Nuôi Thành Thói Quen Niệm Phật

Nuôi Thành Thói Quen Niệm PhậtNiệm Phật là sớm tối mỗi ngày biết được niệm, vậy thì bình thường biết được niệm không? Ngẫu nhiên nhớ được niệm, niệm cũng không được mấy câu thì dứt. Nếu muốn nuôi dưỡng thành thói quen niệm Phật, tốt nhất là sáng sớm thức dậy còn ở trên giường thì niệm (niệm thầm), tối lại lúc ngủ cũng niệm, niệm đến khi ngủ, từ nay bắt tay làm đi thì thói quen niệm Phật dễ nuôi dưỡng thành.

Ngày ngày niệm, giờ giờ niệm, khởi tưởng thì niệm liền, mới có thể nuôi thành thói quen niệm Phật, khiến thói quen trở thành tự nhiên, tự nhiên miệng lúc chẳng niệm mà tâm vẫn ở nơi niệm, chẳng niệm mà tự niệm, trong tâm có Phật, lâu ngày công phu sâu dày, miệng niệm tâm nghĩ, tự nhiên thành một, nhất tâm bất loạn. Niệm Phật niệm đến lúc quên ta (vong ngã), thì đạt được niệm Phật tam muội, cũng có thể ngộ đạo, đoạn trừ phiền não, liễu thoát sinh tử.

Nếu cả ngày vì công việc bận rộn! Vì danh lợi bận rộn! Vì hưởng thụ dằng dặc xao nhãng, phân tán buông lung, tâm chẳng ở tại đạo, cần công phu tu tập cũng lúc có lúc không, dứt quãng hay tới tấp bất thường, thường bị động chuyển trong sự vui, giận, buồn, ưa… đối việc thuận ý thì tâm sinh khấp khởi vui reo, đối với việc nghịch ý thì khởi tâm ghét hận (trôi nổi theo sóng phiền não, làm sao bình tâm tịnh ý mà xét việc sai đúng), thì làm sao có thể nuôi dưỡng thành thói quen niệm Phật. Ðâu rõ biết ba tạng, mười hai bộ kinh, biện tài không ngăn ngại, danh tướng thì bàn luận lung tung, biết rõ mà không làm, nói rõ mà không luyện, thì ra không khỏi ba cõi!

Hòa thượng Thích Trí Thủ

Làm Sao Xác Định Được Một Người Sau Khi Chết Đi Về Đâu?

Làm Sao Xác Định Được Một Người Sau Khi Chết Đi Về Đâu?Hỏi: Bằng cách nào để biết một người sau khi chết, họ sẽ thác sanh vào cảnh giới nào?

Ðáp: Câu hỏi nầy, chúng tôi xin được giải đáp góp ý qua hai phương diện: “hết nghiệp và còn nghiệp”. Về phương diện dứt hết nghiệp, tức không còn mầm mống sanh tử nữa, thì sau khi chết không có sanh đi đâu hết. Vì người tu khi đã đạt được cứu cánh Niết bàn rồi, thì hằng an trụ nơi thể tánh vô sanh. Đó là mục đích cứu cánh của người tu. Nếu còn sanh, chứng tỏ công phu tu hành của hành giả chưa viên mãn. Có lần, các vị Tỳ kheo hỏi Phật: Một vị A la hán sau khi chết sanh về đâu? Phật trả lời: “Như củi hết lửa tắt”. Củi là dụ cho nghiệp, lửa là dụ cho bản thể. Củi hết là dụ cho nghiệp không còn. Vì hễ còn nghiệp là còn sanh, hết nghiệp là hết sanh. Hiện tượng thì có sanh diệt, còn bản thể thì làm gì có sanh diệt? Như sóng thì có sanh, có diệt, còn chất ướt của nước thì không sanh không diệt. Như vậy, khi lửa tắt không thể nói lửa sanh về đâu. Cũng như sóng dừng, thì không thể hỏi sóng đi về đâu. Khi hiện tượng lặng dừng thì trở về bản thể, chớ không có sanh đi đâu hết. Tuy không sanh đi đâu, nhưng các Ngài vẫn tùy duyên ứng hóa. Do đó, mà chúng ta thấy chư Phật, Bồ tát thường ứng thân thị hiện khắp nơi để độ sanh. Đối với các Ngài sanh mà không sanh, diệt mà không diệt. Vì các Ngài không còn thấy có tướng sanh diệt, tới lui, như phàm phu chúng ta nữa.

Về phương diện còn nghiệp, sau khi chết, tất nhiên là còn sanh. Vì còn vô minh phiền não, tất nhiên, là còn có tướng sanh diệt, tới lui, đến đi. Luận về phương diện nầy, chúng tôi xin được y cứ vào Kinh điển Phật Tổ chỉ dạy để nêu ra ba luận cứ để chứng minh.

1. Y cứ vào luật nhân quả:
Căn cứ theo luật nhân quả, hễ chúng ta gây tạo nhân nào thì sẽ gặt hái quả đó. Nếu như hiện đời chúng ta chuyên gây tạo nghiệp lành, thì sau khi chết tất nhiên là chúng ta sẽ thác sanh về cảnh giới lành. Kinh Pháp Cú Phật dạy:

Dục tri tiền thế nhân
Kim sanh thọ giả thị
Yếu tri lai thế quả
Kim sanh tác giả thị.

Nghĩa là:

Nếu muốn biết cái nhân đời trước của mình đã gây tạo như thế nào, thì hãy xem cái quả báo hiện tại mà mình đang mang đây. Nếu muốn biết cái quả báo đời sau của mình như thế nào, thì chúng ta hãy nhìn kỹ lại cái nhân hiện tại mà mình đang gây tạo. Như vậy, nếu hiện tại mình làm điều lành như bố thí, cúng dường, ăn chay, giữ giới, niệm Phật v.v… thì chắc chắn đời sau mình sẽ hưởng quả báo tốt đẹp.

Xin tạm nêu ra đây hai thí dụ cụ thể để Phật tử hiểu rõ hơn. Thí như anh B chuyên đam mê cờ bạc, hằng ngày anh ta thường hay đi vào casino để đánh bài. Đó là vì anh ta nghiện cờ bạc quá nặng. Khi không thấy anh ấy ở trong nhà, nếu muốn biết hắn ở đâu, thì cứ đi vào sòng bạc là sẽ gặp anh ta ngay. Sòng bạc là “quả ”, dụ cho cảnh giới mà anh B sẽ đến. Nghiện cờ bạc là “nhân”. Vắng nhà là dụ cho sau khi chết.

Một ví dụ khác, như có một Phật tử thường xuyên tới chùa tu học làm công quả hằng ngày, đó là nghiệp nặng đi chùa. Tất nhiên đây là nghiệp lành. Hành động thường tới lui chùa, đó là cực trọng nghiệp. Ngày nào không đi là không được. Chùa là dụ cho cảnh giới lành mà người Phật tử đến. Vắng nhà là dụ cho sau khi chết. Qua hai thí dụ đó, chúng ta thấy hướng tái sanh của người khi hiện đời tạo nghiệp lành hoặc dữ mà có sự thọ sanh khác nhau.

Tổ Qui Sơn có dạy: “Như nhơn phụ trái, cường giả tiên khiên”. Nghĩa là như người mắc nợ, ai mạnh thì đòi trước. Nghiệp nào mạnh thì sẽ lôi chúng ta đi trước để trả quả báo mà hiện đời chúng ta đã gây tạo. Thế thì, muốn biết đời sau mình tái sanh về cảnh giới nào, thì hãy cứ nhìn kỹ lại cái nghiệp nhân mà hiện đời mình đang gây tạo đây. Nếu đã gây nghiệp nhân ác mà muốn sanh về cảnh giới lành, thì điều đó là một nghịch lý, trái với luật nhân quả và sẽ không bao giờ có. Tuy nhiên, vấn đề nầy, còn tùy thuộc vào Cận tử nghiệp, tức cái nghiệp gần sắp chết. Nếu cả đời mình tu tạo nhân lành ( tích lũy nghiệp) mà đến giờ phút hấp hối sắp lâm chung, bỗng khởi một niệm ác, thì khi nhắm mắt, tất nhiên là chúng ta phải theo niệm ác đó mà chiêu cảm quả báo. Tuy rằng, sự trả quả báo của cận tử nghiệp thời gian không lâu lắm. Cuối cùng, cũng phải trở về với tích lũy nghiệp. Như vậy, cái tích lũy nghiệp không bao giờ mất.

2. Y cứ vào những thụy ứng:
Nếu y cứ vào những hiện tượng thụy ứng, chúng ta cũng có thể biết được người đó được vãng sanh về cảnh giới lành. Hiện tượng nầy, sách sử đã ghi lại có rất nhiều người tu theo Tịnh môn niệm Phật, khi lâm chung đã để lại thụy ứng (điềm lành gọi là xá lợi ) vãng sanh. Nếu Phật tử muốn biết rõ, xin đọc Mấy Điệu Sen Thanh do cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm biên soạn, sách gồm có hai tập: I và II, xuất bản ấn tống tại Sydney – Úc Châu, năm 1994. Và quyển Những Chuyện niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá Lợi, xuất bản năm 2000 tại Hoa Kỳ, do cư sĩ Tịnh Hải sưu tầm.

3. Y cứ qua kinh nghiệm của các bậc Cổ Đức:
Theo kinh nghiệm của Cổ Đức chỉ dạy, khi người mới chết trong vòng vài tiếng đồng hồ trở lại, muốn biết họ thác sanh về cảnh giới nào, thì người nhà có thể lấy tay sờ vào những nơi ứng nghiệm như sau:

Nếu toàn thân lạnh hết mà chỉ có trên đảnh đầu còn nóng, thì biết rằng người đó sẽ sanh về cảnh giới Phật. Còn như nóng ở nơi con mắt, thì biết người đó sẽ sanh về cõi trời. Nóng ở ngực, thì sanh lại cõi người. Nóng ở bụng, thì sanh về ngạ quỷ. Nóng ở đầu gối, thì sanh vào loài súc sanh. Nóng ở dưới lòng bàn chân, thì sẽ sanh vào địa ngục. Do sự ứng nghiệm đó, nên Cổ Đức có làm bài kệ tóm tắt cho chúng ta dễ nhớ :

Đảnh Thánh nhãn sanh thiên
Nhơn tâm ngạ quỷ phúc
Bàng sanh tất cái ly
Địa ngục khước môn xuất.

Tạm dịch:

Thánh đầu, trời tại mắt
Người tim, ngạ quỷ bụng
Súc sanh hai chân xuống
Địa ngục bàn chân ra.

Thích Phước Thái

Xin tham khảo thêm: Sau khi chết ta sẽ đi về đâu?

Phim Ba Vị Hòa Thượng

Phim Ba Vị Hòa ThượngĐoạn phim ngắn nhưng rất hay, nói lên ý nghĩa vô cùng lớn lao về lục hòa. Lục-hòa nói đủ là lục-hòa-kính nghĩa là sáu điều hòa đồng ái kính của chư Tăng-Ni và Phật tử trong các sơn môn hoặc trong các khóa tu học. Đạo hay đời, bề ngoài đối với điều lành của tha nhân thì hòa thuận, bề trong thì tự mình khiêm cung, đó là kính.

Lục hòa gồm sáu điều hòa kính sau :

1 / Giới hòa đồng tu, hay đồng giới hòa kính lẫn nhau.
2 / Kiến hòa đồng giải, hay đồng kiến hòa kính lẫn nhau.
3 / Lợi hòa đồng quân, hay đồng lợi hòa kính lẫn nhau.
4 / Thân hòa đồng trụ, hay thân từ hòa kính lẫn nhau.
5 / Khẩu hòa vô tranh, hay khẩu từ hòa kính lẫn nhau.
6 / Ý hòa đồng duyệt, hay ý từ hòa kính lẫn nhau.

Nói rộng thêm :

1 / Xuất gia hay phật tử tại gia cùng giới pháp đã thọ đang tu học hoặc hành sự các nơi nên hòa thuận, ái kính lẫn nhau.
2 / Tôn thờ và thi hành giáo pháp của Đức Thế Tôn: căn cơ có cao thấp nhưng giáo pháp chỉ có một như đám mưa. Vậy nhơn đây dùng kiến thức hòa nhau làm lợi lạc quần sanh.
3 / Sống trong bối cảnh môi trường tu học cần nên san sẽ đồ mặc, đồ ăn, phòng thất, giường nệm, thuốc thang, thời buổi hiện nay ngay cả tịnh tài. Tất cả đều được chung hưởng một cách hòa thuận, ái kính lẫn nhau.
4 / Sống trong hành hoạt đông đảo ở một nơi mà ăn ở và tu học chổ chật vì đông. Vậy nên cần phải từ hòa và kính nhường lẫn nhau trong mọi cử động như đi đứng ngồi nằm.
5 / Sống trong sơn môn, chùa, tu viện, thiền viện , đạo tràng, tịnh thất, sơn cốc… hay một nơi sinh hoạt Phật sự đông người. Cần phải nhường nhịn nhau trong lời ăn tiếng nói, nhờ đó mà được niềm hòa ái kính nhau.
6 / Mọi thành viên chung đụng nhau một cách hòa lạc, nói năng một cách hòa ái và rất cần thiết về ý tứ hòa thuận lẫn nhau, vui buồn cùng chia sớt nhau, yêu mến nhau, không làm phật lòng nhau.

Cộng đồng lớn như cộng đồng Phật giáo mà thiếu lục hòa, thì đừng nói chi gọi là đại diện năm châu, hay thượng thủ thế giới nghe thì kêu. Nhưng thật chất chấp ngã còn quá to thử nghĩ có phải trái hẳn lại thâm ý của giáo lý Phật đà chăng, thì Phật sự biến thành ma sự mất rồi ư. Mô Phật !

Vậy chúng ta xuất gia hay cư sĩ tại gia can đảm dù đơn độc áp dụng lục hòa đúng pháp cho mọi nơi tu học, để tạo nhân duyên hài hòa, ái kính nơi thế gian đau khổ này mà trang nghiêm uế độ trở thành Tịnh độ trần gian.

Thích Minh Đức

 

Làm Thế Nào Giữ Chánh Niệm Lúc Lâm Chung?

Làm Thế Nào Giữ Chánh Niệm Lúc Lâm Chung?Thường tu phước, đoạn các điều ác. Không nên hưởng phước, chờ đến lúc lâm chung mới hưởng. Phước ấy là tâm không điên đảo, chánh niệm hiện tiền. Đó là phước báo của người lúc lâm chung.

Mỗi đêm lên giường trước khi ngủ nên nghĩ tưởng A Di Đà Phật đến tiếp dẫn mình. Chớ nên tham sống sợ chết.

Pháp sư Tịnh Không

Thiện Đạo đại sư (tổ thứ 2 của Liên Tông và cũng là hóa thân của Phật A Di Đà) từng dạy phương pháp giữ vững chánh niệm trong lúc lâm chung như sau:

Người niệm Phật khi sắp mãn phần, muốn được sanh về Tịnh độ, thì điểm cần yếu là đừng sợ chết. Phải thường nghĩ thân này nhơ nhớp, biết bao điều khổ lụy trói vây! Nếu bỏ được thân huyễn hôi nhơ, sanh về Cực Lạc thọ thân kim cương thanh tịnh, sẽ thoát khỏi luân hồi khổ thú, hưởng vô lượng sự an vui. Ví như bỏ chiếc áo cũ rách đổi lấy đồ trân phục, còn điều chi đáng thích ý bằng! Nghĩ như thế, buông hẳn thân tâm không còn lo buồn tham luyến. Lúc vừa có bịnh, liền tưởng đến sự vô thường, một lòng niệm Phật chờ chết. Nên dặn thân thuộc chớ lộ vẻ bi thương, cùng bàn việc hay dở trong nhà. Nếu có ai đến thăm, chỉ khuyên nên vì mình niệm Phật, đừng hỏi thăm chi khác. Cũng không nên dùng lời dịu dàng an ủi, chúc cho sớm được lành vui, vì đó chỉ là chuyện bông lông vô ích. Phải bảo trước cho quyến thuộc biết, lúc mình bịnh ngặt sắp chết, đừng rơi lệ thương khóc, hoặc phát ra tiếng than thở âu sầu, làm kẻ lâm chung rối loạn tâm thần, lạc mất chánh niệm. Nói tóm lại, tất cả chỉ giữ một việc xưng danh trợ niệm cho đến sau khi tắt hơi. Nếu lại được bậc tri thức hiểu rành về Tịnh độ, thường đến khuyên thật là diệu hạnh! Như lúc lâm chung biết áp dụng phương pháp này tất sẽ được vãng sanh không còn nghi ngờ chi nữa.

Tội “Vượt Pháp” Là Gì?

Tội Vượt Pháp Là Gì?Hỏi: Tôi là một Phật tử tại gia, do điều kiện ở quê không có chùa và chư Tăng nên tôi tự học pháp môn lần chuỗi niệm Phật qua internet. Tôi có nghe vấn đề lần chuỗi niệm Phật, nếu lỡ lần qua hạt lớn hình hồ lô trên đầu chuỗi (mẫu châu) là phạm tội “vượt pháp”.

Trong quá trình lần chuỗi, nhiều lúc do không chú tâm nên tôi đã lần qua hạt này. Tôi muốn biết thêm về tội này, cách thức sám hối. Làm sao để lần chuỗi mà không phạm? (ĐỒNG QUANG, [email protected])

Đáp: Bạn Đồng Quang thân mến!

Tội “vượt pháp” (việt pháp tội) được đề cập đến trong khá nhiều kinh, nhất là những kinh điển hay nghi quỹ thuộc Mật giáo. Kim Cang Đảnh Nhất Tự Luân Vương Du Già Nhất Thiết Thời Xứ Niệm Tụng Nghi Quỹ (q.1), Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Tiêu Tai Trừ Nạn Niệm Tụng Nghi Quỹ (q.1) dạy rằng: Khi lần tràng hạt, khởi đầu từ mẫu châu (hạt lớn hình hồ lô đầu xâu chuỗi), cứ mỗi danh hiệu Phật hay mỗi biến (thần chú) lần qua một hạt, đến hạt cuối cùng đụng vào mẫu châu phải quay trở lại, không được vượt qua, nếu vượt qua là phạm tội “vượt pháp” (trái vượt, không đúng pháp). Hiển Mật Viên Thông Thành Phật Tâm Yếu Tập (q.2) dạy rằng: Nếu lần chuỗi đến hạt mẫu châu phải trở lại, không được vượt qua.

Kinh Kim Cang Đảnh Du Già Niệm Châu chép: Các hạt chuỗi là biểu thị cho Đức Bồ tát Quán Thế Âm, còn mẫu châu là biểu thị cho Đức Phật Vô Lượng Thọ, hoặc là biểu thị cho Phật quả của sự tu hành đã hoàn thành viên mãn. Cho nên, lúc lần chuỗi đến hạt mẫu châu thì không được vượt qua, phải lật xoay ngược trở lại mà lần. Nếu không như thế thì phạm phải tội trái vượt, không đúng pháp (việt pháp tội).

Vì mẫu châu biểu thị cho Đức Phật Vô Lượng Thọ hay biểu thị cho Phật quả nên nhiều người quen gọi tội lần chuỗi hạt vượt mẫu châu là tội “vượt Phật”.

Rõ ràng, trong phương thức lần chuỗi hạt, kinh điển Phật giáo có quy định về tội “vượt pháp”. Tuy nhiên, tội “vượt pháp” trong Mật giáo còn bao hàm ý nghĩa về các vấn đề như chưa được sức gia trì mà đã kiết ấn, lập đàn tràng hoặc chưa được phép của đạo sư mà đã giảng dạy, truyền bá giáo pháp Mật tông…

Mặt khác, mẫu châu theo quan niệm của Mật giáo là biểu trưng cho Bổn tôn, nên không thể vượt qua. Ai vượt qua Bổn tôn tức phạm tội “vượt pháp”. Theo Mật giáo, nếu lần chuỗi hạt sai cách (vượt qua mẫu châu), trái với nghi quỹ thì rất dễ bị ma quỷ nhiễu hại, rất khó tiến tu để thành tựu đạo nghiệp. Cho nên, tội “vượt pháp” là một trong những nghi quỹ đặc biệt dành cho các hành giả tu tập theo những pháp thức của Mật tông.

Còn đối với các hành giả tu tập theo Tịnh Độ tông, lần tràng hạt như một hình thức ghi nhận công phu niệm Phật (niệm được bao nhiêu danh hiệu) thì cũng nên chú ý khi lần chuỗi hạt đến mẫu châu, quay ngược lại để không trái vượt. Muốn khắc phục lỗi này, người lần chuỗi hạt phải tập trung, lần hạt chậm rãi và chánh niệm, rõ biết tất cả. Khi lần đến mẫu châu khắc biết, dừng và quay ngược lại cho đúng cách. Tuy nhiên, nếu lỡ mất chánh niệm để vượt qua mẫu châu thì tâm niệm sám hối và không nên quá lo lắng hoặc băn khoăn về việc này. Ngoài ra, có không ít người lần chuỗi hạt như một phương tiện để giữ chánh niệm, hoặc xem đó là một cách trang nghiêm pháp tướng và đối với một số người lần chuỗi hạt như là một thói quen thì họ làm theo cách tự nhiên, không nhất thiết phải theo nghi quỹ nào, và như thế thì không liên hệ đến “vượt pháp”.

Tổ tư vấn Giác Ngộ ([email protected])

Có Phải Tôi Đã Đạt Bất Niệm Tự Niệm?

Có Phải Tôi Đã Đạt Bất Niệm Tự Niệm?Hỏi: Sau khi tham dự khóa tu Phật thất về, một hôm trong khi chạy xe đến chỗ làm, tôi bỗng nghe tiếng niệm Phật (tiếng quý thầy nơi chùa diễn ra khóa tu) rất rõ. Mỗi khi tôi đề khởi câu niệm Phật liền tức thì nghe tiếng niệm Phật bên tai, trạng thái này kéo dài khoảng một tuần mới hết.

Xin hỏi trạng thái này có phải “bất niệm tự niệm không”? Làm thế nào để duy trì trạng thái đó? (Diệu Mỹ, Bưu điện Chánh Hưng, Q.8, TP.HCM)

Đáp: Bạn Diệu Mỹ thân mến!

Bạn có nhiều duyên lành với pháp môn niệm Phật. Nhờ tín tâm sâu sắc và chuyên cần niệm Phật trong khóa tu nên bạn đã nhập tâm được Phật hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Những hạt giống mới (danh hiệu Phật) này khi gieo trồng vào đất tâm của bạn, nhờ căn lành nên phát triển rất nhanh chóng và tươi tốt. Do đó, khi bạn rời khóa tu về nhà, trong lúc thảnh thơi hay khi nghĩ tưởng đến việc chuẩn bị niệm Phật thì những hạt giống lành trong tâm phát khởi, tái hiện những tiếng niệm Phật đã huân tập từ trước.

Vì thế, trạng thái này không phải “bất niệm tự niệm” mà chỉ là hoa trái, dư âm thành quả của khóa tu trước đó. Sau một thời gian thì niệm lực yếu đi, việc “tự niệm” thưa dần rồi dứt hẳn.

Để đạt đến “bất niệm tự niệm”, bạn cần phát huy tín-nguyện-hạnh, niệm Phật thật tinh chuyên. Buông xả vọng tưởng, chú tâm niệm Phật, thực tập như vậy cho đến khi những hạt giống niệm Phật đong đầy trong tâm khảm và chúng tự động lưu xuất, hiện hành trong tâm.

Tổ tư vấn Giác Ngộ