17 05 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Mỗi tuần, tại Pháp hội Uống nước Nhớ nguồn số 1 Đông Tác, Kim Liên, Hà Nội do Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học ứng dụng (UIA) tổ chức có hàng trăm gia đình đến để cầu siêu và giao lưu với người thân đã mất và kết quả giao lưu thành công rất cao. Tiến sỹ Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc UIA chia sẻ về ý nghĩa việc giao lưu và cách thức cầu siêu tại đây.
Dân gian thường hay dùng từ “gọi hồn”để nói về việc mời “người âm” về nói chuyện với người dương, còn tại đây dùng từ “giao lưu”. Vậy, tính chất giữa “gọi hồn” và “giao lưu” có gì giống và khác nhau không?
Nhìn hình thức có thể cũng không khác nhau nhiều, có chăng sự khác nhau nằm ở văn hoá ứng xử của người sống đối với người thân đã khuất.
Nhiều gia đình đến giao lưu không thành công là vì họ chỉ muốn “gọi” người thân đã mất về chỉ để hỏi, để cầu lợi cho mình, (hỏi làm ăn thế nào cho phát tài, để xin được phù hộ đủ thứ… ). Việc giao tiếp với “cõi âm” như vậy là hình thức giao tiếp không lịch sự.
Các cụ ta có câu: “Âm dương đồng nhất lý”. Do đó, muốn cho ông bà, cha mẹ, tổ tiên… đã mất về “gặp” chúng ta với tâm trạng vui vẻ, thì chúng ta phải thể hiện tính nhân văn trong văn hoá giao tiếp. Theo đó, ta phải giải mã được những thông điệp của thế giới bên kia, nghe được ý nguyện của người đã mất: Họ muốn gì, cần gì để mình đáp ứng, thậm chí chúng ta có thể học và tiến hành chữa bệnh cho người âm nếu như chúng ta thành tâm hồi hướng công đức và phát nguyện.
Vậy, chúng ta phải làm thế nào để đáp ứng được ý nguyện của người thân ở thế giới bên kia?
Việc thể hiện văn hoá giao lưu với thế giới tâm linh là phải phát nguyện làm việc tốt không chỉ cho mình mà còn cho cả “người âm”. Theo đó, phải phát nguyện, hồi hướng cho hương linh để những linh hồn nào vẫn còn nhiều phiền não, khổ đau… sẽ thoát khỏi đau khổ. Những trạng thái khổ đau, phiền não đó đa phần do tác động rất mạnh mẽ của xúc cảm trong giây phút cận tử nghiệp (giây phút hấp hối) mà thần thức đã mang theo.
Việc mời hương linh liệt sỹ và người thân đã mất về giao lưu cũng giống như việc mình mời người thân từ nước ngoài về, thì mình phải làm thủ tục cấp visa, hộ chiếu cho họ. Tương tự, với người thân ở “cõi âm”, chúng ta phải biết chắc rằng, người thân của chúng ta không bị nhốt trong cảnh giới địa ngục, ngã quỷ… thì họ mới về giao lưu với ta được. Cách để làm các thủ tục cấp “visa” cho người thân ở cõi âm, chính là làm những việc công đức, dâng công đức đó cho người thân, nhờ đó mà công đức của họ được tăng trưởng, thoát khỏi địa ngục khổ đau và phiền não thì họ mới có thể dễ dàng về giao lưu với chúng ta.
Pháp hội Uống nước Nhớ nguồn thường khuyên các gia đình muốn giao lưu thành công thì nên thực hiện nghi thức cầu siêu trước. Vì sao chúng ta nên thực hiện cầu siêu trước khi giao lưu?
Rất nhiều gia đình đã tham gia và phản ánh lại với chúng tôi, rằng có trường hợp thực hiện giao lưu nhưng chưa cầu siêu thì người thân về không nói được, hoặc còn mang theo những đau khổ, phiền não, nhưng sau khi cầu siêu, thì các hương linh trở về giao lưu với người thân với tâm trạng hoan hỉ hơn rất nhiều.
Ngoài ra, không chỉ những gia đình có ý định giao lưu với người thân, mà ngay cả không giao lưu thì chúng ta cũng nên cầu siêu ít nhất mỗi năm 1 lần cho người thân đã mất để họ được an lạc, tránh được những cảnh giới khổ đau, phiền não.
Vì sao việc cầu siêu lại có thể có tác dụng đến như vậy?
Cầu siêu có nghĩa là cầu nguyện cho linh hồn người đã mất được siêu thoát.
Tuy nhiên, để việc cầu siêu được thực hiện đúng chánh pháp, chúng ta không phải đến đây để cầu xin suông, nhớ ơn suông, mà nguyện làm một điều gì đó để tri ơn các liệt sỹ đã hy sinh vì đất nước, tri ơn cửu huyền thất tổ, cha mẹ, người thân đã mất…
Việc tri ơn không đơn thuần là việc trả ơn bằng vật chất, tiền bạc, mà trả ơn bằng việc tu học giáo lý Phật pháp. Cách chúng ta làm chính là dựa trên việc bản thân chúng ta phải nhất tâm tu học, để những linh hồn đi theo chúng ta họ cũng noi theo chúng ta để tu học và họ sẽ thấu hiểu được giáo lý, thoát khỏi những cảnh giới phiền não, đau khổ như ngã quỷ, địa ngục…
Với những người còn sống, việc học Chánh pháp chính là một việc nghĩa cử với tổ tiên, những người đã mất trong gia đình mình. Bởi vì, hương linh người âm đến đây là họ đi theo người nhà họ đến. Các linh hồn đã mất, họ không còn thân thể nữa nên cũng rất khó tự đọc kinh sách nhà Phật để giác ngộ được, mà họ phải nghe người nhà đọc, cảm ứng theo cảm xúc, suy nghĩ của những người sống… Theo đó, người âm đi theo chúng ta, chúng ta học cái gì thì họ học theo cái đó, mình nguyện điều gì thì họ cũng cảm ứng theo ta y như vậy…
Ngoài hương linh của những người thân đi theo chúng ta đến Pháp hội để cầu siêu, thậm chí còn có cả những hương linh của những người có liên quan đến chúng ta từ trong kiếp quá khứ, họ đi theo ta để báo ơn hoặc đòi nợ. Khi họ đến Pháp hội, có thể những thần thức đang oán hận chúng ta họ cũng sẽ được nghe Phật pháp và giác ngộ, nhờ đó mà ta và họ sẽ hoá giải được hận thù, cả 2 đều sẽ được an lạc hơn.
Theo đó, để những thần thức này có thể dễ dàng giác ngộ, chúng ta không chỉ sẽ phải sám hối, nhận hết những lỗi lầm trong quá khứ, mà còn phải phát nguyện làm những việc công đức để chuộc lại tất cả những lỗi lầm đã qua.
Khi các thần thức đã ra khỏi được các phiền não, thì tự họ sẽ không còn buồn phiền, không còn cần những thứ phù phiếm của trần gian như việc cúng vàng, cúng mã…Có nghĩa là, chúng ta đã hướng cho họ có được một tư duy sáng suốt, thấu hiểu được Chánh pháp, để họ được siêu thoát sang được những cảnh giới tốt đẹp hơn.
Nhân dân ta vẫn có câu: “Cho con cá không bằng cho phương pháp câu”. Đối với những người con hiếu, cháu thảo thì việc tri ân các anh hùng liệt sỹ, tri ân gia tiên , ông bà cha mẹ, cách tốt nhất là đưa thần thức (hay còn gọi là hương linh) của họ về cảnh giới an lạc. Khi đã ở cảnh giới an lạc, họ sẽ không cần vàng mã, tiền giả, đồ giả… mà chúng ta gửi nữa. Bởi vì thực chất, ở 2 cõi giới khác nhau, các hệ quy chiếu khác nhau sẽ có vận tốc khác nhau nên không thể dùng chung một loại phương tiện, và càng không thể “chi tiêu” đồng tiền do hệ quy chiếu khác in ra. Có chăng là, tất cả các hệ quy chiếu , tất cả các cõi giới đều chịu chung sự vận hành của luật Nhân – Quả, và cùng “tiêu” chung một loại “tiền”, đó là Công Đức Lực.
Đương nhiên, muốn thực hiện được những mục tiêu kể trên, chúng ta phải tổ chức Pháp hội cầu siêu đúng chánh pháp, nghĩa là phải xuất phát từ lòng từ bi, hỷ xả, hiếu thảo, bài trí pháp đàn trang nghiêm thanh tịnh. Chúng ta không nên bày những đồ hàng mã, tiền giả, không cúng những đồ sát sinh, không được bày vẽ tốn kém, và đặc biệt là trong nghi lễ phải đọc tụng những bài kinh giúp cho thần thức được giác ngộ.
Theo Đạo Phật Ngày Nay
Chí Tín – Yến Châu thực hiện
Hình trên: Tiến sỹ Vũ Thế Khanh – Tổng Giám đốc UIA.
17 05 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Vì lòng đại bi, đức Phật xuất thế thuyết pháp độ sanh. Nguyên bổn tâm của Phật chỉ muốn tất cả chúng sanh đều thoát hẳn sanh tử luân hồi, chứng viên mãn Phật đạo mà thôi. Song, vì chúng sanh căn tánh lợi độn không đồng, trí ngu sai khác nên đức Phật phải chiều theo cơ nghi mà giáo hóa. Do đó, pháp môn của Phật có nhiều đến vô lượng.
Tất cả những pháp môn ấy, bất luận là Tiểu thừa hay Đại thừa, Tiệm giáo hay Đốn giáo, nơi hành giả đều phải tự lực tu tập cho đến đoạn tận hết phiền não mới ra khỏi vòng sanh tử.
Đức Bổn sư của chúng ta biết rằng: “Nếu chúng sanh chỉ dùng tự lực để liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập Thánh thời rất khó đặng”. Nên ngoài vô lượng pháp môn chỉ thuộc tự lực, Ngài dạy một pháp môn tự lực nương tha lực rất viên đốn, rất huyền diệu, dễ thực hành mà thành công cao, dùng sức ít mà mau có hiệu quả, tất cả căn cơ đều hạp, tất cả Thánh phàm đồng tu. Chính là pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng sanh vậy.
Tổ Thiện Đạo cho rằng, nghìn người tu không sót một. Vĩnh Minh đại sư công nhận là mười người tu, được cả mười…
Văn-thù Bồ-tát nói: “Các môn tu hành không môn nào qua môn niệm Phật. Niệm Phật là vua trong các pháp môn”.
Đức Quán Thế Âm bảo: “Tịnh độ pháp môn hơn tất cả hạnh khác”.
Mã Minh đại sĩ bảo rằng: “Chuyên tâm niệm Phật là phương tiện siêu thắng của đức Như Lai”.
Long Thọ tôn giả nói: “Niệm Phật Tam-muội có đại trí huệ, đại phước đức, hay đoạn trừ tất cả phiền não, hay độ được tất cả chúng sanh. Niệm Phật Tam-muội hay sanh vô lượng Tam-muội, cho đến Thủ Lăng Nghiêm Tam-muội”.
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ tát nói: “Pháp môn niệm Phật là tâm tông của chư Phật, là con đường giải thoát tắt nhất của mọi loài”.
Ấn Quang đại sư từng nói: “Vì nương Phật lực nên tất cả mọi người, không kể là nghiệp hoặc nhiều hay ít, cũng không kể công phu hành đạo cạn hay sâu, miễn tin cho chắc, nguyện cho thiết, thời quyết muôn người tu muôn người vãng sanh không sót một. Còn nếu là bậc đã đoạn hoặc chứng chơn mà cầu vãng sanh, thời đốn siêu Thập địa; bậc Thập địa mà cầu sanh thời mau viên Phật quả. Vì thế, nên Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ v.v… các đại Bồ tát đều nguyện vãng sanh. Đến như những kẻ tạo ác cả đời sắp đọa địa ngục, hồi tâm niệm Phật cũng được giải thoát, như các ông Trương Thiện Hòa, Trương Chung Húc, Hùng Thuấn, Duy Cung v.v…”.
Hạng người phạm tội ác ấy mà còn thành tựu được thay, huống là những người chưa quá ác, huống là những người lành!
Do đây nên thấy rằng, pháp môn Tịnh độ này nhiếp cả Thánh phàm, nhiếp cả thiện ác, nhiếp cả chúng sanh, như biển lớn gồm thâu muôn dòng vậy.
Vì pháp môn Tịnh độ với chúng sanh có sự lợi ích rộng lớn như thế, nên muôn kinh vạn luận luôn luôn nhắc đến, chư Thánh chư Hiền đều nguyện cùng về.
Thật là: “Cửu giới chúng sanh rời pháp môn này thời chẳng thể viên thành Phật quả. Thập phương chư Phật bỏ pháp môn này quyết không thể độ khắp quần sanh”.
Trích Hương Sen Vạn Đức
HT Thích Trí Tịnh
Nhà Xuất Bản 2006
11 05 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Điều tối kỵ nhất trong phép niệm Phật là lúc bắt đầu thì hăng hái mà về sau lại giải đãi. Sở dĩ có sự thủy cần chung giải như vậy là vì không có tâm hằng thường. Cho nên, để giữ cho được thủy chung như nhứt, ngay từ khi sơ phát tâm niệm Phật, hành giả cần phải tự vạch cho mình một thời khóa biểu nhứt định. Một khi thời khóa biểu đã vạch sẵn rồi thì ngày ngày cứ y theo đó mà thực hành, tự gây cho mình một thói quen, và có như thế mới giữ được đạo tâm bất thoái. Trong buổi đầu, niệm nhiều hay ít chưa phải là điều quan trọng vì nhiều hay ít còn tùy thuộc năng lực và hoàn cảnh riêng biệt của từng cá nhân; quan trọng là tại chỗ thường thời thực hành, đều đều và chuyên nhất.
Người xưa có vị mỗi ngày niệm đến 10 vạn hiệu. Vị nào ít lắm cũng 5 vạn. Công hạnh tu hành của họ thật là tinh tấn dũng mãnh! Ngày nay, hoàn cảnh thay đổi khác xưa rất xa mà lực lượng của tự thân ta cũng không bằng, vậy ta nên châm chước hoạch định một công khóa, thật sát với hoàn cảnh và vừa sức của ta, để thực hành cho đúng mức. Sau khi đã hoạch định rồi thì dù gặp phải công việc bận rộn đến đâu, cũng phải cố gắng hoàn thành công khóa. Vạn nhất, vì một lẽ nào đó mà không hoàn tất được ngày ấy thì qua hôm sau phải bổ khuyết kịp thời, chớ nên để rày lần mai lửa, tạo thành cho ta một thói xấu rất có hại về sau.
Trong khi vạch khóa trình, nên tránh hai cực đoan. Cực đoan thứ nhứt là vì sự hăng hái trong buổi đầu, tự định cho mình một khóa trình quá nhiều, về sau đuối sức theo không kịp, rồi vì vậy bỏ luôn. Cực đoan thứ hai là vì sự e ngại về sau theo không kịp, nên dè đặt tự định cho mình một khóa trình quá ít, không thấm vào đâu, rồi cũng dễ sinh ra giải đãi. Cả hai cực đoan đều đến kết quả như nhau. Cho nên, trong khi quyết định khóa trình, cần phải tế nhị châm chước dung hòa giữa hoàn cảnh và năng lực thế nào thích trung mới được lâu dài và hữu hiệu.
Niệm bất cứ lúc nào: Với những hành giả đã huân tập được tịnh chủng khá thành thục thì tự nhiên phát ra những tiếng niệm Phật bất cứ lúc nào, cơ hồ như có một sức lực dũng mãnh nào bên trong thúc đẩy, khiến cho hành giả hằng tiến không lùi. Vì vậy mà dù công khóa đã hoàn tất, các vị này vẫn chưa cho là đủ, nên trừ ngoài giấc ngủ, bất luận ngày đêm, trong bốn oai nghi là đi, đứng, nằm, ngồi, không lúc nào, không chốn nào, là không niệm Phật. Như vậy câu “Nam mô A Di Đà Phật” không lúc nào rời khỏi miệng, lâu ngày thành tập quán.
Truyện vãng sanh của người xưa còn ghi chép lại rất nhiều trường hợp vãng sanh do pháp môn niệm Phật này đem lại. Như có ông thợ rèn, tay đập búa miệng niệm Phật; bà làm nghề đậu hủ, tay xay đậu miệng niệm Phật; về sau, khi vừa dứt tiếng niệm Phật, cả hai đều được đức Phật phóng hào quang tiếp dẫn và đều được tọa hóa vãng sanh Cực lạc.
Chúng ta nên lấy đó làm gương. Nếu niệm được đến trình độ ấy thì dù có định khóa trình, hay không còn định khóa trình, không còn là vấn đề nữa.
Niệm hay không niệm vẫn là niệm: Phép niệm Phật nói ở đoạn trên là chỉ sự niệm thành tiếng, phát ra nơi cửa miệng, trong 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Chữ NIỆM trong đoạn này là chỉ tâm niệm (tâm niệm nhớ nghĩ đến Phật). Nói “niệm hay không niệm vẫn là niệm” có nghĩa là bất kể niệm thành lời hay không, luôn luôn trong tâm vẫn tưởng nhớ đến Phật, tức là vẫn có niệm Phật.
Sở dĩ miệng phải niệm Phật là cốt nhắc cho trong tâm tưởng nhớ đến Phật. Giờ đây, dù cho khi miệng không niệm mà tâm vẫn có tưởng nhớ, như thế cứu cánh của phép trì danh niệm Phật đã đạt được rồi vậy.
Nếu hành giả thực hiện được phép “không niệm mà niệm” thì bất luận thời gian nào, bất luận miệng có trì danh hay không trì danh, tâm lý lúc nào cũng vẫn để vào Phật. Như vậy, tịnh niệm đã kiên cường liên tục không hở, lòng như rào sắt vách đồng, gió thổi cũng không lọt, ai muốn đập phá cũng không xuể, quyết không còn một trần niệm ô nhiễm nào có thể đột nhập, khiến cho tâm chao động được. Lúc ấy, phép niệm Phật tam muội tự nhiên thành tựu, quả vãng sanh không cầu mà tự đến.
Người xưa nói “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm” tức là chỉ cho cảnh giới này vậy. Nếu không phải là người niệm Phật đã lâu năm, và do đó, công hạnh đã thuần thục, thì quyết không thực hành được pháp môn này. Hàng sơ cơ quả thật khó mà noi theo.
Trích Pháp Môn Tịnh Độ
HT. Thích Trí Thủ
09 05 2012 | Gương Vãng Sanh, Suy Gẫm & Thực Hành |
Ngài Ngẫu ích Đại sư nói: “Được vãng sanh hay không là do Tín Nguyện có hay không; còn phẩm vị vãng sanh cao hay thấp là tùy việc trì danh sâu hay cạn”
Ở đây, chưa bàn đến phẩm vị cao thấp sau khi vãng sanh. Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết là có được vãng sanh hay không đã. Vì vậy mà chưa bàn đến vấn đề hành trì sâu hay cạn, mà chỉ nên bàn đến tín nguyện có hay không mà thôi.
Tín, Nguyện, Hạnh là ba tư lương sanh về Tịnh độ. Nếu tư lương không đủ, quyết không được vãng sanh. Sở dĩ vì thế mà sự phát nguyện chiếm một địa vị tối quan trọng trong pháp môn tu Tịnh độ.
Đức Phật A Di Đà ngày xưa phát 48 lời nguyện làm duyên khởi tạo thành Thế giới Cực lạc. Từ đó về sau, chúng sanh trong mười phương đều lấy sự phát nguyện vãng sanh làm căn cứ tu hành của tông Tịnh độ. Một đằng Phật nguyện tiếp dẫn, một đằng chúng sanh nguyện vãng sanh, hai nguyện gặp nhau, hai lực lượng tự, tha, hỗ trợ nhau mới đủ sức kết thành quả vãng sanh. Vì thế, người tu tịnh nghiệp quyết phải phát nguyện dũng mãnh.
Trong 48 lời đại nguyện của đức A Di Đà, lời đại nguyện thứ 19 nói một cách rõ ràng, rằng nếu có người chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước Ngài, lúc lâm chung nhất định Ngài sẽ đến tiếp dẫn. Cho nên, hễ có phát nguyện là quyết định phải được vãng sanh.
Lại nữa, trong kinh “Phật thuyết A Di Đà” đức Phật Thích Ca bảo ngài Xá Lợi Phất: “Nếu có người đã phát nguyện, đương phát nguyện, sắp phát nguyện, nguyện sanh về thế giới đức Phật A Di Đà, các người ấy tất đã sanh, hoặc đương sanh hoặc sắp sanh tại thế giới kia, và, hết thảy đều được quả bất thoái chuyển vô lượng Chánh đẳng Chánh giác.” Đoạn trích dẫn đây cũng thuyết minh rằng phàm hễ có nguyện tức có vãng sanh vậy.
Lại nữa, trong kinh Hoa nghiêm cũng từng dạy rằng: “Người ấy khi gần lâm chung, trong sát na tối hậu, tất cả các căn thảy đều bại hoại, tất cả thân thuộc thảy đều xa rời, tất cả uy thế đều tan rã … chỉ còn nguyện vương là hằng cùng theo dõi, hướng dẫn trước mắt; trong một khoảnh khắc, liền được vãng sanh thế giới Cực lạc.” Căn cứ vào các kinh văn trích dẫn trên đây, ta thấy công dụng của phát nguyện là như thế nào rồi vậy.
Bây giờ, trên thực tế, đây là câu chuyện mà thầy Bạch Sa ở Quy Nhơn đã kể cho tôi nghe:
Bà Thái Xương, vợ một Hoa kiều nguyên buôn bán ở Quy Nhơn, là một đàn việt chùa Bạch Sa và đã giúp thầy ấy kiến tạo ngôi chùa Bạch Sa hiện nay. Bà chuyên tu pháp môn niệm Phật và chỉ phát nguyện khi thọ chung được gặp ngày vía đức A Di Đà (tức là ngày 17 tháng 11 âm lịch) và được biết trước giờ phút thọ chung ấy. Năm bà mất, đã 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh. Đầu tháng 11 năm ấy, bà đến xin thầy Bạch Sa tụng cho một bộ kinh Thủy Sám và một bộ kinh Pháp Hoa để kịp đến ngày 17 tháng ấy bà về chầu Phật. Thầy Bạch Sa lấy làm kinh ngạc vô cùng, nhưng vì bà là bổn đạo thuần thành đã lâu năm nên thầy cũng phải chiều theo. Cái tin ấy đã làm cho bà con và đạo hữu kinh ngạc. Đến ngày 17, họ tu tập đến nhà bà rất đông để thỏa mãn tánh hiếu kỳ. Suốt buổi sáng hôm ấy, bà vẫn khỏe mạnh và bình tĩnh như thường ngày, khiến thầy Bạch Sa trong thâm tâm e sợ, không khéo phen này làm trò cười cho thiên hạ. Bỗng đâu đến khoảng quá 10 giờ sáng, bà bảo người giúp việc in một in cơm đem lên nhờ thầy cúng Phật rồi đem xuống cho bà, bà chắn in cơm làm hai phần, tự mình ăn một nửa, còn một nửa bảo người giúp việc ăn mà từ tạ rằng: “Gọi là đền đáp công ơn mụ giúp đỡ tôi trong mười mấy năm trường, nay đến ngày vĩnh biệt, xin biếu mụ ăn nữa phần cơm này để sau nhờ Phật tiếp dẫn mụ về Tây phương.” Nói xong, rửa mặt súc miệng và thay áo quần thì đúng 12 giờ trưa, bà chào tất cả mọi người, ngồi xếp bằng, hai tay chấp trước ngực mà hóa một cách vui vẻ trước sự kinh ngạc của tất cả mọi người trong nhà. Năm ấy ở Quy Nhơn, thiên hạ xôn xao bàn tán rất nhiều về cái chết của bà Thái Xương, tiếng đồn bà thành Phật lan ra khắp các tỉnh.
Xem đó đủ biết sự phát nguyện vãng sanh Cực lạc là một điều tối cần thiết cho người tu theo pháp môn Tịnh độ. Phát nguyện là một nhu kiện không thể không có, ta không nên suất lượt để phải mất công hiệu và lợi ích rất đồng, nhưng lớn về sau.
Từ xưa nay, người tu theo pháp môn Tịnh độ đã làm ra rất nhiều bài văn phát nguyện vãng sanh Cực lạc. Mỗi bài đều có một ý nghĩa hoặc sâu hoặc cạn nhưng mục đích chung vẫn là: “Nguyện khi thân mạng gần chung, biết trước giờ chết mà thân tâm vẫn được an vui, được thấy Phật và Bồ tát đến tiếp dẫn.”
Trong các bài phát nguyện, nổi tiếng nhất là bài “Khể thủ Tây phương” của ngài Liên Trì đại sư, bài “Nhứt tâm quy mạng” của ngài Từ Vân Sám chủ, bài “Thập phương tam thế Phật” của ngài Đại Từ Bồ Tát. Bài nào bài nấy, lời văn rất hay, ý nghĩa rất đầy đủ và hàm xúc. Trong quốc văn ta thì có bài “Đệ tử chúng con tư vô thủy” và bài “Đệ tử kinh lạy.” Sau một thời kinh và trì niệm danh hiệu Phật, ta nên vận hết thành tâm đọc một trong những bài ấy, hoặc đọc tiếp hai ba lần cũng được. Đọc như thế tức là mượn lời văn để tự mình phát lời nguyện rồi vậy. Lúc lâm chung, nhất định sẽ được nhờ Phật tiếp dẫn vãng sanh Thế giới Cực lạc
Nếu không muốn lắp theo khuôn cơ sẵn, ta có thể tự mình viết lấy bài phát nguyện riêng cho thích hợp cũng được. Đại cương lời phát nguyện không ngoài việc cầu vãng sanh, cầu Phật tiếp dẫn, cầu chứng quả, để trở lui tam giới cứu độ chúng sanh đồng sanh Lạc quốc. Còn nếu muốn thêm những chi tiết nào thâm thiết khác, ấy là tùy hoàn cảnh và sở nguyện riêng từng người.
Trong văn phát nguyện bao giờ cũng có câu cầu Phật và chúng Bồ tát đến tiếp dẫn là vì lẽ gì ? Xin thưa: Người tu Tịnh độ, nếu công phu chưa được thuần thục, thường hay bị hãm vào trong những trạng thái sau đây, nên khi lâm chung không niệm được, hoặc lắm khi cũng không kịp mời người khác hộ niệm giùm. Các trạng thái ấy có thể là: hoặc vì bệnh khổ bức bách nên sinh hôn mê, hoặc bị bà con thương tiếc khó bề xả bỏ nên sinh si luyến, hoặc vì sự nghiệp của tiền khó đứt lòng tham đắm nên sinh bi ai, hoặc vì thù hận đầy dẫy khó giải nỗi lòng nên sinh sân hận v.v… Đó là chưa kể cả trường hợp hoạnh tử, miệng chưa kịp niệm đã vong.
Nếu lúc gần lâm chung mà không được Phật hiện đến tiếp dẫn thì không được vãng sanh, lại còn vì các sự đau khổ tham sân luyến tiếc mà bị đọa lạc ba đường dữ nữa là khác. Vì các lý do ấy nên trong văn phát nguyện, bao giờ cũng phải cầu Phật đến rước để tiếp dẫn mới là chu đáo. Sự phát nguyện hằng ngày có thể ở tại chùa vào bất luận giờ nào cũng được, miễn là sau khi lễ Phật xong thì quỳ ngay trước điện Phật mà đọc lời phát nguyện. Nếu ở nhà có bàn thờ Phật thì hằng ngày nên đốt hương lạy Phật rồi phát nguyện. Hoặc giả, nếu không tiện thờ Phật thì viết câu: “Nam mô Thập phương Tam thế Phật Bồ tát” dán lên trên vách, hằng đêm trước khi đi ngủ, đối mặt vào vách mà đốt hương phát nguyện. Gặp khi đi đường, chưa kịp trở về thì nên xây mặt về hướng tây chắp tay niệm năm, mười hiệu Phật rồi lâm râm đọc lời phát nguyện. Ta lại có thể phát nguyện mỗi khi làm được một việc thiện nào, bất luận lớn nhỏ v.v…
Trong nghi lễ phát nguyện, điều tuyệt đối cấm hẳn là không được đối trước đền tháp thờ thần thánh ma quỷ mà phát nguyện.
Trích Pháp Môn Tịnh Độ
HT. Thích Trí Thủ
04 05 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Ăn chay mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe và tránh được nhiều vấn đề như bệnh tật, sát sinh, ô nhiễm nước, phí phạm đất đai…
Các nhà khoa học trên thế giới đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu và thí nghiệm về cơ thể loài người và đi đến kết luận loài người được tạo hóa sinh ra để ăn rau cải, hoa quả tức ăn chay thay vì ăn mặn.
Thứ nhất hai hàm răng của con người được cấu trúc một cách đặc biệt, lại có răng hàm cùng xương quai hàm để đọc tiếp ➝
03 05 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
a) So với thiền: Phép niệm Phật, khi chưa đạt được Nhứt tâm bất loạn, so với phép tu thiền định hai bên khác nhau rất xa. Buổi sơ phát tâm, với phép tu thiền định, hành giả không được có tâm ưa, chán, thủ, xả; với phép tu niệm Phật, hành giả lại phải ưa thủ cảnh cực lạc và mong xả cảnh Ta bà. Với phép tu thiền định, tâm không được trú trước vào cảnh giới, nếu còn trú trước tức là sai lạc; với phép tu niệm Phật, tâm lấy cảnh làm đối tượng, tâm năng duyên và cảnh sở duyên phải rõ ràng. Với phép tu thiền định tâm phải xa lìa pháp chấp; với phép tu niệm Phật, hành giả cần phải lợi dụng pháp chấp. Với phép tu thiền định, hành giả phải thể nhận được tánh pháp thân ngay trong thế gian này; với phép tu niệm Phật, hành giả khởi tưởng sẽ chết ở thế gian này này và sẽ sanh về thế giới bên kia. Vì các lý do trên, thiền Tông và niệm Phật có chỗ bất đồng.
Nhưng khi niệm Phật đã đến chỗ nhất tâm bất loạn, nghĩa là đã đắc định rồi, thì lại là việc khác. Đạt được cảnh giới Tam muội, tức thời hư không tan rã, đại địa lấp bằng, hiện tiền một niệm dung hợp được với pháp thân chư Phật trong mười phương như trăm ngàn ngọn đèn cùng dung hợp ánh sáng và cùng chiếu chung trong một căn nhà, không tan mất, không lẫn lộn. Lúc ấy, ý thức phân biệt ly khai. Cảnh giới này so với cảnh giới chơn như Tam muội của thiền Tông không hai không khác. Xem thế thì đủ biết rằng Tịnh độ tức là thiền Tông, kết quả của hai bên nào có khác gì nhau?
b) So với Luật: Tác dụng của Giới luật là giữ gìn ba nghiệp thân, khẩu, ý được trong sạch. Mục đích là làm điều lành, tránh điều dữ. Khi tu theo pháp môn Tịnh độ, thân lễ Phật, miệng niệm Phật, ý tưởng nghĩ đến Phật, cả ba nghiệp đều tập trung, hết thảy sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều thâu nhiếp. Nếu nói làm lành thì chẳng có lành nào hơn. Nếu nói bỏ ác thì thử hỏi khi ba nghiệp đã tập trung hết vào Phật, đâu còn có chỗ nào hở nữa để làm ác ? Như thế, vì sao lại không nói được rằng tu Tịnh độ tức là tu Giới Luật?
c) So với Giáo: Còn nói đến Giáo nghĩa thì tuy câu: “Nam mô A Di Đà Phật” chỉ có sáu chữ mà thôi, nhưng nếu bàn đến tác dụng thì 3 Tạng 12 Bộ giáo lý của Đức Phật thuyết pháp suốt trong 45 năm đều hàm chứa trong đó cả.
Vả lại, mục đích nghiên cứu giáo lý là cốt để hiểu rõ lý nghĩa mà phát lòng chánh tín, thiết thực tu trì để thật chứng quả Phật. Mục đích của pháp môn niệm Phật là cắt đứt vọng tâm, duy trì chánh niệm, vãng sanh Cực lạc, lên bậc bất thoái rồi cuối cùng cũng chứng quả Vô thượng bồ đề. Vì thế nên hành giả phát tâm thành thật tu niệm thì không cần phải nhọc công nghiên cứu giáo lý mà tựu trung tất cả giáo lý đều đã đầy đủ. Như vậy, vì sao không nói được rằng tu Tịnh độ tức là tu theo Giáo nghĩa ?
d) So với Mật: Phép tu của Mật tông chú trọng về “Tam mật gia trì.” Tam mật gia trì nghĩa là giữ gìn thân mật (thân bắt ấn), khẩu mật (miệng đọc chú) và ý mật (ý quán tưởng tự mẫu). Nếu tinh tấn hành trì đúng ba phép mật ấy thì “tức thân thành Phật” và chứng được 6 món vô úy. Đó là điểm đặc sắc của Mật Tông. Nhưng với pháp môn Tịnh độ thì khi ba nghiệp đã tập trung, kết quả thật tế so với tam mật gia trì của Mật Tông không khác nhau mấy. Vả lại, tác dụng của các pháp môn niệm Phật có công năng khiến tâm ta và tâm Phật dung hợp làm một, liền chứng được niệm Phật Tam muội. Trong lúc Tam muội hiện tiền, Phật và ta không hai không khác, không thể phân biệt rằng đó là ta hay là Phật. Vì vậy, trong lúc đương niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, tự thân ta chính là A Di Đà rồi vậy. Như thế cũng có thể nói là “tức thân thành Phật.” Dù cho chưa đạt được niệm Phật, được sự cảm ứng đạo giao và được hào quang Phật nhiếp thọ, thì bản thân hành giả có oai lực thần thông của Phật gia bị, có cái gì đáng sợ hãi nữa đâu ? Như vậy, vì sao lại không nói được rằng Tịnh độ tức là Mật Tông ?
Tóm lại, căn cứ vào các ý nghĩa như trên, ta có thể thấy lý do vì sao xưa nay các bậc cao tăng, đại đức, các hàng cư sĩ đại nhơn khi tu học Phật pháp đều đề xướng pháp môn Tịnh độ. Phạm Cổ Nông tiên sanh cũng nói: “Học thì nên theo Duy thức, Hành thì nên quy về Tịnh độ.” Vì vậy cho nên, hễ cứ hành giả càng thâm nhập kinh tạng chừng nào thì lại càng tán dương pháp môn Tịnh độ chừng ấy. Chỉ có những ai còn đứng ngoài cửa nhìn vào mới xem thường Tịnh độ. Phải có con mắt tinh vi mới phân biệt được ngọc và đá; biết được ngọc Biện hòa dễ có mấy ai ?
Hòa Thượng Thích Trí Thủ
135/187Đầu«...10...134135136...140...»Cuối
Các Phúc Đáp Gần Đây