23 07 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Giáo lý phải thông đạt thì niệm Phật mới được tương ứng. Cổ nhân thường nói: “Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Vậy thì anh phải làm đến tương ứng, cái giáo lý này không thể không biết. Không biết giáo lý rất khó tương ứng, người không hiểu giáo lý cũng có tương ứng rất là ít. Rất là ít, đó là người gì? Thường ngôn nói rất hay: “Người thật thà”. Chân chánh thật thà có thể không cần hiểu giáo lý.
Cái gì gọi là thật thà? Dạy họ niệm A Di Đà Phật, họ liền niệm đến cùng, họ niệm A Di Đà Phật nhất định chẳng có vọng tưởng, quyết định chẳng có hoài nghi, quyết định chẳng có gián đoạn. Hạng người này gọi là người thật thà, người thật thà khó được. Có lẽ hiện nay, trong một vạn người khó mà tìm được một người. Người đó có thể không cần học giáo, có thể không cần nghe kinh, họ có thể thành tựu.
Cho nên trong Phật môn, bất luận là tông phái nào, một pháp môn nào, thật sự có thành tựu, một là người thượng trí, một là người hạ ngu. Hai hạng người này dễ dạy, người thượng trí họ hiểu được, họ thông minh, họ đối với giáo lý thông đạt cho nên họ không có hoài nghi, họ không có xen tạp, không có gián đoạn.
Còn cái hạng ngu này thì cổ nhân thường nói: “Ngu bất khả cập”. Chúng ta người thông thường so với họ không bằng. Tâm địa của họ thanh tịnh, trung hậu, lão thành, họ chẳng có tạp niệm, họ chẳng có dục vọng…
Dạy cho họ một câu Phật hiệu, họ liền niệm đến cùng, họ chẳng có hoài nghi, họ không có xen tạp, thường thường hai ba năm họ thành công rồi, họ vãng sanh biết trước ngày đi, họ không sanh bệnh, rõ rõ ràng ràng, minh minh bạch bạch. Lúc sắp ra đi Phật đến tiếp dẫn, vui mừng mà ra đi, chúng tôi nhìn thấy không ít.
Hạng người trình độ như chúng ta rất là khó độ, lên không lên, xuống không xuống, suốt ngày đến tối, khởi vọng tưởng, trong khi niệm Phật có xem tạp vọng tưởng, trong lúc học giáo cũng có xen tạp vọng tưởng, cho nên học giáo không thể khai ngộ, niệm Phật không được nhất tâm. Căn bệnh ngay tại chỗ này, bệnh của mình phải tự mình đối trị, người khác không thể giúp được.
Tự mình phải có quyết tâm, đem cái căn bệnh của mình sửa đổi trở lại. Cổ nhân nói rất hay: “Ngu bất khả cập”. Chúng ta muốn học hạng ngu rất khó, rất khó. Chúng ta muốn đem thân tâm thế giới, tất cả buông xuống, không thể không đi theo con đường giáo lý này. Thật sự thông đạt giáo lý cũng tức là nói cứu cánh nhân sanh vũ trụ này là sự việc gì? Nếu không thể triệt để thông đạt, nhưng đại khái cũng phải hiểu rõ.
Sau khi hiểu rõ anh mới biết buông xuống, anh mới biết được buông xuống là chính xác. Buông xuống đối với ta mới thật sự có lợi, nếu như không buông xuống thì một đời này của chúng ta dĩ nhiên là luống qua. Đời sau vẫn còn tạo luân hồi, ra không khỏi lục đạo luân hồi, vậy thì chúng ta phải ghi nhớ.
Trong kinh Phật , Phật nói với chúng ta: Lục đạo chúng sanh thời gian trong tam ác đạo thì dài, thời gian trong tam thiện đạo thì ngắn. Phật thường dùng thí dụ nói: Tam ác đạo là quê hương của anh, tam thiện đạo là anh đi ra ngoài du lịch. Anh đi ra ngoài du lịch ngắm cảnh thời gian ngắn tạm.
Tam ác đạo là quê hương của anh, thật rất đáng sợ! Đời đời kiếp kiếp chúng ta là người niệm Phật cùng với Phật có duyên rất sâu, vì sao không thể thành tựu? Tức là không chịu buông xuống, không có đem thân tâm thế giới triệt để buông xuống, cho nên Tây phương Cực Lạc thế giới đi không thành…
Những năm gần đây, chúng tôi đề xướng thuần tịnh thuần thiện. Tâm địa phải thuần tịnh, hành vi phải thuần thiện thì niệm Phật mới được vãng sanh. Vì sao? Tây phương Cực Lạc thế giới giai thị chư thượng thiện nhân tụ hội nhất xứ. Tâm của chúng ta không thanh tịnh, tâm không hiền lương, anh nghĩ xem anh làm sao có thể đi? A Di Đà Phật rất từ bi tiếp dẫn anh đến Cực Lạc thế giới rồi, anh đến Cực Lạc thế giới cùng với người này ở không quen, cùng với người kia trái mắt. Đây là cái chánh nhân của anh không được vãng sanh.
Cho nên tại thế gian này trong mấy chục năm, ngắn ngủi…Giống như chúng tôi là người đã lớn tuổi, đại khái chỉ còn trong vài năm hoặc trong mười mấy năm, người trung niên trở lên phải có cảnh giác cao độ, thời gian không nhiều, anh phải thật sự nắm lấy thời gian làm cái việc đời đời kiếp kiếp của chúng ta, hi vọng cầu một sự việc lớn này, không phải là một đời một kiếp, cơ hội lần này không thể bỏ qua…
Kinh Kim Cang Phật nói rất hay: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. Nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh…”. Anh mà đem những thứ này để ở trong tâm thì sai rồi, không nên còn lo lắng. Triệt để buông xuống, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, chỉ có Cực Lạc thế giới. Thật sự người cầu vãng sanh, trong một đời của anh, một bộ kinh Vô Lượng Thọ đủ rồi. Nếu chê kinh Vô Lượng Thọ quá nhiều, không cách nào thọ trì, vậy thì anh học kinh A Di Đà.
Kinh A Di Đà phân lượng ít, trước kia tại Trung Quốc chúng ta đều biết Ngài Liên Trì Đại Sư, đời cận đại Ấn Quang Đại Sư, các Ngài một đời chỉ thọ trì một bộ kinh A Di Đà, một câu lục tự hồng danh, thành Phật làm tổ. Nhất là Ngài Liên Trì Đại Sư nói rất hay: “Tam tạng mười hai bộ nhường cho người khác ngộ. Quý vị nào ưa thích thì quý vị đi ngộ. Tám vạn bốn ngàn hạnh (là tám vạn bốn ngàn pháp môn) nhường cho người khác hành, quý vị ưa thích tu pháp môn nào thì quý vị đi tu”. Ngài tự mình hết lòng hết dạ một bộ kinh Di Đà, một câu Phật hiệu thành Phật làm Tổ cũng dư thừa. Cái tâm vĩnh viễn là thanh tịnh, vĩnh viễn là chí thiện. Chúng tôi nói thuần tịnh thuần thiện, ngài hoàn toàn đã thực hiện được, hoàn toàn đã làm được cho nên ngài đã thành tựu.
Cái sự việc này nói thì dễ, lúc làm thì khó. Chỗ khó ở chỗ nào? Cái khó ở chỗ cái lý chúng ta không thấu triệt, phương pháp chưa tìm được tỉ mỉ tường tận. Nhất định phải biết rõ từ trong nội tâm của mình làm công phu, Phật pháp gọi là nội học, thời thời khắc khắc tự mình quán sát, không nên đi nhìn người khác, phải tiêu trừ mâu thuẫn trong nội tâm thì tâm của anh mới được thanh tịnh – Ngẫu Ích Đại Sư nói rất hay: “Cảnh duyên không tốt xấu, tốt xấu tại nơi tâm”…
Hòa thượng Tịnh Không
23 07 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Mọi người đều có thể hiểu được ý tứ của câu “Niệm Phật có nề nếp”, tức là toàn tâm toàn lực niệm Phật mà tâm không xen thêm việc khác, lúc có phiền não – niệm Phật, lúc hoan hỉ – cũng niệm Phật, ban ngày – niệm Phật, ban đêm – niệm Phật, lúc bận rộn – niệm Phật, lúc nhàn rỗi – cũng niệm Phật, không lúc nào là không khắc sâu và không ở tại câu niệm Phật.
Ðại khái là mọi người liệu hiểu được ý nghĩa vấn đề niệm Phật có nề nếp (thói quen). Kỳ thật đây chỉ là nêu lên sự công phu trên bề mặt, mà chưa phải là niệm Phật trên vấn đề “Ðức hạnh”. Tu hành mà chỉ ở mỗi sự biểu hiện của công phu bên ngoài, mà không có sự nổ lực thăng tiến ở nơi “đức hạnh”, nghiêm trì giới luật (năm giới, mười giới, sáu độ), thanh tịnh tâm; Thế thì, thói quen niệm Phật của người đó cũng giống như một máy niệm Phật quay chuyển tự động, tự động niệm hoài câu hiệu Phật, máy tự động niệm Phật tuy có thể có thói quen niệm Phật, song không thấy có thể vãng sanh thế Cực Lạc.
Người không tu hành thì có thể làm người không cần nề nếp lắm, nhưng người tu hành thì nửa chút việc cũng chẳng nên lơ là, chẳng nên thường bị việc thế tục như: Công tác, kết hôn, sinh con, lo gia đình, mua xe mua nhà… nhiều việc nhiều việc bận rộn! Trong tâm tham ái dính mắc sinh – tử – yêu – hận!.
Nên nương theo lời dạy như pháp mà tu hành nề nề nếp nếp, nhiên hậu mới có thể được giải thoát (sinh về thế giới Cực Lạc ở tây phương), đây là vấn đề ý vị sâu xa, cũng là chỗ diệu nghĩa của một câu “Niệm Phật có nề nếp” nầy. Nếu như người có thể dụng công niệm Phật phát ra bằng miệng thì càng bổ sung được những thiếu sót trên nhân phẩm; như thế có thể khẳng định rằng Phật giáo đồ bao gồm đại bộ phận đều được giải thoát (sinh tây) rồi.
Song đứng trên sự thật ngược lại không phải là như thế, có rất nhiều người niệm Phật chính mình đối với chính mình không có tín tâm, lại còn thưa với thân hữu (bạn bè thân) hãy vì mình mà lúc lâm chung niệm giúp mình một phen (người có tín tâm đầy đủ thì không cần phải thưa gởi như thế đâu); đây chính là người tu hành niệm Phật chẳng đủ sự thành thục, tín tâm dễ bị động lay vậy.
Cũng tức là nói rằng danh hiệu Phật bình thường ta niệm chẳng đủ thành nề nếp, trong tâm ta bị những sự việc hoặc những ý niệm “không nề nếp” của ta chiếm lĩnh, trong tâm tồn tại những việc thế tục so tính cưu mang dắt dẫn mãi, khiến cho ta biến thành kẻ “miệng thì nề nếp mà tâm không nề nếp”.
Cần nên biết rằng sự tình giải thoát (sinh tây) là chẳng thể hoàn toàn nhờ vào cửa miệng là xong, càng nên quan trọng là công phu trong tâm, nề nếp (thanh tịnh) trong tâm; trên miệng niệm tới niệm lui đều là một câu A Di Ðà Phật, miệng không biết được chính mình có thói quen hay không, nó chỉ là phản ảnh lại nhu cầu của nội tâm mà thôi, nó chẳng qua là công cụ phát thanh, nếu ta không dùng nó thì cũng chẳng thể ảnh hưởng lại nội tâm; cho nên công phu trên miệng không hoàn toàn chứng minh chỗ có nề nếp hay không, công phu trong tâm mới là chính của nề nếp.
Ta nếu niệm Phật nề nếp thì nên dùng nề nếp (thanh tịnh) trong tâm để niệm, ngàn vạn lần xin chớ nên dùng tâm không nề nếp mà niệm đức Phật nề nếp (thanh tịnh)! Nếu thế là hành vi tự khi dối, là chướng ngại cho việc giải thoát (sinh tây).
Lại nói rằng, một việc niệm Phật có nề nếp nầy thật chẳng phải dễ, đa số mọi người thật ra rất khó mà niệm Phật có nề nếp, tóm lại là đem Phật mình niệm thành ra ông thần tài để cầu tài, mong rằng có thể được của tiền giàu có v.v… đây vốn là bản tính của con người sai quấy sâu dày, nhưng ta có thể ở trong quá trình niệm Phật cầu tài, ngược lại mà xen lẫn sự ham muốn càng nhiều của mình, khiến cho mình càng khó bỏ thoát được vướng mắc của ham muốn, biến thành niệm Phật cầu phước báo trời người.
Cho nên niệm Phật thành nề nếp, tức là cần gội bỏ sạch hết tất cả những ý niệm ham muốn của thế tục nầy, nhìn rõ buông cả, đem tâm nhẹ nhàn không chấp, không vọng lấy, không vọng dùng, niệm Phật một cách chân thực tồn tại.
Chẳng nên chỉ niệm Phật trên miệng mà ngược lại trong tâm, để cho sáu dục chiếm đầy, thế thì chỗ thành tựu mà ta niệm Phật thu hoạch được khả năng ít ỏi không đủ dùng cho ta, vì ta đã đều để nó dụng cho việc tiền tài, giàu có, thân nhân… trên những việc ngoài thân, mà không tập trung lực lượng để đối phó ngay cái nguồn của tất cả phiền não (tâm) đã phát ra.
Ta có thể đúng như chỗ nguyện mà được sự linh nghiệm về tiền bạc giàu có v.v… thì ta ngược lại cũng khó chiến thắng nổi kẻ địch rất lớn của nhân loại đó là: Tự ngã; Nó từ trong danh lợi và lòng ham muốn mong cầu của thế gian mà thoát ra. Do vì tâm niệm của ta đã chẳng thuần tịnh được.
Trong “nề nếp” đã bao hàm ý nghĩa là hướng theo Phật Ðà mà học tập, nhìn chung, ngoan ngoãn chiếu theo lời dạy của Phật Ðà mà làm. Người chẳng có nề nếp, ngoài việc niệm Phật trên cữa miệng ra, các bộ phận khác đều xa lìa tâm Phật và hạnh Phật, nên biết rằng đức Di Ðà thì không thể mang được một bộ răng của anh lúc anh lâm chung vãng sanh, cái mà ngài mang là cái TÂM của anh, một cái tâm thanh tịnh, tâm học Ngài, nghĩ tưởng Ngài và có nề nề nếp nếp (thói quen) niệm đến Ngài!
Niệm Phật đương nhiên có thể giải thoát (sanh tây), chẳng thế thì cũng không thể có nhiều người xét rộng pháp môn nầy, nhưng niệm Phật giải thoát thật ra chẳng phải là không có điều kiện, nhân vì danh hiệu Phật ắt phải cần kết hợp với người niệm Phật, mới có thể khiến cho một câu danh hiệu Phật phát huy có sức ứng hợp của nó; cũng tức là nói tâm của người niệm Phật, hành vi (thân) và miệng cần phải kết hợp thành một thể; Miệng niệm Phật, trong tâm cũng cần tưởng Phật, hành vi thì không thể trái với sự dạy răn của Phật, đây mới là sự niệm Phật chu toàn.
Kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật dạy rằng:
“…Chánh tâm chánh ý, trai giới thanh tịnh, một ngày một đêm, hơn cả trăm năm làm thiện ở cõi nước Vô Lượng Thọ, bỡi vì sao? Vì cõi nước kia là Vô Vi tự nhiên, sẵn chứa các việc thiện, không có việc ác dù nhỏ; ở cõi nầy tu thiện, mười ngày mười đêm, hơn cả trăm năm làm việc thiện ở các nước Phật phương khác, bỡi vì sao? Ở các nước Phật khác người làm việc thiện rất nhiều, người làm ác rất ít ỏi, phước đức tự nhiên, không có chỗ tạo ra ác.
Chỉ vì cõi nầy việc ác rất nhiều, không có tự nhiên, siêng nơi khổ cầu ham muốn, chuyển đến dối gạt nhau, tâm nhọc nhằn thân khốn cùng, uống đắng ăn độc, việc ác như thế, chưa từng yên dứt”.
Huỳnh Lão cư sĩ
23 07 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Trong bài phú nôm “Cư Trần Lạc Đạo” của vua Trần Nhân Tông có những câu khẳng định Đức Phật A Di Đà chính là cái tâm trong sạch của mình:
Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi tới Tây phương.
Di Đà là tánh lặng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc.
Ta hãy nghe thiền sư Trung Hoa Không Cốc Long, sống đầu thế kỷ 15, bàn về niệm Phật:
Pháp môn niệm Phật là con đường thể hiện Đạo Phật ngắn nhất. Đừng tin ở hiện hữu sắc thân hư huyễn này, bởi vì tâm trước vào những phù hư của kiếp sống thế gian là cội gốc của luân hồi. Cõi Tịnh độ là đáng mong cầu nhất và phép niệm Phật là đáng trông cậy nhất. Đừng hỏi niệm Phật như thế nào gấp rút hay thư thả; đừng hỏi tụng đọc danh hiệu Ngài như thế nào, cao giọng hay thấp giọng; đừng để gò bó bởi điều luật nào, mà hãy nhất tâm bất loạn, tịch tĩnh và trầm mặc niệm tưởng.
Khi chứng đến chỗ chuyên nhất không bị ngoại cảnh quấy nhiễu, rồi một ngày kia một biến cố sẽ bất ngờ gây ra trong mình một thứ cải biến tâm lý, và nhờ đó mà nhận ra rằng cõi Tịch Quang Tịnh Độ là chính cõi đất này, và Phật A Di Đà cũng chính là cái tâm này. Nhưng hãy cẩn thận đừng phóng tâm mong chờ một cảnh tượng như thế, vì nó sẽ trở nên chướng ngại sự chứng đắc.
Niệm Phật nghĩa đen là “nghĩ tưởng đến đức Phật,” và được kể như là một trong sáu đề tài thiền định. Đó là: 1) Niệm Phật; 2) Niệm Pháp; 3) Niệm Tăng; 4) Niệm Giới; 5) Niệm Thí Xả và 6) Niệm Chư Thiên. Theo Ngài Trí Giả Đại Sư, vị Tổ thứ ba của Thiên Thai Tông, trong bản sớ giải kinh Pháp Hoa thì niệm Phật là “tư duy về đức Phật” và tư duy được coi như để đối trị trạng thái hôn trầm tà tưởng và những mệt nhọc của thân thể.
Đối với người Phật tử, tư duy về Đức Bổn Sư là điều rất tự nhiên, vì nhân cách vĩ đại của Ngài còn quang trọng hơn cả giáo lý Ngài dạy trong kinh điển, bởi vì nhân cách ấy là giáo lý sống động do chính đời Ngài phô diễn. Những khi cảm thấy chán nản trên đường tu hay tâm trí phóng túng theo ngoại cảnh, thì cách tốt nhất để khích lệ đức tinh tấn cho người Phật tử là tư duy về Đức Bổn Sư.
Khởi thủy, niệm Phật thuần túy là một lối hành trì đạo đức, nhưng vì uy lực kỳ bí của một danh hiệu đã kích thích mãnh liệt trên sự tưởng tượng có tính chất tôn giáo của các Phật tử Ấn, lối tư duy về Đức Phật coi Ngài như một nhân cách có những đức tính lớn như môt trí tuệ lớn (đại trí), một tình thương lớn (đại bi) và một ý chí lớn (đại lực) đã được thay thế bằng lối nhắc nhở danh hiệu của Ngài.
Khi Đức Phật A Di Đà thành đạo, Ngài muốn cho danh hiệu của Ngài vang dội khắp cả đại thiên thế giới, để Ngài có thể cứu độ chúng sinh nào nghe được danh hiệu Ngài. Những câu thường được nghe trong 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà như: “phát tâm xưng danh, nhẫn đến mười lần,” “chí tâm nghĩ nhớ đến ta,” “nếu có chúng sinh phát tâm thanh tịnh, dù chỉ một lần.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy người tu Tịnh Độ “quy y đức Phật A Di Đà” vì khi xưng tán Phật hiệu “A Di Đà Phật” sẽ thoát khỏi tội chướng trong 2, 80 ức kiếp.
Trong kinh Phật Thuyết A Di Đà, Đức Phật Thích Ca khuyên mọi người hãy tâm niệm danh hiệu của Đức A Di Đà Như Lai thì khi lâm chung sẽ an tâm mà từ giã cõi sống này. Trong luận Thập Trụ Tì Bà Sa, Ngài Long Thọ cho rằng nếu có người muốn đi nhanh đến chỗ bất thối chuyển, người đó phải hết lòng cung kính tâm niệm danh hiệu của Phật A Di Đà. Chúng ta thấy dường như có sự sai biệt giữa “tâm niệm” và “xưng tán,” nhưng trên phương diện hành trì thì tâm niệm danh hiệu Phật cũng là xưng tán hồng danh bằng sự im lặng hay thì thầm.
Kinh Bát Chu Tam Muội, một trong những nguồn có thẩm quyền về Tịnh Độ tông, được dịch sang Hán văn đầu thế kỷ thứ 2 do Ngài Lô Ca Lặc Xoa (Lokaraska), cũng có đề cập đến danh hiệu của Phật A Di Đà như sau: “Bồ tát khi nghe danh hiệu Phật A Di Đà và muốn được thấy Ngài, có thể thấy được Ngài do niệm mãi quốc độ của Ngài.”.
Ở đây dùng chữ “niệm” chứ không phải “xưng danh.” Như vậy Đức Phật trở thành đối tượng tư duy, là niệm tánh Phật bản lai của chính mình. Như vậy hành giả Tịnh Độ ngoài những thời khóa tu trì danh niệm Phật lúc nào cũng sống với bốn chữ hay sáu chữ hồng danh “Nam mô A Di Đà Phật,” lúc nào cũng dùng tâm để tưởng niệm. Việc chuyên tâm niệm Phật là cần thiết để đào sâu đức tin, vì nếu không có đức tin này thì không bao giờ có sự vãng sanh.
Chư Phật cứu độ chúng sinh bằng bốn phương pháp: 1) Bằng khẩu thuyết như được ghi chép lại trong Kinh tạng; 2) Bằng tướng hảo quang minh; 3) Bằng vô lượng đức dụng thần thông, đủ các thứ biến hóa; 4) Bằng các danh hiệu của các Ngài, mà một khi chúng sinh thốt lên, sẽ trừ khử những chướng ngại và chắc chắn sẽ vãng sinh Phật tiền.
Ngài Đạo Xước (562-645), một hành giả lỗi lạc của Tịnh Độ tông, cho rằng: “Thời này cách Phật bốn năm trăm năm, chính là thời chúng ta phải sám hối tội chướng, tu tập phước đức và xưng Phật danh hiệu. Kinh há chẳng nói dù chỉ một lần nghĩ nhớ đến Phật A Di Đà và xưng tụng danh hiệu Ngài liền trừ được tội chướng sinh tử của chúng ta trong 2, 80 ức kiếp? Chỉ một niệm mà đã thế, huống tu thường niệm, hằng sám hối?” Tất cả người tu niệm Phật kể từ sau Ngài Đạo Xước đều hăng hái chấp nhận thuyết này, và niệm Phật (nghĩ nhớ Phật) đã được đồng hóa với xưng danh (thốt lên danh hiệu).
Như vậy khi nói tới pháp môn Tịnh độ là nói tới “trì danh niệm Phật.” Trong sách Niệm Phật Thập Yếu, Đại sư Thiền Tâm có trình bày mười phương thức trì danh như sau: 1) Phản văn trì danh; 2) Sổ châu trì danh; 3) Tùy tức trì danh; 4) Truy đảnh trì danh; 5) Giác chiếu trì danh; 6) Lễ bái trì danh; 7) Ký thập trì danh; 8) Liên hoa trì danh; 9) Quang trung trì danh và 10) Quán Phật trì danh. Đại sư cho rằng: “Trì danh niệm Phật đã gồm khắp ba căn (thượng, trung, hạ), lại đắc hiệu mau lẹ, ai cũng có thể thật hành. Trì danh nếu tinh thành sẽ có cảm cách, hiện tiền thấy ngay chánh báo y báo cõi Cực lạc, tỏ ngộ bản tâm, đời nay dù chưa chứng thật tướng, sau khi vãng sanh cũng quyết được chứng.”
Trì danh niệm Phật là niệm ra tiếng hay niệm thầm bốn chữ hoặc sáu chữ hồng danh “Nam mô A Di Đà Phật.” Khi đọc lên danh hiệu này, người tu Tịnh Độ dùng tất cả tâm trí tập trung vào danh hiệu Phật chứ không phải ở Đức Phật.
Ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm của Ngài không được vẽ trong tâm hành giả. Với một công phu nhiệt thành, một niềm tin lớn lao, một khát vọng nồng nàn, danh hiệu chiếm trọn môi trường ý thức của hành giả. Kinh Di Đà tiểu bản (tức kinh Phật Thuyết A Di Đà) nói: “Thiện nam hay thiện nữ nào nghe nói đến đức A Di Đà Phật, trì niệm danh hiệu của Ngài…” Trì niệm (chấp trì) có nghĩa là “giữ vững một đối tượng trong tâm,” là chú tâm trên chính danh hiệu chứ không chỉ tụng đọc suông.
Chắc chắn lối niệm Phật xuất phát từ tâm này sẽ hỗ trợ rất nhiều cho việc tập định, nghĩa là tiếp cận cảnh giới “nhất tâm bất loạn.” Khi niệm Phật thuần thục và định tâm, đối tượng của tâm là câu “Nam mô A Di Đà Phật” trở thành nhất thể với bản tâm của hành giả; mỗi một niệm đều quay về nguồn suối lưu xuất của Chánh giác; danh và thể không phân hai, thì chính trong danh hiệu là toàn thể của Chánh giác, và vì thể của Chánh giác là như thế nên nó là bản thể vãng sinh của hết thảy hữu tình trong mười phương.
Kinh Di Đà tiểu bản nói: “không thể chỉ đem thiện căn nhỏ (thiểu thiện căn) làm yếu tố để được sanh Cực lạc..” Thiện căn nhỏ là những việc thiện ngoài sự trì danh niệm Phật. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “muốn sinh Cực lạc thì phải làm ba phước: một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, làm mười thiện nghiệp; hai là thọ trì tam quy, giữ đủ tịnh giới, không phạm uy nghi; ba là phát bồ đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tiến người tu.” Chỉ có ba phước phải và nên làm, vậy mà người tu bỏ cả một đời vẫn không làm nổi! Thiện căn như vậy mà nói là nhỏ, là chỉ vì có yếu tố và cảnh ngộ mới có làm có giữ, không thì làm và giữ gián đoạn.
Ví dụ như con muốn hiếu dưỡng cha mẹ nhưng cũng không thể được vì cha mẹ đã quá vãng; bồ đề tâm đã phát cũng có khi quên mất nên tiếng là làm việc Phật hóa ra là đang bị ma đưa lối qủy đưa đường v.v.. Tuy nói là “thiện căn nhỏ” nhưng vẫn phải có để hỗ trợ cho sự sinh Cực lạc. Nên yếu tố sinh Cực lạc phải có chính có phụ. Yếu tố chính là sự niệm Phật một cách nhất tâm bất loạn. “Nhất tâm bất loạn” là niệm Phật thuần thục và định tâm cho đến đồng nhất tâm trí của hành giả vào danh hiệu của Phật.
gài Huyền Trang dịch đề kinh Di Đà tiểu bản là “Xưng Tán Tịnh Độ, Phật Nhiếp Thọ Kinh,” và dịch câu “nhất tâm bất loạn” là “hệ niệm bất loạn.” Hệ niệm bất loạn là buộc sự nhớ nghĩ của mình vào danh hiệu của Phật mà không nhớ nghĩ gì khác, dù gì khác đó là tốt hay xấu. Nếu sự tu tập theo chiều hướng “hệ niệm bất loạn,” thì một mai “thân hành giả trở thành Nam mô A Di Đà Phật và tâm hành giả trở thành Nam mô A Di Đà Phật.”
Cái mục tiêu minh bạch do các Sư Tổ của Tịnh độ tông tạo ra, theo đó trì danh niệm Phật là pháp môn giải thoát dễ hành nhất đối với mọi chúng sinh. Mục tiêu ấy dĩ nhiên y cứ trên bản nguyện của Đức Phật A Di Đà. Trong bản nguyện này Phật đoan chắc với chúng đệ tử là họ sẽ vãng sinh Cực lạc, chỉ cần xướng lên danh hiệu của Ngài, đồng thời bày tỏ lòng tịnh tín của mình và chí nguyện “vì tuệ giác bồ đề mà cầu sinh Cực lạc.”
Quảng Minh
23 07 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Chí thành tâm, Thâm tâm, Hồi hướng phát nguyện tâm. Một là chí thành tâm. Chí tức là chân, thành tức là thực. Ý muốn nói tất cả chúng sinh, ba nghiệp thân khẩu ý tu tập giải môn, hoặc hành môn, đều phải từ tâm chân thật xuất phát, không thể bên ngoài hiện tướng hiền thiện, tinh tiến, mà trong tâm thì giả dối, tham lam, tà ngụy, gian trá đa đoan, hung ác dữ dằn, mưu mô nham hiểm; tuy cũng hành trì ba nghiệp, nhưng gọi là việc lành pha chất độc, cũng gọi là hành trì giả dối, không được gọi là nghiệp thiện chân thực.
Nếu như dùng tâm như vậy mà tu hành, dù có thân tâm lao nhọc, tinh tiến hành trì như cứu đầu đang bị cháy, cũng chỉ gọi là việc thiện pha chất độc. Muốn dùng công hạnh trộn độc này để cầu sinh Cực Lạc, đây là điều không thể được! Vì sao? Bởi vì Ðức Phật A Di Ðà, trong lúc tu nhân, dù trong một niệm, một sát na, ba nghiệp mà Ngài tu tập, đều phát xuất từ tâm chân thực, và những sự việc Ngài tạo tác, nguyện cầu, cũng đều là chân thực.
Lại nữa, chân thực có hai loại: một là tự lợi chân thực, hai là lợi tha chân thực.
Tự lợi chân thực, lại có hai loại:
a/ Dùng tâm chân thực, chế phục, xả bỏ những ác hạnh của mình và người, cùng những cõi nước thô ác; trong tất cả mọi thời, nghĩ tưởng các vị Bồ tát chế phục, xả bỏ ác hạnh, mình cũng phải nên như vậy.
b/ Dùng tâm chân thực, siêng tu tất cả pháp thiện, dùng tâm chân thực, tán thán Ðức A Di Ðà cùng y báo và chánh báo của cõi Cực Lạc.
Lại từ tâm chân thực, dùng khẩu nghiệp quở trách, nhàm chán tất cả y báo chánh báo thô ác của mình và người trong ba cõi sáu đường, lại tán thán những thiện hạnh của ba nghiệp thân khẩu ý của tất cả chúng sinh, còn đối với những chúng sinh không làm thiện, kính nhi viễn chi, mà cũng chẳng tùy hỷ việc làm của họ.
Lại từ tâm chân thực, dùng thân nghiệp chắp tay lễ kính, cúng dường y phục, thức ăn, … đến Ðức Phật A Di Ðà, cùng y báo chánh báo của cõi Cực Lạc.
Lại từ tâm chân thực, dùng thân nghiệp, xem thường, nhàm chán y báo, chánh báo của mình và người trong ba cõi sinh tử này.
Lại từ tâm chân thực, dùng ý nghiệp suy ngẫm, quán sát, nhớ nghĩ Ðức Phật A Di Ðà, cùng y báo chánh báo của cõi Cực Lạc, giống như hiện đang trước mắt.
Lại từ tâm chân thực, dùng ý nghiệp xem thường, nhàm chán y báo, chánh báo của mình và người trong ba cõi sinh tử này.
Phải từ tâm chân thực, xả bỏ ba nghiệp bất thiện, và cũng phải từ tâm chân thực khởi ba nghiệp thiện thân khẩu ý.
Bất luận trong, ngoài, ngày, đêm, đều phải một lòng chân thực, cho nên gọi là chí thành tâm.
Hai là thâm tâm. Thâm tâm tức là lòng tin sâu, có hai loại:
a/ Quyết định tin sâu rằng thân hiện tại của mình là phàm phu tội ác, từ vô thỉ đến nay, chìm đắm, trôi lăn trong sinh tử, không có nhân duyên để xuất ly.
b/ Quyết định tin sâu, không còn nghi ngờ đắn đo, rằng Ðức A Di Ðà có bốn mươi tám lời nguyện, nhiếp thọ chúng sinh, nương vào nguyện lực của Ngài ắt được vãng sinh.
Lại quyết định tin sâu rằng Ðức Phật Thích Ca giảng nói về ba phước, chín phẩm, định thiện, tán thiện, cùng chứng minh, tán thán y báo chánh báo của cõi Cực Lạc là để cho chúng sinh hâm mộ.
Lại quyết định tin sâu rằng trong kinh A Di Ðà, mười phương chư Phật khuyến khích, chứng minh tất cả phàm phu quyết định được vãng sinh.
Ðối với lòng tin sâu này, ngưỡng nguyện tất cả hành giả, một lòng chỉ tin lời Phật, không luyến tiếc thân mạng, quyết định phụng hành. Phật bảo xả bỏ, nhất định phải xả bỏ, Phật bảo hành trì, nhất định phải hành trì, Phật bảo vãng sinh, nhất định phải vãng sinh, đây gọi là tùy thuận lời Phật dạy, tùy thuận ý muốn của Phật, tùy thuận bổn nguyện của Phật. Ðây gọi là Phật tử chân thực.
Tất cả hành giả, chỉ cần y theo Kinh này, tin tưởng hành trì, chắc chắn sẽ không bị sai lầm. Vì sao? Ðức Phật là Bậc đầy đủ tâm đại bi, là Bậc nói lời thật. Từ Phật trở xuống, tất cả phàm thánh khác, trí hạnh chưa đầy đủ, vẫn còn trong giai đoạn học tập, chưa trừ sạch phiền não chướng và sở tri chướng, nguyện hạnh chưa tròn, những người như vậy, giả sử muốn suy lường trí của Phật, cũng chưa chắc suy lường nổi; tuy có bình luận, phán đoán, nhưng phải qua sự ấn chứng của Phật mới trở thành định án.
Nếu như xứng ý của Phật, Ngài sẽ ấn khả: “Ðúng vậy! Ðúng vậy!”, nếu không xứng ý Phật, Ngài sẽ bảo: “Lời của ông nói, ý nghĩa không phải như vậy!” Không được ấn khả thì bị xem như lời nói không đáng ghi chép, hoàn toàn không lợi ích.
Những điều Phật ấn khả, tức là tùy thuận chánh giáo của Phật, còn những lời Phật nói, thì tức là chánh giáo, chánh nghĩa, chánh hành, chánh giải, chánh nghiệp, chánh trí, dù ít dù nhiều, cũng không cần hỏi Bồ tát, trời người là đúng hay sai! Nếu những lời Phật nói là liễu nghĩa, thì những lời của chư Bồ tát nói đều không liễu nghĩa. Phải nên biết như vậy!
Hiện nay ngưỡng mong quí vị có duyên với pháp Vãng sinh, chỉ nên tin sâu lời Phật, chuyên chú phụng hành, không nên tin những lời dạy không tương ưng của chư vị Bồ tát, khởi tâm nghi ngờ, tự làm chướng ngại, cố chấp mê mờ, mà đánh mất sự lợi ích lớn lao của sự vãng sinh.
Người có lòng tin sâu thiết, quyết định kiến lập tự tâm, thuận theo giáo pháp tu hành, vĩnh viễn dứt trừ nghi hoặc, lầm lẫn; quyết không vì tất cả giải ngộ khác biệt, hành trì khác biệt, sở học khác biệt, kiến giải khác biệt, sở thích khác biệt, mà làm cho mình thoái thất dao động.
Hỏi: Phàm phu trí tuệ nông cạn, tội chướng sâu dày, nếu gặp phải những người tu pháp môn khác đem những kinh luận khác ra dẫn chứng rằng: “Tất cả phàm phu tội chướng không thể vãng sinh”, làm thế nào để đối phó, hòng giữ vững lòng tin, quyết định tiến bước, không sinh khiếp nhược?
Ðáp: Nếu có người đem kinh luận ra dẫn chứng rằng không có sự vãng sinh, hành giả nên trả lời với họ rằng: “Ông tuy đem kinh luận ra dẫn chứng sự không thể vãng sinh, nhưng theo thiển ý của tôi, quyết không tiếp thọ lời nói của ông. Vì sao? Tôi không phải không tin những lời ông nói, thực sự, tôi tin tưởng tất cả kinh luận đó, thế nhưng lúc Ðức Phật giảng nói những kinh đó, xứ sở khác, thời gian khác, đối tượng thuyết pháp khác, sự lợi ích cũng khác; lại nữa, lúc Ðức Phật giảng nói những kinh đó, không phải là lúc Ngài nói Quán Kinh, A Di Ðà Kinh, v.v..
Vả lại, Ðức Phật nói pháp thích ứng cơ nghi, thời tiết không đồng, những kinh luận đó là nói chung về các giải hạnh cho hàng trời người và chư Bồ tát, còn hiện nay nói hai công hạnh định thiện và tán thiện trong Quán Kinh là cho hoàng hậu Vi Ðề Hy, cùng cho tất cả chúng sinh ở trong đời ác năm trược sau khi Ðức Phật diệt độ, xác chứng cho sự vãng sinh.
Do nhân duyên này, hiện nay tôi nguyện một lòng y theo lời dạy của Phật, quyết định phụng hành. Giả sử ông dẫn chứng trăm ngàn vạn ức kinh luận nói không vãng sinh, điều này chỉ càng làm tăng trưởng, thành tựu lòng tin của tôi đối với sự vãng sinh Cực Lạc”.
Hành giả nên nói với đối phương: “Ông hãy lắng nghe, tôi nay nói thêm cho ông biết về lòng tin quyết định của tôi. Giả sử địa tiền Bồ tát, La hán, Bích chi phật, dù một hay nhiều người đầy khắp mười phương, đều dẫn chứng kinh luận nói không có sự vãng sinh, tôi cũng không khởi một niệm nghi ngờ, và điều đó cũng chỉ làm tăng trưởng thành tựu lòng tin thanh tịnh của tôi đối với sự vãng sinh. Vì sao? Vì lời Phật là quyết định thành tựu liễu nghĩa, tất cả thế gian đều không thể phá hoại được.
Ông nên nghe cho kỹ, giả sử chư Bồ tát từ Sơ địa đến Thập địa, dù một hay nhiều người đầy khắp mười phương, cùng nhau nói rằng: “Ðức Phật Thích Ca tán thán Phật A Di Ðà, quở trách ba cõi sáu đường, khuyến khích chúng sinh chuyên tâm niệm Phật và tu tập các công hạnh lành khác, sau khi lâm chung nhất định sẽ vãng sinh Cực Lạc, đây quyết là lời hư dối, không thể tin được.”
Tôi tuy nghe những lời như thế, cũng không hề sinh khởi một niệm nghi ngờ, mà chỉ làm tăng trưởng thành tựu lòng tin quyết định bậc thượng thượng của tôi. Vì sao? Bởi vì lời của Phật là quyết định liễu nghĩa. Phật là Ðấng Thực trí, Thực giải, Thực kiến, Thực chứng, không phải là người dùng tâm nghi hoặc mà nói; lại nữa, lời dạy của Ngài không thể bị những dị kiến, dị giải của các vị Bồ tát phá hoại; nếu như thật là Bồ tát, những vị ấy quyết không đi ngược lời Phật dạy.
Hành giả nên biết, giả sử như Hóa thân Phật, Báo thân Phật, hoặc một hoặc nhiều vị, đầy khắp mười phương, mỗi vị đều phóng ánh sáng, hiện tướng lưỡi rộng dài biến khắp mười phương, đều nói rằng: “Ðức Phật Thích Ca tán thán Cực Lạc, khuyến phát tất cả phàm phu chuyên tâm niệm Phật, cùng tu các hạnh khác để được vãng sinh Cực Lạc, đây là điều hư dối, quyết định không có việc này.”
Hành giả tuy nghe chư Phật nói lời như vậy, nhất định không khởi một niệm nghi ngờ, thoái chuyển, sợ rằng không vãng sinh Cực Lạc. Vì sao? Bởi vì một vị Phật, hay tất cả các vị Phật, các Ngài có cùng tri kiến, giải hạnh, chứng ngộ, quả vị, đại bi, v.v.., hoàn toàn giống nhau, không một chút sai biệt, cho nên điều mà một vị Phật chế định, tất cả vị Phật khác cũng đều chế định.
Chẳng hạn như vị Phật trước cấm chế mười điều ác như sát sanh, v.v..; nếu rốt ráo không làm ác, không phạm ác, thì gọi là thập thiện, thập hạnh, và có nghĩa là tùy thuận lục độ; nếu có vị Phật sau ra đời, chả lẽ ngài lại sửa đổi mười điều thiện, khiến chúng sinh làm mười điều ác hay sao? Dựa vào đạo lý này để suy nghiệm, có thể biết rõ rằng lời nói, hành động của chư Phật không trái nghịch nhau.
Nếu như Ðức Thích Ca chỉ dẫn, khuyến khích tất cả phàm phu, trọn cuộc đời họ, chuyên niệm danh hiệu Phật, siêng tu các công hạnh, sau khi mạng chung, quyết định vãng sinh Cực Lạc, tức là các Ðức Phật khác ở mười phương ắt cũng đều phải tán thán, khuyến khích, chứng minh cho sự giáo hóa này.
Vì sao? Vì các Ngài đều chứng đắc đồng thể đại bi! Lời dạy của một Ðức Phật tức là lời dạy của tất cả chư Phật, lời dạy của tất cả chư Phật cũng tức là lời dạy của một Ðức Phật, chẳng hạn như Kinh A Di Ðà nói: “Ðức Thích Ca tán thán cảnh giới trang nghiêm của cõi Cực Lạc, lại khuyến khích tất cả phàm phu, một ngày cho đến bảy ngày, một lòng chuyên niệm danh hiệu của Ðức A Di Ðà, quyết định sẽ được vãng sinh”.
Kế đó, đoạn dưới nói: “Trong mười phương thế giới, mỗi phương có hằng hà sa chư Phật, đồng lên tiếng tán thán Ðức Phật Thích Ca ở cõi ngũ trược, ác thời, ác thế giới, ác chúng sinh, ác kiến, ác tà, lúc chúng sinh không có lòng tin, mà có thể chỉ dẫn, tán thán danh hiệu Ðức Phật A Di Ðà, khuyên chúng sinh xưng niệm, quyết được vãng sinh, …” Ðây là một chứng minh cho sự nhất trí của chư Phật.
Mười phương chư Phật, e rằng chúng sinh không tin lời dạy của Phật Thích Ca, các Ngài bèn đồng tâm, đồng thời, hiện tướng lưỡi rộng dài, bao trùm các cõi tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực: “Tất cả chúng sinh đều phải nên tin nhận lời dạy dỗ, tán thán, chứng tín của Phật Thích Ca.
Tất cả phàm phu, bất luận tội phước nhiều ít, căn cơ cao thấp, chỉ cần trọn cả một đời, hoặc ít nhất là một ngày cho đến bảy ngày, một lòng chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Ðà, quyết định sẽ được vãng sinh, chắc chắn không còn nghi ngờ.” Bởi thế, lời dạy của một Ðức Phật ắt sẽ được tất cả chư Phật chứng thành. Ðây gọi là từ người mà thiết lập lòng tin.
Kế đến, từ công hạnh thiết lập lòng tin. Công hạnh có hai loại: một là chánh hạnh, hai là tạp hạnh, v.v.., như phẩm Hai Hạnh ở trên đã nói, cho nên không ghi ra ở đây, xin người đọc hiểu ý.
Ba là hồi hướng phát nguyện tâm.
Nghĩa là đem tất cả thiện căn thế gian, xuất thế gian, hoặc do thân khẩu ý nghiệp tự tu tập, hoặc do thân khẩu ý nghiệp tùy hỷ công đức tu tập của tất cả phàm thánh, từ đời quá khứ cho đến hiện nay, dùng lòng tin thâm sâu chân thực, hồi hướng nguyện sanh Cực Lạc, đây gọi là hồi hướng phát nguyện tâm.
Lại nữa, sự hồi hướng phát nguyện vãng sinh này, phải là do tâm chân thực quyết định, hồi hướng phát nguyện cầu sinh; lòng tin thâm sâu chân thực này, cứng chắc như kim cương, quyết không bị những người dị kiến, dị học, biệt giải, biệt hành, làm động loạn phá hoại. Chỉ nên một lòng quyết định, thẳng đường tiến bước, không được nghe lời kẻ khác, rồi phân vân lưỡng lự, sinh lòng sợ hãi, làm mất đi lợi ích lớn của sự vãng sinh.
Hỏi: Nếu như có người tu tạp hạnh, tà hạnh, không cùng kiến giải, hạnh nguyện, đến làm mê hoặc, não loạn, hoặc dùng đủ thứ luận điệu cho rằng không có sự vãng sinh, hoặc nói rằng chúng sinh từ vô thỉ đến nay, ba nghiệp thân khẩu ý, đối với tất cả phàm thánh, đã tạo đủ các tội, như thập ác, ngũ nghịch, phạm bốn giới trọng, hủy báng chánh pháp, làm nhất xiển đề, phá giới, phá kiến, v.v.., chưa thể diệt hết, quả báo của những tội ác này là ác đạo trong ba cõi, làm sao có thể trong một đời tu phước, niệm Phật, mà có thể tức khắc chứng nhập vào cõi vô lậu vô sinh, vĩnh viễn chứng đắc bất thoái chuyển.
Ðáp: Giáo, lý, hành, giải của chư Phật, số lượng nhiều hơn hằng sa, tất cả tùy theo cơ duyên, tình cảnh của chúng sanh mà thiết lập. Những điều có thể thấy có thể tin trên thế gian, chẳng hạn như ánh sáng phá trừ bóng tối, không gian có thể bao hàm vạn hữu, đất có thể chuyên chở, nuôi dưỡng vạn vật, nước đem đến sự tươi nhuận, lửa đem đến sự thành hoại của vạn vật, tất cả những sự việc này là pháp đối đãi, mà còn có thể đem đến ngàn muôn sự lợi ích khác nhau, huống là thần lực không thể nghĩ bàn của Phật pháp, lẽ nào không có muôn ngàn sự lợi ích?
Nếu như tạo một nghiệp, thì sẽ tự đem đến cho mình một phiền não, nếu như tu một pháp môn, thì sẽ bước vào một cửa trí tuệ giải thoát. Mọi người đều tùy theo nhân duyên của mình mà khởi hạnh tu tập, cầu mong sự giải thoát, ông vì cớ gì đem những pháp tu mà tôi không có duyên đến làm chướng ngại sự tu tập của tôi.
Pháp môn mà tôi ưa thích, tức là pháp môn mà tôi có duyên, đây không phải là chỗ ông mong cầu; còn pháp môn mà ông ưa thích, tức là pháp môn mà ông có duyên, nó cũng không phải là chỗ tôi mong cầu, như vậy, mỗi người tùy theo ý thích của mình mà tu tập, ắt sẽ mau gặt được quả giải thoát.
Hành giả nên biết, nếu muốn học tập giải môn, thì từ phàm phu đến bậc thánh, nhẫn đến thành Phật, tất cả pháp môn đều phải học, còn nếu muốn tu tập hành môn, cần phải nương vào pháp môn mà mình có duyên, ít dùng sức, ít lao nhọc, mà được nhiều sự lợi ích.
Xin bẩm bạch cùng các hành giả tu hạnh Vãng sinh, hiện nay xin đưa ra một ví dụ, giúp cho hành giả giữ vững lòng tin của mình, không để cho bọn tà ma, ngoại đạo dị kiến lung lạc.
Ví như có người đi về hướng tây, trăm ngàn dặm đường, khoảng giữa lộ trình có hai dòng sông chắn ngang, dòng sông lửa ở phía nam, dòng sông nước ở phía bắc, mỗi dòng sông rộng độ một trăm bước, sâu không thấy đáy, hai phía nam bắc không thấy ngằn mé. Băng qua hai dòng sông nước và lửa, có một con đường trắng rộng độ hơn một tấc, từ bờ phía đông sang bờ phía tây, dài độ hai trăm bước.
Bên phía dòng sông nước, sóng vỗ ào ạt, làm mặt đường trở thành trơn trợt, còn bên phía dòng sông lửa, lửa bốc mù mịt, làm cho mặt đường trở thành nóng bỏng, hai bên nước lửa tung tóe, không lúc nào ngừng.
Người đó đến gần bờ sông, chung quanh đồng không mông quạnh, bỗng nhiên có lũ đạo tặc và ác thú, thấy người đó đơn độc bèn đuổi theo muốn sát hại, người đó sợ chết bèn bỏ chạy về hướng tây, thấy hai dòng sông lớn này, trong lòng tự nghĩ: “Dòng sông này dài không thấy đầu đuôi, băng ngang là một con đường trắng nhỏ hẹp, hai bờ tuy cách nhau không xa, nhưng làm sao qua được.
Hôm nay chắc bị chết ở chốn này!” Vừa muốn quày đầu, liền thấy lũ đạo tặc và ác thú phía sau đã đến gần kề, nếu muốn đi về phía nam hoặc bắc thì lại bị ác thú, rắn độc đón đầu, muốn theo con đường chạy về phía tây, lại sợ hai con sông nước, lửa. Trong lúc đang bàng hoàng sợ hãi, bèn tự nghĩ thầm: “Bây giờ quay lại cũng chết, đứng lại cũng chết, đi tới cũng chết, đường nào cũng chết, chi bằng cứ theo phía trước mà tiến bước, nếu đã có con đường này, ắt sẽ thoát hiểm!”
Vừa nghĩ như vậy, bỗng nghe bên bờ phía đông (phía sau) có tiếng người khuyến khích: “Ông nên kiên quyết đi về hướng tây, ắt không còn nguy hiểm, nếu đứng lại thì sẽ chết.” Lại nghe bên bờ phía tây (trước mặt) có tiếng người gọi: “Ông nên một lòng chánh niệm đi thẳng qua đây, ta sẽ bảo vệ cho ông, không nên sợ bị rơi xuống nước, lửa.”
Người đó nghe tiếng hai phía, bên khuyên bên gọi, tức thời chấn chỉnh thân tâm, quyết định không còn rụt rè nghi ngại, đi thẳng theo con đường trước mặt. Vừa mới đi được một đoạn, bỗng nghe bọn đạo tặc bên bờ phía đông kêu réo: “Ông hãy quay lại, con đường trước mặt rất hiểm nghèo không qua được, chắc chắn sẽ bị chết, chúng tôi không có ác ý gì với ông!” Người đó tuy nghe tiếng kêu réo, vẫn nhất quyết không quày đầu, một lòng lần theo con đường đi thẳng tới trước, không bao lâu đã qua đến bờ bên kia, vĩnh viễn lìa xa ách nạn, gặp lại bạn bè, vô cùng hạnh phúc.
Ở đây, bờ phía đông ví cho cõi nhà lửa Ta bà, bờ phía tây ví cho cõi nước báu Cực Lạc, lũ đạo tặc và ác thú giả vờ thân thiện ví cho sáu căn, sáu thức, sáu trần, ngũ ấm, tứ đại, v.v..; đồng không mông quạnh ví cho sự việc thường theo bọn ác tri thức, không gặp được thiện tri thức chân thực; hai con sông nước, lửa ví cho chúng sinh tham ái giống như nước, sân ghét giống như lửa; con đường trắng rộng độ hơn một tấc ví cho trong sự tham sân phiền não của chúng sinh, có thể sinh khởi tâm nguyện vãng sinh thanh tịnh.
Lại như tâm tham sân si hẫy hừng, nên ví với nước lửa, còn tâm thiện yếu ớt, nên ví với con đường trắng nhỏ hẹp. Lại nữa, “sóng vỗ ào ạt làm mặt đường trở nên trơn trợt”, ví cho tâm tham ái thường khởi động làm nhiễm ô thiện căn; “lửa bốc mù mịt làm mặt đường trở thành nóng bỏng”, ví cho tâm hiềm hận có thể thiêu đốt công đức pháp tài; “người đi về phía tây”.
Ví cho sự hồi hướng các công hạnh tu tập để vãng sinh Cực Lạc; “nghe bên bờ phía đông có tiếng người khuyến khích, bèn đi về phía tây”, ví cho sau khi Ðức Thích Ca diệt độ, người đời sau tuy không còn thấy được Ngài, nhưng vẫn còn giáo pháp để lại, giống như âm thanh (lời dạy); “vừa mới đi một đoạn, nghe bọn đạo tặc kêu réo”, ví cho những người biệt giải, biệt hành, hoặc những kẻ ác kiến, v.v..,
Dùng những luận điệu mê hoặc não loạn, làm cho hành giả thoái thất đạo tâm; “bờ phía tây có tiếng người gọi”, ví cho nguyện ý của Ðức A Di Ðà; “không bao lâu qua đến bờ bên kia, gặp lại bạn bè”, ví cho chúng sinh đắm chìm trong sinh tử, luân hồi dài lâu, mê hoặc điên đảo, tự trói tự buộc, không được giải thoát, nhờ ơn Ðức Thích Ca chỉ dạy pháp môn Tây Phương Tịnh Ðộ.
Lại nhờ ơn Ðức A Di Ðà thiết tha mời gọi, hiện nay tin tưởng, thuận theo ý nguyện của hai Ngài, không quan tâm đến hai dòng sông nước, lửa, tâm tâm niệm niệm hướng về Tây Phương, nương theo con đường nguyện lực của Phật, sau khi mệnh chung, vãng sinh Cực Lạc, được diện kiến Ðức A Di Ðà, vui mừng không tả xiết.
Lại nữa, tất cả hành giả, trong lúc đi đứng nằm ngồi, ba nghiệp tu tập, bất luận ngày đêm sáng tối, thường phải nên hiểu như vậy, nghĩ như vậy, cho nên gọi là “hồi hướng phát nguyện tâm”.
Lại nữa, hồi hướng còn có nghĩa là sau khi vãng sinh Cực Lạc, khởi tâm đại bi, quay trở lại cõi sinh tử, giáo hóa chúng sinh, đây cũng gọi là hồi hướng.
Ba tâm đầy đủ, không hạnh nào không thành tựu, nguyện hạnh đã thành tựu, không thể nào không vãng sinh Cực Lạc. Lại nữa, phải nên biết rằng tâm này bao hàm tất cả ý nghĩa của hai hạnh định thiện và tán thiện.
Trích: Niệm Phật Tông Yếu
Pháp Nhiên Thượng Nhân soạn
Thích Tịnh Nghiêm, Nguyễn Văn Nhân dịch Hán Việt
Các Phúc Đáp Gần Đây