Một buổi sáng rằm, đầu mùa đông ngoài trời se lạnh, nhưng trong căn phòng khách cửa mở ra hướng Nam không bị gió thổi xốc vào nên cũng khá ấm áp. Tôi xông một ít trầm hương để ngay giữa bàn, hương trầm thơm dìu dịu thanh khiết. Tôi và người bạn đạo ngồi uống trà nhìn theo làn khói trầm mỏng mảnh đang bay ra từ miệng con rồng chạm trổ công phu trên chiếc lư trầm cổ, trong lòng thầm khâm phục người nghệ nhân đúc đồng xa xưa đã cho người đời sau chiêm ngưỡng một tác phẩm thủ công thật tinh xảo.
Tôi bật đầu đĩa nghe một bản nhạc đạo quen thuộc theo lời yêu cầu của anh bạn Phật tử, anh ấy vừa nghe vừa hát theo với một tâm trạng an vui:
“Thầy dạy con nên thường niệm:
Nam mô A Di Đà Phật!
Khi niệm con phải nhất tâm
Cho đời thoát cơn mê lầm
Lòng thành con luôn thường niệm
Nam mô A Di Đà Phật!
Dù trong lúc đang làm gì
Nam mô A Di Đà Phật!
Lời thầy ghi nhớ trong đời
Niệm Phật cho ta thảnh thơi
Niệm Phật thân tâm rạng ngời
Niêm Phật ta có được gì
Niệm Phật cho ta lối đi
Niệm Phật tâm thêm từ bi…”.
Đúng là một bài hát có giai điệu rất hay và ca từ đẹp, không biết tác giả là ai vì trên đĩa CD chỉ ghi tên ca sĩ thể hiện chứ không thấy ghi tên nhạc sĩ sáng tác. Bài hát ngọt ngào cất lên tươi mát như dòng suối hiền hòa tinh khiết, khiến cho người lớn và trẻ con đều rất thích. Cả nhà tôi từ lớn đến bé kể cả ông khách quý đang ngồi uống trà với tôi đây đều thuộc bài hát này và ngân nga hát theo với cái tâm tràn đầy niềm hỷ lạc. Đặc biệt ca từ như một bài pháp ngắn gọn dễ hiểu bằng một thứ ngôn ngữ âm nhạc phong cách R&B chậm rãi, nên rất dễ ăn sâu trong lòng công chúng yêu nhạc đạo như chúng tôi. Toàn bài rất nhiều câu “Nam mô A Di Đà Phật” như một chuỗi niệm Phật, niệm danh hiệu Ngài chỉ có 6 âm thôi, nhưng những thanh âm kỳ diệu ấy khiến cho lòng ta thêm phấn chấn và hoan hỷ.
Phật giáo Ấn Độ xưng tụng danh hiệu Phật theo âm điệu và phong vận của Ấn Độ, khi Phật giáo truyền sang Trung Hoa thì biến hóa theo âm điệu của người Trung Hoa, khi Phật giáo truyền đến châu Mỹ, châu Âu… cũng tự nhiên biến hóa theo cách của nước sở tại và khi Phật giáo truyền sang Việt Nam cũng biến hóa theo âm điệu của đất nước ta. Cho dù niệm “A Di Đà Phật” theo giọng Bắc, Trung hay Nam cũng đều hay, thật ra chỉ cần niệm Phật hiệu là tốt rồi. Vì Đức Phật A Di Đà là Vô Lượng Quang chiếu sáng vô lượng chúng sanh. Ngài còn được gọi là Vô Ngại Quang, cho nên dùng âm điệu hay phong vị nào thì đối với Ngài cũng không chướng ngại. Lại nữa, Đức Phật A Di Đà còn là Hoan Hỷ Quang và Giải Thoát Quang, cho nên niệm thế nào cũng được hoan hỷ, cũng có thể giải thoát và không khởi phiền não.
Thầy đã giảng cho tôi như vậy và khuyên: “Niệm Đức Phật A Di Đà, tín tâm niệm Phật, không giây phút nào rời Phật. Thế gian vô thường, mạng người khó giữ, khi đi đường tốt nhất quý Phật tử vừa đi vừa niệm Đức Phật A Di Đà thì luôn được tai qua nạn khỏi”. Tôi còn quá nhiều vọng tưởng, nên chưa thực hiện được chuyên cần những lời thầy dạy. May sao có thầy và bạn trong đạo tràng Phật tử cùng sinh hoạt với nhau luôn luôn nhắc nhở tôi. Và tôi cũng thấy đây là một pháp môn tu làm cho tâm thanh thản, cho nên dù công việc có bận rộn, tôi cố gắng luyện tập, khi đi đường thì mỗi bước niệm “A Di Đà Phật”. Sau một thời gian dài thực tập nuôi dưỡng thành thói quen, cứ nhấc chân bước một bước thì trong lòng tự động niệm thầm một tiếng “A Di Đà Phật”. Đi trong chánh niệm tỉnh thức và niệm thầm “A Di Đà Phật” quả nhiên đã cứu mạng tôi, khiến tôi tránh được một nạn lớn.
Đó là một buổi trưa Chủ nhật, cách đây hai tuần, trên con đường đi bộ từ nhà tới khu chợ xép khoảng 300 mét. Đó là công việc thường nhật của tôi, trưa nào cũng vậy, tôi bới cơm trưa cho bà nhà tôi đang bán tại quầy trái cây ngoài chợ. Tôi vừa đi vừa niệm “A Di Đà Phật”, đi được một nửa quãng đường gặp người bạn đạo (anh bạn ngồi uống trà với tôi sáng hôm nay đây), anh ấy đi ngược chiều gọi tôi quay lại nói chuyện khoảng 5 phút. Bỗng tôi cảm thấy sau lưng có một ánh chớp rất mạnh và tiếp theo đó là một tiếng nổ dữ dội cách chỗ tôi đứng không xa, khoảng 20 mét. Sự chấn động và sức ép của tiếng nổ làm cho đất đá văng tới khiến cho tôi và anh bạn tức ngực, nhưng chúng tôi không sao cả. Tôi tưởng rằng chiếc lốp ô tô của ai đó đậu bên đường bị nổ, chúng tôi ngồi xuống lấy hai tay ôm đầu rồi cứ một mực niệm Phật, chưa hiểu chuyện gì xảy ra. Sau tiếng nổ có người la lên: “Bom bi nổ, có người chết và người bị thương”. Trong đầu óc tôi lúc đó nghĩ rất đơn giản, chiến tranh đã qua lâu rồi, bom mìn đã được rà phá nhiều rồi, làm gì có bom nổ ở một đường phố đông đúc như thế này, nhưng tôi đã thấy rõ ràng xe cấp cứu đến và các y tá khiêng lên xe ba người bị thương khá nặng máu me vung vãi cả mặt đường. Ngày Chủ nhật đẹp như vậy, ai ngờ xảy ra một thảm họa khôn lường.
Sau vụ nổ người ta mới tìm ra nguyên nhân, hóa ra có một thanh niên trẻ sống bằng nghề đi rà phế liệu chiến tranh, anh ta đang trên đường đi đến chỗ thu mua phế liệu để bán những gì anh ta kiếm được trong buổi sáng, giữa đường bánh xe đạp của anh ta bị trục trặc, nên anh ta lấy ra một cục sắt trong bao phế liệu mà anh ta kiếm được, dùng để thay búa gõ vào trục sau cho vành xe trở về vị trí cũ (có lẽ do một chiếc ốc nào đó bị long ra). Nhưng không ngờ cục sắt cầm trên tay vì chôn trong lòng đất quá lâu ngày bị rỉ sét, nên anh không thể nhận ra đây là quả bom bi, vì vậy mới xảy ra chuyện đáng tiếc khiến anh ta và vài người đi đường bị thương rất nặng, rất may là không ai tử vong.
Chúng ta thường thấy trong kinh Phật nói: “Mạng người vô thường trong hơi thở”, quả không sai tí nào. Đời người là giả tạm và hư ảo, thân thể của chúng ta giống như bọt xà bông, bất cứ lúc nào cũng có thể vỡ tan, nay tuy còn khỏe mạnh nhưng cũng khó giữ gìn. Rõ ràng như vậy đó, nhưng cũng còn có người không để ý tới, rồi khi tai họa xảy đến thì đã muộn rồi. Tôi tính từ địa điểm và thời gian của vụ nổ mà suy ra, nếu như không có anh bạn đạo gọi tôi quay lại kịp thời, thì nhất định tôi sẽ đến ngay chỗ anh chàng thanh niên rà phế liệu đúng thời điểm bom bi phát nổ và ít nhất tôi cũng bị thương. Tôi tin chắc rằng mình được Phật lực gia hộ, vì trong khi đi tôi cứ niệm “A Di Đà Phật” theo từng bước, nên mới thoát được vụ nổ bom bi này.
Tôi đem câu chuyện này kể với thầy và các vị Phật tử trong đạo tràng, họ đều cảm nhận được khi niệm “A Di Đà Phật”, Đức Phật luôn ở bên ta; cảm nhận được năng lực cứu độ nhiệm mầu của Đức Phật khiến cho thân tâm tôi được bình an và thoát nạn. Thầy tôi dạy: Lòng từ bi của Đức Phật thì bình đẳng, không phân biệt sang hèn thiện ác; ai niệm Phật tức là cảm ứng với Đức Phật nên Ngài đến kịp thời để cứu độ. Chính lòng từ bi của Đức Phật đã cảm ứng, cứu độ hộ trì.
Mọi chuyện rồi cũng qua đi, buổi sáng mùa đông se lạnh, nhưng căn phòng như ấm cúng hẳn lên bởi khói trầm thơm và tiếng hát của một bài nhạc đạo vẫn ngọt ngào ngân lên, niềm an vui tràn ngập cả căn phòng gồm hai người bạn đạo. Tôi và anh bạn nhớ lại câu chuyện bom bi nổ, không khỏi rùng mình hú vía, bỗng hai đứa cùng bật cười rộn rã cả căn phòng, có lẽ chúng tôi đã ngộ ra được một điều gì đó trong cuộc tồn sinh giữa chốn Ta bà, và không ai bảo ai, chúng tôi cùng ngân nga theo bài hát ấy:
“…Nam mô A Di Đà Phật!
Lời thầy ghi nhớ trong đời
Niệm Phật cho ta thảnh thơi
Niệm Phật thân tâm rạng ngời
Niệm Phật ta có được gì
Niêm Phật cho ta lối đi
Niệm Phật tâm thêm từ bi…”
Theo Giác Ngộ
Tựa đề gốc: Hòa âm linh diệu
Tác giả: Lê Đàn
Đoạn phim kể về một câu chuyện tự thuật của một nữ cư sĩ nhờ công đức niệm Phật đã chuyển hóa được tế bào ung thư của chính mình. Không những thế cô còn độ được những người thân trong gia đình phát khởi tín tâm vào Phật pháp nhờ lòng thành niệm Phật của mình. Cô còn trợ niệm cho ông ngoại của cô và kết quả là ông được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới qua các thoại chứng đẹp: người chết sau 8 tiếng chân tay mềm mại không cứng, miệng há to sau đó khép lại như mỉm cười…
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phậtđọc tiếp ➝
Đức Bồ Tát Quán Âm đã chứng được Diệu Pháp viên thông, cho nên có thể tùy từng loại mà hiện thân thuyết pháp. Bọn chúng sanh ta luân hồi trong lục đạo mà sanh tử, tuy đầy đủ Diệu Pháp, nhưng bị phiền não che khuất chẳng hay hiển hiện được. Sở dĩ Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân khắp cửa khai đạo cho chúng sanh, từ bi giáo hóa đều khiến thoát khỏi trần lao mới được giải thoát. Cho nên mới có thuyết Quán Âm Phổ Môn Phẩm ra đời.
Đức Quán Âm không khổ não nào chẳng cứu vớt, không cõi nước nào chẳng hiện thân. Trí năng quán của Bồ Tát cùng đọc tiếp ➝
Mặc dù hiện nay, tuổi đời đã hơn tám mươi, nhưng Pháp Sư Tịnh Không vẫn không cảm thấy mệt mõi trên bước đường hoằng truyền Chánh Pháp, Ngài vẫn tiếp tục công việc của mình, du hóa khắp nơi trên thế giới, từ Châu Á sang Âu rồi châu Mỹ để thuyết giảng Kinh Ðiển Ðại Thừa và truyền bá Pháp Môn Tịnh Ðộ. Những hoa trái tu tập của Ngài đã và đang nở rộ, cho thấy ngài đã có một phần nào chứng ngộ trong pháp môn này, và chính điều này đã gây cảm hứng và thu hút hàng vạn Phật tử theo tu pháp môn này.
Thật vậy, một đời chính mình niệm Phật và khuyên người niệm Phật, Hòa Thượng Tịnh Không đã mang lại an lạc và hạnh phúc cho mọi người trên thế gian này. cuộc đời tu tập và hành đạo của Hòa Thượng là một tấm gương sáng ngời cho hàng hậu học noi theo. Cuộc đời của Ngài cũng là một chứng tích cực kỳ sống động cho tiến trình trở về cội nguồn tâm linh, tự tại, an lạc, giải thoát và giác ngộ. Bất cứ hành giả nào có dịp tiếp xúc trực tiếp với Ngài sẽ thể nghiệm được những gì của Ngài đạt được, qua phong thái, giọng nói và diện mạo của Ngài, hành giả có thể nhận ra được chánh báo và y báo của Ngài đã thành tựu một cách viên mãn.
Trích “Pháp Sư Tịnh Không, Người Truyền Bá Giáo Lý Tịnh Ðộ qua con đường giáo dục”
Quán Vô Lượng Thọ kinh còn được gọi là Thập Lục Quán Kinh (do gồm 16 phép quán hành trì), là một trong ba bộ kinh quan trọng nhất của Tịnh độ tông. Kinh miêu tả thế giới Cực Lạc phương Tây của Phật A-di-đà và dạy cách hành trì: sống thanh tịnh, giữ giới luật và niệm danh hiệu Phật A-di-đà, hành giả thoát khỏi các nghiệp bất thiện và được tái sinh nơi Tịnh độ của A-di-đà.
Kinh này chỉ rõ 1 quá trình lịch sử phát sinh giáo pháp của Tịnh độ tông và thật ra đã được đức Phật lịch sử Thích-ca trình bày. Tương truyền rằng, hoàng hậu Vaidehi (Vi Đề Hi), mẹ của vua A-xà-thế, bị con mình bắt hạ ngục cùng với chồng là Tần-bà-sa-la [Nguyên do vì Vua A Xà Thế toan giết cha, còn bà thì muốn cứu ông]. Bà nhất tâm cầu nguyện Phật và khi Phật hiện đến, bà xin tái sinh nơi một cõi yên lành hạnh phúc. Phật dùng thần lực cho bà thấy mọi thế giới tịnh độ, cuối cùng bà chọn cõi Cực lạc của A-di-đà. Phật dạy cho bà phép thiền định để được tái sinh nơi cõi đó. Phép thiền định này gồm 16 phép quán tưởng, và tuỳ theo nghiệp lực của chúng sinh, các phép này có thể giúp tái sinh vào một trong chín cấp bậc của Tịnh độ (Cửu phẩm Liên hoa).
Thuở xưa, tại quận Ninh Ba có tên Trương Mân, cha mẹ khuất sớm, côi cút một mình, nương náu với bà con cho qua ngày tháng, sau đến làm mướn với người phú hộ ở cách làng, chuyên nghề bện dép lác.
Thường bữa sớm mai, chàng gánh giỏ đi cắt lác, hay đi ngang qua trước một cảnh chùa, nghe các sãi công phu, chuông trống inh ỏi. Lần nào chàng cũng để giỏ trước cửa chùa, vào xem một lát rồi mới đi.
Hòa thượng thường thấy như vậy, nên một bữa nọ, Ngài kêu chàng mà hỏi rằng: “Nhà ngươi muốn tu hay sao mà ngày nào cũng thấy đến đây?”
Trương Mân nghe Hòa thượng hỏi mấy lời, liền chấp tay thưa rằng: “Bạch thầy! Con muốn lắm, nhưng con là đứa ở đợ với người , không biết tính làm sao mà tu cho được”.
Hòa thượng nói: “Hễ muốn là được, sự tu hành chẳng luận là chủ hay đầy tớ, và cũng chẳng cần người ở am tự hay kẻ tại gia, hễ có lòng thành thì gặp cảnh ngộ nào cũng tu được cả. Như nay ngươi đang ở đầy tớ cho người, nếu ngươi có chí muốn tu thì ta dạy một cách rất dễ dàng , miễn ngươi chí thành thì có hiệu nghiệm”.
Trương Mân nghe nói rất mừng, liền quỳ xuống đảnh lễ mà thưa rằng: “Xin nhờ ơn thầy chỉ giáo dùm cho đề tử!”.
Hòa thượng nói: “Ngươi cứ về tập ăn chay lần lần, trước ăn chay kỳ, sau sẽ ăn trường và giữ năm điều cấm cho tinh nghiêm, rồi cứ thường ngày niệm sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”. Mỗi khi niệm Phật phải chuyên tâm chú ý, đừng cho xao lãng lúc nào, thì cả đời ngươi sẽ được bình yên , mà đến lúc lâm chung lại được siêu sinh về Tịnh độ nữa”.
Trương Mân nghe sư ông dạy bảo mấy điều thì hết sức vui mừng, bèn bái tạ thầy rồi về nhà cứ y theo lời dạy, thành tâm phát nguyện ăn chay trường và mỗi bửa thường niệm Phật.
Chàng lại đan một cái giỏ bằng tre để trước mặt, mỗi khi niệm Phật một biến, thì ngắt một cọng lác bỏ vào giỏ ấy, như lần một hột chuỗi bồ đề vậy.
Mỗi khi cọng lác đầy giỏ, chàng liền xách đến chùa bạch cùng Hòa thượng, rồi đem ra trước bàn Địa Tạng vái đốt, cứ chí tâm làm như vậy được mười năm.
Một bữa nọ, ông chủ của Trương Mân bị đau chứng ung thư phát thối, người nhà đi tìm rước đủ lương y cứu chữa, nhưng bệnh đã không thuyên giảm chút nào mà càng ngày lại càng nặng.
Một hôm, ông nằm chiêm bao thấy quỷ sứ đến bắt ông dẫn về nơi Minh phủ, bị vua Diêm La quở trách và kể hết những tội ác của ông khi ở trên dương thế.
Ông phú hộ nghe Diêm chúa tỏ hết tội của mình, không sót một khoảng nào, thì liền sợ hãi, lạy lục và khóc lóc xin tha thứ cho về dương thế lo tu phước, hòng chuộc tội đã lỡ lầm.
Diêm chúa thấy ông đã ăn năn tự hối và nghĩ đến Trương Mân mỗi khi niệm Phật có cầu nguyện cho ông, nên phán rằng: “Ngươi khi ở trên dương thế đã làm nhiều điều ác đức, cho vay đặt nợ một vốn năm bảy lời, lập mưu này bày kế nọ mà lo chứa tiền của cho nhiều, chẳng thương kẻ khó, lại làm nhiều sự ức hiếp cho người nghèo. Nếu chiếu theo luật Diêm đình mà phán xử, thì phải bỏ nhà người vào rừng kiếm non đao thì mới đáng. Nhưng vì ngươi có một đầy tớ tên là Trương Mân, rất trung tín không ai bì, thường bửa hay niệm Phật, lại có lòng cầu nguyện cho ngươi, nhờ vậy mà ngươi được giảm bớt tội. Nay ngươi nên đền ơn cho nó một ngàn nén bạc, để nó làm những điều từ thiện thì mới được tiêu tội và thêm phước cho ngươi!”
Ông phú hộ nghe vua Diêm la phán dạy như vậy thì mừng rỡ vô cùng, liền giật mình thức dậy. Ông bèn kêu tất cả vợ con đến và thuật lại điềm chiêm bao ấy thì cả nhà nghe nói đều lấy làm kỳ.
Ông bèn kêu Trương Mân nói rằng: “Con đến ở cùng ông đã lâu, không dè con có lòng chí thành, biết ăn chay niệm Phật đến nỗi cảm kích đến Diêm đình, lại thành tâm cầu nguyện cho cả nhà ông được thêm phước thọ. Nay ông còn sống trên dương thế cũng nhờ công đức của con, vậy ông cho con một ngàn nén bạc, tự ý con liệu việc gì làm có phước thiện, thì con lấy bạc ấy dùng!”
Trương Mân nói: “Thưa ông! Con vì nghèo cực, đến ở mướn cùng ông, manh áo bát cơm cũng nhờ ông bảo dưỡng. Con có chút công đức thì đâu xứng đáng cái ơn ấy mà ông cho bạc nhiều như thế! Con thưa thiệt cùng ông! Cách nay 10 năm, con có đến chùa gặp ngài Hòa thượng thương con, dạy cách ăn chay niệm Phật, nên con thành tâm tu niệm lâu ngày và thường cầu nguyện cho ông được phước thọ tăng long, để đền đáp lại ơn cao dày trong muôn một. Đó cũng là bổn phận của con phải làm.
Nếu ngày nay ông vâng lời Diêm vương cho tiền bạc, thì con biết để làm gì. Cha mẹ đã mất, vợ con cũng không nên con không dám nhận. Vậy con xin thưa lại cho ông rõ điều này: Nguyên ngày trước, con vào chùa thường nghe Hòa thượng giảng về sự tu phước và nói rằng việc lập chùa, đúc tượng Phật, bố thí cho kẻ nghèo đói và bắc cầu đắp lộ cho người đi, thì được nhiều phước đức. Con nghe nói cũng muốn làm, nhưng ngặt vì không tiền, nên không thể đạt kỳ sở nguyện. Thôi ngày nay số tiền ông hứa cho con đó, xin để lại lập một cảnh chùa, còn dư bao nhiêu thì ông bố thí cho dân nghèo trong làng và làm một cái cầu bắc ngang sông này cho hành khách qua lại để khỏi bị cái họa đắm đuối, thì con rất vui lòng!”
Ông phú hộ nghe mấy lời của Trương Mân xin, bèn thỉnh Hòa thượng đến chứng minh cho ông phát nguyện ở giữa Phật đài, rồi cách ít lâu bệnh ông lành như cũ.
Khi vừa mạnh, ông liền kêu thợ đến cất một cảnh chùa gần bên nhà ông, để cho Trương Mân ở tu hành, còn dư tiền bao nhiêu thì đem ra bố thí cho kẻ nghèo và bắt cầu đắp lộ, y như lời của ông đã nguyện.
Xét như chuyện niệm Phật của Trương Mân cứu chủ đã nói trên đó, thì biết pháp môn Tịnh độ dễ tu và dễ đặng, lợi cho mình và lợi cho người, thật là một pháp đứng đầu trong Phật pháp.
Nói về phần dễ tu dễ chứng, chẳng những người thượng trí tu được mà thôi, lại hạng người ngu cũng tu được nữa – chẳng những người giàu sang tu được mà thôi, lại hạng người nghèo hèn cũng tu được nữa – chẳng những người thông thả tu được mà thôi, lại hạng người bận việc cũng tu được nữa – chẳng những nhiều người xuất gia tu được mà thôi, lại hang người tu tại gia cũng tu được nữa.
Nếu đã tu được thì chắc rõ cái hiệu quả “Hiện tiền phước thọ, một hậu vãng sinh” quyết không sai chạy một mảy, dẫu cho người nào mỗi bữa niệm Phật mà tán tâm hay vọng tưởng đi nữa thì đời sau cũng được hưởng sự an lạc nơi cõi nhân thiên, chớ không bao giờ bị đọa.
Còn nói về phần lợi mình và lợi người, thì chẳng mình tự tu tự độ lấy mình mà thôi, đến khi người biết thể theo cái bi nguyện của Phật, Bồ tát, mỗi bữa sau khi niệm Phật, nếu chú nguyện cho cha mẹ, ông bà, họ hàng quyến thuộc đang hiện tại hay đã quá vãng rồi, thì phần mấy người đó sẽ được nhờ cái ảnh hưởng ấy, nếu sống thì thêm phước thêm duyên, nếu chết rồi thì cũng đặng siêu sinh về Phật quốc, Thiên đường là khác.
Bởi vậy, cho nên Trương Mân niệm Phật mà người chủ được tha tội hoàn hồn, thì đủ biết cái thần lực diệu dụng của Phật pháp thật là vô lượng vô biên.
Vậy xin ai là người đã có lòng tín ngưỡng theo pháp môn Tịnh độ, không nên lấy chỗ chưa nghe chưa thấy của mình mà cho là hoang đường, rồi khinh thị hai chữ “Niệm Phật” thì uổng lắm.
Trích: Gương Nhơn Quả
Trích lục trong Phật học tạp chí “Từ Bi Âm”
Các Phúc Đáp Gần Đây