Pháp quán không dễ thành tựu, giới luật cũng chưa dễ giữ trọn, tu phước chẳng phải sớm chiều có thể thành công, sự diệu ngộ chẳng phải kẻ độn căn có thể làm được, còn đại nguyện bền chắc lại càng ít có người. Nếu không do nơi chỗ “chân thật trì danh” tìm nẻo thoát ly tất phải chìm trong biển khổ, mãi chịu luân hồi, ngàn Phật dù từ bi cũng khó cứu độ! Người chân thật trì danh đã chẳng cầu danh lợi, cũng không khoe khoang tài năng, chẳng thêm một mảy may vọng tưởng ở nơi bốn chữ A-Di-Đà-Phật.
Đã đem tâm này niệm Phật, phàm tất cả việc tạp thiện, tạp ác đều không nên nhớ. Hằng ngày làm mọi việc với ý niệm vạn bất đắc dĩ, xong rồi bỏ đừng để dây dưa, sẽ chướng ngại tâm niệm của chúng ta.
Đã dùng miệng này niệm Phật, phàm tất cả những việc sát, đạo, dâm, vọng không nên buông lời nói càn nói quấy. Một khi nói lỡ, nên tự nghĩ rằng: “Người niệm Phật không nên nói như thế”, rồi cố gắng niệm lớn ít tiếng danh hiệu Phật để trấn áp tâm mình và gột rửa ngay những lời bất thiện ấy.
Đã đem thân này niệm Phật, thời trong mọi lúc cũng như mọi cử chỉ đi đứng nằm ngồi, thân cần phải đoan chánh, thân có được đoan chánh, tâm mới được thanh tịnh.
Niệm Phật một tiếng tay lần một hạt. Chỉ nên niệm bốn chữ, đừng lộn sáu chữ, vì bốn chữ rất dễ thành khối. Trong bốn chữ A-di-đà Phật, hoặc lần chuỗi tại chữ “A”, hoặc lần tại chữ “Đà”, hoạch định cho có pháp tắc không được lầm lẫn, đây là pháp mượn chuỗi để nhiếp tâm vậy.
Quí vị có thể buông bỏ rồi, trí tuệ của quí vị không còn bị chướng ngại nữa, buông bỏ rồi, trí tuệ liền hiện tiền. Vì vậy nguyên nhân trí tuệ không khai mở là không buông bỏ được. Nhìn thấu, buông bỏ phải hạ thủ từ đâu? Từ buông bỏ mà hạ thủ. Điều này là lão pháp sư dạy cho tôi, tôi y giáo phụng hành, tôi thực sự làm được rồi. Thực sự mà nói không phải là công phu cao lắm, cổ nhân thường nói “không tranh với người không cầu ở đời”, tám chữ này tôi làm được. Cho nên tâm của tôi phải thanh tịnh hơn người khác, tâm trạng của tôi tự tại hơn người khác. Thanh tịnh, tự tại là từ nơi này mà có được. Tôi cảm ơn đại sư Chương Gia. Đây là phương pháp mà đại sư Chương Gia truyền trao cho tôi, tôi một đời có được thọ dụng này. Sau này học Phật càng học càng biết sự chân thật trong hai câu nói của Ngài, đến hôm nay mới hoàn toàn rõ ràng, tất cả Chư Phật Như Lai từ sơ phát tâm vô lượng kiếp tu thành Phật quả rốt ráo viên mãn chính là hai phương pháp này.
Trích từ lớp học Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú
Tại Tịnh Tông Học Viện Úc Châu 2014
Báo cáo tâm đắc của học sinh lớp Vô Lượng Thọ Kinh Khoa Chú
Thích Tự Liễu soạn
Hòa thượng Tịnh Không giám định
Bích Ngọc chuyển ngữ
Như Hòa giảo duyệt






Cầu mong cho tất cả chúng con và tất cả chúng sinh mãi mãi vĩnh viễn được 10 phương Trời, 10 phương Đất, 10 phương Phật, 10 phương Bồ Tát, 10 phương Tam Bảo, 10 phương Các Đấng Tối Cao bảo vệ, hộ mệnh, hộ niệm, soi sáng, sáng soi, chỉ dạy, chỉ dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ mãi mãi vĩnh viễn.
Bạn hãy cầu vãng sanh trong kiếp này thì ắt sẽ toại nguyện tất cả các điều khác. Đó chính là điều mầu nhiệm của pháp môn Tịnh độ. Bạn đã đến được nơi này tức là bạn đã có duyên với pháp môn này. Vậy chớ nên bỏ qua pháp niệm Phật cầu sanh Tây Phuơng. Về nơi ấy rồi thì bạn sẽ ngày ngày gần gũi với Phật và bồ tát để tiến tu đến ngày thành đạo. Còn bây giờ đừng nên cầu thứ gì khác. Vài lời tâm huyết gửi dến bạn để suy gẫm. A Di Đà Phật.
Cho con hỏi con nghe mấy vị sư Phật giáo nguyên thủy họ nói kinh Đại Thừa là kinh ngụy tạo, pha trộn từ bà la môn giáo và Trung Quốc viết ra, họ còn nói đại thừa ra đời sau khi Phật nhập Niết Bàn 500 năm nên kinh Đại Thừa không phải Phật thuyết và Tam Thánh Tây Phương là lấy hình tướng từ ba vị thần bà la môn. Con trước đó có tín tâm rất vững với Pháp Môn Tịnh Độ nhưng sau khi nghe họ nói cũng có chút xao động, những sư nói thế lại là những người tu đã lâu năm và tinh thông kinh điển và họ còn đưa ra những bằng chứng để thuyết phục các Phật tử, như vậy cho con hỏi con phải tư duy thế nào, để củng cố niềm tin vào Pháp Môn Niệm Phật, để về sau có gặp những tình huống như thế thì sẽ không bị xao động tín tâm nữa, xin các chư vị từ bi khai thị cho con, con xin chân thành cảm ơn.
A DI ĐÀ PHẬT
Để củng cố niềm tin thì chỉ có một cách duy nhất là nghe giảng kinh mỗi ngày bạn ạ. Vài ba ngày không nghe là tín tâm giảm dần và sanh ra giãi đãi niệm Phật lơ là. Nhưng cũng lưu ý rằng khi nghe pháp thì chỉ nghe các vị giảng về Tịnh Độ mà thôi chứ không nên nghe bất kỳ pháp nào cũng được. Bạn hãy chọn các vị như lão pháp sư Tịnh Không, sư cô thích nữ Như Lan chẳng hạn. Ráng cố gắng nghe hoặc đọc pháp Tinh Độ mỗi ngày bạn nhé. A Di Đà Phật.
https://www.duongvecoitinh.com/2021/06/duy-tam-tinh-do-co-phai-la-coi-tay-phuong-cuc-lac-khong-that-co/
https://www.duongvecoitinh.com/2015/01/phai-chang-coi-tay-phuong-cuc-lac-chi-la-huyen-du/
https://www.duongvecoitinh.com/2014/03/nho-dau-chung-ta-tin-coi-cuc-lac-la-co-that-video/
https://www.duongvecoitinh.com/2012/04/tay-phuong-cuc-lac-khong-co-that-vi-duy-tam-tinh-do/
https://www.duongvecoitinh.com/2013/07/coi-tay-phuong-cuc-lac-co-that-khong/
A Di Đà Phật
Bạn Thiện Trí,
Mong bạn hoan hỉ đọc kỹ Kinh Kalama dưới đây rồi quán xét lời Phật. Có gì không hiểu bạn hoan hỉ chia sẻ, TĐ sẽ cùng bạn lý giải thêm nhé.
Chúc an lạc.
TĐ
……………………………
Kinh Kâlâma
Hòa thượng Thích Thiện Châu
________________________________________
Giới thiệu
Kinh Kâlâma thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikâya, tập I, trang 188-193)
Chánh Kinh:
Tôi nghe như vầy:
Một thời Thế Tôn, trong lúc du hành trong xứ Kosala với đại chúng Tỳ Kheo, đi vào một thành phố của những người Kâlâma tên là Kesaputta.
Những người Kâlâma thăm hỏi Phật
Những người Kâlâma ở Kesaputta nghe rằng sa môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ giòng họ Thích Ca (Sâkya) đã đến Kesaputta. Tiếng tốt về Thế Tôn Gotama được truyền đi như vầy: “Thế Tôn thật là bậc A-la-hán, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế tôn (1). Lành thay, nếu chúng ta được yết kiến một vị A la hán như vậy”.
Rồi những người Kâlâma đi đến nơi Thế Tôn. Khi đến nơi, có người kính lễ Thế Tôn rồi ngồi một bên; có người nói với Thế Tôn những lời chào hỏi, và sau khi chào hỏi thân hữu rồi ngồi một bên; có người chắp tay vái chào rồi ngồi một bên; có người xưng tên họ rồi ngồi một bên; có người im lặng ngồi một bên. Sau khi ngồi xuống, những người Kâlâma ở Kesaputta bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, có một số Sa môn, Bà la môn đến Kesaputta. Họ thuyết minh và phát huy giáo lý của mình mà bài xích, khinh miệt, chê bai và xuyên tạc giáo lý người khác. Và bạch Thế Tôn, có một số Sa môn, Bà la môn cũng đến Kesaputta, họ thuyết minh, phát huy giáo lý của mình mà bài xích, khinh miệt, chê bai và xuyên tạc giáo lý người khác. Ðối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có điều nghi ngờ, phân vân: “Trong những Sa môn này, ai nói thật, ai nói dối?”
Ðiều nên từ bỏ
– Này các người Kâlâma, đương nhiên phải nghi ngờ, đương nhiên phải phân vân. Ðối với điều đang nghi ngờ thì phân vân khởi lên.
Này các người Kâlâma:
đừng tin vì nghe nói lại,
đừng tin vì theo phong tục,
đừng tin vì nghe tin đồn,
đừng tin vì kinh điển truyền tụng,
đừng tin vì lý luận,
đừng tin vì công thức,
đừng tin vì có suy tư đầy đủ về những dữ kiện,
đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết,
đừng tin vì thấy thích hợp,
đừng tin vì Sa môn (2) là thầy mình.
Nhưng này các người Kâlâma, khi nào các người tự biết rõ:
Các pháp này là bất thiện,
các pháp này là đáng chê,
các pháp này bị người trí chỉ trích,
các pháp này nếu được thực hiện, chấp nhận thì dẫn đến bất hạnh khổ đau; thời này các người Kâlâma, các người hãy từ bỏ chúng đi.
Tham sân si
– Này các người Kâlâma, các người nghĩ thế nào: khi tham sân si (*) khởi lên trong lòng người nào thì hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?
– Bạch Thế Tôn, bất hạnh.
– Này các người Kâlâma, người tham lam sân hận si mê (*), tâm bị tham sân si chinh phục, chiếm cứ, giết sinh vật, lấy của không cho, đi lại với vợ người, nói dối, khuyên bảo người khác cũng làm như vậy – có bị bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?
– Bạch Thế Tôn, có.
– Này các người Kâlâma, các người nghĩ thế nào: các pháp này là thiện hay bất thiện?
– Bạch Thế Tôn, bất thiện.
– Ðáng chê hay không đáng chê?
– Bạch Thế Tôn, đáng chê.
– Bị người trí chỉ trích hay được người trí khen ngợi?
– Bạch Thế Tôn, bị người trí chỉ trích.
– Nếu được thực hiện, chấp nhận thì có dẫn đến bất hạnh đau khổ hay là như thế nào?
– Bạch Thế tôn, được thực hiện, chấp nhận thì dẫn đến bất hạnh đau khổ. Sự thật là như vậy.
– Như vậy, này các người Kâlâma, điều ta vừa nói với các người: các người Kâlâma, các người đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về những dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn là thầy mình. Nhưng này các người Kâlâma, khi nào các người tự biết rõ: Các pháp này là bất thiện, các pháp này là đáng chê, các pháp này bị người trí chỉ trích, các pháp này nếu được thực hiện, chấp nhận thì dẫn đến bất hạnh, khổ đau, thời này các người Kâlâma, các người hãy từ bỏ chúng đi. Ðiều đã được nói như thế là do nhân duyên như thế.
Ðiều nên chấp nhận
– Này các người Kâlâma, đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về những dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn là thầy mình.
Nhưng này các người Kâlâma, khi nào các người tự biết rõ: Các pháp này là thiện, các pháp này là không đáng chê, các pháp này được người trí khen ngợi, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận thì dẫn đến hạnh phúc an vui, thời này các người Kâlâma, các người hãy đạt đến và an trú.
Không tham sân si
– Này các người Kâlâma, các người nghĩ thế nào: khi không tham không sân không si khởi lên trong lòng người nào thì hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?
– Bạch Thế Tôn, hạnh phúc.
– Này các người Kâlâma, người không tham không sân không si, tâm không bị tham sân si chinh phục, chiếm cứ, không giết sinh vật, không lấy của không cho, không đi lại với vợ người, không nói dối, không khuyên bảo người khác cũng làm như vậy có được hạnh phúc an vui lâu dài hay không?
– Bạch Thế Tôn, có.
– Này các người Kâlâma, các người nghĩ thế nào: các pháp này là thiện hay bất thiện?
– Bạch Thế Tôn, thiện.
– Ðáng chê hay không đáng chê?
– Bạch Thế Tôn, không đáng chê.
– Bị người trí chỉ trích hay được người trí khen ngợi?
– Bạch Thế Tôn, được người trí khen ngợi.
– Nếu được thực hiện, chấp nhận thì có dẫn đến hạnh phúc an vui hay là như thế nào?
– Bạch Thế tôn, nếu được thực hiện và chấp nhận thì dẫn đến hạnh phúc an vui. Sự thật là như vậy.
– Như vậy, này các người Kâlâma, điều ta vừa nói với các người: các người Kâlâma, các người đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn là thầy mình. Nhưng này các người Kâlâma, khi nào các người tự biết rõ: Các pháp này là thiện, các pháp này không đáng chê, các pháp này được người trí ca ngợi, các pháp này nếu được thực hiện, chấp nhận thì dẫn đến hạnh phúc an vui, thời các người Kâlâma, các người hãy đạt đến và an trú. Ðiều đã được nói như thế là do nhân duyên như thế.
Từ bi hỷ xả
– Này các người Kâlâma, vị Thánh Thanh văn nào ly tham sân si, giác tỉnh, chánh niệm, với tâm Từ Bi Hỷ Xả (3) tỏa khắp một phương và an trú. Cũng như vậy phương thứ hai, phương thứ ba và phương thứ tư. Cũng như vậy tỏa khắp vũ trụ bên trên, phía dưới, bề ngang, mọi hướng, mọi nơi; vị ấy an trú với tâm Từ Bi Hỷ Xả (4) rộng rãi, to lớn, không giới hạn, hết sạch giận dữ.
Bốn điều an ổn
– Các người Kâlâma, vị Thánh Thanh văn với tâm không giận không hại không ô nhiễm, thanh tịnh như vậy thì ngay ở đây và bây giờ vị ấy đạt được bốn điều an ổn:
1. Nếu có đời sau, có quả báo của các nghiệp thiện ác thì sau thân hoại mạng chung, ta sẽ sanh vào thế giới an vui sung sướng. Ðây là điều vui thứ nhất có thể đạt được.
2. Nếu không có đời sau, không có quả báo của các nghiệp thiện ác thì ngay ở đây và bây giờ, ta sống tự tại, không giận, không hại, an tịnh, vui vẻ. Ðây là điều vui thứ hai có thể đạt được.
3. Nếu lỡ làm điều ác nhưng ta không có ác tâm với một ai thì làm sao ta có thể chịu đau khổ vì nghiệp ác? Ðây là điều vui thứ ba có thể đạt được.
4. Nếu không làm điều ác thì như vậy ta tự thấy thanh tịnh cả hai phương diện, vô ý và cố ý. Ðây là điều vui thứ tư có thể đạt được.
Này các người Kâlâma, vị Thánh Thanh văn, với tâm không giận, không hại, không ô nhiễm, thanh tịnh như vậy thì ngay ở đây và bây giờ vị ấy đạt được bốn điều an ổn này.
– Ðúng như thế, bạch Thế Tôn. Ðúng như thế, bạch Thiện Thệ.(*)
Bạch Thế tôn, thật là vi diệu ! Bạch Thế tôn, chúng con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỳ Kheo. Bạch Thế tôn, mong Thế Tôn nhận chúng con làm đệ tử tại gia; từ nay cho đến khi chết, chúng con xin trọn đời quy y.
Chú thích sơ lược
* Những dấu này chỉ cho những đoạn ghép chung hay bỏ bớt để bản dịch không bị lặp đi lặp lại.
(1). Mười hiệu này nói lên những đức tính của Phật.
A la hán: bậc đáng kính.
Chánh biến tri: bậc hiểu biết đúng đắn và cùng khắp.
Minh hạnh túc: bậc đầy đủ tri thức.
Thiện thệ: sống trong đời một cách khéo léo.
Thế gian giải: bậc hiểu cuộc đời.
Vô thượng sĩ: bậc cao cả không ai bằng.
Ðiều ngự trượng phu: bậc dìu dắt người cao thượng.
Thiên nhân sư: thầy của người và trời.
Phật: bậc giác ngộ hoàn toàn.
Thế tôn: bậc mà người tôn kính.
(2). Sa môn là tên chung chỉ những người tu hành của các đạo giáo lúc bấy giờ kể cả đạo Phật.
(3). Từ: thương yêu, tình bạn; Bi: giúp đỡ, làm cho người khác bớt khổ, hết khổ; Hỷ: vui mừng đối với thành tựu của kẻ khác; Xả: không cố chấp, tự tại.
(4). Có lẽ trong bản Pâli của Pâli Text Society in thiếu ba tâm: Từ, bi và hỷ. Vì thế bản dịch này thêm vào.
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính chào Thiện Trí,
Minh Đạo nghĩ không gì hơn bằng lời người đã học và hành qua cả giáo lý Theravada (Nguyên Thủy) và Mahayana (Đại Thừa). Sau đây là tư kiến giải (ý kiến và kinh nghiệm cá nhân) của Minh Đạo, hoàn toàn không phải kết quả cuối cùng cũng như giải đáp chính xác cho vấn đề này, cũng không phải chân lý.
Minh Đạo sẽ kể về quá trình Tín Tâm –> Hoài Nghi –> Quyết định học cả 2 –> Phân tích lại cả 2 –> Lấy lại Tín Tâm
Ngay thời điểm này là ngày 17/12/2025 dương lịch. Với những gì Minh Đạo được học và hành, Minh Đạo thấy như sau:
+ “Kinh ngụy tạo, pha trộn từ các giáo phái khác và văn hóa quốc gia khác viết ra”. Cái này Minh Đạo không thể xác quyết hay chứng minh, hay xem xét kinh nào đoạn nào là thật, kinh nào đoạn nào là tạo,… Cái này nằm ngoài khả năng của Minh Đạo.
+ Ban đầu Minh Đạo tiếp xúc với Phật giáo là do Minh Đạo đi học về hồi cấp 2 hoặc cấp 3, buổi trưa tự nhiên nghe thấy tiếng niệm A Di Đà Phật, hoặc trong tâm hoặc ngoài tai (cái này khó nhớ). Rồi Minh Đạo tự nhiên suy nghĩ thế cái “thần chú/ cái câu/… A Di Đà Phật là gì – cái này do xem phim nên tưởng là thần chú hoặc cái gì đấy. Về Minh Đạo đã tra mạng ý nghĩa về Nam Mô A Di Đà Phật –> Đây là nguyên căn đầu tiên trong kiếp này Minh Đạo tiếp nhận giáo pháp (là nguyên căn học hỏi cả Theravada (Nguyên Thủy) và Mahayana (Đại Thừa) từ một lần nghe được tiếng niệm Phật)
–> Như vậy: Niệm Phật lớn tiếng hoặc nhỏ tiếng là thật sự có lợi lạc cho chúng sinh. Cái này chắc chắn không phải tà kiến. Vì tất cả sự học hành Phật Pháp sau này là từ câu niệm Phật đó của một chúng sinh nào đó.
+ Lần cúng dường Tăng đầu tiên: Khi đi khóa tu ở Chùa Từ Xuyên, Hoàng Diệu, Thái Bình (trước sáp nhập), cuối khóa tu bằng một tác ý nào đó Minh Đạo đã đến trước trụ trì, tháo vòng bạc ở cổ (do mẹ mới mua) ra để cúng dường và phát nguyện (Minh Đạo không nhớ rõ nguyện gì). Và được đặt tên là Diệu Âm Thanh Tịnh (Đây là tên hoạt động trên trang duongvecoitinh vào khoảng 2019-2022)
+ Lần tín tâm mạnh mẽ đầu tiên: Trong một giấc mơ Minh Đạo thấy rơi vào một vực thẳm vô vàn sinh vật đáng sợ chạy qua tất cả đều tối, cứ thức dậy là lại một tầng giấc mơ đáng sợ khác không thoát ra được. Buộc miệng trong mơ Minh Đạo phát ra một tiếng Quán Thế Âm Bồ Tát cứu con. Ngay lúc đó, chỉ 1 tiếng buộc miệng đó không hơn, không chậm trễ, ngay lập tức, như lực sĩ co duỗi cánh tay, Minh Đạo tỉnh mà không mệt mỏi, tâm không sợ hãi, không mồ hôi, sạch sẽ, an lạc.
–> Như vậy: Với người sơ tín tâm, với 1 niệm Phật/ Bồ tát mà thoát khỏi cảnh sợ hãi là có và thật sự là có. Chưa nói tới các bậc chuyên tu, chân tu
+ Sau đó Minh Đạo tiếp tục hoạt động trong giáo pháp Mahayana như niệm phật, tặng kinh sách, trả lời phúc đáp trên chính trang này với tên hình như là Diệu Âm Thanh Tịnh hoặc là Thanh Tịnh
+ Lần sơ Hoài nghi đầu tiên: Sau này khi xem mạng xã hội, thấy xem được nhiều video về theravada, về cơ bản Minh Đạo thấy có logic hơn, thuyết phúc Minh Đạo hơn về mặt lý luận,…
–> Đây là lần hoài nghi đầu tiên (Tại sao như này, tại sao như kia, tại sao lại khác nhau,…)
+ Cố gắng: Minh Đạo quyết định tu tiếp theo Theravada, cụ thể các chi phần đã tiếp tục nghiên cứu, học và thực hành như:
1. Căn bản (Ân Đức Cha Mẹ, Ân Đức Tam Bảo, Kinh Hộ Trì, Ngũ Uẩn & Vô Ngã, Pháp vô ngã & Tà kiến, Mười hai nhân duyên, Tứ Thánh Đế, Vô Minh, các pháp Ba La Mật, Đại thiện tâm & Chánh kiến, Đại thiện nghiệp, cách hành thiện nghiệp, Nghiệp và Quả của nghiệp, Các pháp hành)
2. Pháp hành giới (Đầu tiên là phần về Chế ngự – virati, 5 pháp khi có tư tưởng bất thiện, Ngũ giới, Bát giới ājīvaṭṭhamakasīla, Bát giới Uposathasīla, Cửu Giới Uposathasīla, Thập giới cho người tại gia,…)
3. Pháp hành thiền định (Ở đây Minh Đạo chỉ học về thiền định với đề mục Tâm Từ)
4. Pháp hành Thiền Tuệ – Vipassanā (Chân nghĩa pháp, Chế định pháp, Vi diệu pháp – các Ngũ Môn lộ trình tâm, 5 triền cái, và thực hành thiền để quán xét các câu hỏi Nghiệp, Tánh Không, Thân Kiến,….)
5. Pháp khác (Mười hai nhân duyên – Pháp Duyên Sinh: Kinh nói về Khổ, Dòng suy nghĩ của Bồ Tát, Luân hồi, Cảnh giới cận tử,…)
+ Có lại chánh tín: Càng đi sâu vào các chi phần, đặc biệt ở Thắng Pháp – Abhidhamma – Vi Diệu Pháp. Thì lại càng thấy nhiều điểm tương đồng và cùng đích. 1 ví dụ điển hình ở bài 3 loại Tướng (Cảnh giới cận tử). Cụ thể được Minh Đạo tìm hiểu như sau:
=============
– Nguồn chính: Chương về Lộ trình tâm (Vithi) và Chương về Tái sinh, bộ Thắng Pháp Tập Yếu Luận (Abhidhammattha Sangaha), Tạng Vô Tỷ Pháp (Abhidhamma)
– Luận giải: Phần niệm về cái chết (Marananussati), Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga)
– Khi cận tử nghiệp (nghiệp sắp đưa đến tái sinh) chín muồi, thường có ba loại tướng (nimitta – dấu hiệu hoặc hình ảnh) có thể xuất hiện trong tâm thức của người sắp mất.
I. CÁC TƯỚNG:
1 . Nghiệp tướng (Karma-lakṣaṇa)
– Sự hồi tưởng lại chính hành động thiện hoặc ác đã làm trong quá khứ
– Nếu là nghiệp thiện: Người đó có thể nhớ lại, thấy lại hình ảnh mình đang làm phước, cúng dường, bố thí, giữ giới, tụng kinh, niệm Phật, hành thiền… Tâm lúc đó an lạc, vui vẻ
– Nếu là nghiệp ác: Người đó có thể thấy lại cảnh mình đã làm điều ác như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu; hoặc cảm thấy sự hối hận, sợ hãi, giận dữ liên quan đến các hành vi bất thiện đó.
2. Nghiệp cảnh tướng (Karma-nimitta)
– Là hình ảnh, biểu tượng, công cụ hoặc âm thanh gắn liền với hành động quá khứ đó
– Ác nghiệp: Người đồ tể có thể thấy con dao, vũng máu, hoặc tiếng kêu la của con vật
– Thiện nghiệp: Người hay cúng dường có thể thấy hình ảnh bát cơm, hoa sen, hoặc tiếng chuông chùa
3. Thú tướng (Gati-nimitta)
– Tướng trạng của cảnh giới (thú) mà người đó sắp tái sinh vào, hiện ra báo trước
– Nếu sắp đọa Địa ngục: Thấy lửa đỏ, chó dữ, quỷ sứ, màu đen tối tăm,…
– Nếu sắp sinh làm Người: thấy cha mẹ tương lai, hoặc thấy nhà cửa,…
– Nếu sắp sinh lên Thiên đường (Cõi Trời): Thấy vườn hoa đẹp, lâu đài, tiên nữ, ánh sáng rực rỡ.
II. Khai thị – Hộ niệm
– Tâm thức của người sắp lâm chung sẽ nương vào một trong ba loại tướng này (tùy thuộc vào nghiệp nào mạnh nhất) làm đối tượng cho tâm cuối cùng (tâm tử – cuti-citta) và ngay sau đó là tâm tái sinh (paṭisandhi-citta) vào cảnh giới tương ứng.
– Đây là một tình huống vô cùng khẩn cấp và quan trọng. Ví dụ khi “Thú tướng” (Gati-nimitta) của cõi ác (như thấy lửa, bóng tối, quỷ dữ, nghe tiếng la hét…) xuất hiện, điều đó có nghĩa là một nghiệp ác rất nặng đang chín muồi và sắp sửa kéo thần thức của người đó vào cảnh giới xấu.
– Mục tiêu cốt lõi ngay lúc này là giúp người đó thay đổi đối tượng của tâm thức bằng một hình ảnh, âm thanh, hoặc ý niệm thiện lành (một tướng tốt)
1. Khai thị (Nói chuyện, hướng dẫn tâm thức)
– Ngay cả khi người đó có vẻ như đã hôn mê, tâm thức (thần thức) của họ vẫn có thể còn đang nghe và nhận biết. Người hộ niệm (người thân) cần phải bình tĩnh, ghé sát tai người sắp mất và nói một cách rõ ràng, dõng dạc nhưng đầy từ bi:
“Xin ông/bà/cha/mẹ hãy bình tĩnh, đừng sợ hãi những hình ảnh đó. Đó chỉ là huyễn ảnh do nghiệp lực. Xin hãy buông bỏ hết mọi thứ, buông bỏ thân thể này, buông bỏ con cháu, tài sản. Đừng luyến tiếc bất cứ điều gì.”
2. Dùng phương pháp “Thay thế hình ảnh”
– Cần tạo môi trường thanh tịnh: Tránh tuyệt đối tiếng khóc, đây là điều tối kỵ. Tiếng khóc lóc, than van, kể lể của người thân sẽ làm tâm người sắp mất bịn rịn, luyến ái, đau khổ. Sự luyến ái và sân hận (nếu có) này sẽ càng kéo họ vào cõi dữ.
– Trong Chú Giải Tạng Vô Tỷ Pháp
Đây là câu chuyện kinh điển nhất được dùng trong Phật giáo Nam truyền để dạy về cách hộ niệm:
Nguồn: Chú giải (Atthakatha) của Kinh Pháp Cú hoặc phần luận giải trong Thanh Tịnh Đạo, câu chuyện về cha của Tôn giả Sona (Sona Thera)
Câu chuyện: Cha của Tôn giả Sona làm nghề thợ săn suốt đời. Khi ông sắp chết, Nghiệp tướng xấu hiện ra: Ông thấy những con chó săn to lớn đang lao tới cắn xé ông (do nghiệp sát sanh), ông hoảng sợ la hét, tay chân co rút.
Tôn giả Sona biết cha mình đang thấy Địa ngục (Thú tướng xấu).
Chuyển đổi:
1. Tôn giả cho quét dọn bảo tháp, đem nhiều hoa tươi đến.
2. Ngài bế cha ra trước bảo tháp và nói: “Thưa cha, số hoa này con xin cúng dường Tam Bảo thay cho cha, cha hãy hoan hỷ và tác ý cúng dường đi.”
3. Ông cụ mở mắt nhìn hoa, tâm sinh hoan hỷ, chắp tay nói “Lành thay”.
Kết quả: Ngay lập tức, hình ảnh chó dữ biến mất. Ông cụ nói: “Này con, cha thấy những cô thiên nữ mặc áo đỏ đang đi tới.” (Đây là Thú tướng của cõi Trời). Sau đó ông qua đời và sinh thiên.
> Nguyên lý: Dùng một hình ảnh thiện lành mạnh mẽ (hoa, tượng Phật, tiếng chuông) để đánh bật hình ảnh ác nghiệp ra khỏi tâm thức người sắp chết.
Tại đây ngay chỗ này, đạo hữu Thiện Trí để ý Trong truyền thống Đại thừa (đặc biệt Tịnh Độ Tông): Phật giáo Đại thừa chú trọng mạnh mẽ vào Tha lực (nương nhờ lực của chư Phật) kết hợp với Tự lực để chuyển đổi tâm thức người lâm chung.
Phương pháp thiết lập “Thánh Tướng”: Người hộ niệm đặt tôn tượng hoặc tranh ảnh Tây Phương Tam Thánh (Đức Phật A Di Đà, Bồ Tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí) ở vị trí trang nghiêm, ngay tầm mắt người bệnh. Thắp hương thơm trang nghiêm. Nhắc nhở người sắp lâm chung nhìn Phật, nhớ Phật, ngửi thấy mùi hương thơm giống như hương thơm ở Tây Phương Cực Lạc trang nghiêm.
Giúp người sắp mất “mở mắt thấy Phật, nhắm mắt nhớ Phật”, thay thế các hình ảnh. Đây cũng là một trong những minh chứng rõ ràng nhất pháp môn Tịnh Độ là phù hợp
Nguồn kinh điển xác chứng: Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ (phẩm Hạ Phẩm Hạ Sanh), Đức Phật dạy về uy lực chuyển đổi cận tử nghiệp cực mạnh: Một người tạo ác nghiệp, lúc lâm chung thấy tướng Địa ngục hiện ra (lửa dữ, quỷ sứ). Nhờ gặp thiện tri thức khuyên bảo, người ấy dốc lòng xưng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”.
Ngay trong Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh – Amitayurdhyana Sutra, cũng có nói về 16 Phép Quán (16 đối tượng thiền định) để thấy được cõi Cực Lạc.
Ngay lúc này ở chỗ này, đạo hữu Thiện Trí, đạo hữu hãy quán xét thật kỹ. Tín tâm của Minh Đạo đã nảy nở khi càng học sâu thì càng có nhiều điểm tương đồng.
3. Phương pháp “Xưng danh hiệu Phật” (Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ)
– Nguồn: Kinh Quán Vô Lượng Thọ (Amitayurdhyana Sutra), phẩm Hạ Phẩm Hạ Sanh.
– Nguyên văn (lược dịch): Đức Phật dạy về một người tạo ngũ nghịch thập ác, lúc lâm chung thấy tướng địa ngục hiện ra (lửa cháy, quỷ sứ). Gặp được thiện tri thức khuyên niệm Phật. “Người ấy bị khổ bức bách, không rảnh để quán tưởng, thiện hữu bèn bảo: ‘Nếu ông không thể quán tưởng kia được, thì ông nên xưng danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật. Như thế chí tâm khiến cho tiếng không dứt, đầy đủ mười niệm Nam mô A Di Đà Phật’.”
– Kết quả chuyển đổi: “Nhờ xưng danh hiệu Phật, nên trong mỗi niệm trừ bỏ được tội trong 80 ức kiếp sanh tử. Lúc bấy giờ, lửa mạnh của địa ngục hóa thành gió mát, thổi các hoa trời, trên hoa đều có hóa Phật… tiếp dẫn người ấy.”
Đây là phương pháp dùng “một niệm thiện” (niệm Phật) để đè và thay thế “vô số niệm ác” (sự sợ hãi và tướng cõi dữ).
Âm thanh niệm Phật này sẽ đi vào tâm thức của người sắp mất. Nếu họ có thể nương theo âm thanh đó mà khởi lên một niệm tin tưởng, một niệm hướng về Phật, thì cái “Thú tướng” cõi ác kia có thể bị xua tan. Tướng của cõi Phật (ánh sáng, hoa sen, hình ảnh Phật…) có thể sẽ hiện ra thay thế.
Đến đây có thể thấy, từ các pháp thực hành hàng ngày, cho đến pháp hộ niệm lúc lâm chung của pháp môn Tịnh Độ là có cơ sở, là đầy đủ, có căn cứ và là chánh pháp.
4. Phương pháp “Nhắc lại thiện nghiệp” (Trong Kinh Tương Ưng Bộ)
– Đức Phật dạy cách an ủi một người cư sĩ đang bệnh nặng hoặc sợ hãi cái chết để thay đổi tâm thái của họ.
– Nguồn: Kinh Mahanama – Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya, V.375).
Khi Thích-ma-nam (Mahanama) lo sợ nếu chết bất đắc kỳ tử thì sẽ đi về đâu, Đức Phật dùng ví dụ về ghè dầu:
“Này Mahanama, ví như một ghè đựng dầu hay ghè đựng nước bị vỡ. Tại đấy, nước hay dầu sẽ chảy ra, thấm xuống; nhưng các mảnh ghè, mảnh sành sẽ chìm xuống đáy. Còn dầu thì nổi lên trên.”
– Lời Phật dạy: Nếu tâm của một người trong thời gian dài đã tu tập niềm tin, giới hạnh, bố thí, trí tuệ… thì dù thân xác bị nghiền nát, tâm thức chắc chắn sẽ đi lên.
– Cách áp dụng: Khi hộ niệm, người nhà cần ngồi bên cạnh và nhắc lại những việc thiện người đó đã làm (bố thí, giúp người, nuôi dạy con cháu tốt…).
Mục đích: Kích hoạt ký ức thiện (Thiện nghiệp) để nó hiện khởi thành Nghiệp tướng tốt lấn át các lo âu, sợ hãi.
– Nhắc lại những việc thiện mà họ đã làm:
+ “Xin ông/bà/cha/mẹ hãy nhớ lại! Lúc sinh thời ông/bà/cha/mẹ đã từng cúng dường Tam Bảo, từng bố thí giúp người nghèo, từng phóng sinh, từng tu tập hiền lành… Đó là phước báu rất lớn.”
+ “Xin hãy vui vẻ với những việc thiện đó. Hãy nương vào phước báu đó mà đi. Đừng sợ hãi gì cả.”
Mục đích là làm cho tâm họ khởi lên niềm vui và sự tự hào về nghiệp thiện của mình. Tâm thiện này cũng có sức mạnh đẩy lùi tướng ác và giúp họ tái sinh về cõi lành.
======================
Như vậy đạo hữu Thiện Trí, Minh Đạo đã có lại tín tâm bằng việc đối diện với Mất tín tâm. Giờ không còn là tin hay là không tin nữa. Minh Đạo thấy nó như vậy, nó là như vậy chứ không phải là tin có thật hay không.
Minh Đạo nhận thấy trong quá trình học thì như này (1 cách trung đạo, không thiên về bên nào):
– Theravada là Cha (nghiêm khắc, xúc tích), Đại thừa là Mẹ (bao dung, rộng mở). Đứa con hiếu thảo và trưởng thành là người phụng dưỡng cả Cha lẫn Mẹ, chứ không phải chọn một bỏ một.
– Thấy Chùa là thấy Phật, không phân biệt chùa nào.
Thấy Tăng là thấy ruộng phước, không phân biệt bên nào.
Thấy Pháp thiện là làm, không phân biệt kinh nào
– Về mặt Hình tướng: Minh Đạo muốn được như một hành giả Nguyên Thủy (giữ giới, thiền tâm từ,…).
Về mặt Tâm thức: Minh Đạo mong muốn mang trái tim Bồ Tát của Đại Thừa (thương xót chúng sinh, không ngại dấn thân,…)
– Về chân lý, sự thật gốc rễ: Thì Minh Đạo thấy Theravada và Abhidhamma có nhiều “công cụ” để nhìn rõ bản chất vấn đề hơn
– Về độ chúng sinh rộng khắp: Thì Minh Đạo thấy Mahayana có nhiều “công cụ” để phổ độ chúng sinh hơn
Trên đây hoàn toàn là tư kiến và kể về hành trình của Minh Đạo. Không phải là chân lý. Là ý kiến (kiến giải cá nhân) của Minh Đạo, là kinh nghiệm trên con đường tu học của Minh Đạo và những gì mình đạo có cho tính cho đến ngày 17/12/2025 dương lịch. Còn có chỗ chưa được đúng pháp Mong quý đạo hữu chỉ bảo và góp ý, Minh Đạo vô cùng hoan hỷ lắng nghe. Không phải do Minh Đạo cố ý đưa ra luận giải và việc làm sai lệch, mà đây là tất cả những gì Minh Đạo có. Mong đạo hữu và chư vị Thiện Tri thức của cả Theravada (Nguyên Thủy) và Mahayana (Đại Thừa) Hoan Hỷ Chỉ Bảo. Minh Đạo luôn trong trạng thái cầu thị muốn nghe.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Nam Mô A Di Đà Phật!
Cho con hỏi nếu tâm giải đãi lười biếng Niệm Phật thì phải tư duy thế nào ạ
A Di Đà Phật
Bạn Thiện Trí,
Ngày 07.05.25 bạn có ghi đoạn sau: “Nhìn thấy nhiều người quen xung quanh mình ra đi trong tâm khảm con càng hiểu rõ hơn về sự vô thường của cuộc sống, con sẽ cố gắng tu tập”.
→Niệm Phật tâm thường giải đãi nguyên nhân:
– Bạn chưa thực giữ giới thanh tịnh.
– Bạn chưa thực thấy rõ đời là vô thường như bạn đã chia sẻ.
– Bạn niệm Phật với tâm vọng cầu chứ chưa thực vì giải thoát.
– Bạn chưa nắm vững phương pháp niệm Phật.
Bạn tư duy xem 4 điều TĐ chia sẻ có đúng những điều bạn đang thiếu?
Chúc tinh tấn.
TĐ
Dạ thưa quý Cô Chú cho con hỏi 1 câu về đời ạ: Con mua phần mềm để con xài, nhưng nếu con tặng (không bán) người khác xài chung như vậy con có phạm tội ăn cắp không ạ? Con cảm ơn ạ. A DI ĐÀ PHẬT.
A Di Đà Phật
Ban Sơn,
Nếu phần mềm đó chỉ chuyên hành việc thiện thì không có gì trở ngại.
TĐ
Dạ phần mềm đó dùng để hỗ trợ công việc ạ, nên con cũng không dám khẳng định làm được việc thiện ạ. Nhưng con sẽ cân nhắc ạ. Con cảm ơn Chú Trung Đạo ạ. A Di Đà Phât.
Khi bạn chia sẻ phần mềm với người khác đồng nghĩa với việc người sáng tạo ra nó sẽ mất đi một phần tài chính mà người dùng lý ra phải bỏ tiền ra mua. Nếu chỉ giới hạn ở một vài người thì còn đỡ, chứ ví dụ một người chia sẻ với người khác, rồi người khác chia sẻ cho vài người khác nữa và lan rộng ra. Như thế con số thất thoát về kinh doanh của nhà sản xuất sẽ rất nhiều và dĩ nhiên người chia sẻ sẽ nhận quả sau này là hao tài với con số tương ứng.
Đây là điều mà nhiều người phạm phải, bạn không phải là người duy nhất. Nhưng bạn quý hơn ở chỗ là kịp nhận ra đây là điều không nên làm. A Di Đà Phật.
Dạ con cảm ơn Chú Trường đã góp ý giúp cho con ạ. Con cảm ơn ạ. A DI ĐÀ PHẬT.