02 01 2013 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Trong kinh Phật có dạy rằng, người học Phật thì đức hạnh đầu tiên là “Hiếu dưỡng phụ mẫu”. Tại sao chúng ta lại nhắc tới sự hạnh hiếu dưỡng phụ mẫu? Vì xin thưa thật là chính ông bà, cha mẹ, những người thân kính quyến thuộc của chúng ta trong nhiều đời nhiều kiếp vụng tu nên bị đọa lạc nhiều lắm. Ta thường gọi là hồi hướng công đức cho các chư vị vong linh, chứ thật ra thì ông bà, cha mẹ chúng ta nhiều lắm trong đó. Khi ta biết đường tu như thế này, thường thường là ông bà cha mẹ chúng ta nghe được thì họ mừng lắm, đang hằng giờ mong cầu đứa con, đứa cháu, tức là chúng ta, hồi hướng công đức cho họ. Nếu chúng ta không có công phu tu hành, không có công đức, hoặc có mà nhiều khi quên hồi hướng công đức cho họ, thì chính những người thân của mình lại nổi cơn sân giận nhiều hơn là người thường đó.
Nếu sau này có cơ duyên đi hộ niệm cho người ta, quý vị mới thấy được những điều này, là hầu hết những hiện tượng gọi là nhập thân báo đời, thì có thể nói hơn 90% là dòng họ của người đó. Không cha thì mẹ, không mẹ thì ông nội, ông ngoại, ông chú, ông bác gì đó… Thường thường là như vậy. Có những người rất là hung hãn. Tôi đã gặp nhiều trường hợp mà chính người thân nhập vào người thân, mà mỗi lần nhập vào như vậy thì họ cầm dao cầm búa đâm vào người. Dễ sợ lắm! Họ đánh người thân, họ tìm cách giết người thân đó, và mỗi lần như vậy, họ nói:
– Tại sao mày giết tao? Tại sao mày hãm hại tao? Tại sao tao có làm gì tội lỗi với mày mà mày đối xử tệ như vậy?…
Quý vị không tưởng tượng được đâu! Họ căm hờn như vậy. Đó là những trường hợp mình biết, còn những chuyện căm hờn khác xảy ra khắp nơi mà mình không hay.
Ví dụ như trong vô lượng kiếp của chúng ta, thì chúng ta có vô lượng vô biên ông bà cha mẹ đã bị đại nạn. Khi chúng ta tu hành như thế này thì thường thường những ông bà cha mẹ đó có thể cảm ứng được, cứ mong sao cho một đứa con một đứa cháu hồi hướng công đức. Bây giờ thứ nhất là thấy một đứa con một đứa cháu đang biết tu hành mà không chịu hồi hướng. Thứ hai là tu hành tà tà, tu hành giỡn giỡn, tu hành không vững, hồi hướng không có một chút xíu nào hết, làm cho họ càng ngày càng đau khổ hơn. Góp phần làm cho niềm sân hận nảy sinh ra.
Phật dạy người Phật tử đầu tiên là phải “Hiếu dưỡng phụ mẫu”. Nếu chúng ta biết niệm Phật, biết con đường về Tây Phương, thì sự hiếu dưỡng này phải cụ thể một chút, không phải cứ đợi tới tháng bảy mùa Vu Lan báo hiếu, tới làm một cái lễ gì đó gọi là báo hiếu! Không có bao nhiêu hết trơn! Mà hằng ngày chúng ta niệm Phật hồi hướng công đức, thành tâm hồi hướng thì tự nhiên công đức này biến Pháp giới.
Trong công cứ của chúng ta gọi là Cửu Phẩm Liên Đài, thì tờ đầu tiên chính là tờ “Báo Ân Niệm Phật”, trong đó có bốn câu:
Phật ân Thân ân.
Hạo thiên võng cực.
Dục báo chi đức.
Niệm Phật đệ nhất.
Có nghĩa là ân Phật, ân Cha Mẹ, “Hạo thiên võng cực” là lớn bao trùm cả pháp giới, lớn lắm, không có cách nào mình có thể diễn tả nổi. “Dục báo chi đức” là muốn báo đền cái công đức này, “Niệm Phật đệ nhất” là không có gì bằng niệm Phật hết.
Chúng ta niệm Phật ở đây không phải là chỉ tu riêng cho chúng ta đâu, mà tu luôn cho Ông-Bà, Cha-Mẹ, Cửu-Huyền Thất- Tổ nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta nữa. Hằng ngày ráng cố gắng tinh tấn hơn, thay vì chúng ta dành thời gian đi chơi uổng lắm! Hãy dành thêm thời gian niệm Phật, thay vì chúng ta cứ nghĩ này nghĩ nọ, buồn khổ để làm gì?…
– Một cơn buồn xảy ra phá tan biết bao nhiêu công đức.
– Một sự lo âu nổi lên phá tan biết bao nhiêu công đức.
– Một sự khổ sở nổi lên nó nhập vào trong tâm chúng ta: Nếu không súc sanh thì cũng là ngạ quỹ, không ngạ quỹ cũng là địa ngục.
Cảnh khổ là cảnh tam ác đạo. Rơi vào đó thì làm sao có cơ hội ly khổ đắc lạc để đi về Tây Phương được?… Chính vì vậy, vì không biết tu nên nỗi khổ nó cứ đến, càng ngày càng thâm nhập vào chúng ta. Trong lúc ngồi trong Niệm Phật Đường thay vì ta nhiếp tâm niệm Phật quyết lòng về Tây Phương, thì những cái cảnh khổ đó cứ hiện ra trong lúc chúng ta đang niệm Phật, vô tình câu niệm Phật chúng ta không mang lại một công đức nào hết trơn. Chính vì không nhiếp tâm nên không có công đức. Không có công đức thì không hồi hướng được cho pháp giới chúng sanh, không có hồi hướng được cho ông bà cha mẹ…
Xin thưa thật, báo hiếu cha mẹ không phải cha mẹ còn sống mới báo hiếu, mà phải cần hồi hướng luôn cho cả cha mẹ ông bà đã qua đời rồi, tại vì ông bà cha mẹ của chúng ta nhiều khi không được sự hướng dẫn tu hành, nên thường bị đọa lạc, họ chờ từng ngày từng giờ… Đừng nên báo hiếu bằng cách chờ tới ngày giỗ kỵ làm vài con gà để cúng mà báo hiếu cha mẹ… Sai lầm vô cùng! Làm vậy cha mẹ mình càng ngày càng bị đọa lạc…
Khi chúng ta biết được báo hiếu không có gì khác hơn là quyết lòng quyết dạ vãng sanh về Tây Phương. Xin thưa thật công đức vãng sanh về Tây Phương chính là cái công đức báo hiếu triệt để. Tại sao vậy? Vì Hòa Thượng thường hay nói rằng, khi chúng ta vãng sanh về Tây-Phương thì ngày đó là ngày ông-bà, cha-mẹ, cửu-huyền thất-tổ của chúng ta thoát được cảnh tam ác đạo. Người ta đang chờ từng giây từng phút cái ngày chúng ta vãng sanh để cho họ thoát khổ. Tôi không nói là họ đi về Tây Phương, mà họ thoát được ba cảnh khổ. Mình biết rằng không phải ta chỉ có một ông cha, hai ông cha, ba ông cha, mà có tới vô lượng vô biên ông cha, vô lượng vô biên đứa con, vô lượng vô biên ông nội bà nội… họ thoát được. Cái công đức này lớn vô cùng lớn.
Chính vì vậy mà sắp tới đây chúng ta sẽ cố gắng tìm cách tăng thêm chương trình Tinh Tấn Niệm Phật. Thay vì một ngày, ta tiến lên hai ngày, tiến lên ba ngày, được bao nhiêu người tu bao nhiêu người. Để chi? Để góp phần với chư vị trên thế giới cùng nhau hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, giải bớt tai nạn và quyết lòng vững vàng đi về Tây Phương.
Một là giải cái ách nạn cho chính mình. Mỗi người chúng ta ai ai cũng đầy hết cả nghiệp ác trong này nè. Người ta chuẩn bị, người ta chờ từng giây từng phút mà khởi lên đó. Oan gia trái chủ của mỗi người nhiều lắm ở trong đó. Nếu chúng ta không thành tâm niệm Phật, không quyết lòng niệm Phật thì các vị đó không bao giờ đoạn đành bỏ quên cái mối thù sát sanh hại mạng của họ đâu. Chính vì họ không biết về nhân quả, nên họ không bỏ, họ không xả. Nghiệp ác này nó cộng vào cộng nghiệp của chúng sanh mà sanh ra tai nạn. Hòa Thượng Tịnh-Không nói, cái nạn tai trên thế giới của chúng sanh bây giờ lớn lắm rồi, tại vì trong vô lượng kiếp tới giờ ta đã làm nghiệp ác lớn quá rồi chứ không có gì cả.
Quý vị nghĩ thử coi, lập một cái Niệm Phật Đường lên tốn tiền, tốn bạc, tốn công, tốn sức, tốn đủ thứ… nhưng nhiều lắm cũng chỉ có năm người, mười người, hai chục người… tới niệm Phật mà thôi. Còn hàng vạn người khác không bao giờ niệm Phật đâu à!… Hàng triệu người khác người ta vẫn tiếp tục sát sanh hàng ngày. Nạn sát sanh giải không được.
Hiểu được điều này rồi, khi đến Niệm Phật Đường niệm Phật chúng ta phải trực nhớ là mình đang ở trong cái cơ hội vãng sanh thành đạo, thoát tất cả những ách nạn mà trong vô lượng kiếp chúng ta bị đọa đày. Khi mà thoát rồi, chúng ta sẽ có năng lực đi cứu độ chúng sanh, đi cứu cái ách nạn này. Cho nên muốn hết những nạn sóng thần, thì nhiều người vãng sanh về Tây Phương thì cái nạn này mới hết. Thực sự như vậy.
Một người mà vãng sanh thì người ta có thần thông đạo lực, họ đi giải cứu những ách nạn này. Chư Phật mười phương thay phiên nhau cứu độ chúng sanh, nhưng mà cứu không hết. Nạn tai nhiều quá! Chúng ta phải hiểu được như vậy thì ráng cố gắng mà tu để về cho tới Tây Phương Cực Lạc, hợp tác với chư Phật mười phương. Rồi khi ngài Di-Lặc hạ sanh xuống, mình cũng theo Ngài xuống đây hoằng dương Phật pháp cứu độ chúng sanh. Đây là sự thực!… Xin chư vị vững lòng tin tưởng. Tín-Hạnh-Nguyện, Tín-Hạnh-Nguyện mà đi.
– Nếu Lòng Tin chưa vững, nay tin cho vững đi.
– Nếu Sức Nguyện của mình sai lầm, nay nguyện lại đi. Càng vãng sanh sớm chừng nào càng hay chừng đó. Chính sức nguyện này là cái duyên rất đậm để chúng ta về Tây Phương.
– Còn Hạnh là gì? Làm lành lánh dữ là trợ hạnh. Niệm câu A-Di-Đà Phật thiết tha về Tây Phương chính là Chánh Hạnh.
Cho nên Chánh Hạnh, Trợ Hạnh phải phân minh. Một lòng một dạ ngày ngày trì giữ câu A-Di-Đà Phật. Quyết lòng! Người nào niệm năm ngàn thì ráng cố gắng lên bảy ngàn, tám ngàn câu A-Di-Đà Phật một ngày. Đã được tám ngàn rồi thì tại sao không tăng lên chín ngàn?… Tăng lên mười ngàn? Ngài Ấn-Quang Đại Sư đưa ra cái mẫu mực năm chục ngàn là tại vì Ngài thấy cái ách nạn của thế giới lớn quá đi! Ngài đã quỳ xuống lạy chúng sanh niệm Phật để mà tiêu tai giải nạn, để mà chính mình được thoát nạn.
Xin chư vị quyết lòng niệm Phật nhất định đi về Tây Phương thành đạo Vô Thượng cứu độ chúng sanh…
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)
31 12 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Hỏi: Tạo tội chướng đã nhiều vì sao niệm Phật 10 niệm có thể diệt tội nhiều kiếp được?
Đáp: 10 câu hiệu Phật nhất định trừ diệt được các tội trong nhiều kiếp. Vì sao được biết? Xin đem vài thí dụ để giải thích. Có người chứa củi một ngàn ngày, chỉ cần châm một mồi lửa nhỏ thì đống củi ngàn ngày bị cháy trong nửa ngày là tiêu sạch. Tội nghiệp phiền não cũng như đống củi, niệm Phật cũng như mồi lửa, tội chướng từ vô lượng kiếp đến nay do một công đức câu niệm Nam Mô A Di Đà Phật mà tất cả tội chướng đều tiêu diệt. Tội chướng cũng như ngôi nhà tối, niệm Phật cũng như đèn sáng. Nhà tối ngàn năm, đèn sáng vừa chiếu đến các bóng tối liền trừ, công đức niệm Phật lại cũng như thế. Tội chướng từ vô lượng kiếp đến nay do công đức niệm Phật A Di Đà mà tất cả tội chướng đều tiêu diệt. Nên biết niệm Phật nhất định trừ diệt được các tội trong nhiều kiếp. Quán Kinh nói: “Ông xưng danh hiệu Phật nên các tội tiêu diệt, ta nay đến rước ông.” Niệm Phật mười tiếng công đức còn vô biên, huống chi có người một ngày niệm được mười muôn danh hiệu Phật A Di Đà, hoặc 1 ngày niệm được 20 muôn câu A Di Đà Phật. Công Đức 1 ngày niệm Phật còn vô biên huống là 2 ngày đến 7 ngày công đức vô cùng.
Kinh A Di Đà nói: “Khi sắp lâm chung, mau thì 1 ngày chậm thì 7 ngày niệm Phật liền được vãng sanh Tịnh Độ. Lại nói: “Chúng sanh sanh về cõi ấy đều ở vị Bất thối.” Địa vị bất thối là hàng Bồ tát Bát địa, đây là pháp vãng sanh của Thượng Phẩm Thượng Sanh. Vì sao được biết? Ví như ở thế gian người mua nhà cửa, người có nhiều tiền thì mua ngôi nhà đẹp, nếu tiền của ít thì mua ngôi nhà xấu. Niệm Phật công đức rất nhiều nên sanh về Tịnh độ dự vào Thượng Phẩm, niệm Phật ít thì sanh về Hạ Phẩm. Đức Như Lai nói các công đức lành của 8 muôn 4 ngàn pháp môn chỉ có pháp môn niệm Phật là pháp tối thượng. Đức Như Lai tuy nói các công đức lành duy có Pháp môn niệm Phật là nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nếu đem các tạp thiện mà so với niệm Phật thì ít căn lành, ít phước đức, pháp môn Niệm Phật thật chẳng phải của các môn khác có thể sánh kịp.
Lại nữa, pháp môn Niệm Phật y theo Kinh nói thì rất khó gặp. Vì sao được biết? Kinh Đại A Di Đà nói: “Thuở quá khứ có một quốc vương, phát khởi lòng tin nghĩ sẽ thực hành yếu pháp Niệm Phật liền đến gặp thiện tri thức, quyết chí cầu pháp Niệm Phật. Lúc bấy giờ thiện tri thức mới đáp rằng: Này đại vương chỗ cốt yếu của pháp Niệm Phật này, lý rốt ráo thật khó nghe. Nhà vua quyết tâm học pháp Niệm Phật nên đáp: Thưa Đại sư, xin Ngài vui lòng vì tôi mà nói pháp yếu Niệm Phật, tôi sẽ trọn đời cúng dường để ngài sai xử. Khi đó Thiện tri thức đáp: Này đại vương! Nếu ngài muốn biết pháp yếu Niệm Phật trước phải bỏ ngôi vua, ở đây phục vụ cung cấp cho ta không thối chuyển, ta sẽ vì vua mà nói pháp yếu Niệm Phật. Lúc ấy nhà vua bỏ ngôi vua theo hầu thiện tri thức cung cấp những điều cần dùng, không nề khổ cực, không sanh lòng thối chuyển. Nhà vua nghe dạy về pháp Niệm Phật Tam Muội, vua chuyên tu pháp này, sau đó gặp 2 muôn 8 ngàn Chư Phật đều vì nhà vua mà nói Niệm Phật Tam Muội. Nhà vua nghe được pháp Niệm Phật nên được thành Phật.” Huống chi ngày nay được nghe và chí thành tin niệm, đâu thể không được vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Ức ức chúng sanh bị chìm đắm trong đường ác, chẳng được thành Phật, chỉ vì không gặp được pháp môn Niệm Phật. Nên biết pháp môn Niệm Phật thật khó gặp.
Trích Niệm Phật Kính
Tuyển tập: Đại Sư Đạo Cảnh và Đại Sư Thiện Đạo
29 12 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Khi đưa ra một chương trình tu tập để “Nhất tâm bất loạn” thì đối với những người căn cơ cao, chư đại Bồ-Tát là chuyện bình thường không có gì lo sợ, nhưng mà lo sợ cho những người căn tánh hạ liệt, nghiệp chướng sâu nặng. Người căn cơ cao, tâm đã định, thì “Nhất tâm bất loạn” đối với họ là chuyện đương nhiên. Còn những người căn tánh hạ liệt mà nói về “Nhất tâm bất loạn” thì gọi là không “Khế cơ”, có thể đưa đến chỗ chướng ngại! Chính vì vậy, những chương trình “Nhất tâm bất loạn”, ít khi người ta phổ biến rộng rãi, mà thường thường chỉ phổ biến nội bộ, nội bộ trong những người căn cơ cao, vì khi đã “Nhất tâm bất loạn” thì chỉ nhìn là họ đã biết rồi. đọc tiếp ➝
27 12 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Ở các xứ thuộc Bắc Phương Phật Giáo, người niệm danh hiệu Phật A Di Đà chiếm phần tối đa. Riêng tại Việt Nam, trong hàng tăng, tín chẳng những có nhiều người tu theo pháp môn Niệm Phật, mà một vài giáo phái tuy không phải đạo Phật, nhưng họ cũng niệm hồng danh đức giáo chủ ở Tây Phương. Song xét ra, số người niệm Phật tuy nhiều mà kẻ không rõ mục đích của sự trì niệm cũng chẳng ít. Vì vậy sự niệm Phật của họ không hợp với bản ý của đức Thế Tôn. Thử kiểm điểm lại, ta sẽ thấy:
* Có những vị đi chùa thấy người niệm Phật cũng bắt chước niệm theo, hoàn toàn không chủ định. Hành động này tuy cũng gieo căn lành phước đức về sau, nhưng không hợp với bản ý của Phật.
* Có những vị niệm Phật nguyện cho tiêu tai khỏi nạn, cầu gia đình khỏe mạnh bình yên, việc sinh hoạt càng ngày thêm thạnh vượng. Nguyện cầu như thế cũng tốt, nhưng không hợp với bản ý của Phật.
* Có những vị đời sống gặp nhiều cảnh không vừa ý, sanh nổi u buồn phẩn chí, niệm Phật cầu cho mình hiện tại và kiếp sau không còn gặp cảnh ấy nữa, sẽ được xinh đẹp vinh hoa, mọi việc đều thuận lợi như ý. Cầu như thế cố nhiên vẫn tốt, nhưng không hợp với bản ý của Phật.
* Có những vị cảm thấy cuộc sống trần gian không điều chi hứng thú, dù cho sang giàu quyền thế cũng còn nhiều lo lắng khổ tâm. Họ hy vọng dùng công đức niệm Phật để kiếp sau được sanh lên cõi trời, sống lâu nhàn vui tự tại. Cầu như thế cũng là điều tốt, nhưng không hợp với bản ý của Phật.
* Lại có những vị, nghĩ mình tội chướng đã nhiều, trong một kiếp này dễ gì giải thoát, nên niệm Phật cầu cho kiếp sau chuyển nữ thành nam, xuất gia tu hành, làm bậc cao tăng ngộ đạo. Cầu như thế có thể gọi là xuất cách, nhưng còn thiếu trí huệ và đức tin, cũng không hợp với bản ý của Phật.
* Vậy niệm Phật thế nào mới hợp với bản ý của Phật?
– Đức Thế Tôn thấy rõ pháp hữu vi đều vô thường, tất cả chúng sanh vẫn sẵn đủ đức tướng trí huệ của Như Lai, nhưng do bởi mê bản tâm nên tạo ra nghiệp hoặc, mãi chịu sống chết luân hồi. Dù cho được sanh lên cõi trời, khi hưởng hết phước rồi, cũng bị sa đọa. Vì thế, bản ý của đức Thế Tôn muốn cho chúng sanh do nơi pháp môn Niệm Phật sớm thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi.
Chư Phật trong nhiều a tăng kỳ kiếp đã từng huân tu phước huệ, nếu kẻ nào xưng niệm hồng danh của Như Lai, sẽ được vô lượng vô biên công đức. Lại, đức A Di Đà Thế Tôn đã lập thệ: Nếu chúng sanh nào niệm danh hiệu của Ngài cầu về Cực Lạc, kẻ ấy khi mạng chung sẽ được tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương, chứng lên ngôi bất thối chuyển. Đem công đức vô lượng của sự niệm Phật, mong cầu những phước lợi nhỏ nhen ở cõi người, cõi trời mà không cầu vãng sanh giải thoát có khác chi trẻ thơ đem hạt châu ma ni vô giá đổi lấy viên kẹo để ăn? Như thế thật là phí uổng không xứng đáng chút nào! Lại nguyện lực của Phật rất lớn, người nào nghiệp chướng dù nặng mà chí tâm niệm Phật ngay một đời nầy cũng được tiếp dẫn vãng sanh. Cầu đời sau làm cao tăng ngộ đạo, là thiếu trí huệ và đức tin, làm sao bảo đảm bằng hiện đời sanh về Tây Phương, thành bậc Bồ Tát ở ngôi bất thối chuyển? Cho nên bản ý của đức Thế Tôn là muốn cho chúng sanh niệm Phật để thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, và sự giải thoát ấy lại có thể thật hiện ngay trong một kiếp.
Nhưng tại sao chúng ta cần phải thoát vòng sống chết luân hồi?
– Đó là vì ở trong nẻo luân hồi chúng ta xác thật đã chịu nhiều nỗi thống khổ lớn lao. Nếu người học Phật mà không để tâm như thật quán sát nỗi thống khổ ấy, thì dù học Phật cũng không được kết quả tốt, bởi không có tâm lo sợ cầu thoát ly. Kinh nói: “Nếu tâm lo sợ khó sanh, tất lòng thành khó phát.” Đức Thế Tôn khi xưa thuyết pháp Tứ Diệu Đế cho năm người nhóm ông Kiều Trần Như, trước tiên đã nói về Khổ Đế, vẫn không ngoài ý này. Vậy chúng ta thử y theo thuyết Khổ Đế của đức Phật đã chỉ dạy, mà quán sát nỗi thống khổ của kiếp người. Như thế ta sẽ có được một quan niệm rõ hơn: “Tại sao mình lại cần phải mau thoát vòng luân hồi sanh tử?”
Trích Niệm Phật Thập Yếu
Cố HT Thích Thiền Tâm
25 12 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Niềm Tin vô cùng quan trọng! Thế gian pháp làm một việc gì muốn thành công phải có lòng tin vững vàng. Phật pháp lại càng chú trọng về niềm tin. Pháp môn Niệm Phật lấy chữ “Tín Tâm” làm khởi đầu cho tất cả.
Hồi sáng này mình nói lòng tin tạo ra công đức, nhờ công đức tăng thêm thiện căn, rồi thiện căn nó làm cho niềm tin vững hơn, vì niềm tin vững hơn nên công đức của mình lại tăng lên nữa, từng nấc từng nấc đưa đến chỗ thành tựu. Những lời này là để củng cố niềm tin cho nhau. Xin chư vị vững lòng tin tưởng. Những người nào niệm Phật mà chưa phát khởi niềm tin, mau mau phát khởi niềm tin, nếu không thì công cuộc tu hành của chúng ta coi chừng trở thành như: “Dã tràng se cát biển đông!”.
Hôm nay chúng ta tiếp tục nói về “Niềm Tin”. Niềm tin có sự đối trị của nó. Trong kinh Phật nói:
– Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn.
– Tín năng siêu suất chúng ma lộ.
– Tín năng thành tựu Bồ-đề đạo.
Ba điểm này quan trọng vô cùng.
– Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn. Người không có thiện căn phước đức thì nhờ tín tâm mà được trưởng dưỡng lên. Khi phước đức của mình được trưởng dưỡng lên, thì vô tình nghiệp chướng của mình nó lại lu mờ xuống. Như vậy trưởng dưỡng thiện căn đối trị với nghiệp chướng.
– Tín năng siêu suất chúng ma lộ. Cái niềm tin vững vàng nó giúp mình vượt qua tất cả những “Nghiệp Ma”. Nhờ sự đối trị này mà nghiệp chướng bị kiềm chế, ma nghiệp cũng bị kiềm chế, khiến ta “Thành tựu Bồ-đề đạo”. Hay lắm! Điều này hay lắm quý vị ơi!
Chướng ngại chúng ta có ba dạng:
– Một là Nghiệp Chướng.
– Hai là Phiền Não Chướng.
– Ba là Báo Chướng.
“Nghiệp Chướng” được câu “Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn” đối trị. Nghiệp chướng chúng ta có kèm theo cái gọi là “Oán Thân Trái Chủ Chướng”, là những thứ oán thù và nợ nần chúng ta đã tạo ra trong quá khứ, nó đã thành hình rồi.
Còn “Ma Chướng”? Ma chướng chính là “Phiền Não Chướng”, chứ không phải là “Ma này” “Ma nọ”, thè lưỡi, nhe nanh! Không phải. Ma chướng chính là phiền não chướng. “Phiền não chướng” là Tham-Sân-Si-Mạn-Nghi-Ác Kiến. Sáu thứ này là ma chướng. Tu hành:
– Khởi một niệm nghi là Ma chướng.
– Khởi một tâm sân giận lên, địa ngục nhập vào: Ma chướng!
– Khởi lên một tâm tham lam, ngạ quỷ nhập vào: Ma chướng!
Dễ sợ!… Khi phân tích cho rõ ra mới thấy tại sao có nhiều người tu hành rất lâu mà sau cùng không được thành tựu? Là vì không biết rõ chỗ này. Bây giờ mình đi từng bước từng bước thì sẽ thấy rõ hơn.
– Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn. Cái nghiệp của mình trong quá khứ đã làm rồi, xin thưa không cách nào có thể làm cho nó tiêu được. Cũng giống như chúng ta thường hay nói, ví dụ trong một cái hũ này có chứa hạt đậu đen và hạt đậu trắng. Nghiệp chướng ví như hạt đậu đen, phước báu ví như hạt đậu trắng. Tức là trong cuộc đời chúng ta từ vô lượng kiếp tới bây giờ, cũng có lúc làm thiện, cũng có lúc làm ác. Làm ác tạo ra nghiệp ác: Hạt đậu đen. Làm thiện tạo ra nghiệp thiện: Hạt đậu trắng. Trắng – Đen trộn lẫn với nhau. Giả sử như ban đầu Đen – Trắng bằng nhau: Màu xám xám. Bây giờ chúng ta biết trưởng dưỡng những thiện căn phước đức của mình lên, làm lành cho nhiều đi. Ngày nào cũng bỏ hạt đậu trắng vào, thì đến một lúc nào đó mình nhìn cái hũ, hũ lớn lắm nghen, chứ không nhỏ đâu, mình thấy hình như nó trắng non à. Mình hốt lên một nắm thấy toàn là hạt đậu trắng không. Đây chính là điều mà chúng ta nói đó!…
Đừng bao giờ duyên tới những nghiệp ác. Đừng bao giờ khởi lên những chuyện ác. Để cho cái nghiệp ác của mình nó nằm im đó. Nghiệp ác mới thì mình không tạo ra, và cái tâm thiện lành của mình cứ bỏ mãi những hạt đậu trắng vào, thì đến một lúc nào đó lượm lên ta thấy toàn hạt đậu trắng không thôi. Hạt đậu đen còn hay mất?… Còn nguyên vẹn trong đó, không mất.
Trong lúc mình bỏ hạt đậu trắng nhiều như vậy, nhưng đến cuối cùng mình lại không lượm hạt đậu trắng, mà cứ muốn moi dưới đáy tìm cho được hạt đậu đen, thì mình hưởng cái quả của hạt đậu đen đó, nghĩa là bị đọa lạc! Trong khi đó, hạt đậu trắng còn không? Còn nguyên vẹn.
Chừng nào mới hưởng hạt đậu trắng? Khi nào mình hưởng hết cái quả của hạt đậu đen, nghĩa là trả hết tất cả những nghiệp ác rồi mới hưởng được hạt đậu trắng đó. Nguy hiểm là chỗ này!
Tại sao lại phải bị hạt đậu đen? Tại vì phiền não chướng. Như chúng ta niệm Phật mà lòng tin không khởi được, không phát được. Niềm tin không khởi phát thì thường thường là phiền não chướng đang nổi lên. Ví dụ vô trong đạo tràng, tất cả mọi người đều trang nghiêm. Họ trang nghiêm vì họ tin tưởng, họ thành kính. Mình không trang nghiêm chứng tỏ là mình không tin tưởng, không thành kính! Thành kính thì trong lúc tu người ta tạo phước đức. Không thành kính thì cũng gọi là tu hành nhưng mình tạo nghiệp. Rõ rệt!…
Chính vì vậy, xin nhắc đi nhắc lại rất nhiều về chuyện này, ta thường đưa ra nhiều dạng người tu hành bốn-năm chục năm mà sau cùng thất bại. Một trong những lý do, là vì sơ ý chỗ này.
Hôm trước ta có đưa ra một ví dụ, như một người giàu có mà thích đi casino, (tức là cờ bạc). Biết tu tức là biết tạo phước, mà thích đi casino nên làm có tiền xong thì đi casino liền. Đốt hết! Mình tu thì tạo ra phước. Tạo ra phước mà không kiềm chế được phiền não của mình, nổi lên cơn sân giận thì tiêu hết! Tiêu hết rồi thì tu nữa, (tại vì biết tu mà). Tu thì có phước nữa, có phước nữa nhưng giận một cơn nữa thì đốt hết nữa! Nhiều người tu bảy-tám chục năm mà còn giận hờn, đố kỵ, ganh tỵ… thì phước tiêu hết, đức tiêu hết, có thể thua một người mới tu được có một tuần hai tuần mà cuộc đời của họ hiền lành. Cho nên “Tín năng siêu suất chúng ma lộ” là ở chỗ này.
Ví dụ cụ thể hơn, như hôm thứ bảy vừa rồi mình đi hộ niệm, một cụ già trên 80 tuổi, mình tới khuyên niệm Phật, nếu mà vị đó phát khởi tín tâm liền, không chần chừ nữa… Không cần biết là vị đó hồi trước có tu không? Không cần biết. Nhưng một ngày trước khi ra đi mà phát khởi niềm tin vững vàng…
– Bác ơi! Chắp tay lại niệm Phật nhé.
Bác chắp tay liền lập tức.
– Niệm A-Di-Đà Phật cầu về Tây Phương, quyết định nghe bác.
– Dạ, tôi quyết định. Cậu ơi! Hồi giờ tôi làm sai quá, thì bây giờ làm sao?
– Không sao đâu. Vững vàng đi. Phật cho phép đới nghiệp.
Tin liền lập tức, không chần chờ nữa. Nếu hai-ba ngày sau cụ chết. Trong hai ba ngày đó cụ đã niệm câu A-Di-Đà Phật rồi. Khi thấy mệt mệt, kêu chúng tôi tới hộ niệm… thì có thể cũng có hy vọng… Có nhiều người được hộ niệm từ sáng cho đến chiều mà được vãng sanh. Quý vị thấy rõ ràng không? Còn chần chừ? Còn cứ muốn hẹn nay, hẹn mai? Hậu quả sẽ khác hẳn liền! Tại sao vậy? Niềm tin không có. Còn như người đó tự nhiên phát khởi niềm tin liền lập tức thì khác. Hồi giờ không tin tại vì không ai hướng dẫn, chưa có duyên. Nay gặp duyên có người hướng dẫn thì tin liền…
“Tin liền” và “Chần chừ”, hai cái giá trị này hoàn toàn khác nhau! Khác một trời một vực. Tin liền, tức là niềm tin khởi lên mạnh mẽ: “Tín năng siêu suất chúng ma lộ”. Tất cả những giận hờn, những ganh tỵ, những câu mâu, những luyến ái, tham, sân, si, mạn, nghi… tự nhiên buông hết. Ngay từ đó niệm câu A-Di-Đà Phật mà siêu suất chúng ma lộ!…
“Ma” nó dẫn mình duyên tới những cái “Nghiệp Chướng” trong quá khứ, nó dẫn mình duyên tới những cái “Oán Thân Trái Chủ Chướng”. Chính nghiệp chướng và oán thân trái chủ chướng này tạo cho mình cái “Báo Chướng”. Báo chướng này đưa mình đi xuống ba đường ác. Nếu cái “Ma Chướng” này bị ngăn đi, cắt đi, tức là tất cả những cái duyên của nghiệp chướng, oan gia trái chủ chướng bị cắt, thì những nghiệp chướng này không trở thành quả báo. Oan gia trái chủ thông cảm không hãm hại mình. Mình niệm Phật hưởng cái quả báo vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Đơn giản như vậy.
Chính vì vậy mà có những người hồi giờ không biết tu gì cả, nghe nói hộ niệm vãng sanh, mừng quá, chạy tới kêu. Dù người ta chưa bao giờ bước tới đạo tràng này, nhưng chỉ cần mình tới nói chuyện, họ phát khởi niềm tin, nhiều khi họ đi ngon lành hơn mình, đừng nên khinh thường. Còn như chúng ta ở đây tu, ngày ngày chúng ta cũng nói hộ niệm, ngày ngày chúng ta nói về Tây Phương, củng cố niềm tin cho nhau để đi về Tây Phương, nhưng chúng ta lại tu tà tà! Vì sao lại tu tà tà? Hổm nay tôi nói rất nhiều rồi, có thể vì oan gia trái chủ đã xúi để hại ta! Tu tà tà thì thiện căn phước đức của chúng ta trong quá khứ không khởi lên được. Tại sao vậy? Tại vì niềm tin của chúng ta tà tà. Niềm tin tà tà thì “Tín Năng” không có thể nào “Siêu suất chúng ma lộ” được. Tín này không thể nào trưởng dưỡng chư thiện căn được. Không có niềm tin nhất định không thể thành tựu đạo Bồ-đề.
Bồ-đề Đạo đối trị với Báo Chướng. Thành Bồ-đề đạo tức là thành Phật. Lên Tây Phương thì báo chướng cũng chịu thua, không cách nào báo hại mình được nữa, mà lúc đó là mình đi trên cái báo chướng đó, mình đi trên cái nghiệp chướng đó, mình dùng thần thông đạo lực đi cứu độ chúng sanh, vì chúng sanh mà chịu khổ. Chư Phật hạ sanh xuống cõi trần là thị hiện vì chúng sanh các Ngài chịu khổ, chứ không phải xuống đây các Ngài chịu nhân quả đâu à! Các Ngài đi trên nhân quả rồi, đã trở về chơn tâm tự tánh không còn cái đó nữa, thì ta cũng tập theo các Ngài về Tây Phương để thành đạo Vô-Thượng, chúng ta đi trên cái mức đó, đi cứu độ chúng sanh. Ở từ đâu? Bắt nguồn từ niềm tin này.
Cho nên ngũ căn, ngũ lực bắt đầu từ chữ “Tín” mà đi hết. Đi về Tây Phương cũng bắt đầu chữ “Tín”. Nếu không tin, ví dụ như bà cụ nói chuyện leo lẻo đó, mình nghĩ rằng ít ra cũng một năm nữa chưa chắc gì đã đi. Thế mà mình chưa kịp tới lần thứ hai thì bà cụ đã đi rồi. Quý vị thấy không? Đây là nghiệp chướng đã tràn lên rồi, bao phủ rồi, oan gia trái chủ đã tràn lên rồi. Tại sao như vậy? Tại vì không có tín tâm, không có tín tâm nên không khởi phát được thiện căn phước đức, nên không vượt qua được ma chướng. Xin nhắc lại, Ma Chướng chính là Phiền-Não Chướng!
Như vậy, thì nếu còn giận, xin chư vị đừng giận nữa, tức là chúng ta bỏ được ma giận: “Ma Địa Ngục”. Chúng ta tham lam, tham tiền, tham bạc, tham vàng… tham đồ gì đó, tham luyến gì đó, toàn bộ là ngạ quỷ chướng hết trơn. Một niệm tham nổi lên, ngạ quỷ nhập vào. Quỷ nhập thân này, không phải là do quỷ nào cả, mà chính là tâm tham chúng ta khởi ra. Thực sự là như vậy!
Ta hiểu được như vậy rồi, thì tất cả đều do chính cái tâm ta tạo ra hết. Hôm trước tôi gặp ở trên Internet có một người email hỏi tôi:
– Bây giờ từ sáng tôi tu năm tiếng đồng hồ, chiều tôi tu hai tiếng đồng hồ, một ngày tôi tu bảy tiếng đồng hồ như vậy, tôi quyết tâm cho được thành tựu. Nhưng tại sao bây giờ tôi bị trở ngại như vầy… như vầy… nhiều quá! Vậy thì làm sao đây?
Tôi trả lời liền lập tức:
– Tại vì chị tu không có người hướng dẫn. Chị thấy rằng mình ngon quá nên muốn đóng cửa tự tu một mình, không chịu kết hợp với đồng tu. Khi tới một đạo tràng, chị thấy người ta tu dở hơn chị, nên chị về nhà tự tu một mình. Chị tu một mình nên bây giờ mới bị như vậy. Phải không?
Tôi nói tiếp:
– Mau mau ngưng ngay lập tức, mỗi lần gặp như vậy thì ra rửa mặt đi, rồi kêu năm-bảy người tới tu chung với nhau. Nếu không có người thì tới một đạo tràng nào đó mà tu với người ta. Kêu nhiều người tới kể hết tất cả những chuyện này cho họ nghe, kể hai-ba người nghe thì tự nhiên chị hết chướng nạn…
Thực sự tại vì người ta không hiểu được đạo lý duy tâm, nên mới bị ma chướng! Ma chướng chính là cái tâm phiền não của mình. Biết được vậy rồi, thì người nào có nghi phải buông mối nghi liền lập tức. Người nào thấy chưa tin, phải tin liền lập tức.
– Ma chướng chính là giải đãi.
– Ma chướng chính là lười biếng,
– Ma chướng chính là cạnh tranh ganh tỵ,
– Ma chướng chính là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…
– Ma chướng chính là những thứ đó.
Tất cả những thứ đó là ma chướng, nó mở cửa ra cho “Ngoại Ma” nhập vào khiến mình bị nạn.
Chính vì vậy, họa cũng do mình, phước cũng do mình, gọi là: “Họa phước vô môn, duy nhân tự triệu”. Họa phước không có một hình tướng nhất định, không có một thực thể nào hết. Chính mình chiêu cảm nó đến, chính mình mời nó đến.
Có người đi tu được pháp hỷ sung mãn, đó là điều thành tựu. Từ từ tiến lên. Có những người đi tu, thì càng tu càng bị phiền não, tại vì không chịu buông ma chướng ra. Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến bỏ chưa được! Bỏ được thì chúng ta thành tựu. Nhớ những điểm căn bản này để chúng ta niệm một câu A-Di-Đà Phật với lòng tin tưởng sắc son vững vàng, chúng ta đi về Tây Phương thành đạo Vô-Thượng. Hay hơn là xuống dưới tam ác đạo để chịu khổ vạn kiếp, rồi chờ đức Di-Lặc Tôn Phật xuống cứu. Làm sao Ngài cứu được? Ngài Di-Lặc Bồ-Tát gần 600 triệu năm nữa mới xuống đây thị hiện thành Phật nghen chư vị, không phải dễ đâu. Trong khoảng thời gian đó chưa chắc gì ta được làm người để có dịp nghe pháp âm của Di-Lặc Tôn Phật đâu à!…
Khổ như vậy nên ráng mà lo lấy để đi về Tây Phương, trong một đời này gặp A-Di-Đà Phật thành tựu đạo quả. Ta sẽ theo ngài Di-Lặc Tôn Phật xuống đây cứu độ chúng sanh, hay hơn là nằm chỗ nào đó để chờ Ngài cứu độ!…
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)
23 12 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Ngài Liên Tông Ngũ Tổ, Vĩnh Minh Diên Thọ thiền sư dạy: “Trong kinh nói quả vị của chín phẩm không ngoài hai tâm: định tâm và chuyên tâm. Người tu theo định tâm thực hành theo định quán trong 16 phép quán sẽ được thượng phẩm thượng sinh. Người tu chuyên tâm chỉ niệm danh hiệu Phật. Các thiện đồng về, hồi hướng phát nguyện được vào hạ phẩm. Người niệm Phật phải một đời nương về đức Phật, chuyên tu hết lòng. Nằm hay ngồi mặt phải thường hướng về phương Tây. Khi đi, đứng, kính lễ hoặc niệm Phật phát nguyện, phải khẩn thiết chí thành, không có niệm khác như đến hình ngục đề lao, hoặc oan gia theo đuổi, nước lửa ép ngặt. Nên hết lòng cầu cứu, mong được thoát vòng nguy khổ, mong mau chứng được vô sinh, rộng độ các loài, làm hưng thạnh Tam bảo, thề trả bốn ơn. Chí thành được như thế chắc chắn sẽ được vãng sinh, khỏi uổng phí một đời. Như có người hoặc nói thực hành mà không làm, sức tin rất ít, mỗi niệm không nối tiếp nhau, ý thường bị gián đoạn. Giải đãi như thế, khi lâm chung mong được vãng sinh, chỉ e nghiệp chướng ngăn che, sợ khó gặp bậc thiện tri thức, bị gió lửa (trong thân) bức bách, chánh niệm khó thành. Vì sao? Vì hiện đời là nhân, lâm chung là quả. Nên biết rằng, hạt giống chắc, quả sẽ tốt. Tiếng hòa thời vang thuận, hình thẳng thì bóng ngay”.
Đại sư Ưu Đàm dạy: “Người chơn chánh tu hành cốt yếu phải cầu sinh về thế giới Cực lạc, phải chuyên ý vào một niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Một niệm là bổn sư, một niệm là hóa Phật. Một niệm có khả năng phá tan sự kiên cố của địa ngục, một niệm là kiếm báu chém hết các tà. Một niệm là đèn sáng chiếu vào đêm tối, một niệm là thuyền lớn qua biển mê. Một niệm là liều thuốc hay trị lành bệnh sinh tử, một niệm là con đường tắt ra khỏi ba cõi. Một niệm là bản tánh Di Đà, một niệm là duy tâm Tịnh độ. Muốn được một niệm này, chỉ cần giữ câu Nam Mô A Di Đà Phật ở một chỗ đừng cho thất lạc, mỗi niệm thường hiện tiền, mỗi niệm không lìa tâm. Rảnh cũng niệm như thế, bận rộn cũng niệm như thế. An vui cũng niệm như thế, bệnh cũng niệm như thế. Sống cũng niệm như thế, chết cũng niệm như thế. Một niệm được rõ ràng không trại, không mờ, cần gì hỏi ai để tìm đường về!”.
Người tu Tịnh độ, cốt yếu phải thoát khỏi sinh tử. Đó là việc lớn, không phải nói rồi bỏ qua. Phải nhớ vô thường mau chóng, thời gian không hẹn cùng người, phải quyết tâm làm cho thành công. Nếu bán tín, bán nghi, nửa tiến, nửa lùi, rốt cuộc không làm được việc gì, làm sao thoát luân hồi sinh tử! Nếu lòng tin được chắc, mau phát lòng đại dõng mãnh, đại tinh tấn. Không cần thấy tánh hoặc đại triệt đại ngộ, chỉ cần giữ kỹ một câu Nam Mô A Di Đà Phật, không ai làm lay chuyển nổi. Chuyên lòng nhất chí hoặc tham niệm, quán niệm, nhớ niệm, mười niệm, hoặc mặc niệm, chuyên niệm, lễ niệm, hệ niệm. Mỗi niệm ở lòng thường nhớ thường niệm. Đứng niệm, đi niệm, ngồi niệm, tâm niệm không cho luống qua. Hiệu Phật không rời tâm, mỗi ngày mỗi giờ không cho xen hở. Niệm liên tục khít khao như gà ấp trứng cần hơi ấm đều đặn mới có thể nở con. Niệm được như thế mỗi niệm kế nhau, lại lấy trí huệ để quán chiếu, mới biết Tịnh độ ở trong tâm mình, đó là công phu tiến tu của bậc thượng trí. Như thế là giữ được tâm định, làm chủ được tâm mình. Lúc ấy, dù ở trong hoàn cảnh thuận nghịch hay khổ vui, trước mắt chỉ có một câu A Di Đà Phật, không còn một niệm nào khác thay đổi trong tâm, không còn tạp tưởng thụt lui, chắc được vãng sinh về thế giới Cực lạc. Nếu quyết dụng công như thế, tất cả nghiệp chướng sinh tử nhiều đời nhiều kiếp tự nhiên tiêu diệt, những tập khí trần lao tự nhiên hết sạch. Chính mình thấy Phật A Di Đà, không lìa bổn niệm. Công thành hạnh đủ, nguyện lực giúp nhau, đến khi lâm chung chắc sinh thượng phẩm.
Người đời nay quy y đầu Phật, phần nhiều hoặc vì bệnh khổ mà phát tâm, hoặc vì báo đáp ơn song thân mà niệm Phật, hoặc vì bảo vệ gia đình, sợ tội đọa địa ngục mà trì trai. Tuy họ có lòng tin nhưng không có ý nguyện thoát khỏi sinh tử, niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, do đó không phù hợp với kinh, với bản nguyện của chư Phật.
Người tu Tịnh độ cần phải một lòng cương quyết, tu theo pháp môn ra khỏi Tam giới, nguyện bỏ Ta bà, vãng sinh Tịnh độ, tha thiết như người khách lạ bơ vơ nơi xứ người muốn mau được về quê cũ. Người cầu sinh Tịnh độ nguyện lực phải mạnh mẽ mới mong tựu thành. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Người sắp đến giờ lâm chung các căn đều hư hoại, chỉ có sức nguyện kiên cố không bao giờ mất, ý nguyện sẽ dẫn dắt chúng ta, chỉ trong chốc lát đến nơi mình mong muốn”.
Ngài Ngẫu Ích đại sư nói: “Pháp môn niệm Phật thật không có gì đặc biệt, kỳ lạ. Chỉ cần tin sâu, nguyện thiết, niệm Phật liên tục. Rất tiếc đời nay, có một số người thấy phương pháp niệm Phật thực hành được dễ dàng, cho là thiển cận, để dành cho kẻ quê mùa. Chính vì thế, lòng tin của họ không sâu, việc làm không gắng sức. Suốt ngày rong ruổi, Tịnh nghiệp khó thành. Người niệm Phật chỉ quý ở lòng tin sâu, phát nguyện vãng sinh, luôn luôn hết lòng niệm Phật. Ngày đêm có thể mười muôn, năm muôn, ba muôn câu Nam Mô A Di Đà Phật. Cần phải lấy quyết định không bao giờ thiếu làm tiêu chuẩn, suốt đời không bao giờ đổi thay. Nếu làm được như thế, người đó quyết sẽ được vãng sinh. Nếu được vãng sinh, vĩnh viễn không bao giờ thối chuyển”.
Người niệm Phật không trụ tâm, buông bỏ thân và thế giới là đại bố thí. Niệm Phật không khởi tâm sân si là đại trì giới. Niệm Phật lòng không còn tính thị phi, nhân ngã, là đại nhẫn nhục. Niệm Phật thuần nhất tâm không gián đoạn là đại tinh tấn. Niệm Phật không theo đuổi vọng tưởng là đại thiền định. Niệm Phật có tâm tịch chiếu, không bị mê hoặc lôi cuốn là đại trí tuệ. Cốt yếu là một lòng không loạn động chứ không có gì lạ cả.
Ban đầu, khi niệm Phật cần phải lần chuỗi, ghi được rõ ràng, định rõ thời khóa, quyết định không thiếu. Lâu dần thuần thục, không niệm cũng thành. Tự niệm được như thế dù có ghi số hay không cũng được. Nếu mới phát tâm, lại muốn không chấp tướng, muốn được viên dung tự tại, đều do lòng tin không sâu, việc làm không gắng hết sức, đều là việc đứng bên bờ sinh tử, đến khi lâm chung không thế nào vãng sinh được.
Liên Trì đại sư dạy: “Hoặc có người hỏi, ngày nay người niệm Phật cũng nhiều, tại sao người thành Phật lại ít?”. “Vì có ba nguyên nhân:
01. Có người miệng tuy niệm Phật, nhưng trong lòng không làm điều thiện, nên không được vãng sinh. Dám mong mọi người đã niệm Phật, cần yếu phải y theo lời Phật dạy. Phải chứa đức tu phước, phải hiếu thuận với mẹ cha, trung với vua, anh em hòa thuận, vợ chồng cung kính. Cần phải chí thành tin thật, ngọt dịu nhẫn nại, công bình chính trực, phương tiện giúp người. Cần phải lấy lòng từ bi đối với tất cả, không sát hại sinh mạng, không làm nhục kẻ dưới, không khinh chê người kém hơn mình. Nếu người có lòng không tốt, dù có niệm Phật, chắc chắn niệm bị thối lui. Trái lại, người tích đức, tu phước, luôn làm việc lành, niệm Phật chắc được thành Phật.
02. Có người miệng tuy niệm Phật, trong lòng tạp nghĩ loạn tưởng, do đó không được vãng sinh. Dám mong mọi người khi niệm Phật, cần phải an định tâm vượn, ý ngựa. Niệm mỗi chữ được rõ ràng, mỗi tâm thường chiếu sáng như chính mình đối với Phật ở Tây phương không dám tán loạn. Nếu niệm Phật được như thế, chắc chắn sẽ được thành Phật.
03. Có người tuy miệng niệm Phật, trong lòng chỉ cầu sinh về chỗ giàu sang. Hoặc nghĩ ta là phàm phu không thể về Thánh địa được, chỉ mong khỏi mất thân người là tốt rồi. Những ý tưởng ấy hoàn toàn không phù hợp với tâm Phật, vì đức Phật chỉ hướng dẫn chúng ta vãng sinh Cực lạc, trái lại chúng ta từ chối không muốn sinh. Tâm mình trái với tâm Phật, vì thế không được vãng sinh. Dám mong tất cả mọi người, nếu niệm Phật phải quyết chí cầu sinh Cực lạc, không nên nghi ngại. Người ở cung trời giàu sang tột bậc, phúc hết còn bị đọa lạc, huống chi người giàu ở đời này có được bao lâu! Nếu sợ ta là phàm phu không được vãng sinh, song tất cả phải đều từ phàm phu mới tiến lên Thánh quả. Ai dám nói chúng ta không được vãng sinh? Vì thế, chúng ta cần phát tâm rộng lớn, lập chí kiên cố thệ nguyện vãng sinh, thấy Phật nghe pháp, chứng quả vô thượng, độ thoát tất cả chúng sinh. Niệm Phật như thế chắc sẽ được thành Phật.
Có câu: “Đường tuy khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông”. Sự quyết định là động cơ chính để tiến đến thành công, vì trên đường lý tưởng, không phải lúc nào cũng đầy hoa thơm cỏ lạ, mà thường lắm chông gai. Nếu chúng ta không quyết chí tiến lên, chắc sẽ bị rơi vào vực thẳm. Vì thế, chư Tổ thường khuyên chúng ta phải quyết chí đi theo con đường của ta đi, chậm hay mau thế nào cũng có ngày đến đích. Huống chi, đường về Cực lạc đã có đức Bổn sư chỉ dạy, chỉ cần chúng ta cố gắng một chút là có thể thành công, như Triệt Ngộ Thiền Sư dạy:
“Sáu chữ Di Đà phải khắc ghi
Đứng bờ vực thẳm gắng từng ly,
Cảnh trần như ngựa qua song cửa
Tịnh độ không còn lệ rớm mi”.
Trích Thư cho người em Tịnh Độ
Thích Hồng Nhơn
121/189Đầu«...10...120121122...130...»Cuối
Các Phúc Đáp Gần Đây