Vào ngày 16 – 05 – 2009 (22 – 04 Kỷ Sửu) Sư Bà Như Phụng viện chủ chùa Long Vân đã an tường đứng và xả báo thân vãng sanh về Tây Phương của Phật A Di Đà trong tiếng niệm Phật của đại chúng.
Khi còn tại thế Sư Bà luôn là một tấm gương lớn cho các chư Ni và quý Phật tử về tu tập, cũng như làm từ thiện tại nhiều nơi trong cả nước do Sư Bà phát động, Sư Bà không những dùng tâm từ bi để giúp đỡ chúng sanh mà còn dùng thân giáo để làm gương cho các đệ tử học theo. Chùa Long Vân của Sư Bà tu theo pháp môn Tịnh Độ và thường mở những khóa tu niệm Phật dành cho quý Phật tử về tu tập.
Có lẽ khóa tu Phật thất lần thứ 5 Sư Bà đã viên mãn ở cõi Ta Bà, trong khi đại chúng đang cung thỉnh TT. Thích Bửu Chánh lên chính điện để thuyết pháp, Sư Bà cũng cùng với đại chúng xếp hàng để cung nghinh TT. Bửu Chánh trong tiếng niệm Phật vang rền ở chánh điện Sư Bà đã an nhiên tự tại đứng và nhẹ nhàng xả báo thân trong tiếng niệm Phật của các Ni và đại chúng.
Pháp môn Tịnh Độ không thể nghĩ bàn, Sư Bà mãi mãi là tấm gương không những cho hàng xuất gia mà hàng tại gia của chúng con nữa.
A-di-đà kinh là bản rút ngắn của Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh. Đây là một trong ba bộ kinh quan trọng nhất của Tịnh Độ tông, lưu hành rộng rãi tại Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Kinh này trình bày phương pháp nhất tâm niệm danh hiệu A-di-đà Phật và sẽ được Phật A-di-đà tiếp độ về cõi Cực lạc lúc lâm chung (niệm Phật).
Kinh A Di Đà do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết về y và chánh báo của đức Phật A Di Đà nơi thế giới Cực lạc ở phương Tây, cách cõi Ta bà này mười muôn ức cõi Phật. Kinh cũng chỉ bày pháp môn niệm Phật để được vãng sanh về cõi Cực lạc của đức Phật A Di Đà.
Có 2 vị Lạt-Ma là Ajo và Reto cùng theo học 1 thầy. Reto là 1 học giả tinh thông Kinh điển, có thể giảng giải, trích dẫn hầu như tất cả sách vở 1 cách dễ dàng, trong khi Ajo chỉ chuyên tâm Lễ Bái và Thiền Định.
Lạt Ma Reto ghi danh vào Đại Học Drepung, tốt nghiệp thủ khoa, trở nên 1 Pháp Sư nổi tiếng của Tây Tạng, trong khi Lạt Ma Ajo vẫn ẩn tu tại làng Chumbi.
Sau nhiều năm không gặp nhau, 1 hôm Pháp Sư Reto có dịp công du qua làng cũ. Nhớ đến người huynh đệ đồng môn, ông ghé lại ngôi chùa xưa thăm hỏi. Gặp nhau cả 2 đều mừng rỡ chuyện trò vui vẻ, Reto bèn hỏi Ajo đã tu học đến đâu. Lạt Ma Ajo thành thật thưa rằng: “Bao năm nay chỉ chuyên tụng 1 bộ Kinh A Di Đà mà thôi”. Pháp Sư Reto lắc đầu than cho chú em quê mùa hủ lậu, Kinh điển thiên kinh vạn quyển không đọc mà chỉ đọc tụng có 1 bộ Kinh tầm thường mà gần như ai cũng biết. Reto bèn giảng giải cho Ajo một hồi về những pháp môn cao siêu cho đến tận khuya mới đi ngủ.
Vừa chợp mắt ít lâu, ông đã giật mình tỉnh giấc vì thấy ánh sáng ở đâu chói loà cả 1 vùng. Ánh sáng này phát ra từ phía chánh điện ngôi chùa nên ông ngạc nhiên rời trú phòng bước ra xem thế nào.
Ông thấy Lạt Ma Ajo đang chắp tay đảnh lễ, trì tụng Hồng Danh Đức Phật A Di Đà nhưng quanh ông này hào quang sáng rực cả chánh điện. Ông thấy trong hào quang đó có 1 ao sen lớn bằng các thứ ngọc báu với những lâu đài, dinh thự toàn bằng vàng. Ngoài ra, còn có những giống chim lạ cất tấu lên những điệu nhạc hoà nhã, vi diệu nghe như tiếng giảng Kinh, rồi trời đổ mưa hoa, những bông Mạn Đà La rơi xuống ao báu toả ánh sáng khắp nơi.
Pháp sư Reto nín thở theo dõi cho đến khi Lạt Ma Ajo trì tụng xong bộ Kinh A Di Đà thì linh ảnh đó mới biến mất. Quá xúc động, Reto vội bước vào hỏi làm sao Ajo lại có được thần thông như vậy. Lạt Ma Ajo cho biết ông không hề có thần thông gì cả mà chỉ chuyên tâm trì tụng 6 chữ Hồng Danh mà thôi.
Lạt Ma Reto lại hỏi: “Nhưng ta thấy hào quang sáng ngời trong chánh điện và những linh ảnh lạ lùng. Chắc chắn chú phải có những phương pháp tu luyện gì nữa chứ?”
Lạt Ma Ajo cho biết không hề áp dụng 1 phương pháp gì ngoài việc gìn giữ Thân-Khẩu-Ý cho thật thanh tịnh, trang nghiêm để trì tụng Hồng Danh Phật A Di Đà mà thôi.
– Làm sao có thể như vậy được? Như ta đây làu thông Kinh điển, tu tập bao năm nay mà đâu đã có kết quả gì? Lạt Ma Reto thắc mắc.
– Có lẽ huynh chỉ đọc văn giải nghĩa để thoả mãn trình độ trí thức giỏi biện luận như 1 nhà thông thái mà thiếu hành trì, không chí thành cung kính, đọc Kinh còn nghi ngờ, chỉ trọng về Lý Tánh mà không chuộng sự tu dưỡng Thân-Tâm chăng? Như em đây thì chuyên tâm tin tưởng vào lời khuyên dạy của Chư Phật, tin rằng có cõi Tây Phương Cực Lạc, tin vào Đại Nguyện của Phật A Di Đà và tha lực tiếp dẫn của Ngài, rồi chí thành nguyện cầu sẽ được sinh sang cõi nước Cực Lạc (Tín-Nguyện-Hạnh).
Pháp Sư Reto bừng tỉnh vội vã chắp tay đảnh lễ người em đã khai ngộ cho mình. Ông trở về Lhassa trình bày sự việc cho Đức Đạt Lai Lạt Ma, rồi xin từ chức Pháp Sư về nhập thất tu Thiền trong dãy Tuyết Sơn.
Đức Đạt Lai Lạt Ma truyền lệnh cho xây 1 ngôi Chùa nguy nga rộng lớn để xứng đáng với công đức tu hành của 1 vị Cao Tăng và phong cho Lạt Ma Ajo chức Hoà Thượng (Rinpoche). Tuy nhiên, Hoà Thượng Ajo không thích việc có 1 ngôi chùa riêng như vậy, ông chỉ muốn tiếp tục sống trong ngôi chùa nhỏ bé nơi thung lũng Chumbi mà thôi. Vị quan trông coi việc xây cất lấy làm lạ bèn hỏi tại sao, thì Ngài cho biết dù chùa cao to đẹp đẽ, dù cung vàng điện ngọc cũng chỉ là hình thức bên ngoài, hữu sinh hữu hoại, nay còn mai mất, không thể so sánh với cảnh giới của cõi Cực Lạc được.
Sau cùng, người ta đành mời Ngài về trụ trì Chùa Tse Cholin, 1 ngôi chùa lớn trong vùng, vì vị trụ trì tại đây đã qua đời trước đó ít lâu. Hoà Thượng Ajo nhận lời quản trị ngôi chùa này nhưng vẫn tiếp tục sống tại ngôi chùa nhỏ bé cũ gần đó, vì ông biết rằng vị trụ trì Tse Cholin sẽ Hoá Thân trở lại đây trong 1 thời gian không lâu nữa.
Theo Hoà Thượng Ajo, thì Đức Phật đã chỉ dẫn rất nhiều Pháp môn khác nhau, các đệ tử tuỳ theo căn cơ trình độ lãnh hội mà tu hành được giải thoát. Tuy nhiên vì biết vào thời Mạt Pháp (Kali Yuga), chúng sanh nghiệp sâu, trí mỏng khó có thể trông cậy vào tự lực cá nhân mà giải thoát, nên Đức Phật đã truyền dạy riêng 1 phương pháp giản dị là Pháp môn Niệm Phật cầu Vãng Sanh. Pháp môn này giản dị mà công năng vô cùng mầu nhiệm, bất khả tư nghì, vì ngay như Đức Di Lặc chỉ còn 1 Kiếp nữa sẽ thành Phật mà Ngày Đêm 6 thời còn đảnh lễ, trì niệm Hồng Danh Chư Phật.
Theo Hoà Thượng Ajo, thì cách trì tụng Hồng Danh phải đặt căn bản trên sự chí thành, khẩn thiết thì mới được Cảm Ứng. Dù làm đúng các Nghi thức nhưng tâm không thành thì khó có kết quả gì, tóm lại vấn đề trọng yếu vẫn là ở TÂM. Ngài chỉ phương pháp Quán Tưởng, là lúc nào cũng giữ trong Tâm hình ảnh của Đức Phật A Di Đà và cảnh giới cõi Cực Lạc mà trong đó bất cứ thứ gì cũng phát ra hào quang sáng chói, nơi mà tiếng gió thổi, chim hót, lá cây rụng cũng phát ra những Diệu Âm. Ngài cho biết làm sao để lúc Đi-Đứng-Nằm-Ngồi cũng đều chú tâm vào hình ảnh Đức Phật A Di Đà cho đến lúc thật thuần thục, không thấy có mình là Người Niệm Phật và Phật là 1 Vị mà mình đang Niệm, chỉ có 1 ánh sáng vô tận, vô lượng chiếu soi. Niệm đến chỗ Vô Niệm, cho đến Nhất Tâm Bất Loạn, thì sẽ được cảnh giới bất khả tư nghì.
Hoà Thượng Ajo cho biết 6 chữ Hồng Danh A Di Đà Phật có 1 oai lực vô cùng rộng lớn với những Mật nghĩa sâu xa, mà chỉ có Phật với Phật mới hiểu rõ cùng tận mà thôi. Phật A Di Đà là Pháp giới tàng thân, bao nhiêu công đức của Chư Phật trong 10 phương pháp giới, nơi 1 Đức Phật A Di Đà đều đầy đủ cả. A Di Đà có nghĩa là nguồn sáng vô tận (Vô Lượng Quang), tuổi thọ vô lượng (Vô Lượng Thọ); hay nói theo nghĩa khác là bao gồm toàn thể không gian (ánh sáng) và thời gian (tuổi thọ) tượng trưng cho chân lý tuyệt đối bất khả tư nghì.
Trích Đường Mây Qua Xứ Tuyết
của Lama Anagarika Govinda
Việt văn của Nguyên Phong
Sự tối kỵ trong niệm Phật: “Tinh thần phân tán, câu chữ mơ hồ, đã không âm tiết lại không liền lạc, tâm chẳng ứng với miệng, tiếng chẳng nhiếp với niệm, khinh lờn thành quen”.
Người niệm Phật chủ yếu dễ phát sinh sai lệch, thì cần ngăn chặng.
Tinh thần phân tán: Lúc niệm Phật tư tưởng không tập trung, đưa tinh thần lên không được. Tâm tình rơi rớt, ý chí thì chìm mất, không tinh ròng khơi dậy, tạp niệm thì vô cùng, chẳng hôn trầm cũng trạo cử, đây là vấn đề tối kỵ. Còn vấn đề kiêng kỵ là câu chữ mơ hồ.
Câu chữ mơ hồ: Một câu hiệu Phật nầy, thanh âm phát ra thì lờ lờ mờ mờ, người khác nghe không rõ ngay cả chính mình nghe cũng không rõ. Cho nên có câu rằng: “Mình còn chưa nghe thì Phật làm sao nghe”.
Ðã không âm tiết: Âm tiết điều hòa thích ứng thì niệm Phật dễ nhiếp tâm, phương pháp hữu ích thì lực mới to lớn; Ngược lại, sáu chữ trong một câu Phật hiệu, bất kể nhịp gõ chữ nào, lúc thì một nhịp, nửa nhịp, một phần tư nhịp, một phần tám nhịp, thế thì làm cho mỗi câu hiệu Phật bị biến đổi, niệm loạn thành một mảng, còn bàn luận nhiếp tâm thế nào. Không những thời gian từng chữ sắp đặt được tốt, mà sự cao thấp nhẹ nặng của thanh âm cũng phải hợp với tiết tấu. Bỡi vì niệm Phật có tiết tấu thì giống nước chảy róc rách, tự nhiên hợp vận, niệm Phật dễ dàng rõ ràng. Không âm tiết đã chẳng tốt, cọng thêm lại chẳng liên quan thì càng sai.
Lại chẳng liền lạc: Là câu sau không tiếp câu trước. “Tịnh niệm tương tục” rất là trọng yếu của sự niệm Phật, mà nếu không liên quan làm sao kế tục với nhau.
Tâm chẳng ứng với niệm Phật: Là trong miệng thì niệm Nam Mô A Di Ðà Phật, mà ở trong tâm tính toán riêng một việc ở bên ngoài như: mua chiếc xe mới, hoặc muốn đến chỗ nào, vì tính toán những việc đó thì tâm và miệng làm sao có thể ứng với nhau. Ðến nỗi ngoài ra có một tình huống là: ngay lúc niệm Phật, tạp niệm lăng xăng không biết tạp niệm nhiều thế nầy từ đâu đến, đây khởi kia mất, không cách nào trừ bỏ. Tuy vậy chẳng nên buồn lo, vì đây là hiện tượng tất nhiên trong quá trình niệm Phật, chẳng nên quan tâm nó (mặc cho vọng niệm lăng xăng, hãy nghe chính mình và niệm Phật rõ ràng), đây là yếu quyết. Then chốt vẫn là khởi lên một câu hiệu Phật nầy.
Tiếng không nhiếp niệm: Tiếng – chỉ cho lúc niệm Phật, tiếng niệm Phật trong miệng phát ra, âm thinh nầy có tác dụng rất lớn, then chốt của pháp môn tịnh độ, cũng có thể nói là “Mật quyết”, tức ở nơi tự niệm tự nghe. Cái được niệm là Nam Mô A Di Ðà Phật, cái được nghe cũng là: Nam Mô A Di Ðà Phật. Cho nên đều nhiếp sáu căn, trước tiên thì thiệt căn (lưỡi) và nhĩ căn (tai) đều nhiếp. Lúc nầy niệm là danh hiệu Phật, mà nghe cũng là danh hiệu Phật, tưởng cũng là danh hiệu Phật, nên ý căn (ý) cũng được nhiếp, tay giữ chuỗi niệm (thân), (mắt) thì nhìn tượng Phật, trong tỷ căn (mũi) được nghe là mùi hương đốt cúng Phật, cho nên ba căn nầy cũng được nhiếp. Nhiếp sáu căn đều là then chốt ở nơi nghe. Thông thường chúng ta tự tu, dùng cách “Kim cang trì” tốt nhất, tức là có một tí âm thanh vừa vừa ở giữa miệng môi và chân răng, không phải to lắm. Cách nầy niệm đã có âm thanh lại vừa dưỡng khí, gọi là Kim cang trì. Mặc nhiên cũng có thể nghe, song mặc niệm thì mệt một chút. Âm thanh lớn nhỏ có thể linh hoạt, lúc tán loạn và lúc phiền não khởi có thể niệm lớn, dùng âm thanh để nhiếp niệm. Nếu niệm được yên tịnh thì có thể niệm nhỏ, niệm cách Kim cang trì hoặc nhỏ một chút đều có thể được. Cần có tiếng, cần nghe được tiếng nầy. Âm thanh nầy thì có nhiếp được niệm; đây là chỗ thù thắng của pháp môn niệm Phật, then chốt là ở nơi “Tự nghe”.
Khinh lờn thành quen: Nếu như lúc niệm tự tâm phiền tạp tán loạn, tiếng được niệm tất nhiên lộn xộn khó nghe. Tâm không chuyên chú tai cũng mất linh nghiệm, tác dụng của tiếng niệm tự nhiên không nhiếp niệm một chút nào cả. Ở tình huống nầy đâu có tác dụng nhiếp đều sáu căn. Ngược lại cái hay dẫn khởi là kết quả xấu có hại “Khinh lờn thành quen”, đây là thành ngữ thường dùng ở trong đạo Phật. Niệm một cách khinh thường không thể chuyển thức thành trí, mà là nuôi lớn cái thói quen (Thức). Chúng ta niệm Phật tức là chuyển ý thức phân biệt thành “Diệu quán sát trí”. Nên khiến nó chuyển. Nếu niệm như thế nầy: vừa không âm tiết, tán loạn, tinh thần lăng xăng, lại vừa không liền suốt, tưởng trong tâm và niệm trong miệng không giống nhau, âm thanh được niệm cũng nhiếp không được ở nơi tâm, phép niệm nầy không phải là “chuyển” Thức mà là “nuôi dưỡng” Thức, Thức được bồi dưỡng ở trong đó, đây chính là “nỗi buồn của cổ đức”, tức là niệm cách nầy rất đáng tiếc! – Khó được thân người, khó sinh ở quốc gia trung tâm, khó nghe được Phật pháp, khó tin tịnh độ; Dù còn chịu niệm, nhưng lại niệm kiểu nầy cho nên Cổ đức rất là buồn tiếc. Niệm cách nầy thì “vĩnh viễn khó thành từng loạt”, niệm Phật niệm đến khi nhất tâm bất loạn rất khó, trước nhất phải đạt đến niệm Phật thành thói quen. Chúng ta nên phải niệm cho được thành thói quen, ít thì mười mấy câu, nhiều thì ba chục câu, nhiều nữa thì một tràng hai tràng, trong lúc nầy tâm không được động chạy, từ đầu đến cuối đều là: Nam Mô A Di Ðà Phật, đây gọi thành tràng, mức độ chính mình là thế nào, chính mình hoàn toàn có thể biết. Cho nên pháp niệm nầy, kiểu như trên, tức là “vĩnh viễn chẳng thành loạt”, đây là phép niệm không tốt, thì nên tránh đi, nên tránh khỏi chỗ dễ sinh sai lệch, mà nên tập trung tinh thần sức lực mặt hướng về ánh sáng.
Trước mắt chỉ nêu ra sự cấm kỵ của niệm Phật, cần gắng sức trừ bỏ, sau đây chính là con đường vạch ra nên tuân thủ đối với việc trước mắt:
+ Âm thanh hài hòa vận tiết ổn định: Thanh hòa, chỉ cho tiếng và ý khi niệm Phật nên hài hòa, hòa mỹ, yên hòa. Bỡi vì âm rất là quan hệ, nếu niệm quá gắt gao hay khàn giọng thì âm thanh chẳng được hòa. Tiếng của người đến chỗ mà âm thanh tốt đẹp vi diệu, thanh tịnh trang nghiêm, thì tự nhiên tâm sẽ khoáng đạt tinh thần vui vẻ, thân tâm được an hòa. Ngược lại thì khiến tâm người loạn, nóng nảy không an.
Vận ổn: Vận là âm thanh hài hòa, lại chỉ cho khí độ của thần vận cao nhã. Ổn là chỉ cho sự an định thỏa đáng, vận ổn là âm thanh an hòa trầm tĩnh, khí vận thì cao nhã, tự nhiên có một sự điều hòa của âm vận.
+ Khẩn thiết chu đáo: Khẩn thiết, ta niệm Phật như đang ở trước Phật, cách nầy mỗi niệm một tiếng, đều là từ trong tâm chí thành phát ra, khẩn khẩn thiết thiết niệm: Nam Mô A Di Ðà Phật, cần phải từng câu từng câu, đây tức là cách niệm chu đáo, cũng tức là tịnh niệm nối nhau. Ðối với người đã có thời khóa ổn định, trước nhất yêu cầu là phải rất chu đáo ở trong thời khóa, thời gian nầy không nên lệch lạc. Lại nói thêm rằng, thế thì không chỉ vỏn vẹn trong định khóa mới chu đáo, mà nên phải xuyên suốt được tùy lúc tùy chỗ, đều cần phải thường thường khởi lên một câu Phật hiệu nầy. Nếu có thể được như vậy, thành tràng thành hạt cũng chẳng khó. Pháp môn tịnh độ (niệm Phật) có cái hay ở trong đây, người đời có thể làm được, không phải là cao không vói tới. Cần anh khai ngộ, thế thì khó rồi, không phải là người người đều có thể, anh cũng có tánh khả năng, chỉ cần làm được cho dù một hai người của ngàn vạn người khó, hiện tại anh có thể kể ra mấy chục người khai ngộ không? Niệm Phật vãng sanh cũng không phải là kiểu nầy, mà ai cũng đều có thể niệm. Cần chu đáo, thường có một câu nầy, sự tình là có thể làm được, vấn đề là tự mình không chịu niệm. Phiền não một khi khởi lên thì không chịu niệm. Giận dữ gấp rút là phiền não, vui vẻ đắc ý cũng là phiền não; Kỳ thật xét kỹ trong phiền não cũng có thể niệm, chỉ là chính mình không chịu niệm, nếu hay tỉ mỉ chu đáo, trì niệm khẩn thiết, tự nhiên sẽ thành loạt thành tràng, nhất tâm bất loạn. Cho nên việc niệm Phật vãng sinh thường xuyên lúc nào cũng được quan tâm.
+ Trầm lắng an nhàn: Câu nói nầy chính là chỉ thẳng những chỗ bệnh trước mắt rất nhiều của người tu hành. Có người dụng công chỉ có lòng muốn gấp gáp, bực tức chẳng thể mau mau liền có chỗ thành tựu, do đó rất là khẩn trương, rất là gấp rút. Ðây cũng là có tâm mong cầu. Nhưng sự thù thắng của niệm Phật thì từ nơi “hữu niệm” mà thầm hợp với “vô niệm”, từ “hữu cầu” mà khế hợp với “vô cầu”, từ “vãng sanh” mà chứng được “vô sanh”. Nên “trầm lắng”, trầm lắng đến mức bình tĩnh, tâm tư không có một chút lo nghĩ bồi hồi sợ được sợ mất nào, lo nghĩ bất an nào. Mà vả lại nên “an nhàn”; Bỡi vì có người nổ lực, cũng bỡi ở tâm tư nôn nóng mà rơi vào sự khẩn trương, bề bộn, rối loạn, lo lắng, gấp rút… Như vậy là đi ngược lại lời dạy của bậc Thánh rồi!
“An nhàn”, hai chữ này tiến đến một bực nữa mà nói, không những chỉ là sự bình tĩnh (trấn định), mà còn là muôn duyên đều nhất loạt buông mất, không giữ không cầu, cho nên là một người đại nhàn giữa trời đất. Trong tâm chỉ nhớ câu niệm Phật, một câu danh hiệu Phật rõ ràng trước mặt, đã không có điều ngăn ngại lại chẳng điên đảo, vắng lặng an tâm. Cho nên có thể thấy rằng hai chữ AN NHÀN quan trọng cần yếu mười phần. Ngược lại, nếu gấp rút ở trong lòng, muốn thấy Phật thấy hào quang, muốn thấy xuất hiện điềm lành, niệm thế nầy thì sẽ sinh ra tâm bệnh; Vả lại không phải là do niệm Phật mà sinh ra bệnh đâu, mà là do trong lòng, gấp rút như thế nên sinh ra tâm bệnh. Chúng ta nên rất là an nhàn, vì sao có thể an nhàn? – Vì tín tâm! Người có tín tâm thì rất an nhàn. Có người hỏi rằng: Ta sao lại niệm chưa tốt, còn vọng tưởng tạp niệm? Ngài Ngẫu Ích đại sư giảng rất rõ: “vãng sanh hay không, hoàn toàn do nơi chỗ có hay không có tín nguyện”. Vậy thì anh có hay không có tín tâm sâu xa? Phải là phát nguyện chân chánh hay không? Chân chánh đó là không muốn lưu luyến thế giới Ta Bà nầy, mà ưa thích Cực Lạc nguyện cầu vãng sanh. Trên thực tế rất nhiều người còn lưu luyến, chẳng thể lìa bỏ, tham luyến tài sản, sự nghiệp, danh vọng, vợ con, vật chất, hưởng thụ, cuộc sống hiện tại tốt đẹp v.v… nên cố sức ham muốn nhiều nhưng sống được mấy năm, rồi lại muốn tốt nhất là trường sinh bất lão! Chính là lưu luyến thế giới nầy mà bỏ lìa không được. Cho nên ưa thích Cực Lạc cần phải phát “đại nguyện”. Nhiều kiếp trở lại đây tất cả chúng sinh đều là quyến thuộc của mình đang ở trong biển khổ đợi chờ ta cứu độ, nhưng ta làm sao mới có thể độ chúng sinh đây! Tự ta còn là người đang giãy giụa trong biển khổ, không có một chút năng lực nào cứu độ người khác, chỉ sau khi vãng sanh, nương sức gia trì của Phật, ta sẽ có được trí tuệ rồi cứu độ lập tức tất cả những quyến thuộc nầy. Phải là tâm tình như thế nầy và nguyện lực như thế nầy. Có tín và nguyện tự nhiên sẽ niệm, thì nhất định vãng sanh, cho nên vãng sanh hay không, hoàn toàn nhờ ở sự có hay không có tín nguyện. Mọi người nói muốn vãng sanh, thì trước nhất mọi người ở ngay nơi tín nguyện mà dốc sức công phu. Nguyện nầy của ta có chơn chánh hay không? Nếu tín nguyện thiết tha thì chắc chắn vãng sanh; Lại nữa vấn đề niệm Phật, trong tâm không nên gấp rút nôn nóng mà phải tự nhiên an nhàn.
+ Tiếng hợp với tâm, tâm ứng với tiếng: Tiếng niệm Phật từ trong tâm thành khẩn thanh tịnh phát ra tự nhiên hài hòa an ổn, âm thanh câu niệm Phật nầy vi diệu, trải qua tai mình mà đạt đến bản tâm, được nghe chính là được niệm, cho nên tự nhiên họp nhau, tiếng họp với tâm. Âm thanh nầy là danh hiệu Phật muôn đức trang nghiêm, cũng tức là âm thanh muôn đức trang nghiêm vậy. Âm thanh nầy vào từ nhĩ căn là tự tâm được niệm, tự tâm niệm Phật, tự tâm là Phật. Cho nên tự tâm chắc chắn tương ứng với tiếng được nghe. Tiếng hợp tâm, tâm hợp tiếng, cho nên nói rằng: “tâm và tiếng nương nhau”. Nói một cách đơn giản: Ta niệm Phật, mà niệm Phật có tiếng thì âm thanh trở lại trợ giúp cho ta. Do ta phát ra tiếng, tiếng trở lại giúp ta, cho nên nói nương nhau. Niệm như thế nầy không cần dùng cách bài trừ vọng niệm mà vọng niệm tự tiêu mất.
Chưa có thể “nhất tâm” thì trước phải cầu “chuyên niệm”, chưa có thể được “bất loạn” thì trước phải học tập “thành từng loạt”.
Nhất tâm bất loạn là lúc niệm Phật tâm không tán loạn, dẫn tới tâm chí thành, chuyên niệm danh hiệu Phật. Trong “Kinh Vô Lượng Thọ”, một điều kiện căn bản được yêu cầu của “ba hạng vãng sanh” đó là: “một hướng (lòng) chuyên niệm”. Thường xuyên chuyên niệm một câu A Di Ðà Phật nầy, là thời gian niệm rất chuyên tâm, không có vọng tưởng tạp niệm. Chưa thể đạt được nhất tâm thì trước phải chuyên niệm. Chuyên nhất chẳng biến đổi, là đối với người thấy khác hay suy nghĩ dời đổi mà nói, đứng núi nầy trông núi nọ, nói chung là chẳng thể yên được ở pháp môn mình tu, có nghĩa là ngày nay muốn niệm Phật, ngày mai muốn tham thiền, ngày mốt lại muốn tu mật, tóm lại muốn học nhiều bao nhiêu cách mới có thể nương nhờ được?
+ Chưa có thể “bất loạn”, trước phải “học thành từng loạt”: Làm chưa đạt được cái tâm “hoàn toàn đều không tán loạn”, thì trước nên khiến nó thành từng loạt. Ta không thể suốt không tán loạn, nhưng ta có cách làm mấy mươi câu thành một loạt, trong một loạt mấy mươi câu nầy không có vọng tưởng tạp loạn; Nếu người không chân thật dụng công thì ngay cả lập thành loạt niệm như thế nầy cũng khó mà làm được. Cho nên nói rằng: “Chơn siêng chơn chuyên, công hiệu tự thấy, không cần hỏi người, xin tự nghiệm lấy”. Như người uống nước, lạnh hay nóng tự biết.
Từng câu niệm mà chơn, chắc chắn ra khỏi Ta Bà. Thế nào gọi là CHƠN? – Một câu giải thích rất bình thường, nếu muốn niệm được chơn, chỉ cần niệm của chơn. Không phải là ngụy trang dối người, không phải là làm trên hình thức, không phải là có mục đích khác, không phải là vọng cầu điều quấy, không phải là cái vỏ bề ngoài. Phải nên khẩn cầu thiết tha, thường thật tín nguyện trì danh, một câu danh hiệu Phật nầy tự mình niệm rất rõ ràng, toàn bộ rất rõ ràng, tức là niệm chơn rồi vậy.
Niệm Phật chẳng thể cầu trước tiên là nhất tâm bất loạn, vì nhất tâm bất loạn rất là khó, có thể được một loạt một tràng, tức là ba mươi, năm mươi hoặc ba trăm, năm trăm câu… mà không loạn, lại có thể tùy lúc tùy nơi mà có thể khởi tưởng niệm Phật.
Niệm Phật mà có thể “nhất tâm bất loạn” đương nhiên là điều tốt rồi, nhưng có thể niệm được thành loạt thành tràng mà chẳng loạn đều không phải là dễ đâu. Có thể niệm được thành loạt thành tràng không loạn, tùy lúc tùy nơi khởi được tưởng niệm cũng là niệm Phật rồi. E rằng chỉ biết niệm Phật trong thời khóa nhất định, ngoài ra lúc bình thường chẳng tưởng được để niệm Phật!
Lúc niệm Phật nhất định nên niệm một cách “chánh tâm thành ý” và “cung kính”, đây là bí quyết nhiệm mầu của niệm Phật trì danh, mà vả lại trong lúc niệm Phật cần tâm không nên thêm việc, chuyên tâm chỉ Nam MôA Di Ðà Phật, niệm được thuần thục, thì có thể nhất tâm bất loạn rồi.
Trích Pháp Môn Trì Danh Niệm Phật, Vãng Sanh Cực Lạc
Tác giả: Huỳnh Lão cư sĩ
Hải Huyền Viên Giáo dịch
Tọa thiền là một phương pháp rất thông dụng, chẳng những trong đạo Phật mà ở ngoại đạo cũng vẫn có từ xưa.
Tọa thiền tức là ngồi để tham cứu một vấn đề gì. Thế nên, tọa thiền không phải là một phương pháp chứng quả thành đạo, mà là một trong vô lượng phương tiện giúp cho thân được an, để cho tâm không loạn và được chánh niệm chánh quán. Ngoại đạo chỉ chú trọng nơi thân mà không để ý đến tâm, trong khi thật ra, tâm mới là phần chánh, đáng chú trọng hơn cả.
B. Phương pháp tọa thiền.
Phần này chia làm ba:
1. Điều thân:
Thân lúc nào cũng làm duyên trợ cho tâm . Thế nên, nếu thân có những cử động thô thiển, khí lực sôi nổi, và lẽ tất nhiên tâm ý sẽ phù động, do đó khó mà nhập định được. Cho nên, trước khi tọa thiền, cần phải điều hòa thân. Vậy phải điều hòa thân bằng cách nào ?
a. Phải điều dưỡng sự ăn uống: Sự ăn uống đối với thân rất hệ trọng, vì bệnh thường phát sinh do nơi sự ăn uống. Có những thực vật hạp với cơ thể người này, nhưng lại không thể hạp với người kia, và trái lại. Dù sao, không nên dùng những thứ có dầu mở nhiều, tránh những chất hăng, kích thích thần kinh như càfé đậm, rượu, trà đậm, thuốc hút v.v… mà chỉ nên dùng những món ăn sơ sài trong sạch.
Trước giờ tọa thiền không nên ăn quá no mà chỉ ăn vừa đủ,vì nếu ăn quá no sẽ làm mệt dạ dày, ngồi không yên ổn. Không ăn chiều, lẽ tất nhiên là thích hợp đặc biệt với việc tọa thiền niệm Phật.
b. Y phục: Trước khi tọa thiền, phải tắm rửa cho thân thể được sạch sẽ để tránh khỏi ngứa ngấm trong người. Sau đó, trời lạnh thì mặc áo ấm, trời nóng thì dùng y phục mỏng, rộng rãi và sạch sẽ. Đai lưng (lưng quần) lúc nào cũng phải nới rộng ra.
Những điều trên đây giúp cho sự hô hấp dễ dàng và không bị lay chuyển bởi thời tiết.
c. Giữ thân cho được ngay thẳng và vững vàng: (Nghĩa là làm thế nào mà khi quên nó, không nghiêng ngã hay lay động). Muốn được như vậy, chỉ có cách duy nhất là ngồi, vì đi, đứng hay nằm không thể đạt được mục đích vừa nói trên .
Nhưng nếu ngồi mà thòng hai chân xuống, thì khi quên, thân lại cũng không vững. Hơn nữa lúc ở trong nhà, thất có bàn, ghế, giường v.v… thì không nói làm chi, nhưng khi ra ngoài vườn tược, đồng ruộng hay đến núi rừng để tọa thiền, khó tìm ra chỗ ngồi có thể thòng chân xuống được dễ dàng
Thế nên, chỉ có cách rút chân xếp bằng lại, là giúp cho chúng ta ngồi ngay thẳng và vững vàng mà thôi.
d. Cách ngồi: Có nhiều cách ngồi mà hành giả cần phải chọn lựa cho thích hợp với mình.
* Toàn già (cũng gọi là kiết già hay Kim Cang tọa): Gác bàn chân trái lên đùi bên mặt, gác bàn chân mặt lên bàn chân trái, gót hai bàn chân đều phải sát vào bụng.
* Bán già, có hai cách:
– Hàng ma tọa: gác bàn chân mặt trên đùi bên trái (như Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát).
– Kiết tường tọa: gác bàn chân trái lên đùi bên mặt (như Ngài Phổ Hiền Bồ Tát).
Trong ba cách ngồi, khi ngồi phải tập cho đầu gối sát xuống chiếu như nhau, hai mông cùng chịu đều như nhau thì mạch máu không bị cấn, chân không bị tê, cũng không nên dùng nệm quá dày. Một điều nên để ý, là thường lúc ban sơ, khi vừa ngồi kiết già hay nghe một chân nặng, một chân nhẹ. Để sửa chữa khuyết điểm đó, chỉ có một cách là dùng hai tay chống xuống chỗ ngồi để nâng toàn thể thân lên và hạ bên chân hay mông nhẹ xuống trước, bên nặng xuống sau, đôi ba lần thì hai chân hoặc hai mông sẽ đều, không còn cảm tưởng nặng nhẹ nữa.
Tay: Hai bàn tay để ngửa, bàn tay mặt đặt trên bàn tay trái, vừa sát bụng và để nhẹ trên hai bàn chân, hai đầu ngón tay cái đâu lại (Tam Muội ấn)
Phương pháp để bàn tay như vậy, theo cổ đức nói, làm cho điện lực trong thân lưu thông đều đặn, không biến thoát ra ngoài, giúp cho Tâm dễ an ổn.
Lưng: Tay chân đều đâu vào đó rồi, phải lay chuyển thân thể độ ba, bốn lần cho được ung dung và phải giữ xương sống ngay thẳng, chẳng khác nào một cây cột đối với cái nhà. Nếu cột xiêu thì nhà đổ vậy.
Đầu, cổ: Đầu và cổ cũng phải giữ cho ngay, nhưng không được ngước thẳng quá
Mắt: Mắt hơi nhắm lại, để chỉ còn thấy tướng trắng hay sáng bên ngoài mà thôi, đừng mở hẳn sẽ tán loạn; mà cũng đừng nhắm hẳn sẽ bị hôn trầm.
Miệng: Miệng phải ngậm lại, chót lưỡi để trên chân rằng hàm trên, răng phải để cho thong thả, đừng cắn cứng lại, nhờ đó hơi thở sẽ nhẹ nhàng.
2. Điều tức:
Khi thân đã nghiêm chỉnh rồi, bấy giờ hành giả mới bắt đầu thở ra nhẹ nhàng nhưng cho dài, tâm nghĩ tất cả ô trược trong thân đều tựa theo không khí mà ra ngoài hết. Đến khi hít vô cũng phải nhẹ nhàng và cho dài, nghĩ bao nhiêu điều thanh tịnh bên ngoài đều vào trong hết.
Làm như vậy được hai ba lần hay đến năm bảy lần nếu cần, cho trong thân được khoan khoái. Sau đó phải giữ hơi thở nhẹ nhàng thong thả, suông êm, dài ngắn cho quân bình.
Nên để ý, khi điều hòa hơi thở hành giả thường gặp hai lỗi sau:
a. Phong tướng: tức là hơi thở ra hít vào, nghe có tiếng gió, do vì hơi thở quá mạnh.
b. Suyễn tướng: tức là tuy thở ra vào không nghe tiếng, nhưng lại gấp rút hoặc rít sáp không thông.
Nếu khi ngồi tĩnh tọa mà thấy hai tướng trên đây, đó là triệu chứng tâm không được an định.
Nếu khéo điều nhiếp, dùng sổ tức thở ra hít vào thong thả, ít lâu sẽ thuần thục, tự nhiên hơi thở sẽ điều hòa, huyết mạch được lưu thông, trong người sẽ được ung dung khoan khoái.
Thế nên, điều hòa hơi thở là một công phu hệ trọng đối với phép tĩnh tọa.
3. Điều tâm:
Trước khi tọa thiền, hành giả có phát tâm trước, hoặc sổ tức, hoặc quán bất tịnh, hoặc niệm Phật v.v…
Nếu đã phát tâm niệm Phật, thì hành giả phải nghĩ Ta- bà ngũ trược, nhớp nhơ, là nguồn gốc của muôn ngàn thống khổ, nơi thân và hiện cảnh, phải làm thế nào thoát ly cho được, tức là phải yểm ly (chán nản) sanh tử nơi Ta bà mà cầu sanh về Cực Lạc.
Hành giả nhớ ngay đến cảnh Cực Lạc thuần vui không khổ, có đủ thắng duyên, thắng cảnh trợ lực cho hành giả mau thành Phật quả, quảng độ chúng sanh, đến đức Phật A- Mi- Đà tướng hảo quang minh, lúc nào cũng duỗi lòng từ tiếp dẫn chúng sanh về Cực Lạc quốc.
Lúc bấy giờ, hành giả khởi niệm câu dài “ Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi tiếp dẫn Đạo sư A- Mi- Đà Phật”, rồi lần lần thâu ngắn lại còn bốn chữ “ A Mi- Đà Phật” lúc đầu niệm lớn, sau niệm thầm để nhiếp tâm cho an trụ vào đó. Khi niệm ra tiếng hoặc thầm, đều cần thiết là phải niệm cho tiếng nổi rõ trong tâm chậm rãi, tâm ý nghe rõ, nhận rõ từng tiếng, từng chữ, tức là “ Quán trí hiện tiền”. Nếu không tâm sẽ tạp niệm (tán loạn), hay ngủ gục (hôn trầm).Nếu tán loạn, không rõ, lơ là hay khi hôn trầm muốn đến, hành giả phải cử tâm ngay bằng cách chú ý đến câu niệm Phật.
Có khi hành giả cố gắng kiềm tâm, nhưng tâm vẫn chạy và nếu tâm chạy mãi, thì có cách phải niệm Phật và nghĩ ở hai đầu ngón tay cái, đầu hai ngón chân cái hoặc nghĩ ở nơi cái rún mà niệm.
Làm như vậy, thần kinh hệ sẽ hạ xuống, tức là cái tâm sẽ hạ xuống mà bớt tán loạn.
Còn nếu bị hôn trầm thì phải nghĩ ở đỉnh đầu hay ở trán mà niệm thì sẽ hết, vì ý chí phấn khởi.
Hoặc hành giả có thể niệm theo phương pháp “ Thập niệm ký số”, là khi niệm Phật, phải ghi nhớ rành rẽ từ một đến mười câu, hết mười câu liền trở lại một, cứ như thế xoay vần mãi. Nhưng phải niệm trong vòng mười câu mà thôi, không được hai mươi, ba mươi câu, lại không nên lần chuỗi vì dùng tâm ghi nhớ. Có thể phân làm hai đoạn từ một đến năm, từ sáu đến mười. Hoặc còn thấy kém sức lại chia ra làm ba hơi, từ một đến ba, bốn đến sáu, bảy đến mười.
Cần để ý: niệm nhớ và nghe phải rõ ràng, vọng niệm mới không xen vào được. Dùng phép này lâu sẽ được nhất tâm.
Điều tâm là pháp môn tu chủ chánh. Nếu có sự biến chuyển nơi thân, không nên để ý đến, mà phải chuyên gìn chánh niệm.
C. Phương Pháp giải tọa (xả thiền)
Khi xả thiền, hành giả làm ngược lại tất cả. nghĩa là trước hết phải xả nơi tâm, kế xả nơi tức và sau cùng là xả thân.
1. Xả tâm: Hành giả phải nhớ lại, coi hiện giờ mình ngồi ở chỗ nào, nãy giờ mình làm gì, nhớ coi mình có tán loạn hay hôn trầm không, và dù có hay không, cũng vẫn hồi hướng công đức về Tây Phương để trang nghiêm Tịnh độ.
2. Xả tức: Sau khi xả tâm xong, hành giả mở miệng thở ra vài hơi thật dài để cho khí nóng trong người giảm bớt, và để hồi phục lại trạng thái bình thường như trước khi tĩnh tọa.
3. Xả thân: Tâm, tức đều xả xong, lúc bấy giờ hành giả se sẽ giao động nơi lưng và cổ. Khi mạch lạc chạy đều, từ từ duỗi hai tay ra, lấy hai bàn tay xoa nhè nhẹ với nhau, rồi xoa lên mắt. Sau đó uốn lưỡi một vài lần và nuốt chút nước miếng.
Tay và mắt xả xong, đến lượt hai chân. Trước hết phải lấy tay xoa hai bắp vế, rồi tháo lần lần hai chân ra, thoa hai bắp chuối và hai bàn chân. Khi nghe hai chân nóng hết rồi, hành giả chuyển động nhè nhẹ toàn thân rồi đứng dậy, đi tới đi lui.
D. Những điều cần thiết để tọa thiền có kết quả.
Hôn trầm, ngủ nghỉ là một chướng ngại trong việc tu thiền, thế nên nơi thân phải bớt ngủ nghỉ.
Phật dạy đầu hôm cuối đêm thì tham thiền, nửa đêm thì tụng kinh để tự tiêu tức, nhưng nếu mình không kham nổi thì nên bớt sự ngủ nghỉ. Ban đêm chỉ nghỉ ba canh, từ 11giờ đến 04 giờ sáng thôi, đó là lời dặn dò của cổ đức vậy. Còn nơi tâm thì phải có sự điều nhiếp theo hai cách dưới đây:
1. Không niệm tham dục.
2. Không niệm sân hận.
Nếu thực hành hai cách này mà không đắc lợi trên đường chánh định, hành giả phải kiểm điểm lại nơi tâm coi sanh tội lỗi chi không. Hằng ngày phải nói lời dịu dàng, hòa nhã cho tâm lắng xuống. Đối với người và vật, giữ cho tâm mát mẻ và luôn luôn nhẹ nhàng.
Ngoài giờ tĩnh tọa, phải giữ câu niệm Phật không rời tâm.Tâm tương ưng với chánh định thì phát ra khinh an, trong thân sẽ thấy khoan khoái. Thân tâm hiệp nhất, thân cảnh không hai.
Lúc bấy giờ hành giả ở trong định vắng lặng sẽ thấy thân tướng Phật, nghe Phật thuyết pháp và những cảnh giới nhiệm mầu không sao kể xiết… Đó là tướng niệm Phật thiện căn phát hiện do công phu tọa thiền niệm Phật mà thành công vậy.
Trích HƯƠNG SEN VẠN ĐỨC
Tác giả: HT. Thích Trí Tịnh
Nhà Xuất Bản Phương Đông TP. HCM 2006
Các Phúc Đáp Gần Đây