng tu thời hiện đại, mang chứng bệnh chung, là tạp loạn: Tạp tu, loạn tu. Ngay như việc học trong trường có rất nhiều bộ môn, giờ này nghe môn này, giờ học sau nghe môn khác. Nghe như thế đến bốn trăm năm cũng không tốt nghiệp. Vì không chuyên nhất. Nếu như chuyên nhất một bộ môn, thì bốn năm sẽ tốt nghiệp, học vị sẽ nắm chắc trong tay. Còn không chuyên nhất, môn nào cũng muốn học, môn nào cũng muốn nghe, môn nào cũng muốn tiếp xúc, xào nấu thành một thứ lộn xộn. Thế thì đã hư rồi. Đây là căn bệnh chung của người học Phật thời hiện đại. Cương lĩnh chung của Phật pháp là ba môn học: Giới- định-huệ. Định là then chốt (Định là pháp môn đầu tiên) nhưng chúng ta đã lơ đãng. Đó là nguyên nhân chúng ta đã bỏ phí rất nhiều thời gian, tinh lực mà không có được sự thành tựu. Bây giờ đã hiểu rõ, chúng ta cần phải nhìn lại. Ngày xưa tôi ở Đài Trung cầu học. Thầy Lý đã khiêm tốn nói: “Năng lực của tôi chỉ có thể dạy ông năm năm”. Thầy khuyên tôi đến học với pháp sư Ấn Quang, nhưng Ấn Tổ đã không còn, làm sao học với ngài?
Tôn thờ tổ làm thầy, tôi chuyên đọc “Ấn Quang pháp sư Văn sao ”, chuyên tu theo lời dạy của ngài, Tổ Ấn Quang dạy người rất nghiêm. Có vị đệ tử đến chùa ở núi Linh Nham, tham bái Tổ, ngài mắng: “Ông chạy đến đây, lãng phí tinh thần, lãng phí tiền của, mau quay về mà thật tâm niệm Phật”. Ấn Tổ đã dạy người như thế. Tôi nghĩ đạo tràng của sư phụ mình không thể đi, thì đạo tràng ở nơi khác cũng không cần đi. Như thế, tâm mới có thể định, công phu niệm Phật mới có thể thành khối, mới có thể nhất tâm bất loạn. Nguyện vọng của pháp sư là mong mỏi chúng ta mai sau thật sự có thể vãng sinh, không phải đến để cho thêm phần náo nhiệt.
Học trò thời xưa ở Trung Quốc và học trò thời nay không giống nhau, xác thật là y chỉ một vị thầy, thành tựu dưới sự dạy dỗ của thầy. Những tông phái thiền tông thời xưa, đại triệt, đại ngộ, minh tâm kiến tính, học giáo lý phải thông suốt, hiểu rõ ràng mới có tư cách ra ngoài tham học. Nếu như không có đại triệt, đại ngộ, hiểu rõ thông suốt thì không có tư cách ra ngoài tham học, hãy thật thà theo thầy tham học, một bước cũng không được tách rời thầy. Cách dạy của Tịnh Độ tông và Thiền tông khác nhau. Tịnh Độ tông không có tham học. Dù cho niệm Phật, niệm đến lý nhất tâm bất loạn vẫn cứ thành tâm niệm. Ngoài một câu niệm “A-di-đà Phật” ra, vấn đề gì cũng không có. Trong chương: “Đại Thế Chí Bồ-tát niệm Phật viên thông”, cho chúng ta biết một câu “A-di-đà Phật” từ sơ phát tâm cho đến thành Phật đều “nhiếp sáu căn, tịnh niệm tương tục, không mượn phương tiện, tự tâm khai mở”, còn phải tham học cái gì nữa. Đây thật là điều thù thắng của tông Tịnh Độ.
Kinh Kim Cang, kinh điển nổi tiếng của Trung Quốc. Nội dung của kinh chính là hai vấn đề mà tôn giả Tu-bồ-đề[23] thỉnh giáo Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
1. “Làm thế nào hàng phục tâm mình?” Đây là vấn đề lớn lao, phàm phu chúng ta tâm tán loạn, vọng niệm rất nhiều, làm thế nào có thể hàng phục vọng niệm, khiến cho chúng ta đạt đến thanh tịnh?
2. “Làm thế nào an trụ tâm?” Tâm của chúng ta phải an trụ nơi nào? Đây là vấn đề mà người tu hành đều có. Kinh Kim Cang chính là giải đáp hai vấn đề này. Kinh Kim Cang là cương lĩnh chung của kinh Bát-nhã. Nếu như hai vấn đề này không được giải đáp thì kinh Kim Cang chỉ là đọc tụng suông. Nói cách khác, pháp môn Bát-nhã, nếu bạn không có duyên phận thì không có năng lực để tu học. Tịnh Độ tông giải đáp hai vấn đề này tốt nhất.
“Làm thế nào hàng phục tâm mình?”.
“Nam-mô A-di-đà Phật”. So với thiền tông giáo hoá thì đây là phương tiện dễ dàng cứu cánh, triệt để. Chỉ dùng một câu danh hiệu Phật, hàng phục vọng tưởng tạp niệm ngay.
“Nên trụ tâm như thế nào?”.
“Nam-mô A-di-đà Phật”. Thật đơn giản biết bao! Đem tâm an trụ trong danh hiệu Phật, quyết định không có sai lầm. Vấn đề mà tôn giả Tu-bồ-đề hỏi, Đức Thích-ca trả lời như thế, chúng ta càng nghe càng mê hoặc. Một câu “A-di-đà Phật” của tông Tịnh Độ đã giải đáp hoàn toàn. Tất cả vấn đề mà Thiền tông giáo hạ dạy, một câu “Nam-mô A-di-đà Phật” đã giải quyết toàn bộ sự việc. Từ đây có thể biết, công đức của danh hiệu Phật thật sự không thể nghĩ bàn. Đây là chỗ thù thắng không gì sánh bằng của pháp môn Tịnh Độ.
5. A-di-đà Phật là đỉnh cao của Phật pháp.
Vô Lượng Thọ kinh giải của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, đem so sánh tất cả những pháp môn tu hành từ xưa đến nay mà Tổ sư đại đức đã thực hành viết ra khá rõ. Những bộ kinh mà các bậc đại đức xưa ở thời đại Tùy Đường đang cùng nghiên cứu so với tất cả bộ kinh mà Đức Phật Thích-ca đã nói trong 49 năm thì bộ nào thù thắng nhất? Bộ kinh nào đứng nhất? Mọi người đều công nhận kinh Hoa Nghiêm đứng nhất, kinh Hoa Nghiêm là cương lĩnh chung của tất cả pháp môn trong 49 năm Đức Phật Thích-ca đã nói. Giống như khái luận của sách học thời hiện đại. Kinh Hoa Nghiêm là Phật học khái luận, là pháp luân viên mãn nhất, kinh Hoa Nghiêm so với kinh Vô Lượng Thọ thì kinh Vô Lượng Thọ là bậc nhất. Bởi vì, kinh Hoa Nghiêm đến sau cùng, chỉ có mười đại nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền hướng dẫn quy về Cực Lạc mới viên mãn. Nếu như bốn mươi mốt pháp thân đại sĩ nơi thế giới Hoa Tạng không niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh Độ thì kinh Hoa Nghiêm không viên mãn. Vì vậy, kinh Vô Lượng Thọ là điểm đến của kinh Hoa Nghiêm, là nơi tổng kết của kinh Hoa Nghiêm, là tinh hoa của kinh Hoa Nghiêm.
Cư sĩ Bành Tế Thanh đời Thanh nói: “Kinh Vô Lượng Thọ là kinh Hoa Nghiêm trung bản, kinh A-di-đà là kinh Hoa Nghiêm tiểu bản”. Lời nói này rất có lý. Tuy kinh văn có nhiều ít khác nhau, nhưng nội dung của kinh thì không có chút gì sai biệt.
Kinh Vô Lượng Thọ gồm có 48 phẩm, trong đó phẩm kinh nào là bậc nhất? Đó là 48 lời nguyện trong phẩm thứ sáu. Chúng ta hãy xem kỹ kinh Vô Lượng Thọ, từng chữ, từng câu đều nói rõ ràng về 48 lời nguyện. Nguyện nào bậc nhất trong 48 lời nguyện? Đó là lời nguyện thứ 18. Nội dung lời nguyện thứ 18 là: “Mười niệm chắc chắn sinh Tịnh Độ”, biểu thị công đức của danh hiệu Phật không thể nghĩ bàn. So sánh như vậy, có thể tìm ra đỉnh cao nhất của Phật giáo, chính là một câu “A-di-đà Phật”. Một câu “A-di-đà Phật” đã giải quyết tất cả vấn đề mà Đức Thế Tôn đã nói trong bốn mươi chín năm. Không những tất cả pháp mà Đức Thế Tôn đã nói không rời câu danh hiệu này mà cho đến tất cả chư Phật Như Lai trong mười phương ba đời, vì tất cả chúng sinh nói vô lượng pháp môn, cũng không lìa câu “A-di-đà Phật” này. Thông qua đó, chúng ta mới thật sự hiểu rõ lời Cổ đức đã nói: “Công đức của danh hiệu A-di-đà không thể nghĩ bàn”. Chân tướng của kinh không thể nghĩ bàn, sâu xa không thể nghĩ bàn đó. Niệm câu A-di-đà Phật này sẽ được thành tựu. Tại sao? Vì không một mảy may hoài nghi, không một chút lo lắng, quyết lòng niệm Phật, biết câu danh hiệu này chính là kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Câu danh hiệu này là tất cả các pháp môn mà Đức Phật Thích-ca đã nói trong 49 năm, “Một là tất cả, tất cả là một.”. “Một” đã tìm được rồi. Làm sao mà không hoan hỷ! Bảo bối chân chính của Phật pháp đã tìm ra, tu học theo pháp môn đây, đời này quyết định thành tựu.
Niệm Phật Công Đức phần giới thiệu
Niệm Phật Công Đức phần 1
Niệm Phật Công Đức phần 2
Niệm Phật Công Đức phần 3
Niệm Phật Công Đức phần 4
Niệm Phật Công Đức phần phụ lục
382/406Đầu«...10...381382383...390...»Cuối
Các Phúc Đáp Gần Đây