Niệm Phật Nếu Nghi Bốn Trí Sẽ Sanh Biên Địa

Niệm Phật Nếu Nghi Bốn Trí Sẽ Sanh Biên Địa Chánh kinh: Phật bảo ngài Từ Thị:

Nếu có chúng sanh dùng tâm nghi hoặc tu các công đức, nguyện sanh cõi ấy, chẳng hiểu rõ Phật trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, đại thừa quảng trí, vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Ðối với các trí ấy nghi hoặc chẳng tin, nhưng vẫn tin tội phước, tu tập cội lành nguyện sanh cõi ấy.

Giải: Phẩm này giảng về cái nhân của thai sanh, khuyên nên sanh lòng tin sâu xa hầu khỏi đọa vào nghi thành biên địa: trong năm trăm kiếp chẳng được thấy Phật và Tăng, chẳng được nghe kinh pháp.

Ngài Tịnh Ảnh viết: ‘Trước hết nói “chẳng hiểu rõ Phật trí”, câu này là tổng, [những câu như] “bất tư nghị trí” v.v… là biệt. Phật trí uyên thâm, những trí khác không suy lường nổi nên bảo là “bất tư nghị”. Phật trí thật nhiều, chẳng thể kể hết nên bảo là “bất khả xưng”. Phật trí biết rõ cùng tột các pháp môn nên gọi là “quảng trí”. Phật trí ở địa vị cao trỗi nên gọi là “vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”.

Sách Hội Sớ lại nói:

“Chẳng hiểu rõ Phật trí” là nghi tánh đức bất tư nghì của Phật trí, chẳng ngộ được vì sao đức Như Lai là vĩ đại. Niệm Phật vãng sanh được kiến lập bởi Phật trí mà [chúng sanh] lại nghi ngờ trí ấy nên chẳng thể hiểu rõ Phật trí.

Bất tư nghị trí: vì trí huệ của Phật sâu rộng chẳng thể nghĩ bàn nên gọi là “bất tư nghị trí”. Niệm Phật vãng sanh được kiến lập bởi bất tư nghị trí mà [chúng sanh] lại nghi trí ấy nên bảo là “chẳng hiểu rõ bất tư nghị trí”.

Bất khả xưng trí là trí huệ của Phật nhiều đến vô lượng chẳng thể nói kể cho hết được nên gọi là bất khả xưng trí. Niệm Phật vãng sanh là do bất khả xưng trí thành tựu mà lại nghi trí ấy thì gọi là “chẳng hiểu rõ bất khả xưng trí”.

Ðại Thừa quảng trí là trí biết đến cùng tột các pháp môn nên gọi là đại thừa quảng trí. Niệm Phật vãng sanh là do đại thừa quảng trí cảm thành mà lại nghi trí ấy nên gọi là “chẳng hiểu rõ đại thừa quảng trí”.

Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí là trí ấy địa vị cao trỗi nên gọi là vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Nay niệm Phật vãng sanh đây do vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí phát khởi mà lại nghi trí ấy nên bảo là “chẳng hiểu rõ vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”.

Kinh nói: ‘Dùng tâm nghi hoặc’ nghĩa là do chẳng tin hiểu nổi Phật trí nên sanh tâm ngờ vực. Chữ “nghi” có bốn ý, dưới đây tôi sẽ tổng hợp những ý chính của các vị Ðàm Loan, Nguyên Hiểu, Tuấn Ðế và Cảnh Hưng để giảng.

* Một là chẳng tin vào bất tư nghị trí nên nghi nếu chỉ niệm A Di Ðà Phật chưa chắc đã được vãng sanh Cực Lạc, chẳng biết rằng bất tư nghị trí có đại oai lực chẳng thể suy lường được nổi. Hết thảy muôn pháp không pháp nào chẳng phải là tự lực, tha lực, tự nhiếp, tha nhiếp, thiên biến vạn hóa vô lượng vô biên. Há nên dùng cái tình thức còn ngăn ngại của phàm phu ngờ vực diệu pháp vô ngại của đức Như Lai; đâu biết rằng một tấm gương có thể hiện bóng muôn vàn cảnh tượng, củi chất ngàn năm một mồi lửa cháy sạch.

Vì vậy, chí tâm nhất niệm xưng danh tiêu diệt được trọng tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp. Mười niệm ắt được vãng sanh có chi là lạ!

* Hai là chẳng tin vào bất khả xưng trí, chẳng hiểu được rằng thể tánh của Phật trí là tuyệt dứt mọi đối đãi, lìa mọi lỗi lầm, tuyệt mọi sai trái.

* Ba là chẳng hiểu rõ đại thừa quảng trí, nghi Phật chẳng thể thật sự độ hết thảy chúng sanh, lại ngờ hết thảy chúng sanh niệm Phật chẳng phải đều được vãng sanh Tịnh Ðộ. Bởi thế, đối với A Di Ðà Phật bèn sanh ý tưởng suy lường.

* Bốn là chẳng hiểu rõ vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí, ngờ Phật chẳng đắc Nhất Thiết Chủng Trí. Do bởi nghi như thế nên đối với pháp môn niệm Phật chẳng thể chánh tín; do đó phải bị thai sanh.

Trong tác phẩm Tông Yếu, ngài Nguyên Hiểu lại viết:

‘Nếu người chẳng đoạn nổi bốn mối nghi đó thì dẫu sanh vào nước kia vẫn ở biên địa.

Nếu như có kẻ dẫu chẳng thể hiểu nổi cảnh giới của bốn trí vừa nói trên đây nhưng tự khiêm, tâm nhãn chưa mở nhưng ngưỡng mộ Như Lai, một bề tin phục thì những người như vậy sẽ tùy theo hạnh phẩm vãng sanh về cõi ấy, chẳng lạc vào biên địa.

Sanh vào biên địa là một loại riêng chẳng thuộc vào chín phẩm. Vì thế chẳng nên vọng sanh nghi hoặc’.

Lời luận này rất tinh xác, rất khẩn yếu. Nếu như tin hiểu được các trí của Như Lai thì là bậc thượng căn lợi trí; còn nếu chẳng tin hiểu nổi thì cứ giữ lòng rỗng rang, tự khiêm, tin kính, ngưỡng mộ các trí ấy thì cũng được vãng sanh, chẳng bị đọa vào nghi thành. Hành nhân Tịnh nghiệp nên đọc lại vài ba lần lời luận trên để thể hội sâu xa yếu chỉ ‘hư tâm ngưỡng tín’ ấy.

‘Nếu có chúng sanh đối với các trí ấy ngờ vực chẳng tin, nhưng vẫn tin tội phước, tu tập cội lành, nguyện sanh cõi ấy’ là nói về hạnh cảnh của kẻ bị sanh vào biên địa.

‘Tội phước’: ngũ nghịch, thập ác v.v… là “tội”; ngũ giới, thập thiện v.v… là “phước”. Chẳng kính tin nổi Phật trí, nhưng vẫn tin vào tội phước, nhân quả, thường tu lễ Phật, niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Do niệm Phật thật sự là căn bản của các điều thiện nên bảo là ‘tu các cội lành’. Hạng người như vậy tin phước chẳng tin trí, tin Sự nhưng lại mê nơi Lý nên bị đọa vào nghi thành.

Trích đoạn từ
Chú Giải Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
Vận Thành Hạ Liên Cư hội tập – Hoàng Niệm Tổ chú giải
Quyển Thứ Tư

Niệm Phật Nhưng Không Tin Chính Mình Sẽ Vãng Sanh Về Biên Địa

Niệm Phật Nhưng Không Tin Chính Mình Sẽ Vãng Sanh Về Biên ĐịaChánh kinh: Lại có chúng sanh tích tập thiện căn, mong cầu Phật trí, phổ biến trí, oai đức quảng đại bất tư nghị trí; đối với thiện căn của chính mình chẳng sanh nổi lòng tin nên đối với việc vãng sanh cõi Phật thanh tịnh, ý chí do dự, chẳng thể chuyên chú, nhưng do liên tục niệm Phật chẳng ngớt, kết thiện nguyện ấy thành căn bản nên vẫn được vãng sanh.

Giải: Ðoạn kinh này nói đến một loại hành nhân khác bị sanh về biên địa: tin tha mà chẳng tự tin mình.

Tin tha mà chẳng tin nổi tự thì chính là trí còn kém cỏi. Không có trí quyết định thì chẳng sanh nổi lòng tin quyết định cho nên ‘ý chí do dự, chẳng thể chuyên chú’. Tín nguyện chẳng vững thì chỗ mình y cứ [để tu tập] chẳng chuyên nhất nổi. Tuy vậy, vì hành nhân niệm Phật liên tục nên nương theo sức niệm Phật và sức phát nguyện bèn được vãng sanh, nhưng chỉ được sanh nơi biên địa.

Chánh kinh: Những người này do nhân duyên ấy tuy sanh về nước kia nhưng chẳng thể đến ngay chỗ Phật Vô Lượng Thọ mà chỉ ở trong thành bảy báu nơi biên địa của cõi Phật. Phật chẳng hề tạo ra như vậy nhưng do thân hạnh đã tạo [của hành nhân] nên tâm tự hướng đến [nơi ấy].

[Biên địa] cũng có ao báu, tự nhiên thọ thân trong hoa sen; thức ăn uống, các thứ khoái lạc như trên trời Ðao Lợi. Ở trong thành ấy, chẳng ra ngoài được. Nhà cửa ở ngay trên mặt đất, chẳng thể lớn nhỏ tùy ý muốn. Trong năm trăm kiếp, thường chẳng thấy Phật, chẳng nghe kinh pháp, chẳng thấy Bồ Tát, Thanh Văn thánh chúng.

Người ấy trí huệ chẳng sáng suốt, biết kinh càng ít hơn nữa. Tâm chẳng khai giải, ý chẳng vui sướng. Bởi thế, gọi đó là thai sanh.

Giải: Chữ ‘những người này’ chỉ hai loại người vãng sanh về biên địa đã nói ở trên.

‘Do nhân duyên ấy’ là do cái nhân tu thiện niệm Phật, phát nguyện cầu sanh nên cảm được chốn Biên Ðịa cõi Cực Lạc, sống trong cung điện bảy báu, ao báu, hoa sen, vui thú như ở trên trời Ðao Lợi và hưởng cái quả bất thối. Nhưng vì phạm lỗi nghi hoặc nên phải cảm lấy cái quả ‘chỉ ở nơi biên địa của cõi Phật’, sống trong nghi thành chẳng thoát ra được. Trong năm trăm kiếp chẳng được thấy nghe Tam Bảo.

Những điều như thế đều chỉ là do tâm tạo, do nghiệp lực dắt dẫn nên Phật bảo: ‘Phật chẳng hề tạo ra như vậy nhưng do thân hạnh đã tạo [của hành nhân] nên tâm tự hướng đến [nơi ấy]’. Ðây chính là điều kinh Hoa Nghiêm đã dạy: ‘Nên quán pháp giới tánh, hết thảy chỉ là do tâm tạo’. Ấy là vì tâm sanh thì các pháp sanh: địa ngục, thiên đường hay Tịnh Ðộ đều chỉ do tâm biến hiện. Thân mình hướng đến đâu cũng đều do nghiệp lực của chính mình lôi kéo. Nghiệp do tâm sanh nên bảo là ‘tâm tự hướng đến’.

Sanh trong biên địa cũng ‘tự nhiên thọ thân trong ao hoa sen báu’ nên chẳng phải là kiểu thai sanh như trong thế gian mà thật sự là liên hoa hóa sanh. Sanh sống khoái lạc như ‘trời Ðao Lợi’, nhưng ở miết trong ấy chẳng ra được ngoài. Chốn họ cư ngụ là ngay trên mặt đất, chẳng thể thăng lên hư không; nhà cửa cũng chẳng thể tùy ý hóa ra cao và to theo ý muốn.

Ðiều tệ nhất là trong cả năm trăm năm chẳng được thấy Phật, nghe pháp. Về ‘năm trăm năm’, bản Hán dịch chép rõ là ‘năm trăm năm trong cõi này’. Kinh chép ‘cõi này’ chứ không ghi là ‘cõi kia’, nên chữ ‘cõi này’ phải là cõi đức Thế Tôn đang thuyết pháp (tức là cõi Sa Bà). Vì lẽ đó, ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Năm trăm năm là số năm trong thế gian này’, nghĩa là con số năm trăm năm vừa nói đó là năm trăm năm so với kiếp sống con người hiện tại.Nhưng ta chẳng thể chấp nhất định rằng năm trăm ấy chính là năm trăm năm trong cõi trần gian này bởi vì phẩm số trong Cực Lạc là vô lượng nên phẩm số trong cõi Biên Ðịa cũng sai biệt vô lượng. Chẳng hạn như trong Quán kinh bảo trung phẩm hạ sanh thì ‘ở trong hoa sen trọn mười hai đại kiếp thì hoa sen mới nở’. Ðấy là cả một thời gian dài.

Trích lục
Chú Giải Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
Vận Thành Hạ Liên Cư hội tập – Hoàng Niệm Tổ chú giải – Như Hòa dịch Việt

Bản Nguyện Niệm Phật

Bản Nguyện Niệm PhậtTôi học Phật đến nay cũng đã lâu, tuy nhiên cũng đã từng đi trợ niệm người lâm chung! Lúc đối diện với người qua đời thường khiến cho người ta nhớ đến mấy câu thơ:

Ngã kiến tha nhân tử
Ngã tâm nhiệt như hỏa
Bất thị nhiệt tha nhân
Khán khán luân đáo ngã.

Ta thấy người khác chết
Tâm ta như lửa đốt
Chẳng phải đốt người khác
Nhìn lại tới phiên ta.

Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật. Nhưng lúc bình thường người không có tín tâm niệm Phật thì một khi đến lúc lâm chung làm sao có tín tâm niệm Phật vãng sanh? Đến lúc ấy, thật rất cần thiện tri thức đến ‘khuyến tín’, đến ‘trợ niệm’! Hoặc thân trung ấm trong giây phút ấy được Phật A-di-đà cứu độ! (Nhưng lại không có bảo chứng!?)

Trong xã hội hiện tại có nhiều cái chết không lường trước được như động đất, lũ lụt, hỏa hoạn, tai nạn máy bay, tai nạn xe cộ, giặc cướp, bệnh hoạn… đâu biết ‘vô thường’ lúc nào tới gõ cửa, điều này ai cũng cảm biết! Một mai hơi thở không hít vào thì mọi việc đều chẳng phải do ta có thể khống chế! Có thể nào nhất định nhờ được người khác ‘trợ niệm’ chăng! Vì thế lúc bình thường cần phải chuẩn bị trước mới tốt, nghĩa là có tín tâm chân thật đối với bản nguyện danh hiệu Phật A-di-đà. Đây mới là việc trọng yếu hơn hết trong một đời người!

Chúng ta là người học Phật đều biết Đức Thích Tôn đã từng truyền dạy tám muôn bốn nghìn pháp môn tu hành, nhưng vì sao đến lúc lâm chung mọi người thường đều vì người chết mà niệm tụng Nam Mô A Di Đà Phật, rất ít khi niệm thánh hiệu của Phật và Bồ-tát khác? Muốn hiểu rõ sự sâu mầu ở trong ấy, trước tiên cần phải xem trong Bát-chu tán do đại sư Thiện Đạo, tương truyền là hóa thân của Phật A-di-đà, có nói: “Các pháp môn có đến tám vạn bốn nghìn đều vì mục đích diệt nghiệp nhân vô minh, như thanh kiếm bén chính là danh hiệu Di-đà, xưng một tiếng danh hiệu Di-đà thì các tội đều tiêu trừ”. Lại nói các pháp môn bất đồng đều là tiệm giáo, phải trải qua muôn kiếp tu hành gian khổ mới ngộ Vô sanh”. Ngoài ra, chúng ta còn đối chiếu với lời của Liên Như thượng nhân: “Bỏ tâm tự lực của ‘tạp hạnh’, ‘tạp tu’ chỉ tin vào bản nguyện tha lực, nhất tâm cầu Phật A-di-đà cứu độ ta trong một đời này thoát khỏi luân hồi, vãng sanh thành Phật. Lúc phát khởi một niệm tín tâm, phải biết nhất định vãng sanh, nhất định được cứu độ! Từ nay về sau, hễ xưng danh hiệu Phật là vì muốn báo đáp ơn Phật mà hoan hỷ xưng niệm…” Qua đoạn văn trên, chúng ta biết các lời dạy của các vị Tổ sư trong tông Tịnh Độ đều là một mạch tương thông! Tóm lại ý nghĩa là: Hễ chẳng phải hạnh trực tiếp vãng sanh thì biến thành ‘tạp hạnh’, ‘tạp hạnh’ cũng chỉ cho tám muôn bốn nghìn pháp môn đều là một phương tiện giả lập! Từ lập trường của tông Tịnh Độ mà nói thì tám muôn bốn nghìn pháp môn là phương tiện (pháp môn giả tạm) vào tông Tịnh Độ. Nếu không có các ‘đạo khó hành’ của ‘Thánh đạo môn’ để so sánh thì chẳng biết sự đặc biệt thù thắng của pháp môn hoằng nguyện là ‘đạo dễ hành’. Phàm phu thường có thói quen ‘ngã chấp’ nên đều thích lấy tự lực tu hành để thể chứng. Nhưng sự thật tám muôn bốn nghìn pháp môn khó hành, khó chứng, lại học cũng chẳng thành tựu, lúc ấy mới chịu buông bỏ thân tâm, quay đầu trở lại hướng vào trong biển đại nguyện Di-đà (đạo dễ hành). Phàm phu cực khổ tu hành ‘đạo khó hành’ mới biết mình làm không nổi, cũng không tu nổi; đương lúc tuyệt vọng, hồi tâm chuyển ý, mới biết chỉ có dựa vào sức bản nguyện của Phật A-di-đà mới được cứu độ (ví như bảng đen cần phải dùng phấn trắng để viết chữ thì mới thấy chữ rõ ràng). Cho nên ‘đạo khó hành’ cũng là ‘lót đường’, cũng là ‘mở đường’ cho ‘đạo dễ hành’.

Kỳ thật, mục đích tu trì tám muôn bốn nghìn pháp môn đều vì phá vọng chứng chân, diệt trừ nhân quả vô minh ‘tam tế lục thô’ từ vô thủy đến nay, nhưng phàm phu dùng tự lực tu hành lại không chứng nổi. Vì thế, Phật A-di-đà đại từ đại bi muốn hồi hướng bản nguyện do Ngài tu hành khổ hạnh khó hành từ nhiều kiếp mới được thành tựu ban cho chúng ta để diệt trừ nghiệp nhân nghiệp quả của vô minh, ban cho chúng ta bản nguyện danh hiệu phá tan tăm tối vô minh, viên mãn đại nguyện thành Phật. ‘Như một ngọn đèn đốt lên thì phá tan bóng tối của vạn năm’. “Một câu xưng niệm danh hiệu Phật trừ diệt được tất cả tội” biểu thị tội nghiệp từ vô thủy đến nay chẳng làm chướng ngại việc vãng sanh của người tu pháp niệm Phật. A-di-đà Phật có đủ sức đại công đức diệt trừ tội chướng cho chúng sanh, có đại nguyện lực đưa chúng ta vãng sanh thành Phật, vì thế Ngài mới có thể thành Phật! Thế nên, người có lòng tin nơi Phật thì một phen thấy Phật A-di-đà, một phen niệm danh hiệu Phật A-di-đà thì cảm nhận đã được cứu độ, đã được quyết định vãng sanh (việc này do Phật quyết định). Đương nhiên muốn có được sự cảm nhận này và lòng tin hoan hỷ thật sự được cứu độ thì cần phải hết sức tín nguyện thì mới có kết quả.

Cần phải nói rõ thêm, tám muôn bốn nghìn pháp môn đều là đạo khó hành, khó tiến tới mà dễ thoái lui, là ‘nhân hạnh’, là pháp tu chưa hoàn hảo. Danh hiệu Di-đà là ‘quả đức’, là quả giác ngộ đã hoàn thành! Tu trì tám muôn bốn nghìn pháp môn muốn thành Phật thì đều phải từ chứng quả vị A-la-hán trở lên mới tính, hoàn tất phải mất ba đại a-tăng-kỳ kiếp mới có thể tu thành Phật quả viên mãn! Nhưng người tu Tịnh Độ nhận lấy và thâm nhập một câu bản nguyện danh hiệu thì có thể vượt qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp đi vãng sanh làm Phật, đây tức là hàm ý của câu “Một niệm vượt ba a-tăng-kỳ kiếp”. Đây thật là đại nguyện đại hạnh ‘biệt dị hoằng nguyện’ viên đốn, viên siêu!

Do đó đủ biết công đức (nhân hạnh) của tám vạn bốn nghìn pháp môn không thể nào sánh được với công đức của bản nguyện danh hiệu (quả đức). Do đó chúng ta nên vâng theo lời khuyên của Đại sư Thiện Đạo tu hành pháp môn có duyên với chúng ta, ít tốn công mà được nhiều lợi ích. Chỉ cần học cho tốt pháp môn tha lực bản nguyện niệm Phật, trước tiên cần phải bỏ tâm tự lực ‘tạp hạnh’ và ‘tạp tu’[1], chẳng những ‘tạp tu’ nghĩa là tự lực tu hành tám vạn bốn nghìn pháp môn cần phải xả bỏ mà ngay cả tâm tự lực niệm Phật[2] cũng phải xả bỏ! Chỉ hoàn toàn nương tựa vào bản nguyện danh hiệu của từ phụ A-di-đà mới có thể vãng sanh vào báo độ chân thật.

Phải biết danh hiệu này là do bản nguyện “Nếu chẳng được sanh thì ta không ở ngôi Chánh giác” mà thành tựu, là Nam-mô A-di-đà Phật ‘vãng sanh chánh giác, cơ pháp nhất thể thành tựu’, cho nên biết câu danh hiệu này là do Phật lực thành tựu, cũng là Phật lực hồi hướng cho chúng ta, cũng là pháp thể tuyệt đối tha lực cứu độ tất cả chúng sanh. Vì thế, nếu chẳng xả bỏ tự lực mà muốn thật sự có được tín tâm tha lực (tín tâm quyết định) vãng sanh báo độ thì không thể nào được! Vì ‘tín tâm quyết định’ chẳng phải là lấy tín tâm do tự lực của phàm phu phát khởi làm bản vị! Vì tâm của phàm phu là vọng tâm sanh diệt, không có thật thể! Vọng tâm của phàm phu chỉ thành cái ‘nhân’ của luân hồi, chẳng thể nào biến thành cái ‘nhân’ vãng sanh Tịnh Độ! Nhưng một mai lãnh thọ đại bi cứu độ của Phật A-di-đà, tiếp nhận ‘pháp môn tha lực niệm Phật’[3]. Tâm phàm phu có được tín tâm tha lực (Phật và phàm phu đồng một thể) liền biến thành cái nhân chân thật vãng sanh! Đây là do sáu chữ danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật là ‘chân như’ từ trong Phật quả sanh khởi, có sức công đức chân thật tự nhiên vận dụng độ chúng sanh! Đây tức là công đức vô thượng của ‘danh hiệu độc vận’[4]. Đúng như đại sư Liên Trì nói: “Di-đà chính là vạn đức hồng danh, danh hiệu vừa xưng niệm thì vạn đức đều tròn đầy, chẳng cầu phước mà phước tự đầy đủ”.

Nhưng người tu hành nếu đem ‘tạp hạnh’, ‘tạp tín’ của tám muôn bốn nghìn pháp môn thêm vào trong công đức ‘bản nguyện danh hiệu’ thì biến thành ‘nghi hoặc Phật trí’ (chẳng dám toàn tin, toàn nương tựa bản nguyện Phật). Như vậy thì chẳng tương ưng với sức bản nguyện của Phật. Dùng tâm nghi ngờ này dù nỗ lực niệm Phật như thế nào đi nữa, cao nhất chỉ vãng sanh vào ‘hóa độ’, đợi đến chừng nào người này tiêu hết ‘tội nghi Phật’ thì mới được chuyển vào báo độ chân thật. Từ những phân tích kể trên, chúng ta mới biết vì sao pháp môn bản nguyện phải cực lực chủ trương xả bỏ tâm tự lực của ‘tạp hạnh’ và ‘tạp tu’? Vì phàm phu thời mạt pháp tu tám muôn bốn nghìn pháp môn khó thành tựu, chẳng thể thoát sanh tử, vẫn không có cách ra khỏi sanh tử luân hồi, cho nên cần phải xả bỏ! ‘Xả tạp nhập chuyên’ nương vào sức bản nguyện của Phật mà vượt qua biển cả sanh tử, đây mới là người sáng suốt ‘khế cơ’, ‘khế lý’, là người chắc chắn có nhiều phước báo!

Đạo lý ‘xả tạp nhập chuyên’ này cũng giống như ăn quýt trước tiên phải lột bỏ vỏ sau đó mới ăn múi ngọt. Tâm tự lực tu ‘tạp hạnh’ và ‘tạp tu’ là ‘vọng’, là ‘vỏ’, là cái nhân luân hồi vì thế cần phải xả bỏ. Bản nguyện danh hiệu là ‘chân như’ là ‘múi quýt’ cần phải đem hết thân tâm nhận lấy nghĩa là lấy quả địa giác làm tâm nhân địa của chúng ta. Muốn chứng nhập ‘chân’ trước tiên cần phải xả bỏ ‘vọng’!

Hiện nay người học Phật thường đem ‘học giải’ và ‘học hạnh’ hỗn hợp với nhau, cần phải biết nếu muốn ‘học giải’ thì phải như là đại sư Thiện Đạo nói: Tất cả giáo điển từ phàm tới thánh cho đến Phật quả đều phải học tức là nói giáo môn, giáo tướng, giáo pháp đều có thể học, đều nên nhận thức. Nhưng muốn thoát sanh tử thì cần phải chuyên tu một môn mà ‘học hạnh’. Nhưng ‘học hạnh’ như đại sư Thiện Đạo khuyên ‘cần phải ít tốn công mà được nhiều lợi ích’ tức là chỉ cho pháp môn bản nguyện niệm Phật, pháp niệm Phật vãng sanh thành Phật. Nhân vì thời kỳ mạt pháp, mạng người ngắn ngủi cũng không biết chết vào lúc nào, cho nên muốn giải quyết việc lớn sanh tử cho đến thành Phật thì cần phải chọn một pháp thích hợp với căn cơ của chính mình, pháp này phải ‘ít tốn công mà được nhiều lợi ích’, chọn pháp một đời có thể thành tựu mà tu mới thì có thể thỏa mãn đại nguyện thoát sanh tử cho đến thành Phật của chúng ta. Do đây đủ biết, chẳng nên đem sự ‘học giải’ cầu tri giải tất cả sự tướng sự lý lẫn lộn với pháp ‘học hạnh’ liễu thoát sanh tử mà luận, rồi cho rằng cần phải có tri giải rất nhiều tức là cần phải đồng thời ‘kiêm tu’ rất nhiều pháp mới có thể liễu thoát sanh tử. Đây là người chẳng biết ‘Di-đà bản nguyện’ là pháp đặc biệt. Ví như bạn muốn học trồng lúa đương nhiên phải biết thời tiết, đất đai, hạt giống, phân bón v.v… các điều đó thuộc về tri giải cần phải ‘học’, nhưng một người đang đói sắp chết, bạn lại đem lý thuyết trồng lúa nói cho người ấy nghe thì không được rồi! Không có cơm ăn, phải đợi hiểu rõ về tri thức trồng lúa. Như người này chỉ cần ăn một chén cơm thì có thể no bụng, điều đó mới xứng đáng với nỗi khổ tâm của người trồng lúa, thì đâu phải là đến nỗi chết đói? Chúng ta đang là người ở trong thời mạt pháp, là người tội nặng không biết phải bị chết lúc nào. Nếu thọ mạng dài lâu muốn học hiểu tất cả giáo pháp thì còn có thể được, nhưng muốn liễu thoát sanh tử thì lại giống như ‘ăn cơm’, chỉ cần một pháp (ăn cơm) thì giải quyết được ‘bệnh chết đói’ của ‘sanh tử’. Đương nhiên ‘ăn cơm trị bệnh đói’ không thể đánh đồng với công đức cứu độ của ‘danh hiệu bản nguyện của Phật’. Chỉ vì muốn cho người học dễ hiểu nên bất đắc dĩ phải lấy thí dụ trong sinh hoạt thường ngày để so sánh, nhờ đó mới biết được thâm ý Đức Phật trong kinh Vô Lượng Thọ muốn chúng ta ‘nhất hướng niệm Phật’.

Phải biết ‘ Học rộng vốn vì muốn thâm nhập giáo pháp, còn chuyên tu thì lập tức tổng trì tất cả giáo pháp’. Đương nhiên muốn hiểu nghĩa ‘tha lực niệm Phật vãng sanh’ thì có thể học ba kinh một luận[5] để biết, biết thô thiển cũng được! Nếu cho rằng nhất định phải học rộng các pháp thì tất cả bọn phàm phu ngu si không có hy vọng. Vì thế đừng ham tri giải mà bỏ phế thời gian ‘nhất hướng xưng danh’, cho nên cần phải tin sâu ‘phàm phu sanh tử tội ác nương bản nguyện Di-đà, dù niệm mười tiếng hay một tiếng đều được vãng sanh’ Giải hạnh như vậy mới là giải hạnh chân thật của người tu ‘bản nguyện niệm Phật’.

Tổ sư Ấn Quang cũng có nói: “ Ở thế gian có người háo thắng cầu cao, thường nói đến tự lực, xem thường Phật lực mà họ chẳng biết từ lúc sanh ra cho đến lúc chết, không có một việc gì chẳng nhờ cậy sức của người khác, vậy mà họ chẳng lấy đó làm hổ thẹn, chứ đâu riêng gì một việc lớn liễu thoát sanh tử mà không chịu thừa nhận Phật lực. Sao lại táng tâm ngông cuồng đến thế! Hành giả Tịnh tông cần phải thống thiết răn dè”. Đồng thời Tổ sư Ấn Quang cũng chỉ rõ: “Xưa nay có nhiều người y cứ pháp môn thông đồ (Thánh đạo môn) để luận về pháp môn Tịnh Độ, do đó mà tự mình lầm, còn làm lầm người khác, rồi tự cho là hoằng pháp lợi sanh, loại người này nhiều không kể xiết! Điểm sai lầm bắt đầu từ chẳng chịu xét sự lớn nhỏ, khó dễ giữa Phật lực và tự lực. Cố dẫn pháp môn thông đồ cậy tự lưc để bình luận pháp môn đặc biệt nương Phật lực, cho nên đưa đến sự sai lầm này. Nếu biết Phật lực bất khả tư nghị không thể dùng sức tu trì của phàm phu có đủ thứ trói buộc để bình luận thì tất cả tâm nghi hoặc bất tín ấy biến mất”. Từ những lời khai thị kể trên của tổ sư Ấn Quang mà biết ‘đoạn nghi sanh tín’ là quan trọng hơn hết đối với hành giả tu ‘bản nguyện thành Phật’. Hiện nay, nhiều người học Tịnh tông chưa thể nắm vững yếu chỉ của Tịnh tông là ‘tại đoạn nghi sanh tín, chứ chẳng tại công phu niệm Phật’, ‘tại tin sâu quyết định vãng sanh chứ chẳng tại phương pháp niệm Phật’. Vì thế, nghe pháp cốt sanh tín mà lại xả bỏ ‘đoạn nghi sanh tín’; trái lại chấp lấy tự lực niệm Phật phục đoạn phiền não. Dùng tâm tự lực tu pháp tha lực, dùng pháp thông đồ để tu pháp đặc biệt, thật là rất trái ngược với bản ý phát nguyện của Phật Di-đà, lại càng trái với bản hoài Phật lực bình đẳng từ bi cứu độ chúng sanh ở khắp mười phương. Hiện đời dù có được chút ít nhưng tổn thất thì rất lớn. Thật đáng tiếc thay!

Những điều phân tích ở trên cốt trông mong chúng ta đem hết sinh mạng hữu hạn vô thường này hướng vào trong biển bản nguyện của Phật A-di-đà để đạt đến vô lượng quang, vô lượng thọ thì mới thật sự không luống uổng một đời này.

Định Huệ dịch
(Dịch từ bài tiểu luận của Huy Trân trong Hồi Quy Thiện Đạo Hoằng Nguyện Tịnh Độ Tư Tưởng)

[1] Người tạp hạnh, tạp tu là người tự lực kiêm tha lực, nhờ chư Phật Bồ-tát gia trì chỉ có chút cảm ứng là tạm thời tiêu tai, thoát nạn… giúp cho thêm phước thêm thọ, nhưng không thể thoát khỏi sanh tử luân hồi, thì làm sao có thể vãng sanh thành Phật? Vì thế nên cần phải xả bỏ!

[2] Người tự lực niệm Phật thường thường tự lực kiêm tha lực niệm Phật, sau đó hồi hướng Tịnh Độ, cầu lúc lâm chung Phật đến tiếp dẫn, hiện đời không bảo chứng, một đời không an tâm vì thế vẫn chẳng viên mãn.

[3] Pháp môn tha lực niệm Phật là pháp môn do A-di-đà Phật sáng lập dùng Phật lực (quang minh và danh hiệu) trực tiếp cứu độ chúng sanh cũng là pháp môn bản nguyện niệm Phật, hoằng nguyện niệm Phật. Ngày nay chúng ta tin được, niệm được thì được thành Phật độ chúng sanh, hoàn toàn là nhờ Phật lực giúp cho chúng ta thành tựu.

[4] Danh hiệu độc vận là bản nguyện danh hiệu của danh thể nhất trí, lý sự vô ngại là từ pháp thể trong bổn tánh chân như của Phật phát khởi để độ chúng sanh, có sức công đức chân thật đương nhiên sẽ độc tự vận tác cứu độ chúng sanh. Đó là ‘A-di-đà Phật là pháp giới thân vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh’. Sức công đức của danh hiệu này có năng lực khiến chúng ta tin, khiến chúng ta niệm Phật, khiến chúng ta vãng sanh thành Phật độ chúng sanh, đều là pháp nhĩ vận tác một cách tự nhiên, đều là do Phật lực mà được thành tựu.

[5] Ba kinh một luận: Ba kinh là 1. Vô Lượng Thọ kinh 2. Phật thuyết A-di-đà kinh, 3. Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh. Một luận là Vãng Sanh luận của bồ-tát Thế Thân.

Phàm Phu Vãng Sanh Có Được Thượng Phẩm?

Phàm Phu Vãng Sanh Có Được Thượng Phẩm?Phàm phu có được dự phần vào bậc thượng vãng sanh hay không là một vấn nạn lớn trong Tịnh tông. Cổ đức có vị bảo đây là hạnh Bồ Tát (như có thuyết bảo thượng thượng phẩm phải là Bồ Tát từ Tứ Ðịa đến Thất Ðịa, thượng trung phẩm phải là từ Sơ Ðịa đến Tứ Ðịa Bồ Tát; các phẩm khác cứ theo đó mà suy. Phàm phu chỉ có thể đạt từ trung phẩm trung sanh trở xuống mà thôi!). Nếu thật như vậy thì đại nguyện vô thượng của Phật Di Ðà, cõi sen Tây Phương độc diệu, pháp môn trì danh dễ hành, diệu pháp vãng sanh thù thắng đều thành hý luận, khiến cho diệu pháp Tịnh tông chẳng thể nghĩ bàn lại thành ra pháp có thể nghĩ bàn nổi ư! Vì vậy, đây chính là một điều cốt lõi của Tịnh Tông; trong phần khái yếu của bản chú giải này tôi đã tạm bàn đôi điều nhưng chưa giãi bày hết nổi ý chỉ này nên ở đây tôi lại thử trình bày rõ hơn.

Với cái sai lầm của cổ thuyết, chúng ta may mắn có được đại sư Thiện Ðạo đời Ðường. Ngài đã dẫn đủ các kinh luận để cực lực đả phá cựu thuyết. Trong Tứ Thiếp Sớ, đại sư đã luận như sau:

Lại xem phần Ðịnh Thiện trong Quán kinh và ý nghĩa kinh văn ba bậc thượng, trung, hạ thì toàn là sau khi đức Phật nhập diệt, phàm phu ngũ trược chỉ do gặp duyên sai khác nên đến nỗi có chín phẩm sai biệt. Vì sao? Người trong ba phẩm trên là phàm phu gặp duyên Ðại Thừa. Người trong ba phẩm giữa là phàm phu gặp duyên Tiểu Thừa. Người trong ba phẩm hạ là phàm phu ngu ác, ác nghiệp, lúc lâm chung nhờ bạn lành, nương nguyện lực của Phật bèn được vãng sanh; đến khi hoa kia nở thì mới phát tâm, chứ phải đâu là người mới học Ðại Thừa (cổ đức bảo bậc hạ là người mới học Ðại Thừa). Nếu hiểu như thế thì mình lầm, làm người khác lầm, tai hại quá sức!’.

Trong bản sớ giải, ngài còn dẫn mười đoạn Quán kinh để chứng minh luận thuyết ấy, ở đây tôi không trích dẫn đủ. Chín phẩm đài sen cõi Cực Lạc đều là nơi để phàm phu đời trược vãng sanh, chỉ do người đời gặp duyên có Ðại Thừa, Tiểu Thừa sai khác nên sau khi vãng sanh bèn có bậc thượng, bậc trung, bậc hạ bất đồng.

Tịnh tông là giáo pháp tối cực viên đốn. Nếu phàm phu thuộc căn khí Ðại Thừa tin nhận được nổi thì sẽ giải ngộ trọn vẹn, tu chứng trọn vẹn thì sẽ vượt xa thường nhân cả kiếp (người căn cơ viên đốn tu một ngày bằng thường nhân tu một kiếp). Do đó, họ có thể ngay trong một đời công hạnh viên mãn chứng ngay thượng phẩm.

Nay với bản kinh này, tôi dùng các luận khác để chứng minh ba bậc vãng sanh thật sự là vì phàm phu mà chỉ kiêm vì thánh nhân:

* Phẩm Quyết Thành Chánh Giác trong kinh này có những câu kệ như sau:

Khiến các quần sanh ấy, đêm dài không ưu não, xuất sanh các thiện căn, thành tựu Bồ Ðề quả. Nếu tôi thành Chánh Giác, lập hiệu Vô Lượng Thọ. Chúng sanh nghe hiệu ấy, đều sanh trong nước tôi, thân sắc vàng như Phật, diệu tướng đều viên mãn.’

Bốn câu đầu nói lên nguyên do phát khởi đại nguyện: muốn cho hết thảy chúng sanh trong đêm dài tăm tối được lìa các ưu bi khổ não, xuất sanh căn lành thành tựu Bồ Ðề. Ta thấy rõ ngài thật sự muốn cứu tế khắp hết thảy những phàm phu đầy rẫy phiền não còn trong đêm dài tăm tối, khiến cho họ phát sanh thiện căn.

Bốn câu kệ kế tiếp nói đến pháp ngài dùng để phổ độ: ‘Chúng sanh nghe danh sanh trong nước ta.’ Các chúng sanh ấy cũng chính là quần sanh còn trong đêm dài ưu não. Bởi vậy, Thiện Ðạo đại sư mới bảo: ‘Ba bậc chín phẩm toàn là vì bọn phàm phu ngũ trược sau khi Phật nhập diệt’.

Hai câu kệ cuối cùng: ‘Thân sắc vàng như Phật, diệu tướng đều viên mãn’ cho thấy phàm phu ưu não một khi đã sanh cõi kia thì đều được chơn thân kim sắc, diệu tướng viên mãn đầy đủ giống như Phật.’

Tiếp đó, kinh còn nói: ‘Cũng dùng tâm đại bi, lợi ích các quần phẩm. Ly dục, chánh niệm sâu, tịnh huệ tu phạm hạnh’, ý nói: những người vãng sanh khi hoa nở thấy Phật, thân tâm thanh tịnh ngay, trí huệ bén nhạy, đại bi vô lượng, tự giác, giác tha thành tựu Bồ Ðề. Ðấy đều là do sức oai thần, sức bổn nguyện, nguyện trọn đủ, nguyện rõ ràng, kiên cố, rốt ráo của A Di Ðà Phật nên mới có thể khiến cho phàm phu trong đêm dài ưu não đắc trí huệ thanh tịnh, thân tâm như Phật.

Rõ ràng là phàm phu mang tâm Ðại Thừa trong cõi này được Phật gia bị bèn vãng sanh trong thượng phẩm, đắc Vô Sanh Nhẫn thì có chi là lạ? Ngay câu đầu trong bài kệ tụng phát nguyện, tỳ kheo Pháp Tạng đã bảo:‘Tôi lập siêu thế chí’; những điều vừa nói trên chính là chỗ siêu thế, lẽ nào lại đem thói thường của mười phương để luận bàn phẩm vị cõi Cực Lạc ư?

Trích lục
Chú Giải Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiệm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác
Vận Thành Hạ Liên Cư hội tập
Hoàng Niệm Tổ chú giải
Như Hòa dịch Việt

Không Phát Tâm Bồ Đề Không Vãng Sanh

Không Phát Tâm Bồ Đề Không Vãng SanhNiệm Phật mà không phát lòng Bồ Đề, thì không tương ứng với bổn nguyện của Đức A Di Đà Phật, tất khó được vãng sanh, thành tựu sở nguyện. Lòng Bồ Đề là tâm lợi mình, lợi người, trên cầu thành quả Phật, dưới nguyện độ chúng sanh “thượng cầu hạ hoá”, tế khổ quần mê.

Tuy phát lòng Bồ Đề mà không chuyên trì niệm Phật, không thành nhất phiến, thì không được vãng sanh. Nên các liên hữu cần phải lấy sự phát lòng Bồ Đề làm chánh nhân, niệm danh hiệu Phật làm trợ duyên, rồi sau mới cầu sanh Tịnh Độ. Người tu tịnh nghiệp (tu pháp niệm Phật) cần phải hiểu biết điều nầy thật sâu rộng, cần thiết phải vừa tu niệm vừa nghiên cứu nghiêm tầm giáo lý pháp môn tu càng thêm hiệu quả.

Trong đời mạt pháp, người phát tâm tu niệm Phật, vẫn có nghiệp trần dấy động, ma sự nhiễu dương, nguyên do bởi ba nguyên nhân : không rõ giáo lý, ít học kinh điển, nhất là pháp môn tu; không nhất tâm tìm cầu, phát tâm tu cho lấy lệ, để được ca tụng tán thán là Đại Sư Tịnh Độ, chỉ nghiên cứu xem chừng năm ba câu pháp, vội cho là người tu của pháp môn niệm Phật, do ngã mạn, nên không gặp thầy lành bạn sáng; thiếu tự tin, xem lại những hành động không tốt của mình, hay thích nói lỗi người, khoe khoang điều tốt của mình, hay chê Tông phái nầy khen Tông phái nọ, rốt cuộc mình không tu được ở đâu, ai nói hay cũng được, nói quấy cũng xong; họ có tu hành gì đâu mà nói hay nói quấy, biết gì mà nhận định, cuộc đời tu của họ không lúc nào tự soi xét lại chính mình, xem mình đã làm được gì, tu được gì, làm được gì cho Thầy Tổ, cho pháp môn, cho Phật pháp?

Với ba điều trên, sự tự xét chỗ sai lầm của chính mình là điều mà người liên hữu Tịnh Độ rất cần thiết trong lúc thực tập, hành pháp. Đại để muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, không phải dùng chút phước lành, chút công đức lơ là là được; muốn thoát sự khổ sống chếtn luân hồi trong muôn vạn kiếp, không phải dùng tâm dần dà, hẹn hò, hứ khả, rồi lo rong chơi du hý, không lo tự cảnh tỉnh, trở về với cuộc sống hiện thực để có cơ hội tìm cầu giải thoát, vãng sanh Tây phương theo sở nguyện ban đầu! Họ đâu rõ chiếc bóng vô thường cô liu lặng lẽ, mới sớm mai thấy đó, rồi hoàng hôn phủ mất đó, đâu nên không siêng năng lo dự phòng giữ tịnh tâm gìn chánh niệm trước ư?

Còn e sức chí nguyện không thắng nổi sức tình ái trong tam giới buộc ràng. Lúc bấy giờ tâm niệm Phật không hơn nổi tâm dục trần, như những kẻ niệm Phật, tu nhơn hạnh kém, lơ là biếng trể, nữa tin nữa nghi ngờ pháp Phật, thì ta cũng đành không biết làm sao vậy.

Đại Sư có bài kệ khuyến tấn :
Nam Mô A Di Đà,
Người nào không biết niệm?
Tuy niệm, chẳng tương ưng
Mẹ con khó hội kiến
Khi đi đứng ngồi nằm
Đem tâm nầy thúc liễm
Mỗi niệm nối tiếp nhau
Niệm lâu thành nhứt phiến
Như thế, niệm Di Đà
Di Đà tự nhiên hiện
Quyết định sanh Tây phương
Trọn đời không thối chuyển

Niệm Phật cần phải có niềm tin sâu nguyện thiết, như Đại Sư Tĩnh Am từng khuyến tấn : đi đứng nằm ngồi luôn gìn chánh niệm, hoặc kiết thất thực tập thúc liễm thân tâm, hoặc kinh hành vào đại định, lực Phật gia trì thành nhứt phiến, như kim cang bền chắc, một đời không thối chuyển, niềm tin yêu pháp môn, lục độ vạn hạnh ảnh hiện, lợi ích khắp mười phương, chúng sanh nương nhờ oai đức, làm bạn thánh hiền, dự hội hải chúng liên trì nơi thế giới Tây phương mầu nhiệm.

Tĩnh Am Đại Sư khai thị