Pháp quán không dễ thành tựu, giới luật cũng chưa dễ giữ trọn, tu phước chẳng phải sớm chiều có thể thành công, sự diệu ngộ chẳng phải kẻ độn căn có thể làm được, còn đại nguyện bền chắc lại càng ít có người. Nếu không do nơi chỗ “chân thật trì danh” tìm nẻo thoát ly tất phải chìm trong biển khổ, mãi chịu luân hồi, ngàn Phật dù từ bi cũng khó cứu độ! Người chân thật trì danh đã chẳng cầu danh lợi, cũng không khoe khoang tài năng, chẳng thêm một mảy may vọng tưởng ở nơi bốn chữ A-Di-Đà-Phật.
Đã đem tâm này niệm Phật, phàm tất cả việc tạp thiện, tạp ác đều không nên nhớ. Hằng ngày làm mọi việc với ý niệm vạn bất đắc dĩ, xong rồi bỏ đừng để dây dưa, sẽ chướng ngại tâm niệm của chúng ta.
Đã dùng miệng này niệm Phật, phàm tất cả những việc sát, đạo, dâm, vọng không nên buông lời nói càn nói quấy. Một khi nói lỡ, nên tự nghĩ rằng: “Người niệm Phật không nên nói như thế”, rồi cố gắng niệm lớn ít tiếng danh hiệu Phật để trấn áp tâm mình và gột rửa ngay những lời bất thiện ấy.
Đã đem thân này niệm Phật, thời trong mọi lúc cũng như mọi cử chỉ đi đứng nằm ngồi, thân cần phải đoan chánh, thân có được đoan chánh, tâm mới được thanh tịnh.
Niệm Phật một tiếng tay lần một hạt. Chỉ nên niệm bốn chữ, đừng lộn sáu chữ, vì bốn chữ rất dễ thành khối. Trong bốn chữ A-di-đà Phật, hoặc lần chuỗi tại chữ “A”, hoặc lần tại chữ “Đà”, hoạch định cho có pháp tắc không được lầm lẫn, đây là pháp mượn chuỗi để nhiếp tâm vậy.
Quí vị có thể buông bỏ rồi, trí tuệ của quí vị không còn bị chướng ngại nữa, buông bỏ rồi, trí tuệ liền hiện tiền. Vì vậy nguyên nhân trí tuệ không khai mở là không buông bỏ được. Nhìn thấu, buông bỏ phải hạ thủ từ đâu? Từ buông bỏ mà hạ thủ. Điều này là lão pháp sư dạy cho tôi, tôi y giáo phụng hành, tôi thực sự làm được rồi. Thực sự mà nói không phải là công phu cao lắm, cổ nhân thường nói “không tranh với người không cầu ở đời”, tám chữ này tôi làm được. Cho nên tâm của tôi phải thanh tịnh hơn người khác, tâm trạng của tôi tự tại hơn người khác. Thanh tịnh, tự tại là từ nơi này mà có được. Tôi cảm ơn đại sư Chương Gia. Đây là phương pháp mà đại sư Chương Gia truyền trao cho tôi, tôi một đời có được thọ dụng này. Sau này học Phật càng học càng biết sự chân thật trong hai câu nói của Ngài, đến hôm nay mới hoàn toàn rõ ràng, tất cả Chư Phật Như Lai từ sơ phát tâm vô lượng kiếp tu thành Phật quả rốt ráo viên mãn chính là hai phương pháp này.
Trích từ lớp học Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú
Tại Tịnh Tông Học Viện Úc Châu 2014
Báo cáo tâm đắc của học sinh lớp Vô Lượng Thọ Kinh Khoa Chú
Thích Tự Liễu soạn
Hòa thượng Tịnh Không giám định
Bích Ngọc chuyển ngữ
Như Hòa giảo duyệt
Cầu mong cho tất cả chúng con và tất cả chúng sinh mãi mãi vĩnh viễn được 10 phương Trời, 10 phương Đất, 10 phương Phật, 10 phương Bồ Tát, 10 phương Tam Bảo, 10 phương Các Đấng Tối Cao bảo vệ, hộ mệnh, hộ niệm, soi sáng, sáng soi, chỉ dạy, chỉ dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ mãi mãi vĩnh viễn.
Bạn hãy cầu vãng sanh trong kiếp này thì ắt sẽ toại nguyện tất cả các điều khác. Đó chính là điều mầu nhiệm của pháp môn Tịnh độ. Bạn đã đến được nơi này tức là bạn đã có duyên với pháp môn này. Vậy chớ nên bỏ qua pháp niệm Phật cầu sanh Tây Phuơng. Về nơi ấy rồi thì bạn sẽ ngày ngày gần gũi với Phật và bồ tát để tiến tu đến ngày thành đạo. Còn bây giờ đừng nên cầu thứ gì khác. Vài lời tâm huyết gửi dến bạn để suy gẫm. A Di Đà Phật.
Cho con hỏi con nghe mấy vị sư Phật giáo nguyên thủy họ nói kinh Đại Thừa là kinh ngụy tạo, pha trộn từ bà la môn giáo và Trung Quốc viết ra, họ còn nói đại thừa ra đời sau khi Phật nhập Niết Bàn 500 năm nên kinh Đại Thừa không phải Phật thuyết và Tam Thánh Tây Phương là lấy hình tướng từ ba vị thần bà la môn. Con trước đó có tín tâm rất vững với Pháp Môn Tịnh Độ nhưng sau khi nghe họ nói cũng có chút xao động, những sư nói thế lại là những người tu đã lâu năm và tinh thông kinh điển và họ còn đưa ra những bằng chứng để thuyết phục các Phật tử, như vậy cho con hỏi con phải tư duy thế nào, để củng cố niềm tin vào Pháp Môn Niệm Phật, để về sau có gặp những tình huống như thế thì sẽ không bị xao động tín tâm nữa, xin các chư vị từ bi khai thị cho con, con xin chân thành cảm ơn.
A DI ĐÀ PHẬT
Để củng cố niềm tin thì chỉ có một cách duy nhất là nghe giảng kinh mỗi ngày bạn ạ. Vài ba ngày không nghe là tín tâm giảm dần và sanh ra giãi đãi niệm Phật lơ là. Nhưng cũng lưu ý rằng khi nghe pháp thì chỉ nghe các vị giảng về Tịnh Độ mà thôi chứ không nên nghe bất kỳ pháp nào cũng được. Bạn hãy chọn các vị như lão pháp sư Tịnh Không, sư cô thích nữ Như Lan chẳng hạn. Ráng cố gắng nghe hoặc đọc pháp Tinh Độ mỗi ngày bạn nhé. A Di Đà Phật.
https://www.duongvecoitinh.com/2021/06/duy-tam-tinh-do-co-phai-la-coi-tay-phuong-cuc-lac-khong-that-co/
https://www.duongvecoitinh.com/2015/01/phai-chang-coi-tay-phuong-cuc-lac-chi-la-huyen-du/
https://www.duongvecoitinh.com/2014/03/nho-dau-chung-ta-tin-coi-cuc-lac-la-co-that-video/
https://www.duongvecoitinh.com/2012/04/tay-phuong-cuc-lac-khong-co-that-vi-duy-tam-tinh-do/
https://www.duongvecoitinh.com/2013/07/coi-tay-phuong-cuc-lac-co-that-khong/
A Di Đà Phật
Bạn Thiện Trí,
Mong bạn hoan hỉ đọc kỹ Kinh Kalama dưới đây rồi quán xét lời Phật. Có gì không hiểu bạn hoan hỉ chia sẻ, TĐ sẽ cùng bạn lý giải thêm nhé.
Chúc an lạc.
TĐ
……………………………
Kinh Kâlâma
Hòa thượng Thích Thiện Châu
________________________________________
Giới thiệu
Kinh Kâlâma thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikâya, tập I, trang 188-193)
Chánh Kinh:
Tôi nghe như vầy:
Một thời Thế Tôn, trong lúc du hành trong xứ Kosala với đại chúng Tỳ Kheo, đi vào một thành phố của những người Kâlâma tên là Kesaputta.
Những người Kâlâma thăm hỏi Phật
Những người Kâlâma ở Kesaputta nghe rằng sa môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ giòng họ Thích Ca (Sâkya) đã đến Kesaputta. Tiếng tốt về Thế Tôn Gotama được truyền đi như vầy: “Thế Tôn thật là bậc A-la-hán, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế tôn (1). Lành thay, nếu chúng ta được yết kiến một vị A la hán như vậy”.
Rồi những người Kâlâma đi đến nơi Thế Tôn. Khi đến nơi, có người kính lễ Thế Tôn rồi ngồi một bên; có người nói với Thế Tôn những lời chào hỏi, và sau khi chào hỏi thân hữu rồi ngồi một bên; có người chắp tay vái chào rồi ngồi một bên; có người xưng tên họ rồi ngồi một bên; có người im lặng ngồi một bên. Sau khi ngồi xuống, những người Kâlâma ở Kesaputta bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, có một số Sa môn, Bà la môn đến Kesaputta. Họ thuyết minh và phát huy giáo lý của mình mà bài xích, khinh miệt, chê bai và xuyên tạc giáo lý người khác. Và bạch Thế Tôn, có một số Sa môn, Bà la môn cũng đến Kesaputta, họ thuyết minh, phát huy giáo lý của mình mà bài xích, khinh miệt, chê bai và xuyên tạc giáo lý người khác. Ðối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có điều nghi ngờ, phân vân: “Trong những Sa môn này, ai nói thật, ai nói dối?”
Ðiều nên từ bỏ
– Này các người Kâlâma, đương nhiên phải nghi ngờ, đương nhiên phải phân vân. Ðối với điều đang nghi ngờ thì phân vân khởi lên.
Này các người Kâlâma:
đừng tin vì nghe nói lại,
đừng tin vì theo phong tục,
đừng tin vì nghe tin đồn,
đừng tin vì kinh điển truyền tụng,
đừng tin vì lý luận,
đừng tin vì công thức,
đừng tin vì có suy tư đầy đủ về những dữ kiện,
đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết,
đừng tin vì thấy thích hợp,
đừng tin vì Sa môn (2) là thầy mình.
Nhưng này các người Kâlâma, khi nào các người tự biết rõ:
Các pháp này là bất thiện,
các pháp này là đáng chê,
các pháp này bị người trí chỉ trích,
các pháp này nếu được thực hiện, chấp nhận thì dẫn đến bất hạnh khổ đau; thời này các người Kâlâma, các người hãy từ bỏ chúng đi.
Tham sân si
– Này các người Kâlâma, các người nghĩ thế nào: khi tham sân si (*) khởi lên trong lòng người nào thì hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?
– Bạch Thế Tôn, bất hạnh.
– Này các người Kâlâma, người tham lam sân hận si mê (*), tâm bị tham sân si chinh phục, chiếm cứ, giết sinh vật, lấy của không cho, đi lại với vợ người, nói dối, khuyên bảo người khác cũng làm như vậy – có bị bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?
– Bạch Thế Tôn, có.
– Này các người Kâlâma, các người nghĩ thế nào: các pháp này là thiện hay bất thiện?
– Bạch Thế Tôn, bất thiện.
– Ðáng chê hay không đáng chê?
– Bạch Thế Tôn, đáng chê.
– Bị người trí chỉ trích hay được người trí khen ngợi?
– Bạch Thế Tôn, bị người trí chỉ trích.
– Nếu được thực hiện, chấp nhận thì có dẫn đến bất hạnh đau khổ hay là như thế nào?
– Bạch Thế tôn, được thực hiện, chấp nhận thì dẫn đến bất hạnh đau khổ. Sự thật là như vậy.
– Như vậy, này các người Kâlâma, điều ta vừa nói với các người: các người Kâlâma, các người đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về những dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn là thầy mình. Nhưng này các người Kâlâma, khi nào các người tự biết rõ: Các pháp này là bất thiện, các pháp này là đáng chê, các pháp này bị người trí chỉ trích, các pháp này nếu được thực hiện, chấp nhận thì dẫn đến bất hạnh, khổ đau, thời này các người Kâlâma, các người hãy từ bỏ chúng đi. Ðiều đã được nói như thế là do nhân duyên như thế.
Ðiều nên chấp nhận
– Này các người Kâlâma, đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về những dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn là thầy mình.
Nhưng này các người Kâlâma, khi nào các người tự biết rõ: Các pháp này là thiện, các pháp này là không đáng chê, các pháp này được người trí khen ngợi, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận thì dẫn đến hạnh phúc an vui, thời này các người Kâlâma, các người hãy đạt đến và an trú.
Không tham sân si
– Này các người Kâlâma, các người nghĩ thế nào: khi không tham không sân không si khởi lên trong lòng người nào thì hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?
– Bạch Thế Tôn, hạnh phúc.
– Này các người Kâlâma, người không tham không sân không si, tâm không bị tham sân si chinh phục, chiếm cứ, không giết sinh vật, không lấy của không cho, không đi lại với vợ người, không nói dối, không khuyên bảo người khác cũng làm như vậy có được hạnh phúc an vui lâu dài hay không?
– Bạch Thế Tôn, có.
– Này các người Kâlâma, các người nghĩ thế nào: các pháp này là thiện hay bất thiện?
– Bạch Thế Tôn, thiện.
– Ðáng chê hay không đáng chê?
– Bạch Thế Tôn, không đáng chê.
– Bị người trí chỉ trích hay được người trí khen ngợi?
– Bạch Thế Tôn, được người trí khen ngợi.
– Nếu được thực hiện, chấp nhận thì có dẫn đến hạnh phúc an vui hay là như thế nào?
– Bạch Thế tôn, nếu được thực hiện và chấp nhận thì dẫn đến hạnh phúc an vui. Sự thật là như vậy.
– Như vậy, này các người Kâlâma, điều ta vừa nói với các người: các người Kâlâma, các người đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn là thầy mình. Nhưng này các người Kâlâma, khi nào các người tự biết rõ: Các pháp này là thiện, các pháp này không đáng chê, các pháp này được người trí ca ngợi, các pháp này nếu được thực hiện, chấp nhận thì dẫn đến hạnh phúc an vui, thời các người Kâlâma, các người hãy đạt đến và an trú. Ðiều đã được nói như thế là do nhân duyên như thế.
Từ bi hỷ xả
– Này các người Kâlâma, vị Thánh Thanh văn nào ly tham sân si, giác tỉnh, chánh niệm, với tâm Từ Bi Hỷ Xả (3) tỏa khắp một phương và an trú. Cũng như vậy phương thứ hai, phương thứ ba và phương thứ tư. Cũng như vậy tỏa khắp vũ trụ bên trên, phía dưới, bề ngang, mọi hướng, mọi nơi; vị ấy an trú với tâm Từ Bi Hỷ Xả (4) rộng rãi, to lớn, không giới hạn, hết sạch giận dữ.
Bốn điều an ổn
– Các người Kâlâma, vị Thánh Thanh văn với tâm không giận không hại không ô nhiễm, thanh tịnh như vậy thì ngay ở đây và bây giờ vị ấy đạt được bốn điều an ổn:
1. Nếu có đời sau, có quả báo của các nghiệp thiện ác thì sau thân hoại mạng chung, ta sẽ sanh vào thế giới an vui sung sướng. Ðây là điều vui thứ nhất có thể đạt được.
2. Nếu không có đời sau, không có quả báo của các nghiệp thiện ác thì ngay ở đây và bây giờ, ta sống tự tại, không giận, không hại, an tịnh, vui vẻ. Ðây là điều vui thứ hai có thể đạt được.
3. Nếu lỡ làm điều ác nhưng ta không có ác tâm với một ai thì làm sao ta có thể chịu đau khổ vì nghiệp ác? Ðây là điều vui thứ ba có thể đạt được.
4. Nếu không làm điều ác thì như vậy ta tự thấy thanh tịnh cả hai phương diện, vô ý và cố ý. Ðây là điều vui thứ tư có thể đạt được.
Này các người Kâlâma, vị Thánh Thanh văn, với tâm không giận, không hại, không ô nhiễm, thanh tịnh như vậy thì ngay ở đây và bây giờ vị ấy đạt được bốn điều an ổn này.
– Ðúng như thế, bạch Thế Tôn. Ðúng như thế, bạch Thiện Thệ.(*)
Bạch Thế tôn, thật là vi diệu ! Bạch Thế tôn, chúng con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỳ Kheo. Bạch Thế tôn, mong Thế Tôn nhận chúng con làm đệ tử tại gia; từ nay cho đến khi chết, chúng con xin trọn đời quy y.
Chú thích sơ lược
* Những dấu này chỉ cho những đoạn ghép chung hay bỏ bớt để bản dịch không bị lặp đi lặp lại.
(1). Mười hiệu này nói lên những đức tính của Phật.
A la hán: bậc đáng kính.
Chánh biến tri: bậc hiểu biết đúng đắn và cùng khắp.
Minh hạnh túc: bậc đầy đủ tri thức.
Thiện thệ: sống trong đời một cách khéo léo.
Thế gian giải: bậc hiểu cuộc đời.
Vô thượng sĩ: bậc cao cả không ai bằng.
Ðiều ngự trượng phu: bậc dìu dắt người cao thượng.
Thiên nhân sư: thầy của người và trời.
Phật: bậc giác ngộ hoàn toàn.
Thế tôn: bậc mà người tôn kính.
(2). Sa môn là tên chung chỉ những người tu hành của các đạo giáo lúc bấy giờ kể cả đạo Phật.
(3). Từ: thương yêu, tình bạn; Bi: giúp đỡ, làm cho người khác bớt khổ, hết khổ; Hỷ: vui mừng đối với thành tựu của kẻ khác; Xả: không cố chấp, tự tại.
(4). Có lẽ trong bản Pâli của Pâli Text Society in thiếu ba tâm: Từ, bi và hỷ. Vì thế bản dịch này thêm vào.
Cho con hỏi nếu tâm giải đãi lười biếng Niệm Phật thì phải tư duy thế nào ạ
A Di Đà Phật
Bạn Thiện Trí,
Ngày 07.05.25 bạn có ghi đoạn sau: “Nhìn thấy nhiều người quen xung quanh mình ra đi trong tâm khảm con càng hiểu rõ hơn về sự vô thường của cuộc sống, con sẽ cố gắng tu tập”.
→Niệm Phật tâm thường giải đãi nguyên nhân:
– Bạn chưa thực giữ giới thanh tịnh.
– Bạn chưa thực thấy rõ đời là vô thường như bạn đã chia sẻ.
– Bạn niệm Phật với tâm vọng cầu chứ chưa thực vì giải thoát.
– Bạn chưa nắm vững phương pháp niệm Phật.
Bạn tư duy xem 4 điều TĐ chia sẻ có đúng những điều bạn đang thiếu?
Chúc tinh tấn.
TĐ
Dạ thưa quý Cô Chú cho con hỏi 1 câu về đời ạ: Con mua phần mềm để con xài, nhưng nếu con tặng (không bán) người khác xài chung như vậy con có phạm tội ăn cắp không ạ? Con cảm ơn ạ. A DI ĐÀ PHẬT.
A Di Đà Phật
Ban Sơn,
Nếu phần mềm đó chỉ chuyên hành việc thiện thì không có gì trở ngại.
TĐ
Dạ phần mềm đó dùng để hỗ trợ công việc ạ, nên con cũng không dám khẳng định làm được việc thiện ạ. Nhưng con sẽ cân nhắc ạ. Con cảm ơn Chú Trung Đạo ạ. A Di Đà Phât.
Khi bạn chia sẻ phần mềm với người khác đồng nghĩa với việc người sáng tạo ra nó sẽ mất đi một phần tài chính mà người dùng lý ra phải bỏ tiền ra mua. Nếu chỉ giới hạn ở một vài người thì còn đỡ, chứ ví dụ một người chia sẻ với người khác, rồi người khác chia sẻ cho vài người khác nữa và lan rộng ra. Như thế con số thất thoát về kinh doanh của nhà sản xuất sẽ rất nhiều và dĩ nhiên người chia sẻ sẽ nhận quả sau này là hao tài với con số tương ứng.
Đây là điều mà nhiều người phạm phải, bạn không phải là người duy nhất. Nhưng bạn quý hơn ở chỗ là kịp nhận ra đây là điều không nên làm. A Di Đà Phật.
Dạ con cảm ơn Chú Trường đã góp ý giúp cho con ạ. Con cảm ơn ạ. A DI ĐÀ PHẬT.