Tại sao phải hành sám hối? Tôi nhận thức rằng muốn nghĩ đến vãng sanh Tịnh Độ cần phải sám hối trước, phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật. Chỉ có sám hối nghiệp chướng của mình thề không tái tạo, mới được vãng sanh.
Tại sao không thoát ra khỏi tam giới? Vì từ vô số kiếp đến nay, không nhận thức được tội chướng vô lượng vô biên của mình. Những điều tội chướng này đến từ đâu? Nguyên nhân từ đời trước hoặc từ lâu đời đến nay cùng chúng sanh có sự ràng buộc và tranh chấp với nhau đọc tiếp ➝
Ða số chúng ta đây đều biết, Phật có tướng hảo quang minh, Ma cũng có tướng hảo quang minh. Phước báo của Phật vô cùng to lớn, phước báo của Ma cũng không kém. Phật có hào quang kim sắc của Phật nhu hòa khiến cho chúng ta mỗi khi tiếp xúc đều có cảm giác nhẹ nhàng tươi mát, an ổn, vui vẻ, tự tại. Ma cũng có hào quang kim sắc, nhưng dưới ánh sáng chói lọi của Ma, con người sẽ cảm thấy sợ hãi không yên.
Tóm lại, hào quang của Ma so với hào quang của Phật không có khác, chỉ khác ở chỗ sau khi con người tiếp xúc rồi có những cảm giác hoàn toàn trái ngược nhau.
Làm thế nào để tránh khỏi ánh sáng của Ma? Không bị Ma tổn hại? Ðiều này hết sức quan trọng, quý vị không thể hiểu rõ. Phương pháp hữu hiệu nhất để đối phó:
Quý vị phải luôn giữ Chánh Niệm. Khi giữ được chánh niệm, chẳng những Ma không thể làm tổn hại, ngược lại sanh lòng tôn kính và hộ pháp.
Khi xưa, đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi thị hiện tám tướng thành đạo, Ma Ba Tuần liền đến và dùng đủ mọi thủ đoạn uy hiếp cản trở. Ðức Thế Tôn chánh niệm phân minh, như như bất động.
Sau cùng Ma không còn cách nào để phá hại nữa, nên sanh lòng tôn kính, bái phục, nguyện làm hộ pháp cho Ngài. Do đó tâm niệm của chúng ta cần phải tương ưng với Giới – Ðịnh – Huệ, ba môn học, đây là phương thức quan trọng nhất để đối trị với sức cản trở, lay động của Ma.
Những người nào dễ bị Ma làm tổn thương nhất?
Xã hội ngày nay, những người tu học Phật pháp, đặc biệt là giới thanh niên, bị nhập Ma rất nhiều. Những ai thích có thần thông, cảm ứng đều dễ bị kết duyên với Ma. Ma sẽ lợi dụng nhược điểm đó của quý vị đến lay động quấy phá. Cho nên người tu học Phật pháp trong thời đại này cần phải có cảnh giác cao độ.
Khi niệm Phật phải giữ tâm thật chân thật, không nên mong cầu cảm ứng. Trong kinh điển Phật dạy chúng ta như thế nào, chúng ta ngoan ngoãn làm theo. Ðiều gì Phật nói chúng ta không nên làm, chúng ta quyết định không làm.
Phật dạy chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thì chúng ta cầu sanh Tịnh Ðộ. Phật bảo chúng ta liễu sanh tử, thoát khỏi luân hồi, chúng ta tuyệt đối không luyến tiếc với lục đạo. Thuận theo lời chỉ dạy của Phật, Ma sẽ không làm gì được đối với chúng ta.
Giới trẻ ngày nay đa số vì muốn có thần thông, có cảm ứng, nhưng đâu ngờ đã tự mình làm hư hoại hết cả tương lai tốt đẹp của chính mình.
Thật là điều đáng tiếc vô cùng! Quý vị nên hết sức thận trọng, nhất là phải có sự cảnh tỉnh đối với con cháu, bà con quyến thuộc, bởi vì trong lúc quý vị khởi tâm mong cầu thần thông, cảm ứng, Ma liền có dịp giả hình dáng Bồ Tát, giả Phật Di Ðà đến mê hoặc và lừa gạt dẫn dắt quý vị đi theo. Nhiều vị đồng tu lo rằng: “Nhỡ khi lâm chung Ma giả Phật A Di Ðà đến rước thì sao? Nếu chúng ta không phân biệt được giữa Ma với Phật thì công phu niệm Phật nỗ lực tu hành bấy lâu sẽ chẳng còn!”
Ðối với điều này xin quý vị hãy yên tâm. Ma tuy lừa gạt người, nhưng nhất quyết chúng không thể giả dạng Bổn Tôn tức Phật A Di Ðà. Bởi vì Phật có Thần Hộ Pháp. Khi chúng ta phát tâm chân thật niệm Phật đều được các vị thần Hộ Pháp bảo hộ cho chúng ta, thần Hộ Pháp nhất quyết không dung thứ cho các loàii yêu ma quỷ quái giả mạo Bổn Tôn. Nếu chúng dám giả mạo sẽ bị tội nặng.
Ngược lại nếu chúng giả dạng các vị Phật khác đến gạt quý vị, chúng không phạm tội. Cho nên quý vị niệm Phật A Di Ðà, đến lúc lâm chung nhất định phải chờ Phật A Di Ðà đến tiếp dẫn. Nếu thấy Phật Thích Ca, Phật Dược Sư đến rước đó là Ma giả dạng đến lừa gạt.
Trong tình trạng như vậy, quý vị phải tập trung tinh thần, nhất hướng chuyên niệm hồng danh A Di Ðà Phật, và mặc nhiên không thèm để ý đến, tức thời những hình ảnh đó sẽ tự biến mất. Những kiến thức này hết sức quan trọng, quý vị nên lưu ý.
Người niệm Phật thỉnh thoảng mơ thấy Phật A Di Ðà, như vậy là công phu niệm Phật được cảm ứng. Nếu thường xuyên thấy Phật thì phải cẩn thận, coi chừng công phu không đúng hoặc có vấn đề.
Nhiều người hỏi: “Lúc mới niệm Phật tôi thường mơ thấy Phật A Di Ðà, tới nay, niệm Phật đã nhiều năm rồi, lại không hề thấy. Như vậy có phải tôi bị thối chuyển so với lúc ban đầu không?” Trả lời: “Cũng có thể thối chuyển”. Nếu không bị thối chuyển cũng không nên thường xuyên mơ thấy, thường xuyên mơ thấy là ma cảnh. Cho dù quả thật mơ thấy Phật cảnh hiện ra cũng không nên sanh tâm chấp trước, sanh tâm tham và vui mừng.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có chỉ dạy cho chúng ta phương pháp đối phó với ma cảnh như sau: “Khi gặp cảnh giới hiện ra, phải giữ tâm không để ý đến, không tìm hiểu sâu vào”.
Vì sao? Bởi vì khi Ma hiện ra có nghĩa là công phu của quý vị đã đạt tới mức khả quan, nếu không Ma cũng chẳng thèm tới để làm gì. Mục đích của chúng đến để chướng ngại, phá cho tan nát công phu tu tập và đạo tâm của quý vị.
Cho nên ý nghĩa câu hồng danh A Di Ðà Phật giúp chúng ta giữ tâm như như bất động trước Ma cảnh rất quan trọng và rất tương quan mật thiết với công phu tu tập của chúng ta.
Hỏi: Di Lặc Bồ Tát là bậc nhứt sanh bổ xứ, hiện ở cung trời Đâu Suất; Ngài sẽ kế vị đức Thích Ca mà thành Phật trong tương lai. Thiết tưởng chúng ta nên tu thượng phẩm thập thiện cầu sanh về nơi đó để được diện kiến Ngài.
Đợi đến khi Bồ Tát giáng thế thành Phật, ta cũng theo Ngài mà hạ sanh, trong ba hội Long Hoa tất sẽ được chứng thánh quả. Thế thì cần chi phải cầu sanh về Tây Phương Tịnh Độ?
Đáp: Cầu về Đâu Suất cũng có thể gọi là nghe đạo, thấy Phật, gần giống như cầu về Tây Phương. Nhưng nếu xét kỹ lại trong ấy có sự hơn kém rất xa. Xin kể ra hai việc để luận:
1. Dù chúng ta có tu thập thiện, chưa chắc đã được sanh về Đâu Suất. Vì Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: ”Hành giả phải tu các môn Tam Muội đi sâu vào chánh định, mới được sanh lên Nội Viện thiên cung”. Xét qua phương diện ấy, ta thấy Di Lặc Bồ Tát không có phương tiện tiếp dẫn, đâu bằng sức bản nguyện cùng sức quang minh của Đức A Di Đà có năng lực nhiếp thủ và tế độ những chúng sanh niệm Phật.
2. Lại khi Đức Thích Ca nói về nghĩa phương tiện tiếp dẫn trong cửu phẩm giáo môn, Ngài đã ân cần khuyên chúng sanh nên về Cực Lạc. Phương tiện nầy rất giản dị, hành giả chỉ cần niệm Phật A Di Đà, cơ cảm hợp nhau, liền được vãng sanh. Như ở thế gian chiêu mộ người, nếu kẻ nào muốn gia nhập thì cơ hội hợp nhau, liền thành sự việc.
3. Đâu Suất thiên cung dù sao cũng ở trong Dục giới, nên kẻ thối vị rất nhiều. Nơi ấy chim, nước, rừng cây gió, âm nhạc không phát ra tiếng pháp, có thể khiến chúng sanh phục diệt phiền não nhớ nghĩ Tam Bảo, phát lòng Bồ Đề. Trái lại còn có nữ nhơn gây tăng thượng duyên cho tâm trước nhiễm ngũ dục của hành giả.
Mà vẻ xinh đẹp của các thiên nữ ấy lại vi diệu tuyệt vời, làm cho chư thiên đắm mê, ít có vị nào tránh khỏi. Sao bằng cõi Cực Lạc cây chim tuyên Diệu Pháp, gió nhạc diễn Bồ Đề, chúng sanh nghe rồi phiền não tiêu tan, đạo tâm tăng tiến?
Cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà, không có người nữ và kẻ phát tâm nhị thừa, chỉ thuần là những pháp lữ Đại Thừa thanh tịnh, phiền não ác nghiệp không thể phát khởi; như thế làm sao hành giả không mau chứng quả vị Vô Sanh? Chỉ so sánh qua vài điều mà sự hơn kém đã hiển nhiên, còn chi phải nghi ngờ do dự?
Đến như sự gặp Phật Di Lặc được chứng thánh quả, cũng đã vị tất! Như khi Đức Thích Ca còn tại thế có biết bao nhiêu chúng sanh thấy Phật, mà vẫn không được chứng thánh quả? Lúc Đức Di Lặc ra đời cũng vậy, có vô số chúng sanh thấy Phật nghe pháp, song không được chứng thánh quả. Riêng về Tịnh Độ của Phật A Di Đà, chỉ được sanh về, quyết sẽ chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, không một kẻ nào thối đọa trở lại tam giới, bị nghiệp sanh tử buộc ràng.
Lại nghe Tây Vức Truyện nói: Có ba vị Bồ Tát là Vô Trước, Thế Thân, Sư Tử Giác thâm tu thiền định quyết chí đồng sanh về Đâu Suất. Ba vị đó cùng ước hẹn, nếu ai sanh lên Nội Viện được thấy Đức Di Lặc trước, phải trở về báo tin cho huynh đệ biết.
Ngài Sư Tử Giác quy tịch trước, trải qua thời gian khá lâu, không trở lại báo tin. Kế đó ngài Thế Thân vô thường; khi lâm chung, Vô Trước Bồ Tát dặn rằng: ”Sau khi em bái kiến Đức Di Lặc, phải trở xuống cho anh biết ngay.” Thế Thân Bồ Tát tịch rồi ba năm sau mới trở lại báo tin. Ngài Vô Trước hỏi: ”Tại sao em thông báo trể như thế?” Thế Thân đáp: ”Sau khi lễ kiến Đức Di Lặc, vừa nghe Ngài thuyết pháp chỉ dạy xong, em cung kính đi vi nhiễu ba vòng rồi trở xuống đây báo tin liền.
Vì một ngày đêm ở Đâu Suất bằng 400 năm nơi hạ giới, nên mới trể đến ba năm.” Vô Trước lại hỏi: ”Còn Sư Tử Giác hiện ở đâu?” Thế Thân đáp: ”Sư Tử Giác bị lạc vào Đâu Suất ngoại viện, đang say đắm cảnh ngũ dục, từ khi sanh lên đến nay, chưa được thấy Đức Di Lặc.”
Xem thế thì biết các bậc tiểu Bồ Tát sanh về Đâu Suất còn bị mê lạc, huống nữa là phàm phu. Cho nên người tu muốn chắc chắn được bất thối chuyển, nên cầu về Cực Lạc, chớ nguyện sanh lên Đâu Suất.
Người tu theo pháp môn niệm Phật mà không biết gì về Ngài Lý Bỉnh Nam cũng là một điều đáng tiếc. Ngày nay, đa số Phật tử Việt Nam ở nước ngoài biết được và theo học với một nhà sư Tàu – Hòa Thượng Thích Tịnh Không. Ngài là người đang hoằng dương pháp môn giải thoát mà Đức Phật Thích Ca đã dạy riêng cho chúng sanh thời mạt pháp này.
Chúng tôi dùng chữ nhà sư Tàu, chẳng phải là chúng tôi phân biệt Tàu hay Việt, nhưng để mọi người thấy, Phật tử Việt Nam không phân biệt Tàu hay Việt. Cũng như chúng ta tu theo Phật, là tu theo ông Phật là người Nepal. Chúng tôi viết điều này ra ở đây để chứng minh Phật tử Việt Nam không phân biệt chấp trước. Tàu, Ấn Độ hay Nepal cũng được, bất cứ ai thấu suốt pháp môn giúp chúng sanh thoát khỏi lục đạo luân hồi thì chúng ta tu theo học. Có dịp chúng tôi sẽ trình bày chỗ chấp của một số người Việt Nam, mà nhiều năm qua làm hại Phật tử Việt Nam rất nhiều.
Tài liệu chúng tôi viết về cư sĩ Lý Bỉnh Nam là do cư sĩ Trần Văn Tường ở Úc lấy từ mạng điện toán của chùa Quảng Đức ở Úc gởi tặng chúng tôi.
Lý Bỉnh Nam là một cư sĩ thôi. Nhưng là một cư sĩ vĩ đại đã đào tạo cho chúng sanh thời mạt pháp này một vị Pháp sư lỗi lạc, một Hòa Thượng được người Việt Hoa khắp thế giới ngưỡng mộ. Khi viết về Ngài Lý Bỉnh Nam, có người vẫn chấp, sợ giới thiệu Ngài là một cư sĩ thì làm nhẹ thể vị Hòa Thượng khả kính. Tại vị ấy chấp, chứ Hòa Thượng Tịnh Không vẫn hãnh diện nói, Thầy tôi là một cư sĩ, và khi tôi được ông chấp thuận cho làm học trò, ông buộc tôi phải bỏ tất cả những gì tôi đã học được với hai vị Thầy cũng danh tiếng, đó là Giáo sư Đông Phương Mỹ và Chương Gia Đại Sư, một đại Lạt Ma.
Người tu phải nhìn thấu và biết buông xuống. Nếu được như vậy là thấu được điều Phật dạy “Nhứt thiết pháp không! Nhứt thiết pháp tùy tâm tưởng!”.
Những điều chúng tôi viết, chúng tôi thường nói thẳng điều mình biết mà không nuôi tâm chê trách ai. Nói để mong Phật giáo Việt Nam ngày mai sẽ vượt lên và mọi người đều buông hết, không chấp trước để cùng lo cho chúng sanh. Cái ta hãy bỏ đi, cái chủng tộc cũng buông đi, để hướng chúng sanh đi đến một đại đồng và siêu thoát.
Đây, bài viết về Đại Cư sĩ Lý Bỉnh Nam của chùa Quảng Đức – Úc Châu
Cư sĩ Lý Bỉnh Nam thời Dân Quốc, hiệu Tuyết Lư hay Tuyết Tăng; người thành phố Tế Nam tỉnh Sơn Đông. Tự bé, ông đã đỉnh ngộ, hiếu học. Ông chuyên học về pháp luật, chính trị và học cả Trung y, nghiên cứu Phật học: Giáo, Thiền, Tịnh, Mật, ông đều thường tu trì. Ông từng giữ chức giám ngục của huyện Lữ, nhưng nhân từ tột bực, chung thân ăn chay.
Ông quy y với vị Tổ thứ mười ba của Tịnh tông là Ấn Quang Đại sư, được ban hiệu là Đức Minh. Ông gắng sức tự hành, dạy người chuyên tu Tịnh nghiệp. Sau ông đáp lời mời, làm bí thư cho vị chủ nhiệm quản trị nhà thờ phụng Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư (Khổng Tử).
Ông theo chủ nhiệm Khổng Thượng Công (Khổng Đức Thành) thiên di theo chính phủ về Trùng Khánh, sống ở biệt thự Ỷ Lan thuộc núi Ca Nhạc. Mỗi sáng sớm, ông lên chùa Vân Đảnh để lễ tụng, niệm Phật. Ít lâu sau, ông lãnh trách nhiệm giảng dạy cho Phật Học Giảng Diễn Hội của chùa mấy năm, người tin theo rất đông. Năm Dân Quốc 45 (1946), theo Khổng Thượng Công trở về Nam Kinh, ông thường giảng Kinh tại chùa Phổ Tế và Chánh Nhân Liên Xã.
Tháng Hai năm Dân Quốc 38 (1949), vào lúc sáu mươi tuổi, ông theo Khổng Thượng Công qua Đài Loan, ngụ tại Thành phố Đài Trung. Vừa mới sắp xếp công vụ xong, ông đã tìm được chùa Pháp Hoa để làm cơ sở hoằng pháp và lập phòng chẩn mạch Trung Y, lập Bồ Đề Y Viện và Thí Y Hội v.v… để chữa trị, hốt thuốc miễn phí. Ông khởi xướng những sự nghiệp hoằng hóa, từ thiện để tiếp dẫn quần cơ đồng tu Tịnh Nghiệp.
Ông thường nhóm chúng niệm Phật; cử phái viên hoằng pháp đến thăm các nhà giam và những gia đình liên hữu. Do đó, pháp duyên ngày càng rộng rãi; tòa giảng kinh của ông mở rộng đến các chùa Linh Sơn, Bảo Giác, Bảo Thiện v.v… Ông còn khuếch trương những cơ sở truyền giáo khắp cả Tam Đài (Đài Bắc, Đài Trung và Đài Nam), chuyên hoằng dương Tịnh Độ phổ độ chúng sanh.
Mỗi năm, cử hành Phật Thất nhiều lần; lần nào ông cũng đích thân chủ trì, ân cần, thiết tha huấn thị. Ông thường soạn các tài liệu Phật học hàm thụ và vấn đáp, soạn các chương trình phát thanh miễn phí gởi tặng các đài phát thanh.
Về trước tác có: A Di Đà Kinh Trích Chú Tiếp Mông Kỵ Nghĩa Uẩn (lược chú Kinh Di Đà để những người kém hiểu biết lãnh hội được ý nghĩa sâu xa), Đại Chuyên Học Sinh Phật Học Giảng Tòa (tài liệu giảng dạy Phật học cho sinh viên chuyên ngành Phật học) gồm sáu quyển: Phật Học Vấn Đáp Loại Biên, Hoằng Hộ Tiểu Phẩm Vựng Tồn, v.v… hóa độ nhân gian.
Nhân đó, ở các nơi gần hay xa, mọi người đều được bình đẳng hưởng thụ pháp ích. Sau ông nghỉ việc để tăng thời gian hoằng pháp; luôn luôn khuyên người khác tin sâu nhân quả, già dặn, chắc thật niệm Phật.
Trong Pháp môn Niệm Phật có hai công phu để hành trì:
1- Tu Phật Thất, dành cho người căn cơ bình thường.
2- Ban Châu Tam Muội, dành cho người siêu việt xuất chúng, có sức khỏe dẻo dai.
Hành giả thực hành Ban Châu Tam Muội phải đứng hay đi kinh hành trong thời gian 90 ngày không hề nằm, thường xuyên đắp y hoặc mặc áo tràng. Theo lời kể lại, cư sĩ Lý Bỉnh Nam đã hai lần đạt được Ban Châu Tam Muội. Ngài đã được định rất sâu. Như vậy, có thể Ngài Lý Bỉnh Nam đã đạt được Lý Nhứt Tâm Bất Loạn hoặc Sự Nhất Tâm Bất Loạn.
Ngày mười hai tháng Tư năm Dân Quốc 75 (1986), ông bảo đệ tử hầu cận:
– Ta sắp đi đây!
Đến sáng hôm sau, ông niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, dặn dò đệ tử rồi nằm yên lành mà tịch. Thọ chín mươi bảy tuổi. Sau khi trà tỳ, thu được hơn cả ngàn viên xá lợi ngũ sắc.
(theo Lý Công Tuyết Hư Lão Cư Sĩ Lược Sự)
Hòa Thượng Tịnh Không nói về Đại Cư sĩ Lý Bỉnh Nam:
Như chư liên hữu thấy, sau khi vãng sanh, cư sĩ Lý Bỉnh Nam lưu lại hơn cả ngàn viên Xá Lợi ngũ sắc. Đó là kết quả của người thật sự có công phu tu tập trong nhiều năm niệm Phật.
Rải rác trong các băng giảng, Hòa Thượng Tịnh Không thường nhắc đến vị Thầy vĩ đại của mình. Chúng tôi chẳng nhớ trong băng giảng nào đã ghi ra tài liệu dưới đây:
Theo Hòa Thượng Tịnh Không, tướng của Lý Bỉnh Nam không phải là người trường thọ. Vì cái lỗ tai và cái càm ông ngắn không phải là người sống lâu. Nhưng nhờ ông biết làm việc thiện, như chữa bệnh miễn phí cho mọi người, dạy Phật pháp cho mọi người. Sự thu nhập tài chánh của ông rất dồi dào, nhưng ông đem bố thí cho thiên hạ. Ông sống trong một căn nhà nhỏ, không cần người giúp việc hầu hạ. Đến 90 tuổi, ông sống một mình với thân thể khỏe mạnh cường tráng.
Phước báu mà ông có chẳng phải là do đời trước mà có. Sau khi học Phật ông mới tu. Phước báu thọ mạng của ông là nhờ tu trong đời này. Đây là điều mọi người chúng ta cần tìm hiểu học hỏi. Nhiều vị chỉ biết khen người, mà không noi theo gương người để áp dụng cho mình, thì lời khen ấy trở thành rỗng không. Ngài Lý Bỉnh Nam vãng sanh vào lúc 97 tuổi. Điều đáng lưu ý, tuy không ai kêu gọi, thiên hạ mến mộ công đức của Ngài, mỗi ngày có khoảng 600 người đến hộ niệm. Tất cả đều tự động đến, không phải để chia buồn, nói những lời rỗng tuếch, mà đi xung quanh quan tài hộ niệm. Tiếng niệm Phật không ngừng nghỉ trong suốt 49 ngày.
Hòa Thượng Tịnh Không nói : kết quả mà Ngài Lý Bỉnh Nam đã tu trong đời này. Thông minh trí tuệ do Ngài bố thí pháp. Khỏe mạnh trường thọ là bố thí vô úy. Vô úy mà không não hại tất cả chúng sanh. Tất cả chúng sanh gặp ta có cảm giác an toàn. Đó là vô úy. Ngài Lý Bỉnh Nam có trên 200 ngàn đệ tử. Thật là vĩ đại!
Theo Những Chuyện Niệm Phật Thấy Phật Vãng Sanh
Cư sĩ Tịnh Hải
Một buổi sáng rằm, đầu mùa đông ngoài trời se lạnh, nhưng trong căn phòng khách cửa mở ra hướng Nam không bị gió thổi xốc vào nên cũng khá ấm áp. Tôi xông một ít trầm hương để ngay giữa bàn, hương trầm thơm dìu dịu thanh khiết. Tôi và người bạn đạo ngồi uống trà nhìn theo làn khói trầm mỏng mảnh đang bay ra từ miệng con rồng chạm trổ công phu trên chiếc lư trầm cổ, trong lòng thầm khâm phục người nghệ nhân đúc đồng xa xưa đã cho người đời sau chiêm ngưỡng một tác phẩm thủ công thật tinh xảo.
Tôi bật đầu đĩa nghe một bản nhạc đạo quen thuộc theo lời yêu cầu của anh bạn Phật tử, anh ấy vừa nghe vừa hát theo với một tâm trạng an vui:
“Thầy dạy con nên thường niệm:
Nam mô A Di Đà Phật!
Khi niệm con phải nhất tâm
Cho đời thoát cơn mê lầm
Lòng thành con luôn thường niệm
Nam mô A Di Đà Phật!
Dù trong lúc đang làm gì
Nam mô A Di Đà Phật!
Lời thầy ghi nhớ trong đời
Niệm Phật cho ta thảnh thơi
Niệm Phật thân tâm rạng ngời
Niêm Phật ta có được gì
Niệm Phật cho ta lối đi
Niệm Phật tâm thêm từ bi…”.
Đúng là một bài hát có giai điệu rất hay và ca từ đẹp, không biết tác giả là ai vì trên đĩa CD chỉ ghi tên ca sĩ thể hiện chứ không thấy ghi tên nhạc sĩ sáng tác. Bài hát ngọt ngào cất lên tươi mát như dòng suối hiền hòa tinh khiết, khiến cho người lớn và trẻ con đều rất thích. Cả nhà tôi từ lớn đến bé kể cả ông khách quý đang ngồi uống trà với tôi đây đều thuộc bài hát này và ngân nga hát theo với cái tâm tràn đầy niềm hỷ lạc. Đặc biệt ca từ như một bài pháp ngắn gọn dễ hiểu bằng một thứ ngôn ngữ âm nhạc phong cách R&B chậm rãi, nên rất dễ ăn sâu trong lòng công chúng yêu nhạc đạo như chúng tôi. Toàn bài rất nhiều câu “Nam mô A Di Đà Phật” như một chuỗi niệm Phật, niệm danh hiệu Ngài chỉ có 6 âm thôi, nhưng những thanh âm kỳ diệu ấy khiến cho lòng ta thêm phấn chấn và hoan hỷ.
Phật giáo Ấn Độ xưng tụng danh hiệu Phật theo âm điệu và phong vận của Ấn Độ, khi Phật giáo truyền sang Trung Hoa thì biến hóa theo âm điệu của người Trung Hoa, khi Phật giáo truyền đến châu Mỹ, châu Âu… cũng tự nhiên biến hóa theo cách của nước sở tại và khi Phật giáo truyền sang Việt Nam cũng biến hóa theo âm điệu của đất nước ta. Cho dù niệm “A Di Đà Phật” theo giọng Bắc, Trung hay Nam cũng đều hay, thật ra chỉ cần niệm Phật hiệu là tốt rồi. Vì Đức Phật A Di Đà là Vô Lượng Quang chiếu sáng vô lượng chúng sanh. Ngài còn được gọi là Vô Ngại Quang, cho nên dùng âm điệu hay phong vị nào thì đối với Ngài cũng không chướng ngại. Lại nữa, Đức Phật A Di Đà còn là Hoan Hỷ Quang và Giải Thoát Quang, cho nên niệm thế nào cũng được hoan hỷ, cũng có thể giải thoát và không khởi phiền não.
Thầy đã giảng cho tôi như vậy và khuyên: “Niệm Đức Phật A Di Đà, tín tâm niệm Phật, không giây phút nào rời Phật. Thế gian vô thường, mạng người khó giữ, khi đi đường tốt nhất quý Phật tử vừa đi vừa niệm Đức Phật A Di Đà thì luôn được tai qua nạn khỏi”. Tôi còn quá nhiều vọng tưởng, nên chưa thực hiện được chuyên cần những lời thầy dạy. May sao có thầy và bạn trong đạo tràng Phật tử cùng sinh hoạt với nhau luôn luôn nhắc nhở tôi. Và tôi cũng thấy đây là một pháp môn tu làm cho tâm thanh thản, cho nên dù công việc có bận rộn, tôi cố gắng luyện tập, khi đi đường thì mỗi bước niệm “A Di Đà Phật”. Sau một thời gian dài thực tập nuôi dưỡng thành thói quen, cứ nhấc chân bước một bước thì trong lòng tự động niệm thầm một tiếng “A Di Đà Phật”. Đi trong chánh niệm tỉnh thức và niệm thầm “A Di Đà Phật” quả nhiên đã cứu mạng tôi, khiến tôi tránh được một nạn lớn.
Đó là một buổi trưa Chủ nhật, cách đây hai tuần, trên con đường đi bộ từ nhà tới khu chợ xép khoảng 300 mét. Đó là công việc thường nhật của tôi, trưa nào cũng vậy, tôi bới cơm trưa cho bà nhà tôi đang bán tại quầy trái cây ngoài chợ. Tôi vừa đi vừa niệm “A Di Đà Phật”, đi được một nửa quãng đường gặp người bạn đạo (anh bạn ngồi uống trà với tôi sáng hôm nay đây), anh ấy đi ngược chiều gọi tôi quay lại nói chuyện khoảng 5 phút. Bỗng tôi cảm thấy sau lưng có một ánh chớp rất mạnh và tiếp theo đó là một tiếng nổ dữ dội cách chỗ tôi đứng không xa, khoảng 20 mét. Sự chấn động và sức ép của tiếng nổ làm cho đất đá văng tới khiến cho tôi và anh bạn tức ngực, nhưng chúng tôi không sao cả. Tôi tưởng rằng chiếc lốp ô tô của ai đó đậu bên đường bị nổ, chúng tôi ngồi xuống lấy hai tay ôm đầu rồi cứ một mực niệm Phật, chưa hiểu chuyện gì xảy ra. Sau tiếng nổ có người la lên: “Bom bi nổ, có người chết và người bị thương”. Trong đầu óc tôi lúc đó nghĩ rất đơn giản, chiến tranh đã qua lâu rồi, bom mìn đã được rà phá nhiều rồi, làm gì có bom nổ ở một đường phố đông đúc như thế này, nhưng tôi đã thấy rõ ràng xe cấp cứu đến và các y tá khiêng lên xe ba người bị thương khá nặng máu me vung vãi cả mặt đường. Ngày Chủ nhật đẹp như vậy, ai ngờ xảy ra một thảm họa khôn lường.
Sau vụ nổ người ta mới tìm ra nguyên nhân, hóa ra có một thanh niên trẻ sống bằng nghề đi rà phế liệu chiến tranh, anh ta đang trên đường đi đến chỗ thu mua phế liệu để bán những gì anh ta kiếm được trong buổi sáng, giữa đường bánh xe đạp của anh ta bị trục trặc, nên anh ta lấy ra một cục sắt trong bao phế liệu mà anh ta kiếm được, dùng để thay búa gõ vào trục sau cho vành xe trở về vị trí cũ (có lẽ do một chiếc ốc nào đó bị long ra). Nhưng không ngờ cục sắt cầm trên tay vì chôn trong lòng đất quá lâu ngày bị rỉ sét, nên anh không thể nhận ra đây là quả bom bi, vì vậy mới xảy ra chuyện đáng tiếc khiến anh ta và vài người đi đường bị thương rất nặng, rất may là không ai tử vong.
Chúng ta thường thấy trong kinh Phật nói: “Mạng người vô thường trong hơi thở”, quả không sai tí nào. Đời người là giả tạm và hư ảo, thân thể của chúng ta giống như bọt xà bông, bất cứ lúc nào cũng có thể vỡ tan, nay tuy còn khỏe mạnh nhưng cũng khó giữ gìn. Rõ ràng như vậy đó, nhưng cũng còn có người không để ý tới, rồi khi tai họa xảy đến thì đã muộn rồi. Tôi tính từ địa điểm và thời gian của vụ nổ mà suy ra, nếu như không có anh bạn đạo gọi tôi quay lại kịp thời, thì nhất định tôi sẽ đến ngay chỗ anh chàng thanh niên rà phế liệu đúng thời điểm bom bi phát nổ và ít nhất tôi cũng bị thương. Tôi tin chắc rằng mình được Phật lực gia hộ, vì trong khi đi tôi cứ niệm “A Di Đà Phật” theo từng bước, nên mới thoát được vụ nổ bom bi này.
Tôi đem câu chuyện này kể với thầy và các vị Phật tử trong đạo tràng, họ đều cảm nhận được khi niệm “A Di Đà Phật”, Đức Phật luôn ở bên ta; cảm nhận được năng lực cứu độ nhiệm mầu của Đức Phật khiến cho thân tâm tôi được bình an và thoát nạn. Thầy tôi dạy: Lòng từ bi của Đức Phật thì bình đẳng, không phân biệt sang hèn thiện ác; ai niệm Phật tức là cảm ứng với Đức Phật nên Ngài đến kịp thời để cứu độ. Chính lòng từ bi của Đức Phật đã cảm ứng, cứu độ hộ trì.
Mọi chuyện rồi cũng qua đi, buổi sáng mùa đông se lạnh, nhưng căn phòng như ấm cúng hẳn lên bởi khói trầm thơm và tiếng hát của một bài nhạc đạo vẫn ngọt ngào ngân lên, niềm an vui tràn ngập cả căn phòng gồm hai người bạn đạo. Tôi và anh bạn nhớ lại câu chuyện bom bi nổ, không khỏi rùng mình hú vía, bỗng hai đứa cùng bật cười rộn rã cả căn phòng, có lẽ chúng tôi đã ngộ ra được một điều gì đó trong cuộc tồn sinh giữa chốn Ta bà, và không ai bảo ai, chúng tôi cùng ngân nga theo bài hát ấy:
“…Nam mô A Di Đà Phật!
Lời thầy ghi nhớ trong đời
Niệm Phật cho ta thảnh thơi
Niệm Phật thân tâm rạng ngời
Niệm Phật ta có được gì
Niêm Phật cho ta lối đi
Niệm Phật tâm thêm từ bi…”
Theo Giác Ngộ
Tựa đề gốc: Hòa âm linh diệu
Tác giả: Lê Đàn
Các Phúc Đáp Gần Đây