Người Niệm Phật Trong Tâm Phải Có Phật

Người Niệm Phật Trong Tâm Phải Có PhậtTrong tâm có Phật, là tùy thời tùy chỗ khởi tưởng niệm Phật, đi, đứng, ngồi, nằm, lúc động, tịnh, nhàn nhã, bận rộn, công việc không dụng tâm mà đều có A Di Ðà Phật, lúc miệng không niệm mà tâm vẫn ở nơi niệm, chẳng niệm mà tự niệm, không niệm mà không phải chẳng niệm, Phật không rời tâm, tâm không rời Phật, mới có thể được “nhất tâm bất loạn”, tâm ta với tâm Phật thông nhau, tâm và Phật ở cảnh giới “nhất như”, được niệm Phật tam muội.

Trong miệng niệm Phật không ổn định, trong tâm nghĩ bậy tưởng loạn, phép niệm như thế thì đọc tiếp ➝

Niệm Phật Được Thành Phật Đạo

Niệm Phật Được Thành Phật Đạo Người niệm Phật mà được sự hộ niệm của chư Phật, nhiếp trì nguyện lực của Phật A Di Ðà thì lúc mạng chung vào thẳng ngôi bất thoái, tự giác tiến tu thẳng đến thành Phật. Kinh A Di Ðà nói: “Những chúng sinh sinh lên nước ta đều là bất thoái chuyển, trong số đó có rất nhiều người một đời được bổ xứ làm Phật, số ấy rất nhiều, không thể tính đếm hết được”.

Suy xét câu một đời được bổ xứ thành Phật, tức là thân sau chót, như vậy há không phải một đời tức được thành Phật sao?

Hoặc hỏi: “Niệm Phật vốn là việc rất dễ, thành Phật là điều khó, Phật đạo cao xa, trong kinh nói phải trải qua ba đại a tăng kỳ kiếp, siêng tu lục độ vạn hạnh mới được thành tựu, sao niệm Phật mà được thành Phật?”.

Ðáp rằng: “Pháp môn tu hành có nhanh chậm khác nhau. Chậm thì phải trải qua ba đại a tăng kỳ kiếp tu nhân luyện hạnh mới thành Phật đạo, nhanh thì không cần phải trải qua ba đại a tăng kỳ vẫn được pháp thân, không thể khái luận chung chung được”.

Niệm Phật chính là hoành siêu sinh tử, thành tựu Bồ đề nhanh chóng, là pháp môn viên đốn; chỉ sợ mọi người không chịu niệm Phật, chứ nếu tinh tấn thì quả vị Phật quyết định có ngày thành tựu. Ðại sư Quang Minh Thiện Ðạo nói: “Nguyện cho hết thảy mọi người, khéo tự tư duy, đi, đứng, nằm, ngồi đều khắc ghi, ngày đêm chẳng bỏ thì lúc mệnh chung, niệm trước niệm sau liền sinh Cực lạc, vĩnh kiếp thọ niềm vui vô vi cho đến lúc thành Phật, như vậy há không sung sướng sao!”.

Ðại sư Thiện Ðạo cả đời chuyên tu pháp môn niệm Phật, niệm một tiếng miệng phóng ra một luồng ánh sáng, niệm trăm tiếng, nghìn tiếng ánh sáng cũng luôn phóng ra như thế. Như những lời khai thị trên đây, mỗi người tự nên tin sâu, thêm thiết nguyện thực hành vậy.

Lại Văn Thù Sư Lợi bảo Ðại sư Pháp Chiếu, Tổ thứ tư Liên tông rằng: “Trong các pháp môn tu, không pháp môn nào qua pháp môn niệm Phật”. Một ngày, Tứ Tổ đến chùa Trúc Lâm ở Ngũ Ðài Sơn, thấy hai vị đại sĩ Văn Thù, Phổ Hiền ngồi hai bên tả hữu, xoa đầu Tứ Tổ bảo rằng: “Ông chuyên tu niệm Phật, không lâu sẽ chứng vô thượng Bồ đề. Nếu thiện nam tín nữ, muốn chóng thành Phật, nên tu niệm Phật, mau chứng vô thượng chánh đẳng giác”. Suy xét lời của hai vị đại sĩ, rõ ràng chỉ thị niệm Phật có thể thành Phật, còn nghi ngờ gì nữa?

Người niệm Phật mà được sự hộ niệm của chư Phật, nhiếp trì nguyện lực của Phật A Di Ðà thì lúc mạng chung vào thẳng ngôi bất thoái, tự giác tiến tu thẳng đến thành Phật. Kinh A Di Ðà nói: “Những chúng sinh sinh lên nước ta đều là bất thoái chuyển, trong số đó có rất nhiều người một đời được bổ xứ làm Phật, số ấy rất nhiều, không thể tính đếm hết được”.

Suy xét câu một đời được bổ xứ thành Phật, tức là thân sau chót, như vậy há không phải một đời tức được thành Phật sao? Ðây là nói về sự. Nếu nói về lý, niệm Phật công thâm, vô niệm mà niệm, niệm mà vô niệm, tâm, Phật viên dung. Một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật, chứng duy tâm Tịnh độ, thấy tự tánh Di Ðà, không chờ vãng sinh, tức thành Phật đạo, còn sự nhanh chóng nào hơn?

Hoặc nói: “Niệm Phật vãng sinh, điều ấy có đúng không?” Ðáp rằng: “Ba món tư lương tín, nguyện, hạnh đầy đủ thì tất được vãng sinh vậy!”. Ðại sư Vĩnh Minh nói: “Không thiền có Tịnh độ, mười tu mười đắc ngộ”. Tịnh Ðộ Vãng Sinh tập: “Xuất gia tại gia niệm Phật vãng sinh, số ấy rất nhiều, lâm chung đều có chứng nghiệm; hoặc biết trước giờ chết, hoặc ngồi thẳng mà đi, hoặc thân phát ra hương lạ, hoặc nhạc trời trổi dậy…” há lời nói hư dối sao? Thời Tống, Hoàng thợ rèn ở Hồ Nam sống bằng nghề rèn, nhà có bốn người, cuộc sống hoàn toàn dựa vào ông, ngày nào không làm việc thì coi như ngày đó không có gạo bỏ nồi.

Hoàng thường hay than oán, do đời trước không tu, đời nay mới khổ như vầy, Hoàng luôn nghĩ đến tu hành, nhưng không biết phải tu pháp nào, vừa làm việc mà vẫn tu được. Một ngày, nhân thấy vị khách tăng đi qua trước tiệm, Hoàng bèn mời vào thỉnh giáo. Tăng nói: “Có. Chỉ sợ anh không tin thôi!”.

Hoàng nói: “Ðại sư dạy, nào dám không tin!”. Tăng bảo: “Ông muốn lìa khổ được vui, thế giới Ta bà này không có thật lạc, chỉ có nước Cực lạc của Phật A Di Ðà mới không có các khổ, chỉ có an vui. Muốn sinh lên nước ấy chỉ cần nhất tâm xưng niệm danh hiệu A Di Ðà Phật, niệm niệm không ngừng thì lúc mạng chung nhờ Phật tiếp dẫn, tức được vãng sinh lên nước Cực lạc.

Tôi dạy ông lúc cầm ống thổi, niệm một câu Nam mô A Di Ðà Phật, lúc sắt cháy đỏ, lấy ra, nện một chùy, niệm một câu, mỗi mỗi búa đều như thế. Lúc không đánh búa cũng niệm, nếu cứ vậy niệm mãi, cam đoan lâm chung ông sẽ được vãng sinh Cực lạc”.

Hoàng thợ rèn nghe xong, vui mừng khôn xiết, cực kỳ tin tưởng, đã được tu hành lại được làm việc, liền y giáo phụng hành. Người đời đều chế nhạo Hoàng thợ rèn ngu ngốc, làm nghề rèn vốn đã rất vất vả, nay lại niệm Phật, há không phải khổ cộng thêm khổ sao? Hoàng thì không như thế, càng niệm càng thâm tín, bảo: “Pháp môn niệm Phật này thật sự có lợi ích! Tôi ngày thường đứng bên lò lửa, luôn cảm thấy khổ bị cái nóng bức bách; lúc nện búa, bị cái khổ của lao nhọc; nay niệm Phật hoàn toàn không thấy nóng, thấy mệt gì cả”.

Từ đó, Hoàng càng thêm tinh tấn. Ba năm trôi qua… Một ngày, Hoàng tự biết trước giờ chết, bèn cạo đầu, tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo sạch rồi bảo với vợ rằng: “Hôm nay tôi về nhà đây”. Người vợ nói: “Anh còn có nhà nào?”. “Ðây chẳng phải là nhà tôi, nhà tôi ở Tây phương kia”. Thế rồi lại đứng bên lò lùi sắt, vẫn niệm Phật luôn, sắt cháy đỏ, lấy ra nói kệ rằng: “Bon bon beng beng, luyện lâu thành thép; bình yên đã tới, tôi về Tây phương”.

Niệm một câu Nam mô A Di Ðà Phật, nện xuống một búa rồi đứng yên mà hóa, khắp thân phát ra mùi hương lạ, nhạc trời trổi dậy. Ðây là tướng lành Phật A Di Ðà tiếp dẫn vãng sinh Tây phương vậy. Mọi người ngửi thấy mùi hương lạ, không ai mà không kinh ngạc.

Từ đó, người Ðàm Châu về sau đều niệm Phật, đến nay còn rất thịnh. Xưa nay biết bao nhiêu chuyện niệm Phật vãng sinh, không thể không tin.

Lại hỏi: “Chúng sinh trong mười phương thế giới, nếu niệm Phật vãng sinh hết thì cõi Cực lạc chỗ đâu mà chứa?”. Ðáp: “Biển xanh nhận nước của muôn vạn dòng sông mà có đầy đâu, tấm gương nhỏ xíu chứa vạn cảnh nào có dư đâu. Những vật thế gian mà còn được như thế, huống hồ nguyện lực rộng lớn và lực bất khả tư nghì của Phật A Di Ðà, thành tựu vô biên cõi Phật trang nghiêm, sao không đủ chỗ để dung chứa?”.

Thiền sư Hoài nói: “Sinh thì thật có sinh, đi thời chẳng chỗ đi”. Nếu bảo thật có vãng sinh Tịnh độ, há không trái với lời người xưa sao?. Ðáp rằng: “Không trái. Ðây chính là cổ đức đã ngộ được yếu chỉ chân tục không trái, lý sự vô ngại của thật tướng niệm Phật vãng sinh. Anh chỉ đọc mà không hiểu.

Câu trước “sinh thì thật có sinh” là pháp giới tục đế thuộc sự, câu sau “đi thời chẳng chỗ đi” là pháp giới chân đế thuộc lý, tức là sinh duy tâm Tịnh độ, lý sự không cách hào tơ, làm sao có tướng đến đi? Niệm Phật vãng sinh, Phát Bồ Ðề Tâm Văn của Ðại sư Tỉnh Am, có kệ rằng: “Hoa sen hóa sinh Phật hiện tiền, hào quang Phật chiếu tía kim liên; thân theo chư Phật lên Tây cảnh, không đến không đi việc dường như”. Vãng sinh là điều có thật, không nên hoài nghi, nếu có một chút nghi ngờ tức là niềm tin chưa sâu, nguyện lực chưa thiết vậy.

Lại nữa, duy tâm Tịnh độ, không phải không có thế giới Tây phương Cực lạc trang nghiêm thanh tịnh mà là chỉ chân tâm, thể thì biến khắp mười phương; lượng thì đầy hư không giới. Tức cõi Tây phương Cực lạc cũng không ngoài tự tâm nên nói duy tâm Tịnh độ.

Người niệm Phật cẩn thận chớ hiểu sai chữ duy tâm; nếu lấy hai chữ “duy tâm”, tức bảo không có Tây phương Tịnh độ, vậy thì Kinh A Di Ðà, Ðức Thích Ca bảo Xá Lợi Phất: “Từ cõi Ta bà hướng về phía Tây, vượt qua 10 vạn ức cõi Phật, có thế giới gọi là Cực lạc, nước ấy có Phật hiệu là A Di Ðà, hiện đang thuyết pháp”.

Ðây há là lời dối người sao? Phật là bậc toàn giác, tuyệt không có việc dối người. Lại không thể không thấy thế giới Cực lạc rồi cho rằng là không có. Như có người chưa từng đến châu Âu, làm sao có thể nói rằng thật không có châu Âu? Niệm Phật chắc chắn thành Phật, Kinh Pháp Hoa nói rằng: “Nếu người nào tâm tán loạn, vào tháp miếu, xưng niệm một câu Nam mô Phật, đều có thể thành Phật đạo”. Người tâm tán loạn niệm một câu danh hiệu Phật, còn được thành Phật, huống hồ tinh tấn niệm Phật một đời, há có lý không thể thành Phật?

Trong Kinh Lăng Nghiêm, Ðại Thế Chí Bồ Tát Viên Thông Chương nói: “Nhớ Phật niệm Phật, hiện tại đương lai, nhất định thấy Phật, cách Phật không xa”. Suy xét câu “cách Phật không xa” rõ ràng là ý chỉ niệm Phật tức được thành Phật. Sao gọi là hiện tiền thấy Phật? Hoặc lúc chuyên tâm niệm Phật mộng thường thấy Phật.

Tôi từng mộng thấy thế giới Cực lạc Di Ðà từ tôn, đồng thời cũng được nghe thuyết pháp, Ðức Di Ðà dạy tôi hãy tu trì tịnh nghiệp, tự độ độ tha. Nên sau 36 năm thiền tịnh song tu, mỗi lần truyền giới tam quy hoặc pháp hội giảng kinh tôi đều hết sức khuyên mọi người phát tâm niệm Phật, cầu sinh Tịnh độ.

Tôi bảo họ rằng: “Tu hành niệm Phật là ổn đáng nhất, nên lấy trì danh niệm Phật làm chánh hạnh, tu các pháp thiện khác là trợ hạnh, chánh trợ cùng hành thì như buồm xuôi gió lại thêm sức chèo, vãng sinh Tịnh độ, phẩm vị cao là chắc chắn”.

Hoặc tam muội công thành, trong định thấy Phật. Như Ðại sư Tuệ Viễn, Sơ Tổ phái Liên tông, kết tập Liên xã ở Lô Sơn, chuyên tu pháp môn niệm Phật, ba mươi năm không xuống núi, trừng tâm nhập định, ba lần thấy Thánh tướng, tướng tốt trang nghiêm, một đêm tháng 7, xuất định ở Bát Nhã đài, thấy Phật A Di Ðà thân đầy khắp hư không, trong ánh viên quang có vô số hóa Phật, Quán Âm, Thế Chí hầu cận hai bên, lại thấy ánh sáng sông ngòi, phân thành 14 nhánh diễn nói pháp âm khổ, không, vô thường, vô ngã. Phật bảo rằng: “Ta dùng bổn nguyện lực đến an úy ông, ông sau bảy ngày sẽ sinh lên nước ta”.

Lại thấy các vị trong Liên xã trước đây như Phật Ðà Da Xá, Tuệ Trì, Tuệ Vĩnh, Lưu Di Dân… đều ở bên cạnh Phật A Di Ðà. Các vị ấy nói: “Thầy đã sớm phát tâm từ lâu, sao đến muộn vậy?”. Ðây đều là những minh chứng trong định thấy Phật. Ðến ngày 7 tháng 8, ngài triệu tập chúng cáo biệt, bảo hai đệ tử Pháp Tịnh, Tuệ Bảo rằng: “Trong 11 năm trở lại đây, ta ba lần thấy Thánh tướng, nay lại thấy nữa, ta vãng sinh đây!”. Dặn dò đệ tử xong, ngồi thẳng niệm Phật mà tịch, hương lạ khắp nhà, nhạc trời rền vang, đệ tử nhập tháp ngài trên đỉnh phía Tây Lô Sơn.

Thế nào gọi là đương lai thấy Phật? Nếu niệm Phật công thành, lúc mạng chung sẽ thấy Phật A Di Ðà hiện thân tiếp dẫn, đây là đương lai thấy Phật vậy. Lại hóa sinh sen báu, hoa khai kiến Phật, thân ánh sắc vàng, chứng vô sinh nhẫn, được vào địa vị bổ xứ, không chỉ thường được thấy Phật mà còn được thành Phật.

Pháp môn viên đốn thù thắng này, có thể cắt ngang dòng sinh tử, đến bờ giác tức thì. Phàm muốn ly khổ đắc lạc, siêu phàm nhập thánh, hãy nên trì pháp niệm danh hiệu Phật, là pháp môn duy nhất không pháp nào trên.

Tác giả: pháp sư Viên Anh
Dịch giả: Thích Nguyên Anh

Niệm Phật Cầu Vãng Sinh Là Pháp Môn Tối Thắng

Niệm Phật Cầu  Vãng Sinh Là Pháp Môn Tối ThắngĐược vãng sinh đến thế giới Cực Lạc thì không còn tái sinh đọa lạc, hoàn toàn không còn tạo nghiệp, tự mình gia công tiến tu cho đến ngày thành Phật độ chúng sinh. Tu hành các pháp môn khác cố nhiên cũng tốt. Nhưng công phu tu không đạt đến cứu cánh tất nhiên sẽ bị đọa lạc.

Như thuở quá khứ có ba vị Bồ Tát Thế Thân, Vô Trước, Sư Tử Giác cùng tu tập Duy thức quán, ba vị phát nguyện sinh nội viện Đâu Suất thấy Bồ Tát Di Lặc. Các vị cam kết với nhau rằng, nếu ai sinh về đó trước thì quay trở lại báo cho những người khác biết. Đầu tiên, Sư Tử Giác viên tịch, trải qua ba năm không thấy trở lại báo, ba năm sau Thế Thân lại viên tịch. Lúc Thế Thân sắp lâm chung, Vô Trước bảo với Thế Thân rằng: “Sau khi ông đến cõi trời Đâu Suất dù bất kỳ lý do gì ông cũng phải trở lại đây báo cho tôi biết”. Thế Thân qua đời, đúng ba năm sau ngài quay trở lại.

Vô Trước hỏi Thế Thân: “Vì lý do gì mà ông trở lại đây muộn thế ?”. Thế Thân đáp: “Tôi đến nội viện Đâu Suất chắp tay đảnh lễ tam bái, nhiễu quanh Bồ Tát Di Lặc một vòng là quay trở lại liền”. Vô Trước lại hỏi: “Hiện nay Sư Tử Giác đang ở đâu ? Vì sao không thấy trở lại ?”. Thế Thân đáp: “Ông ấy sinh vào cõi trời ngoại viện Đâu Suất, không có trong nội viện. Do sinh vào cõi trời ngoại viện đang bị ngũ dục trói buộc nên không thấy Bồ Tát Di Lặc, chính vì lý do đó mà không thể trở lại đây được”.

Vô Trước sau khi nghe nói sinh thiên rất nguy hiểm, nên phát nguyện không sinh thiên mà phát nguyện sinh Tịnh độ (theo Tịnh Độ Thập Nghi Luận của Đại sư Trí Giả). Thiết nghĩ, ngài Sư Tử Giác là một vị Bồ Tát Đại thừa, sinh thiên còn bị ngũ dục dẫn dắt, hà huống gì là phàm phu chúng ta, qua đó cho thấy rằng sinh thiên là điều nguy hiểm vô cùng ! Đối với người tu thiền định, nếu công phu chưa đạt đến trình độ siêu xuất tam giới, không luận sinh lên một cõi trời nào, sau khi hưởng hết phước sẽ bị đọa lạc, rồi tùy theo nghiệp mà thọ báo.

Lời này đã được Phật nói cho A Nan trong Kinh Lăng Nghiêm. Đúng là tu Tịnh độ không có nguy hiểm. Nên nói: “Nhiều người tu đến phi phi tưởng, không bằng quy hướng Tây phương”. Ý nói sinh đến tứ không của phi phi tưởng, khi tuổi thọ tận, phước hết đều bị đọa lạc, không bằng sinh về cõi Cực Lạc, dù có sinh nơi hạ hạ phẩm cũng có thể dần dần chứng đến thượng phẩm, so với việc sinh về cõi trời phi phi tưởng tốt hơn nhiều.

Trong thời khóa niệm Phật, mỗi ngày chúng ta nên đọc Kinh Di Đà, thường nên đọc vào công phu chiều. Đọc một lần, là một lần bạn đã huân tập cảnh giới thanh tịnh trang nghiêm vào trong tàng thức. Giống như bạn xem phim, một lần xem là một lần những hình ảnh trong phim đã huân tập vào tàng thức của bạn. Cũng vậy bạn đọc Kinh Di Đà lâu ngày, cảnh giới thù thắng trang nghiêm của cõi Cực Lạc sẽ dần dần huân tập vào trong tàng thức của bạn.

Tuy hiện tại bạn chưa sinh Cực Lạc mà trong tâm đã được bao vây bởi cảnh giới Tây phương. Trong tương lai, đến giây phút lâm chung của bạn, ngoài công đức trì niệm danh hiệu Phật mà hằng ngày bạn huân tập, sẽ được Phật và Thánh chúng hiện ra tiếp dẫn. Lại còn những cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh mà hằng ngày bạn đọc Kinh A Di đã được huân tập, cũng từ trong tâm thức hiện ra trợ giúp cho bạn vãng sinh nhanh chóng hơn.

Điều được gọi là : “Tự tính Di Đà duy tâm Tịnh độ”. Chúng sinh chính là Phật, Phật cũng là chúng sinh. Phật và chúng sinh, Phật tính vốn bình đẳng như nhau. Tâm tức là độ, độ tức là tâm, tất cả đều do tâm sở hiện.

Vậy người niệm Phật nên có công phu như thế nào ? Nếu tín, hạnh, nguyện, kiên cố không thay đổi, tự tính và Phật tức là một, tự tính tức là Phật, Phật tức là tự tính. Phật vốn đầy đủ vô lượng thọ, chúng sinh cũng vốn đầy đủ vô lượng thọ, Phật vốn đầy đủ vô lượng quang, chúng sinh cũng vốn đầy đủ vô lượng quang. Phật A Di Đà có thế giới Cực Lạc, y báo, chính báo, tướng hảo trang nghiêm; chúng sinh cũng có nhị báo, tướng hảo trang nghiêm.

Trong Kinh Di Đà có nói : “Tất cả đều do Phật A Di Đà, muốn cho pháp âm chan hòa khắp nơi, mà biến hóa ra như vậy”. Từ câu kinh này có thể chứng minh rằng các cảnh giới của thế giới Cực Lạc đều tùy theo nghiệp tướng phước đức của Phật A Di Đà, duy tâm mà sở hiện.

Trong khi đó Phật tính của chúng sinh vốn đầy đủ như Phật, mà chúng sinh lại không thể hiển hiện được những cảnh giới như Đức Phật Di Đà hay sao ? Cho nên nói tự tính Di Đà, duy tâm tức Tịnh độ là vậy. Tự tính không nằm ngoài Phật và chúng sinh, Tịnh độ cũng không ngoài tâm mà có. Tây phương Di Đà và tự tính Di Đà, Tây phương Tịnh độ và duy tâm Tịnh độ đều là một.

Cần phải hiểu đúng chữ “duy tâm”, duy tâm nói đây không phải là tâm điên đảo vọng tưởng duyên theo sáu trần hằng ngày, mà gọi “pháp pháp duy tâm”. Nói duy tâm là để hiển bày tự tính vốn bao trùm chu biến khắp pháp giới hư không, để thấy thân tứ đại chỉ là giả hợp. Từ đó người niệm Phật mỗi ngày khi đọc tụng Kinh Di Đà cần hiểu rõ như vậy, để lòng tin phát khởi kiên cố.

Kinh Di Đà là kinh vô vấn tự thuyết, trong kinh miêu tả về y báo, chính báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc và pháp môn niệm Phật sinh Tây phương. Ý nghĩa của Kinh Pháp Hoa và Kinh Di Đà giống nhau. Vì Kinh Pháp Hoa Phật cũng nói cho Tôn giả Xá Lợi Phất, cũng không ai hỏi mà tự nói.

Sau khi Phật nói Kinh Vô Lượng Nghĩa xong, Ngài ngồi xếp bằng nhập vào chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ Tam Muội, thân và tâm của Phật đều không lay động, từ nơi lông trắng giữa chặng mày phóng ra một luồng hào quang, chiếu khắp cả một muôn nghìn cõi ở phương Đông, hiện ra vô số tướng trang nghiêm, khiến cho hàng đại chúng vô cùng nghi nan.

Sau khi đại chúng được Bồ Tát Văn Thù và Bồ Tát Di Lặc giải quyết các nghi ngờ. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn từ chánh định an lành mà dậy, không có người nào thưa hỏi mà bảo với ngài Xá Lợi Phất rằng: “Trí tuệ của Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào, tất cả hàng Thanh Văn cùng Bích Chi Phật đều khó biết được… thành tựu pháp vị tằng hữu thậm thâm…

Tóm yếu mà nói, vô lượng vô biên pháp vị tằng hữu, Đức Phật thảy đều thành tựu”. Tôi thường nói : “Kinh Pháp Hoa là nói rộng Kinh Di Đà, Kinh Di Đà lược nói Kinh Pháp Hoa”. Hai bộ kinh này đều lần lượt đi từ sự đến lý, không như các kinh khác nói rất nhiều danh từ pháp tướng dẫn dắt người tu ngộ lý rồi tu sự, hoàn toàn nói đến cảnh hiện lượng và tâm hiện lượng. Nếu mọi người để tâm nghiên cứu, so sánh hai bộ kinh này chắc chắn sẽ thấy rõ hơn.

Kinh Pháp Hoa gồm 7 quyển 28 phẩm. 14 phẩm đầu là khai quyền hiển thật, 14 phẩm sau là khai mở việc gần để nói việc sâu xa, tất cả đều nói pháp tối thượng thừa. Ví như trong Kinh Di Đà có nói : “Nếu có người thiện nam tín nữ nào, được nghe danh hiệu A Di Đà Phật, rồi niệm danh hiệu đó, trong một ngày, hay hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, hay là bảy ngày, được nhất tâm bất loạn.

Thế là người ấy vào phút lâm chung, Phật A Di Đà cùng chư Thánh chúng hiện ra trước mặt, người ấy lúc chết tâm không điên đảo, tức được vãng sinh về nơi Cực Lạc”. Trong Kinh Pháp Hoa phẩm “Dược Vương Dược Thượng Bồ Tát bổn sự” quyển thứ 6 có nói : “Nếu có người nghe kinh này, đúng như lời mà tu hành, đến lúc mạng chung liền qua cõi An Lạc, chỗ trụ xứ của Phật A Di Đà, cùng chúng đại Bồ Tát vây quanh, mà sinh trong tòa báu hoa sen”.

Hai đoạn kinh nói trên ý nghĩa hoàn toàn giống nhau. Kinh Di Đà nói về sự trang nghiêm thanh tịnh, thọ mạng, quang minh và sự hộ niệm của sáu phương chư Phật… Tuy Kinh Pháp Hoa dùng văn tự để nói rộng có khác, thế nhưng về mặt cảnh giới và ý nghĩa hoàn toàn giống Kinh Di Đà. Vì vậy một câu “A Di Đà Phật” là pháp tối thượng thừa, bao quát vô lượng pháp môn.

Một câu “A Di Đà Phật”, niệm được tương ưng, lập tức lục căn được thanh tịnh. Ví dụ, quý vị hiện tại đang niệm Phật, mắt thường thấy Phật đó là nhãn căn thanh tịnh, tai nghe âm thanh niệm Phật của mình và đại chúng, là nhĩ căn thanh tịnh, mũi ngửi hương trầm, là tỷ căn thanh tịnh, lưỡi đang co giãn phát ra danh hiệu Phật, là thiệt căn thanh tịnh, thân thể đang ở trong đạo tràng thanh tịnh, ngày ngày hướng Phật lễ bái đó là thân căn thanh tịnh, niệm Phật lạy Phật, tâm nhớ Phật là ý căn thanh tịnh.

Lục căn thanh tịnh thì ba nghiệp thanh tịnh, ba nghiệp thanh tịnh thì thân không trộm cắp, sát sinh, tà dâm; miệng không nói hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói lời thêu dệt; ý không tham, sân, si đó là tu thập thiện. Người tu hành không dễ gì mà đối trị được tam nghiệp, chỉ có niệm bốn chữ “A Di Đà Phật” mới có thể thu nhiếp, làm chủ được nghiệp, dần dần lâu ngày, niệm Phật thành phiến, tịnh nhân tăng trưởng, đến lúc lâm chung nhất định được vãng sinh Cực Lạc.

Phật và chúng sinh đều có chung quan niệm công phu mà thành. Phật một niệm đầy đủ thập pháp giới, chúng sinh một niệm cũng đầy đủ thập pháp giới. Nếu tâm khởi một niệm tham đó là Ngạ Quỷ, tâm khởi một niệm sân là Địa Ngục, tâm khởi một niệm si là Súc Sinh, khởi một niệm mạn nghi là A Tu La; một niệm vui ở ngũ thường, ngũ giới chuyển vào cõi Người, một niệm vui ở thượng phẩm thập thiện, thì sinh vào cõi Trời, nếu lấy Tứ Đế làm quán niệm đó là Thanh Văn, lấy Mười Hai Nhân Duyên làm quán niệm, đó là Duyên Giác, lấy Lục Độ làm quán niệm là Bồ Tát, lấy tự lợi lợi tha, vạn hạnh bình đẳng làm quán niệm đó là Phật.

Lại như trong nhân gian có các quan niệm : Sĩ, Nông, Công, Thương, Quân, Chính, Cảnh, Học Sinh, đều là do quan niệm từ ban đầu mà hình thành. Vậy quan niệm là cái gì ? Đó là do nhận thức của mọi người. Người niệm Phật cũng giống như vậy, mỗi ngày mắt thấy Phật, miệng niệm Phật, thân lễ lạy Phật, tâm nhớ Phật, tai nghe danh hiệu Phật, từng giây từng phút lấy việc siêu sinh Tịnh độ làm quan niệm, cứ như thế cho đến ngày thọ mạng hết, nhất định vãng sinh Tịnh độ và quyết định thành Phật.

Như tôi đã nói ở trên, Phật giáo Trung Quốc, để thích hợp với xu thế tự nhiên, người sau mới phân chia thành một số tông phái như: Thiên Thai tông, Hiền Thủ tông, Pháp Tướng tông (cũng gọi Từ Tư tông hoặc Duy Thức tông), Tịnh Độ tông, Chân Ngôn tông, Thiền Tông, Luật tông v.v… đều do quan hệ truyền bá và học tập chuyên môn, mới thành lập ra như vậy.

Trong các tông phái trên, chỉ có Tịnh Độ tông và Luật tông, việc hành trì cũng như giáo nghĩa thâm nhập vào các tông phái khác, được các tông phái kiêm tu, đồng thời cũng được bảy chúng đệ tử Phật tu tập. Thí dụ như: Thiên Thai tông, Hiền Thủ tông, Tam Luận tông, Pháp Tướng tông…

Phán giáo và tu quán hoàn toàn khác nhau. Nhưng tóm lại mà nói, tất cả họ đều lấy pháp môn Tịnh độ làm phương tiện cứu cánh, đều lấy việc niệm Phật để thành Phật. Như Thiền tông trong tham thoại đầu cũng lấy câu “Người niệm Phật là ai ?” để tu tập. Chẳng những vậy, bạn thấy không luận là một người xuất gia hay tại gia, cũng không luận là người học Phật vì động cơ như thế nào.

Song, mục đích duy nhất của người học Phật, không ngoài việc niệm Phật thành Phật, đồng thời trong quá trình học Phật đó cần phải giữ gìn giới luật thanh tịnh. Thí dụ như : không luận Bắc tông, Nam tông hay một tông phái nào, hiện nay tại Trung Quốc, mỗi lúc mọi người lên chánh điện lạy Phật hay nhiễu quanh Phật đều niệm “Nam mô A Di Đà Phật”.

Lúc nói chuyện hay trả lời người khác mọi người đều niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Tuy nhiên, mục đích tối hậu là không ngoài việc vãng sinh Tịnh độ thấy Phật thành Phật. Điều đó cho thấy rằng pháp môn niệm Phật rất phương tiện lại còn phổ biến. Giới luật cũng không kém quan trọng, Phật pháp có hưng thịnh hay không, cũng từ chỗ đệ tử của Phật có giữ gìn giới luật thanh tịnh hay không. Mọi người có giữ gìn giới luật thì Phật pháp trụ thế, ngược lại thì Phật pháp sẽ diệt vong.

Thích Tâm An dịch

Danh Hiệu Phật A Di Đà Có Mặt Cõi Này Lúc Nào?

Danh Hiệu Phật A Di Đà Có Mặt Cõi Này Lúc NàoHỏi: Bạch Thầy, mặc dù con tu Tịnh độ, nhưng con không hiểu tại sao mình phải niệm danh hiệu Ngài? Và người ta biết đến danh hiệu Ngài vào lúc nào? Kính xin thầy giải đáp cho con được rõ.

Đáp: Sở dĩ chúng ta niệm danh hiệu Ngài là vì chúng ta nương theo bản nguyện của Ngài. Vì đức Phật A Di Đà có phát ra 48 điều đại nguyện. Nguyện nào Ngài cũng muốn tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh về nước của Ngài. Do đó, hầu hết người tu theo pháp môn Tịnh độ đều niệm danh hiệu của Ngài.

Khi chúng ta niệm danh hiệu Ngài, ngoài sự thầm gia hộ của Ngài ra, chúng ta còn cần phải nhiếp tâm chí thành mà niệm. Vì chủ trương của pháp môn Tịnh độ, ngoài phần tự lực ra còn có phần tha lực. Tuy nhiên, Phật tử nên nhớ tự lực vẫn là phần chính yếu. Phần nầy rất là quan trọng. Chúng ta cần phải gia công nỗ lực tinh cần mà niệm danh hiệu Ngài. Khi niệm Phật điều quan trọng là phải nhiếp tâm thành ý.

Không nên để tâm lăng xăng chạy loạn, mà phải để tâm an trụ vào câu hiệu Phật sáu chữ Di Đà. Vì niệm Phật là niệm tâm. Niệm Phật tối kỵ nhứt là hai chứng bệnh hôn trầm và tán loạn. Nếu niệm với tâm tán loạn, nghĩ nhớ lung tung, thì đó là niệm chúng sanh chớ không phải niệm Phật. Còn hôn trầm là chìm trong mê tối Phật nói trạng huống đó là rơi vào hang quỷ. Cho nên khi niệm Phật, chúng ta phải cố gắng tránh hai chứng bệnh nặng nề nầy.

Yếu lý của sự niệm Phật quan trọng là ở nơi ba yếu tố: “tin sâu, nguyện thiết và hành chuyên”. Trong ba yếu tố nầy, thì tin và nguyện là điều kiện ắt có và đủ để quyết định được vãng sanh về Cực lạc. Còn nếu chúng ta hành chuyên, nghĩa là niệm Phật miên mật già dặn không gián đoạn, thì chúng ta sẽ được vãng sanh ở phẩm vị cao.

Tùy theo sự thật hành của hành giả chuyên cần hay không chuyên cần, mà phẩm vị ở cõi Cực lạc có cao thấp khác nhau. Vì cửu phẩm liên hoa ở Cực lạc có chia ra làm ba bậc: Thượng, Trung và Hạ. Trong mỗi bậc lại chia làm ba. Như bậc Thượng, thì có thượng phẩm thượng sanh, thượng phẩm trung sanh và thượng phẩm hạ sanh v.v… Ba món trên còn gọi là ba món tư lương, tức hành trang lên đường về quê hương Cực lạc của hành giả.

Còn về phần tha lực, tức là chúng ta nương vào bản nguyện oai lực của đức Phật A Di Đà. Vì đức Phật A Di Đà có phát ra 48 điều đại nguyện. Nguyện nào Ngài cũng muốn tiếp rước chúng sanh vể cõi nước Cực lạc của Ngài. Trong lúc lâm chung, nếu hành giả nhớ niệm danh hiệu Ngài, thì sẽ được Ngài phóng quang tiếp dẫn sanh về nước của Ngài.

Dù rằng nghiệp lực của chúng ta chưa dứt sạch, nhưng nếu chúng ta chí thành niệm danh hiệu Ngài thì cũng được Ngài tiếp dẫn. Đây gọi là đới nghiệp vãng sanh. Ví như tảng đá tuy to nặng, nhưng nếu để trên chiếc thuyền thì sẽ đi rất nhanh và nhẹ nhàng không có gì khó khăn.

Ngược lại, hạt cát tuy rất nhỏ, nhưng nếu bỏ xuống nước, thì hạt cát kia cũng dễ bị chìm đắm. Sự khác biệt giữa các pháp môn tự lực và tha lực là như thế. Đại khái đó là lý do tại sao người tu Tịnh độ phải niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà.

Còn Phật tử hỏi vì sao mà chúng ta biết đến danh hiệu của đức Phật A Di Đà và biết đến Ngài vào lúc nào? Xin thưa, sở dĩ chúng ta biết đến danh hiệu của Ngài là nhờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu ở trong các Kinh điển Tịnh độ. Nhất là Kinh A Di Đà. Đây là bộ kinh tự Ngài giới thiệu nói ra, chớ không có ai hỏi Ngài cả. Nên kinh nầy còn gọi là “vô vấn tự thuyết”.

Chính nhờ vào sự giới thiệu đó, nên chúng sanh ở cõi Ta bà nầy mới biết được. Nếu như đức Phật Thích Ca không nói, thì không ai có thể biết được. Vì đức Phật là đấng chơn thiệt ngữ, nên lời giới thiệu của Ngài là một sự thật. Chúng ta tin chắc chắn điều đó, không có gì phải nghi ngờ.

TK Thích Phước Thái

Cái Dụng Của Thời Khóa Niệm Phật

Cái Dụng Của Thời Khóa Niệm PhậtTrong thời khóa niệm Phật, mỗi ngày chúng ta nên đọc Kinh Di Đà, thường nên đọc vào công phu chiều.

Đọc một lần, là một lần bạn đã huân tập cảnh giới thanh tịnh trang nghiêm vào trong tàng thức. Giống như bạn xem phim, một lần xem là một lần những hình ảnh trong phim đã huân tập vào tàng thức của bạn.

Cũng vậy bạn đọc Kinh Di Đà lâu ngày, cảnh giới thù thắng trang nghiêm của cõi Cực Lạc sẽ dần dần huân tập vào trong tàng thức của bạn.

Tuy hiện tại bạn chưa sinh Cực Lạc mà trong tâm đã được bao vây bởi cảnh giới Tây phương. Trong tương lai, đến giây phút lâm chung của bạn, ngoài công đức trì niệm danh hiệu Phật mà hằng ngày bạn huân tập, sẽ được Phật và Thánh chúng hiện ra tiếp dẫn. Lại còn những cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh mà hằng ngày bạn đọc Kinh A Di đã được huân tập, cũng từ trong tâm thức hiện ra trợ giúp cho bạn vãng sinh nhanh chóng hơn.

Một câu “A Di Đà Phật”, niệm được tương ưng, lập tức lục căn được thanh tịnh. Ví dụ, quý vị hiện tại đang niệm Phật, mắt thường thấy Phật đó là nhãn căn thanh tịnh, tai nghe âm thanh niệm Phật của mình và đại chúng, là nhĩ căn thanh tịnh, mũi ngửi hương trầm, là tỷ căn thanh tịnh, lưỡi đang co giãn phát ra danh hiệu Phật, là thiệt căn thanh tịnh, thân thể đang ở trong đạo tràng thanh tịnh, ngày ngày hướng Phật lễ bái đó là thân căn thanh tịnh, niệm Phật lạy Phật, tâm nhớ Phật là ý căn thanh tịnh.

Lục căn thanh tịnh thì ba nghiệp thanh tịnh, ba nghiệp thanh tịnh thì thân không trộm cắp, sát sinh, tà dâm; miệng không nói hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói lời thêu dệt; ý không tham, sân, si đó là tu thập thiện.

Người tu hành không dễ gì mà đối trị được tam nghiệp, chỉ có niệm bốn chữ “A Di Đà Phật” mới có thể thu nhiếp, làm chủ được nghiệp, dần dần lâu ngày, niệm Phật thành phiến, tịnh nhân tăng trưởng, đến lúc lâm chung nhất định được vãng sinh Cực Lạc.

Trích từ “Luận Niệm Phật” của Đại Sư Đàm Hư

Vãng Sinh Quan Yếu

Vãng Sinh Quan YếuTịnh độ là pháp môn rất đặc biệt trong giáo lý Phật Đà. Vì sao? Vì Tịnh độ có ba điều thù thắng mà các pháp môn khác không có:

1- Đúng thời cơ

2- Phổ độ muôn căn (mọi căn cơ)

3- Dễ tu hành, nhưng lợi ích lại không thể nghĩ bàn.

Thật là con đường lý tưởng để ra khỏi sanh, tử. Nhất là cho hàng Phật tử tại gia. Tác phẩm nhỏ này hy vọng rằng sẽ giúp cho người tu niệm Phật nhận ra được chân diện mục của Tịnh độ, từ đó phát khởi tín tâm, hoan hỷ trì niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà và phát nguyện sanh về thế giới Tây phương Tịnh độ của Ngài.

PHẦN 1: VẤN ĐỀ NGƯỜI NIỆM PHẬT LÚC LÂM CHUNG ĐƯỢC VÃNG SINH HAY KHÔNG?

1. Hỏi: Nếu bảo rằng người niệm Phật đều được vãng sinh Tây phương, tại sao tôi thấy có nhiều người xuất gia cũng như tại gia, bình thường cũng hay niệm Phật và nói rằng mong được vãng sinh. Nhưng đến lúc lâm chung, thì chết một cách mơ mơ hồ hồ. Không thấy mấy ai được thực sự vãng sinh là tại sao?

Đáp: Đó là người niệm Phật đến lúc lâm chung không đủ nhân duyên. Nếu nhân duyên đầy đủ thì chắc chắn được vãng sinh.

2. Hỏi: Nhân duyên là sao?

Đáp: Người tu bình sinh chân tín, thiết nguyện, niệm Phật cầu sinh Tây phương mà đến lúc lâm chung vẫn có được tâm niệm này, thì đó gọi là nhân tự lực. Nếu bình sinh chưa biết về tín, nguyện niệm Phật cầu sanh Tây phương, đến lúc lâm chung may mắn được gặp thiện hữu tri thức hướng dẫn mà sinh tín, phát nguyện, cầu sinh Tây phương, thì đó cũng là nhân tự lực.

Giáo chủ Tây phương Cực lạc Thế giới là đức Phật A Di Đà cùng vạn đức hồng danh của Ngài có thể khiến cho chúng sinh được sang cõi Tây phương Cực lạc, thì đó gọi là duyên tha lực. Lúc lâm chung mà được thiện hữu trợ niệm, cũng là duyên tha lực.

3. Hỏi: Người tu hành đến lúc lâm chung mà đầy đủ nhân duyên thì chắc chắn được vãng sanh, xin giải rõ lý do.

Đáp: Người tu đến lúc lâm chung mà chân tín, thiết nguyện, niệm Phật, thì đức Phật A Di Đà là duyên tha lực, còn cái tâm năng niệm là nhân tự lực. Ngay lúc đó dùng tâm năng niệm , lại nhờ sự hiển hiện của đức Phật A Di Đà mà được thanh tịnh. Ngay phút giây đó chính là tự lực và tha lực cảm ứng đạo giao, nhân duyên hòa hợp, do đó mà được sanh Tây phương Cực lạc.

4. Hỏi: Người niệm Phật đến lúc lâm chung mà không đủ nhân duyên thì không được vãng sanh, xin giải rõ lý do này?

Đáp: Người tu bình sinh tín, nguyện niệm Phật mà công phu chưa được thuần thục, thì đến lúc lâm chung tuy có tín nguyện cầu sanh Tây phương (có nhân), nhưng bị bệnh khổ và đủ thứ phiền não bức bách nên cái tâm niệm Phật khởi nên không nổi. Nếu không có thiện hữu hướng dẫn, trợ niệm (không duyên), lại gặp thân thuộc không hiểu đạo lý, cứ khóc lóc, cứ hỏi han, thì tâm người ta khởi nên đủ thứ tạp niệm không được vãng sanh. Trường hợp này gọi là có nhân, mà không có duyên nên không thể vãng sanh.

Lại cũng có người bình thường tín, nguyện niệm Phật cho có lệ. Đến lúc lâm chung may mắn được thiện hữu tri thức trợ niệm (có duyên), thân thuộc cũng không khóc lóc làm chướng ngại. Khổ nỗi người tu tự tâm mình sinh điên đảo, tham luyến thế gian, không khởi tâm cầu sanh Tây phương (không nhân), bởi vậy theo ái dục mà đầu thai các nẻo thiện ác. Đây gọi là có duyên, mà không có nhân, nên không thể vãng sanh.

Lại cũng có người bình thường niệm Phật chỉ để cầu gia đạo bình an, mạnh khỏe sống lâu..v.v..Do đó đến lúc lâm chung thì chỉ có sợ chết. Khi bệnh chưa nặng lắm thì cũng niệm Phật nhưng để cầu lành bệnh chứ không hề có tâm nguyện vãng sanh (không nhân). Đến khi bệnh trở nên nguy kịch, thì bị khổ bức bách do đó không thể niệm Phật. Thân thuộc cứ theo thế tình mà làm động tâm thêm, lại không được thiện hữu trợ niệm (không duyên). Đây gọi là không nhân lẫn không duyên, nên không thể vãng sanh.

5. Hỏi. Vậy thì người niệm Phật đến lúc lâm chung, thế nào là nhân duyên đầy đủ để được vãng sanh?

Đáp: Như có hạng người đại căn cơ lúc bình sinh chân tín, thiết nguyện, niệm Phật. Tín- nguyện đã rất chân thành, công phu niệm Phật lại rất thuần thục. Đến lúc lâm chung, không cần phải người khác trợ niệm mà vẫn cứ một mực tín, nguyện niệm Phật, tâm niệm an trụ nơi hồng danh của đức Phật A Di Đà. Kinh A Di Đà chép: “Nhất tâm bất loạn ắt được vãng sanh”, là chỗ này. Đây gọi là nhân duyên đầy đủ của hàng thượng căn.

Cũng có hạng người tu bình thường chân tín, thiết nguyện nhưng công phu niệm Phật chưa được thuần thục. Đến lúc lâm chung thì lòng tín nguyện cầu sanh Tây phương so với lúc bình thường lại càng tha thiết, không bị bệnh khổ hay các chướng duyên làm dao động. Lại có được thiện hữu trợ niệm, nhờ vậy tâm của người này niệm niệm an trụ nơi hồng danh của Đức Phật A Di Đà mà được vãng sanh. Đây là nhân duyên đầy đủ của hàng trung căn.

Cũng có hạng người tu bình thường không biết gì về tín nguyện cầu sanh Tây phương. đến lúc lâm chung may mắn gặp được thiện hữu khai thị. Hoặc nói về y báo, chánh báo thanh tịnh trang nghiêm của thế giới Cực lạc khiến tâm người này hoan hỷ hân cầu. lại nói về bổn nguyện tiếp dẫn chúng sinh của Đức Phật A Di Đà khiến tâm người này sanh chánh tín và quyết định niệm Phật cầu sanh Tây phương. Quyến thuộc lại chịu nghe theo sự hướng dẫn của thiện hữu không làm điều gì khiến cho tâm người bệnh dao động. Nhờ vậy ngay phút lâm chung, người này niệm Phật với sự tha thiết như đứa bé thơ bị lạc mẹ. Do đó được từ lực của Phật tiếp dẫn mà vãng sanh. Đây là nhân duyên đầy đủ của hàng hạ căn.

6. Hỏi: Người lúc bình thường không biết tín, nguyện niệm Phật. Đến lúc lâm chung gặp được thiện hữu khai thị, sau khi nghe xong, tâm sinh hoan hỷ, tín thọ, phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tây phương. Quyến thuộc cũng không gây ra các chướng ngại. lại được trợ niệm mà vãng sanh Tây phương. Sao mà dễ dàng như thế được?

Đáp: Xin giải rõ thêm: Người này lúc bình thường chưa hề có tín, nguyện niệm Phật cầu sanh Tây phương là vì không biết. Đến lúc lâm chung gặp được thiện hữu khai thị mà sinh tâm quyết định tín, nguyện niệm Phật. Điều này chứng tỏ rằng đời trước đã có căn duyên niệm Phật. Đây là nhân thù thắng, được thiện hữu khai thị, trợ niệm là duyên thù thắng. Trường hợp này hy hữu rất hiếm có.

7.-Hỏi: Chúng tôi là hàng Phật tử tại gia. Nếu đến phút lâm chung của người thân mà không mời được thiện hữu trợ niệm thì phải làm sao đây để giúp thân nhân được vãng sanh?

Đáp: Quý vị có lòng như thế rất đáng quý. Xin hãy đọc kỹ những điều hướng dẫn sau đây:

PHẦN 2: NHỮNG ĐIỀU MÀ QUYẾN THUỘC CỦA NGƯỜI LÂM CHUNG CẦN CHÚ Ý

1. Theo Phật pháp, phút lâm chung là thời điểm rất quan trọng của một kiếp người. Vì sao vậy? vì đây là lúc đột biến để thăng hay giáng theo sáu đường. Những điều xảy ra ở phút lâm chung(cận tử nghiệp) ảnh hưởng rất lớn đến sự thăng giáng này. Đối với người tu theo Pháp môn Tịnh độ thì lại càng cực kỳ trọng yếu.

2. Khi có người thân sắp lâm chung, nếu có hội trợ niệm cần phải mời họ đến. Khi họ đã đến thì tất cả mọi người trong nhà phải tuyệt đối tuân theo sự hướng dẫn của họ, không được xen ý riêng của mình vào.

Nếu không có hội trợ niệm, thì người nhà lo trợ niệm cũng được, cần yếu là đúng Phật pháp (sẽ được trình bày ở phần sau). Điều quan trọng cần tuân thủ là hãy làm ma chay, đừng sát sanh và cả nhà cùng ăn chay trong thời điểm này.

3. Phải biết rằng khi người thân lâm chung, họ phải theo một trong bảy đường sau:

– Ba đường dữ: Địa ngục, ngã quỷ, súc sanh.

– Ba đường lành: Trời, Người, Atula.

– Thánh đạo Tây phương Cực lạc, mình trợ niệm để họ được vãng sanh Tây phương, vĩnh viễn thoát khỏi 6 nẻo luân hồi. Trái lại nếu mình khóc lóc kêu réo, thở than thì chỉ khiến cho họ động tâm mà đọa vào ba đường dữ. Hãy suy nghĩ cặn kẽ điều này.

4. Trong kinh điển Phật đã dạy tường tận rằng: Nếu đọa vào ba đường dữ thì chịu muôn vàn thống khổ, nhất là Địa ngục thời gian rất là dài lâu. Những điều này là thật sự chứ không phải truyện ngụ ngôn mà Đức Phật đặt ra để răn đời.Trái lại nếu được vãng sinh Tây Phương thì vĩnh viễn thóat khỏi 3 đường giữ, được ở địa vị bất thối chuyển,thân cận Đức A Di Đà,và thánh chúng an vui tu tập.

5.-Nếu người bệnh bình thường mà có tâm nguyện niệm Phật cầu sinh Tây Phương thì rất tốt.Nếu không có tín tâm hoặc không thông hiểu về chuyện niệm Phật cầu sinh Tây Phương thì người thân sẽ giải thích cho họ hiểu rằng: Làm người không phải vĩnh viễn cứ làm người.Có 6 đường sinh tử luân hồi,trong đó có 3 đường dữ rất thống khổ mà lại dễ đọa vào. Ngược lại thế giới của A Di Đà thì lại rất là an lạc. Được sinh sang đó thì vĩnh viễn không bị đọa vào 3 đường dữ. Phước lạc của người được sinh sang đó thật không thể nghĩ bàn.

Điều kiện để được vãng sinh thì do bổn nguyện của đức A Di Đà nên rất dễ dàng. Hễ có tín nguyện mà niệm danh hiệu của ngài (NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT) thì lúc lâm chung chắc chắn được Ngài đến rước về cõi Tây Phương Cực Lạc.

6.-Tâm niệm của người sắp lâm chung ảnh hưởng rất lớn đến kiếp lai sinh của họ (Cận tử nghiệp) do đó người thân để họ không bị phiền não. Khi họ tỉnh táo hãy hỏi họ cần căn dặn. Làm sao để họ yên tâm mà ra đi.Tuyệt đối đừng đem những vấn đề nhiêu khê của kiếp người mà làm họ bận tâm trong thời điểm này. Phải biết rằng làm vậy thì không những người chết bị đọa lạc, mà người sống cũng bị chướng duyên nặng nề trong tương lai.

7.-Nếu có thân hữu hoặc bà con đến thăm người bệnh thì trước khi họ gặp người bệnh hãy yêu cầu họ đừng nói hay làm gì có thể gây chướng duyên cho vấn đề vãng sinh.

8.-Vấn đề trợ niệm cũng phải hết sức tế nhị. Khi người bệnh còn tỉnh táo, hãy hỏi kỹ về ý muốn của họ.
Ví dụ : muốn được lớn tiếng trợ niệm hay niệm vừa đủ nghe là được. Dùng khánh mõ hay chuông…..Tùy theo hòan cảnh mà thiết trí tượng Đức A Di Đà chứ không phải nhứt thiết là ở hướng Tây. Đừng chấp chặt theo hình thức mà làm người bệnh phiền não.

9.-Cũng có người bệnh do nghiệp chướng của họ mà không muốn người khác thế họ niệm Phật, không muốn nghe người khác niệm Phật, hoặc nghe niệm Phật thì bực bội. Gặp trường hợp này quyến thuộc hãy đến trước bàn thờ Phật, thành khẩn vì họ mà cầu xin sám hối.

Xin kể hai chuyện mới xảy ra gần đây. Năm ngóai có một vị cư sĩ. Khi mẹ ông bị bệnh sắp mất, ông liền mời Hội Trợ Niệm đến nhà để hộ niệm cho mẹ. Mẹ ông khi nghe niệm Phật, trong lòng bức rức chịu không nổi nên yêu cầu đừng niệm.Thầy Quy Y của vị Cư Sĩ thấy vậy,biết rằng đây là nghiệp chướng phát hiện.liền tụng cho bà mấy bộ Kinh Địa Tạng.Vị cư sĩ cũng hết sức thành khẩn đối trước Phật ăn năn sám hối cho mẹ. Sau đó, bà đột nhiên hoan hỷ muốn nghe niệm Phật mà an nhiên vãng sinh.

Lại có một cư sĩ khác, cha ông bị bệnh khi sắp mất, thấy một người đàn bà và một con chó đến đòi mạng. Cư sĩ liền niệm Phật sám hối cho cha thì ông không còn thấy nữa. Sau đó cha ông lại thấy hai nhà Sư hiện đến nói rằng: Ông đời trước ngăn cản chúng tôi vãng sinh, nay chúngtôi đến để cản ông đây. Cư sĩ lại vì cha đối trứơc Phật sám hối và cầu siêu cho hai vị tăng. Cha ông không còn thấy họ nữa. Sau cùng cha ông thấy một lão tăng hiện đến mà bảo rằng:“Oan nghiệp của ông đã được tiêu trừ, ba lần bảy nữa ông được vãng sinh. Cứ nói ba lần bảy“ là ông sẽ hiểu. Cả nhà cho rằng ba lần bảy là 21 ngày. Trợ niệm bấy lâu đã mệt, nay lại thêm 21 ngày nữa qủa thật là khó khăn. Không ngờ 21 giờ sau người cha được vãng sinh. Hai câu chuyện có thật trên đây cho thấy sự trọng yếu của vấn đề trợ niệm lúc lâm chung.

10.-Khi người bệnh sắp tắt thở thì nếu đã có người trợ niệm, thân nhân hãy đối trước bàn thờ Phật A Di Đà, khẩn thiết cầu xin Ngài tiếp dẫn, thần thức người chết vãng sinh Tây Phương. Nếu người trợ niệm ít hoặc không có,thân nhân hãy bước đến người gần sắp chết mà trợ niệm, Nhớ là đừng đứng ngay trước mặt vì ở thời điểm này người chết rất dễ động tâm, trở ngại chánh niệm. Do đó không nên để cho thấy mặt. Giọng niệm Phật nhớ đừng bi lụy vì sẽ khơi dậy tình cảm cho người chết, khó mà vãng sinh.Thân nhân cần phải ghi nhớ điều này.

11.-Sau khi người chết đã tắt thở nhưng thi thể chưa lạnh hẳn (Nghĩa là thần thức còn đó chưa đi), thân nhân cần để ý các điều sau:

-Vẫn tiếp tục lớn tiếng niệm Phật trợ niệm.

-Hãy coi chừng đừng để ruồi muỗi đậu lên thi thể người chết vì họ vẫn còn cảm giác!

-Đừng khám xét thi thể để đóan xem đi về đâu vì làm vậy rất có hại cho người mất.

-Nếu có Ban Trợ Niệm thì tuyệt đối tuân theo sự hướng dẫn của họ.

Tuyệt đối đừng tin theo các thủ tục phổ thông của nhân gian như: Cho rằng khi thi thể còn nóng, các khớp xương còn mềm mại, phải thay quần áo cho họ lúc này. Cho rằng khi người thân tắt thở cần phải khóc lóc lớn tiếng để đẩy lui hung tinh. Cho rằng tắt thở là phải lo liệm ngay, nếu không sẽ mắc nợ “miên sàng”……

PHẦN 3: TRỢ NIỆM VẤN ĐÁP

1.-Hỏi: Xin cho biết ý nghĩa của 2 chữ Trợ Niệm.

Đáp “Trợ“ là phụ giúp.“Niệm“ là chánh niệm. Nghĩa là phụ giúp người lâm chung chánh niệm hiện tiền để được vãng sinh.

2.Hỏi: Chánh Niệm, ở đây nghĩa là sao?

Đáp: Chánh Niệm ở đây là một lòng nhớ tưởng đến Đức A Di Đà, không bị cảnh duyên làm điên đảo.

3.-Hỏi.-Người lâm chung vì sao cần người khác trợ niệm?

Đáp : Con người đến lúc lâm chung lúc tứ đại phân ly, đủ thứ khổ bức bách nên người xưa ví như con cua rơi vào chảo nước sôi: Nếu người tu mà bình sinh công phu Niệm Phật đã thuần thục thì miễn bàn. Nhưng nếu công phu niệm Phật chưa được vậy thì sự trợ niệm rất là cần thiết.

4.-Hỏi : Khi người bệnh đã thắt thở, mà người trợ niệm vẫn tiếp tục niệm Phật là vì sao ?

Đáp: Người bệnh tuy đã tắt thở, nghĩa là đã chết nhưng theo trí huệ của các vị có đức thì thần thức họ chưa hòan tòan lìa khỏi thân thể. Chỗ tái sinh của họ chưa được quyết định.Vào lúc này mà niệm Phật trợ niệm cho họ thì rất lợi cho họ.

Xin hãy nhớ rằng con người vào lúc lâm chung là lúc họ đứng trước ngã 3 đường, bị đủ mọi thứ nghiệp chi phối (Túc nghiệp,hiện nghiệp,cận tử nghiệp). Hễ nghiệp mạnh thì họ phải theo.

Sự trợ niệm vào thời điểm này có 2 tác dụng trọng yếu: Một là giúp thần thức họ được chánh niệm. Hai là khẩn cầu Đức Phật A Di Đà đến rước họ về Tây Phương Cực lạc theo bổn nguyện của Ngài.

5.-Hỏi : Có người cho rằng phải niệm Phật đến chỗ nhất tâm bấn lọan thì khi lâm chung Phật mới đến rước về Tây Phương. Xin giải rõ điều này.

Đáp : Vấn đề này phải hiểu theo Tịnh Độ chứ không phải theo Thiền. Nói vậy nghĩa là sao ? Nếu hiểu theo Thiền thì phân ra “Lý Nhất Tâm“ và „ Sự Nhất Tâm“. Cả hai đều khó, ngòai khả năng của một người cư sĩ bình thường. Đúng ra theo Tịnh Độ, thì „nhất tâm bất lọan“Nghĩa là một lòng nhớ tưởng Đức A Di Đà, tin theo bổn nguyện và trì danh hiệu Ngài (tức là Nam Mô A Di Đà Phật) để cầu xin khi lâm chung được Ngài rước về cõi Tây Phương Cực Lạc.

6.Hỏi : Có người cho rằng lúc lâm chung cần phải chánh niệm Phật mới đến rước. Điều này qủa thật không phải dễ. Xin giải thích mối nghi này.

Đáp : Người tu niệm Phật đến lúc lâm chung được Phật Di Đà đến rước vì đó là Bổn nguyện của Ngài. Phật đến rước là để cho tâm người đó được chánh nịệm, không bị điên đảo theo các cảnh duyên khác, chứ không phải cần có chánh niệm Phật mới đến rước. Cũng chính vì vậy mà sự trợ niệm rất là cần yếu.

PHẦN 4: VẤN ĐỀ NHẤT NIỆM VÃNG SINH TÂY PHƯƠNG

1.-Hỏi : Thế Giới Tây Phương Cực Lạc xa đến mười vạn ức cõi Phật, làm sao một niệm sau chót của người niệm Phật lúc lâm chung có thể sanh được ?

Đáp : Vì do ba sức mạnh không thể nghĩ bàn dung họp lại. Một là Phật lực: Đại nguyện của Đức Phật A Di Đà là tiếp dẫn chúng sanh tin nguyện niệm vãng sinh về cõi Cực Lạc. Hai là tâm lực của người niệm Phật: Một lòng tin nguyện muốn sinh về Thế Giới của Đức A Di Đà. Ba là Pháp Lực: Sự cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn.

Lời khai thị của Ngẫu Ích Đại Sư :

“Tâm người niệm Phật cảm động đến tâm Phật.Tâm Phật ứng hợp với tâm người. Hai đường giao chập với nhau thành một vẽ, giống như lấy bàn in, in thành nét đẹp rồi thì bỏ bàn đi. Như thế Phật A Di Đà và các Thánh Chúng, tuy tâm các Ngài chẳng ở đâu lại, mà chính thân các Ngài có đến thực, cúi xuống tiếp dẫn mình. Người tu Tịnh Nghiệp, tâm mình cũng chẳng đi đâu, mà chính thân mình có đi thực, mang thể chất mình gửi trong hoa sen báu.” (Trích trong A Di Đà Kinh Yếu giải).

PHẦN 5.-NHỮNG ĐIỀU MÀ NGƯỜI TRỢ NIỆM CẨN PHẢI AM TƯỜNG

1.-Phát tâm trợ niệm giúp người khác được vãng sinh Tây Phương là khiến họ thóat khỏi sinh tử luân hồi. Công đức này không thể nghĩ bàn. Cũng chính vì vậy mà trách nhiệm của người niệm Phật thật là lớn lao. Hễ sai một ly là đi một dặm. Xin hãy cẩn thận. Xin hãy cẩn thận.

2.-Khi đến nhà người lâm chung, trước hết hãy mời thân quyến đến để nói cho họ hiểu rằng đây là thời điểm cực kỳ trọng yếu của người lâm chung vì đang ở ngưỡng cửa của siêu thăng hay đọa lạc. Do đó thân quyến cần triệt để tuân thủ những gì mà Ban Trợ Niệm căn dặn.Tất cả những điều này là để người lâm chung được vãng sinh Cực Lạc.

3.-Khi vào trong phòng người bệnh, Ban Trợ Niệm phải cẩn thận về thái độ, cử chỉ và lời nói của mình để người bệnh khỏi sinh phiền não hay hòai nghi. Nếu có khả năng hãy khéo léo phát khởi hoặc củng cố tín tâm của họ. Hãy xem như người sắp mất là thân nhân của chính mình.

4.-Ngòai những hướng dẫn cần thiết đối với người bệnh, Ban Trợ Niệm không nên hỏi han hay nói chuyện với họ. Một điều cần ghi nhớ là tuyệt đối đừng nói chuyện phiếm vì sẽ làm người bệnh động tâm, mất đi chánh niệm. Ở thời điểm này nếu có ai đến thăm bệnh nhân, hãy yêu cầu thân nhân tiếp đãi họ, không nên cho gặp người bệnh, nên dặn trước người trong nhà điều này.

5.-Trợ niệm dùng 6 chữ NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT hay dùng 4 chữ A DI ĐÀ PHẬT, niệm liên tục, niệm lớn hay niệm nhỏ, niệm nhanh hay niệm chậm, những vấn đề này nếu được thì nên hỏi trước bệnh nhân là tốt hơn cả. Nếu không hỏi được thì sau đây là những nguyên tắt chung: Không nên niệm nhanh quá vì sẽ nghe không rõ. Nếu chậm qúa thì bị dễ bị hôn trầm. Nếu niệm lớn quá thì khó mà niệm lâu. Nếu niệm nhỏ qúa thì bệnh nhân không nghe được.Vấn đề dùng Khánh hay Mõ cũng vậy. Lý tưởng nhất là niệm Phật vừa phải, rõ ràng mà êm tai, tóat ra lòng thành khẩn. Được vậy thì không những phát khởi, củng cố chánh niệm nơi người lâm chung mà còn chiêu cảm sự lai nghinh của Đức Phật A DI ĐÀ.

6.-Khi có trợ niệm một thời gian lâu, bỗng nhiên bệnh nhân có vẻ tỉnh táo, hoặc có thể nói chuyện hay than thở. Đây là dấu hiệu cho biết trong vòng 2 giờ nữa họ sẽ tắt thở. Như ngọn đèn dầu bùng lên trước khi tắt. Xin đừng thấy vậy mà ngưng trợ niệm!

7.-Khi Ban Trợ Niệm đến nơi mà bệnh nhân vừa mới tắt thở, hoặc vài ba tiếng đồng hồ trở lại thì xin nhớ đây là thời điểm rất quan trọng. Phải lập tức lớn tiếng hướng dẫn họ như sau:“Hỡi ông (bà) X ! mọi chuyện lành dữ trong qúa khứ xin đừng nghĩ đến nữa. Hãy buông bỏ tất cả mà một lòng niệm “ NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT“ Được vãng sanh sang cõi Cực Lạc.Tất cả chúng tôi sẽ niệm Phật, trợ niệm cho Ông, tâm ông sẽ nghe câu niệm “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT“ Hãy an trụ vào đó mà vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Hướng dẫn xong là trợ niệm ngay. Nhớ phải niệm lớn tiếng NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT hoặc A DI ĐÀ PHẬT. Lúc lâm chung mà nghe được Phật hiệu thì công đức không thể nghĩ bàn. Kinh Địa Tạng chép: Người mà lúc lâm chung được nghe danh hiệu của một vị Phật thì tiêu diệt được 5 tội vô gián tại Địa Ngục.

PHẦN 6: NHÂN QỦA THÙ THẮNG CỦA NGƯỜI TRỢ NIỆM

Nhân qủa bao trùm tất cả,Pháp hữu vi lẫn pháp vô vi. Hễ gieo nhân nào thì gặt qủa đó. Chúng ta có thể phát tâm giúp đỡ người khác niệm Phật vãng sanh Tây Phương, thì tương lai đến lúc lâm chung của mình, nhất địng sẽ có người khác phát tâm trợ niệm giúp chúng ta vãng sinh Tây Phương. Hơn nữa người nhờ chúng ta trợ niệm mà được vãng sinh thì vào lúc đó cũng sẽ theo Đức Phật A DI ĐÀ đến rước mình về cõi cực lạc. Lý đương nhiên là vậy. Chúng ta cần hiểu rằng lý do mà Chư Phật ra đời là muốn độ thóat hết thảy chúng sinh. Đức Thích Ca thuyết pháp 49 năm cũng vì vậy, mà Đức A DI ĐÀ phát 48 lời nguyện, trang nghiêm Tây Phương Cực Lạc Thế Giới là cũng vì vậy.

Tất cả những Pháp Môn khác trong Phật Giáo đều nương vào tự lực mà tu hành. Người tu cần phải hòan tòan dứt hết phiền não mới có thể ra khỏi sinh tử. Bởi mới gọi là Pháp Môn khó tu (nan hành). Pháp môn Tịnh Độ là nương theo đại nguyện tiếp dẫn của Đức A DI ĐÀ mà vãng sinh về cõi Cực Lạc bất thối chuyển. Nên gọi là pháp môn dễ tu (dị hành).

PHẦN 7.- VẤN ĐỀ SẠCH SẼ TRONG PHÒNG NGƯỜI BỆNH:

Trong phòng người bệnh nên quét dọn sạch sẽ. Nếu được nên dẹp đi tất cả những gì không cần thiết, càng rộng rãi càng tốt. Một là khỏi làm người bệnh động tâm. Hai là có chỗ cho Ban Trợ Niệm ra vào thỏai mái.

Nếu bệnh nhân tỉnh táo, hãy khuyên họ nên hướng về phía Tây. Nằm thì bảo họ nghiêng bên hông phải và tâm niệm đến vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Nếu bệnh nhân bị đau đớn bức bách thì mọi chuyện phải thuận theo họ, chớ nên miễn cưỡng.

Trước giường người bệnh phải thiết trí Tôn Tượng Phật A DI ĐÀ PHẬT hoặc Tây Phương Tam Thánh đối diện với họ. Trước Tôn Tượng cần phải cúng dường hương hoa qủa phẩm.

Nếu bệnh nhân bị đại tiểu tiện dơ dáy phải lập tức báo thân nhân lau rửa sạch sẽ.

Người trợ niệm xin lưu ý: Khi bệnh nhân sắp tắt thở mà trên người họ bị đại tiểu tiện dơ dáy thì chớ nên lau rửa. Hãy lo trợ niệm Phật mà thôi. Dù bị hôi hám khó chịu, người trợ niệm nên nhớ rằng mình đang gánh vác một trách nhiệm nặng nề là giúp họ vãng sinh về cõi Tây Phương bất thối chuyển. Phàm đã làm người thì khi đến lúc lâm chung ai cũng bị cảnh này. Chờ khi nào người bệnh tắt thở và hòan tòan thân lạnh hẳn mới nên lau rửa.

PHẦN 8 . PHÁ TRỪ NGHI CHƯỚNG

Nếu bện tình nặng nề,hãy hỏi bệnh nhân xem họ còn vướng mắc chuyện gì không. Nếu có phải giải quyết ngay nếu không sẽ trở ngại vấn đề vãng sinh. Nhớ là chỉ nói một lần mà thôi.

1. Nếu bệnh nhân nghi ngờ mà hỏi rằng “Tôi phát tâm niệm Phật thời gian chưa được bao lâu lại thêm nghiệp chương nặng nề, không hiểu có vãng sinh được hay không?”

Hãy trả lời với họ rằng Phát tâm niệm Phật sớm hay muộn không thành vấn đề, điều quan trọng nhất là từ khi phát tâm cho đến phút lâm chung không thối chuyển. Nay ông có túc duyên, đến lúc lâm chung gặp được thiện hữu hướng dẫn mà phát tâm niệm Phật, lại được trợ niệm thì quyết định vãng sinh.Vấn đè nghiệp chướng sâu dày thì trong kinh VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT. Phật dạy rằng niệm một câu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT có thể tiêu trừ 80 ức đại kiếp trọng tội “Ông đã nghe rõ chưa?”

2.-Nếu người bệnh có tâm lưu luyến thân nhân hoặc thương tiếc tài sản, hãy giải thích với họ rằng“Chúng ta làm người trong cõi Ta Bà này phải chịu quá nhiều khổ não, nếu kể ra thì thật vô cùng vô tận. Được vãng sinh sang cõi cực lạc thì thóat khổ mà an vui vĩnh viễn. Ông (hay bà)hãy buông ngay cái tâm niệm tham luyến cõi này vì nó rất trở ngại cho vấn đề vãng sinh. Hãy một lòng cầu sinh về Tây Phương chúng tôi trợ niệm giúp ông.

3.-Nếu bệnh nhân nghi ngờ mà hỏi rằng“Tôi niệm Phật mà sao không thấy Phật“,hoặc „Khi tôi lâm chung không biết Phật có đến rước không. Hãy giải thích với họ rằng „Hiện nay đã được thấy Phật hay chưa thấy Phật đều không quan hệ. Nếu hiện tại chưa thấy, lúc lâm chung sẽ thấy. Điều quan trọng nhất là 6 chữ NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT luôn luôn hiển hiện trong tâm Ông thì lúc lâm chung chắc chắn Phật A DI ĐÀ sẽ lai nghinh.Xin đừng nghi ngờ,sẽ trở ngại cho vấn đề vãng sinh.Phải biết rằng người tu Tịnh Độ cầu sinh Tây Phương, đến lúc lâm chung thấy Phật hịện tiền tiếp dẫn,thời gian có sớm có trễ.Sớm thì thấy trước một hai ngày,hoặc vài tiếng đồng hồ,hay vài chục phút.Trễ thì ngay phút giây tắc thở Phật mới hiện tiền.Phật A Di Đà có đại nguyện tiếp dẫn chúng ta có lòng tin và cầu xin về cõi Cực lạc .Vậy là đầy đủ,xin chớ lo.

4.-Nếu trong khi trợ niệm mà bẹnh nhân cho biết họ thấy hoặc nghe những cảnh giới hoặc âm thanh ghê rợn khiến họ sợ hãi không một lòng niệm Phật được.Hãy giải thích cho họ rằng „Những cảnh giới đáng sợ này là oan gia nhiều đời trước của ông.Họ thấy ông niệm Phật quyết định vãng sinh Tây Phương nên đến phá rối gây trở ngại cho ông đây.Xin cứ một lòng niệm Phật,chúng tôi sẽ thay ông sám hối cầu siêu cho họ.

5.-Nếu sắp đến lúc lâm chung mà bệnh nhân mộng thấy thân nhân đã qúa vãng đến đón thị phải biết rằng họ thuộc về lục đạo luân hồi,thường là các cảnh giới thấp.Do đó tuyệt đối đừng đi theo họ mà hãy lo một lòng niệm Phật thì họ sẽ tự nhiên biến mất.Khó khă hơn nữa là mộng thấy Chư Thiên đến rước.Xin đừng động tâm ! cứ tiếp tục một lòng niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT mà chờ Phật đến rước.

PHẦN 9.-KHAI THỊ CHO NGƯỜI LÂM CHUNG

Ông (hay Bà) hãy hiểu rằng đã sinh ra trong cõi ta bà này thì không ai tránh khỏi bệnh khổ và tử vong. Ô (hay Bà) nếu bệnh khổ xin hãy an nhẫn mà niệm Phật cầu sinh Tây Phương thì Phật sẽ gia hộ cho đỡ đau khổ trên thân xác và được vvãng sinh về cõi Cực Lạc.

Xin hãy nhớ rằng Đức Phật A Di Đà có đại nguyện tiếp dẫn tất cả những ai niệm danh hiệu của Ngài và cầu sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc.Nếu Ông một lòng tin tưởng niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT thì phút lâm chung Phật sẽ đến đón:Sỡ dĩ Phật đến đón là để tâm ông khỏi bị điên đảo bỡi các cảnh giới thiện ác của lục đạo luân hồi ,chứ không phải ở phút này tâm ông không điên đảo Phật mới lai nghinh.Xin đừng lo.

PHẦN 10.-QUYẾT NGHI VỀ BỆNH KHỔ LÚC LÂM CHUNG.

Người tu niệm đến lúc lâm chung nếu bị bệnh khỏ nặng nề xin chớ nghi ngờ hoặc sợ hãi.Ngay như Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trangcũng phải chịu vậy,huống chi hạng phàm phu ngiệp lực sâu dày như chúng ta ! phải hiểu rằng bệnh khổ này là do ác nghệp nhiều đời.Nhờ công đức niệm Phật mà trọng báo trở thành khinh báo.Hãy an nhẫn niệm Phật để được vãng sinh.Tuyệt đối đừng khởi tâm nghi ngờ rằng tại sao mình niệm Phật mà còn phải như thế này.Chỗ an trú duy nhất là 6 chữ NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.Mọi chuyện khác đã có Đức Phật A DI ĐÀ lo cho.

PHẦN 11.- THỜI GIAN TẮM RỬA THAY ÁO QUÀN CHO NGƯỜI QUÁ VÃNG.

Sau khi bệnh nhân đã tắt thở mà bệnh nhân chưa lạnh hẳn,người trực Ban Trợ Niệm cần lưu ý như sau Tuỵệt đối không cho thăm dò trên thi thể.Thân nhân nếu khóc lóc thì yêu cầu họ đi chỗ khác .Hãy tiếp tục lớn tiếng trợ niệm 24 giờ nữa mới đình chỉ. Đối trước bàn thờ Phật hồi hướng cho người qúa vãng được vãng sinh.Từ đây những thủ tục về tẩm liệm có thể bắt đầu.Nếu các khớp xương bi cứng hãy dùng khăn vải nhúng nước nóng đắp lên chỗ đó,vài phút sau sẽ mềm ra,mắt nếu không nhắm được cũng làm như vậy,quần áo bình thường đừng bày vẽ rườm rà.Trường họp đặc biệt nếu sau 24 giờ mà thi thể vẫn chưa lạnh hẳn thì xin vẫn tiếp tục trợ niệm cho đến khi lạnh hẳn. Hãy ghi nhớ.

PHẦN 12.- PHƯƠNG PHÁP SIÊU ĐỘ HAY NHẤT:

Sau khi vong nhân đã vãng sinh thì phương pháp siêu độ hay nhất là trai giớpi mà niệm Phật.Nên mời vài vị Tăng Ni (Tu Tịnh Độ) đến để niệm Phật và cả nhà tham gia vào.Thời gian lâu mau mà tùy theo hòan cảnh mà định liệu.Công đức siêu độ cũng rất lớn lao.Nếu vong nhân đã được vãng sinh thì tăng cao phẩm vị ở liên đài.Nhược bằng chưa được vãng sinh thì cũng nhờ công đức Niệm Phật này mà vãng sinh.Không những vậy thân nhân còn sống cũng sẽ được kết duyên lành với Đức Phật A DI ĐÀ,
Phần đông khi cúng siêu độ,người ta cho rằng niệm Phật là tầm thường,và chọn những cách khác như:Tụng kinh,Lễ bái,Diệm khẩu (Trì Chú)Sở dĩ như vậy là họ không hiểu Phật lý.Kinh Phật THUYẾT QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT chép rằng „ Niệm một câu A DI ĐÀ PHẬT có thể tiêu trừ trọng tội của 800 vạn Đại kiếp sinh tử“Ai dám bảo niệm Phật là bình thưuờng.Lại chép rằng“Nghe nhan đề của 12 Bộ Kinh thì tiêu trừ 1000 kiếp ác nghiệp nặng nề.Niệm một câu danh hiệu A DI ĐÀ PHẬT thì tiêu trừ 500 Đại kiếp sinh tử.Lại chép rằng nếu nghe được danh hiệu của Đức Phật A Di Đà thì tiêu trừ của Vô Lượng đại kiếp sinh tử.Trên đay là dẫn chứng những lời do Đức Phật Thích Ca dạy để làm chỗ y cứ. Đại Sư Ấn Quang có dạy “Các nhà sư hiện nay là phần đông bày vẽ,chẳng được như Pháp. Chỉ cốt thể diện mà thôi.Nếu mà chuyên môn niệm Phật thì ai cũng biết niệm,công đức lại quảng đại và thiết thực. Nếu đem công đức niệm Phật mà hồi hương cho Pháp giới chúng sinh dể đồng sinh Tây Phương thì công đức lại còn lớn lao hơn nhiều. Sự lợi ích đối với vong nhân cũng rộng lớn hơn nhiều.”

Sau khi vong nhân đã vãng sinh Tây Phương thì trong vòng 49 ngày,thân quyến nên ăn chay niệm Phật, giữ gìn Ngũ Giới thì cả người sống lẫn kẻ qúa vãng đều được lợi ích.

PHẦN 13.- VẤN ĐÁP VỀ THÂN TRUNG ẤM

1.-Hỏi :Trong Đạo Phật sau người đã chết trong vòng 49 ngày gia quyến còn ăn chay niệm Phật,làm phước mà hồi hướng cho vong nhân có ý nghĩa như thế nào?

Đáp : Nếu vong nhân quả thật đã dược vãng sinh mà trong vòng 49 ngày gia quyến còn ăn chay niệm Phật,làm phước hồi hướng chio họ thì một mặt người qúa vãng được tăng cao phẩm vị trên liên đài.mặt khác bản thân gia quyên cũng được phước vô lượng.

Nếu vong nhân chua biết có được vãng sinh hay không thì vậy có nghĩa là thần thức của họ đang ở trong giai đọan Trung Ấm.Do đó, ở thời điểm này nếu gia quyến vì họ mà ăn chay niệm Phật,làm phước thì họ nhờ đó mà được vãng sinh Tây Phương.

2.Hỏi: Trung Ấm nghĩa là sao ?

Đáp.-Sau khi người chết thần thức ra khỏi thân này mà chưa thụ sinh,giống như ra khỏi phòng này mà chưa vào phòng khác,còn ở trung gian nên gọi là Trung Ấm.Có những trường hợp đặc biệt thì thần thức không phải qua giai đọan Trung Ấm : Một là cực thịên được về ngay cõi trời,Hai là kẻ cực ác phải sa vào Địa ngục.Ba là người đủ tín, hạnh,nguyện được vãng sinh Tây Phương Cực Lạc.Còn ngòai ra còn phải qua giai đọan Trung Ấm,thời gian lâu hay chậm tùy theo nghiệp lực của mỗi cá nhân,nhưng chậm nhất là 49 ngày.

3.-Hỏi.-Người ta sau khi chết cớ sao không đi thụ sinh ngay mà phải vào giai đọan Trung Ấm?

Đáp : Vì các nghiệp thiện ác từ nhiều đời cho đến nay chưa quyết định dứt khóat.Các niệm thiện ác cứ thi nhau mà sinh diệt , chưa có lực lượng nào thắng thế hẳn.Trong thời điểm này mà có sự tác động bên ngòai thì cán cân sẽ lệch hẳn và thần thức sẽ đi thụ sinh ở cảnh giới tương ứng.Cần hiểu rõ điều này để thấy rằng vấn đề trợ niệm thật là quan trọng ở giai đọan này.

4.-Hỏi : Nếu gặp gia đình hòan tòan nghèo khổ mà phải ăn chay niệm Phật làm phước trong vòng 49 ngày thì qủa là khó khăn.Phải giải quyết sao đây.

Đáp: Nếu hòan cảnh gia đình khó khăn thì khỏi mời các vị Tăng Ni,chỉ cần cả nhà ăn chay niệm Phật là đủ.Mỗi ngày sáng tối 2 lần,sau khi niệm Phật thì hồi hướng cho vong nhân. Điều cần ghi nhớ là phải hết dạ chí thành thì lợi lạc cho người qúa vãng và thân nhân thật không nghĩ bàn.

DẪN CHỨNG KINH ĐỊA TẠNG

„Lợi ích tồn vong“ trong Kinh Địa Tạng chép rằng :Trưởng Giả Đại Biện chấp tay cung kính thưa hỏi Bồ Tát Địa Tạng“Thưa Đại Sĩ chúng sinh ở cõi Nam diêm phù để sau khi mạng chung,nếu thân nhân quyến thuộc mà vì họ mà làm phước,tạo những nhân lành như Bố thí ,Trai Tăng…Thì vong nhân có được lợi ích lớn lao và giải thóat không ? Bồ tát Địa Tạng đáp: Này Ông Trưởng Gỉa ! Các chúng sinh đời hiện tại cũng như vị lai, đến lúc mệnh chung mà được nghe danh hiệi của một Đức Phật,Bồ Tác hoặc Bích Chi Phật thì chẳng kể là có tội hay vô tội, đều được giải thóat“ Lại dạy rằng“Qủi vô thường không hẹn mà đến,thần thức u mê chưa rõ tội phước nên trong vòng 49 ngày như ngây như dại.Hoặc ở các ty mà luận định nghiệp quả.Sau khi thẩm định thì căn cứ theo nghiệp mà thụ sinh,Trong thời gian chưa quyết định thì phải chịu biết bao nhiêu khổ sở huống gì đọa vào các nẻo ác.Vong nhân khi chưa được thụ sinh,trong vòng 49 ngày quả là rất mong sự cứu giúp của thân quyến.Qua 49 ngày thì tùy nghiệp mà thụ sinh.Nếu tội nhẹ thì đọa vào ngạ qủy súc sinh.Nếu tội ngỗ nghịch thì đọa vào Địa ngục mà chịu khổ lâu dài“.Lại dạy rằng „Nếu trong vòng 49 ngày mà quyến thuộc vì vong nhân mà làm mọi phước đức thì có thể khiến cho họ được xa lìa các nẻo Địa ngục,ngạ qủy súc sinh mà sinh về cõi Trời.Người mà thân nhân còn sống sẽ được lợi ích vô lượng“.

PHẦN CUỐI QUYẾT ĐỊNH NHỮNG VẤN ĐỀ TRỌNG YẾU TRONG PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ.

1.-Hỏi : Theo chỗ tôi hiểu thì niệm Phật có 4 phương pháp là : Trì Danh,Qúan Tưởng Quán Tượng,và Quán Thật Tướng.Trong đó Trì Danh là phương tiện thấp nhất dành cho hạng hạ căn không đủ sức tu những phương pháp kia.Do đó tôi vẫn hận mình là nghiệp nặng,không tu dược các Pháp Môn cao siêu trên! Xin giải quyết mối nghi này.

Đáp : Đây là ngộ nhận lớn nhất của người tu theo Tịnh Độ.Vì sao ? Vì Trì danh là pháp môn chánh tông của Tịnh Độ,các phương pháp kia chỉ là phương tiện bày thêm để thu nhiếp mọi căn cơ mà thôi Tông Tịnh Độ đặt nền tảng trên ba bộ Kinh : 1. PHẬT THUYẾT VÔ LƯỢNG THỌ KINH 2.-PHẬT THUYẾT QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ KINH .3.-PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ KINH: xin dẫn chứng kinh văn để làm chỗ y cứ :
Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ dạy về nhân địa tu hành và 48 Đại Nguyện của Đức Phật A DI ĐÀ.Trong 48 Đại nguyện thì nguyện thứ 18 được gọi là Bổn Nguyện Vương vì là nền tảng của 47 Đại Nguyện kia : Kinh Văn :“Khi tôi thành Phật nếu có Chúng sinh trong 10 phương,hết lòng tin tưởng muốn sinh sang nước tôi thì dù chỉ mười niệm mà không được vãng sinh thì tôi không ở ngôi Chánh Giác.Ngọai trừ kẻ Ngũ nghịch ,bài báng Chánh Pháp…“(Nguyện thứ 18 lời của Đức A DI ĐÀ).Và „Tất cả Chúng sinh nghe danh hiệu Ngài (Đức Phật A DI ĐÀ) mà tín tâm hoan hỷ thì dù chỉ một niệm và chí tâm hồi hướng,nguyện sinh sang cõi kia thì được vãng sinh không còn bị thối chuyển.Ngọai trừ kẻ Ngũ nghịch,bài báng chánh pháp“(Thành tựu văn : Lời của Đức Thích Ca -PHẬT THUYẾT VÔ LƯỢNG THỌ KINH).

Dẫn chứng Kinh Văn trên cho thấy Bổn nguyện của Đức A Di Đà là dùng danh hiệu của Ngài để cứu độ tất cả chúng sinh.Do đó trì danh là chánh nhân để được hưởng quả vãng sinh thì Trì Danh là đệ nhất“.
Kinh PHẬT THUYẾT QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT nói rộng về cách vãng sinh khác nhưng cuối cùng ở phẩm „Phó chúc“ :Phật dạy Ông A Nan rằng : Ông nên giữ gìn lời nói này.Giữ gìn lời nói này tức là Trì Danh Hiệu Đức Phật Vô Lượng Thọ.“

Kinh PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ Dạy về chuyện xưng danh hiệu Đức A Di ĐÀ để được vãng sinh .Kinh chép :“Này Xá Lợi Phất !Nếu có thiện Nam Tử,Thiện Nữ Nhân nghe nói về Đức Phật A Di Đà rồi chấp trì danh hiệu Ngài hoặc một ngày,hoặc hai ngày,hoặc bốn ngày,hoặc năm ngày ,hoặc sáu ngày,hoặc bảy ngày một lòng không lọan.Người ấy đến lúc mệnh chung thì Đức Phật A Di Đà và các Thánh Chúng hiện ra trước mặt người ấy phút lâm chung tâm không điên đảo,liền được vãng sinh Quốc độ Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà „.

2.-Hỏi :Có thuyết cho rằng phải niệm Danh Hiệu Đức A Di Đà đến chỗ nhất tâm bất lọan mới được vãng sinh,rồi phân ra nào là sự nhất tâm,nào là lý nhất tâm,vậy thì qúa khó cho một căn cơ bình thường,làm sao mà phổ độ muôn căn được?

Đáp: Vấn đề nhứt tâm bất lọan có đề cập trong Kinh Phật Thuyết A Di Đà.Khi chú giải đọan này,người ta đã pha lẫn lý thuyết của Thiền hoặc của Tông Thiên Thai mà cho rằng nhất tâm bất lọan là tâm hòan tòan thanh tịnh không còn bị các vọng niệm chi phối hoặc khởi lên các vọng niệm.Mà vậy mấy ai làm nổi kể cả những bậc tinh tu ! Bỡi thế căn cứ theo chân nghĩa của Tịnh Độ.Tổ Pháp Nhiên dạy rằng : „ Nhất tâm bất lọan nghĩa là ,khi niệm Phật tâm không tóan lọan,dùng tín tâm chí thành mà chuyên niệm Phật Danh „.Ngài lại dạy thêm rằng „Đã sinh ra làm người trong cõi tán địa này,tâm làm sao khỏi tán lọan được.Tán tâm niệm Phật mà được vãng sinh là chỗ đáng qúy của Bổn Nguyện vậy „..
3.-Hỏi : Có thuyết cho rằng khi lâm chung cần phải chánh niệm,tâm không điên đảo thì Phật mới đến rước về Tây Phương.Nhưng mà ngay cả khi bình thường còn khó thay,huống gì vào lúc lâm chung,tứ đại phân ly,làm sao mà chánh niệm được?

Đáp : Kinh Phật thuyết A Di Đà chép „ Người tu đến lúc mệnh chung,Phật A Di Đà và các Thánh Chúng hiện ra trước mặt,người đó qua đời tâm không điên đảo,liền được vãng sinh Cực Lạc“.Rõ ràng là vào thời điểm ấy Phật hiện ra để tâm người tu không bị điên đảo bởi các cảnh giới khác mà vãng sinh Tây Phương.Tổ Pháp Nhiên chú giải đọan này rằng „ Phật đến rước là để người tu niệm Phật lúc lâm chung được chánh niệm chứ không phải lúc lâm chung cần phải chánh niệm Phật mới lai nghinh.Cho rằng lúc lâm chung cần phải chánh niệm Phật mới lai nghinh là không tin vào Phật Nguyện và không hiểu kinh văn“

4.-Hỏi . Người ta thường cho rằng lúc lâm chung cần phải chánh niệm mới được vãng sinh.Vậy những người tu Tịnh Độ mà do duyên nghiệp nhiều đời của họ nên chết bất đắc kỳ tử (Như tai nạn trúng gió…) có được vãng sinh không ?

Đáp: Thắc mắc rất quan trọng cần phải giải đáp thỏa đáng.Trước hết xin trả lời dứt khóat rằng chắc chắn họ được vãng sinh nếu lúc bình sinh họ có đầy đủ Tín,Nguyện và Hạnh.Xin lấy một ví dụ cho một vấn đề dễ hiểu hơn.Nếu người ta mua bảo hiểm thì khi gặp chuyện,bảo hiểm sẽ lo.(Thí dụ bảo hiểm chỉ là tạm mượn vì không thể ví với Phật Lực nhiệm mầu).Người tu có đủ Tín Nguyện và Hạnh thì mọi chuyện còn lại do Đức A Di Đà lo liệu vì đó là Bổn Nguyện của Ngài.Dù phải chết bất kỳ dưới hình thức nào,ngay sát phút lúc lâm chung Đức A Di Đà cũng đến rước thần thức người tu niệm Phật về Tây Phương.Tuyệt đối phải tin điều này.

5.-Hỏi.-Vấn đề trợ niệm cho người tu lúc lâm chung nên hiểu thế nào cho chính xác?

Đáp: Theo sách vở lưu truyền lại thì thuở xưa cổ nhân ít đề cập đến vấn đề trợ niệm và nó trở nên cấp thiết trong vấn đề trọng đại cho đến nay mà thôi. Đây cũng là dấu hiệu chỉ sự đi xuống của thời Mạt Pháp.Người tu Tịnh Độ hiểu rõ giá trị của vấn đề trợ niệm,nhưng họ biết rằng yếu tố chính để được vãng sinh là tín,Nguyện và Hạnh.Trợ niệm chỉ là trợ duyên thù thắng mà thôi.

Tuyệt đối không thể mong chờ ở sự trợ niệm mà lơ là Tín,Nguyện và Hạnh lúc còn sinh tiền.Một người không có Tín Hạnh và Nguyện thì khó nhờ vào trợ niệm để được vãng sinh.Tin vào Phật Lực nhiệm mầu.Người tu Tịnh Độ sẵn sàn trợ niệm để kết duyên lành nhưng luôn luôn sách tấn rằng các đạo hữu vấn đề là tu ngay bây giờ chứ không phải chờ để được trợ niệm vào lúc lâm chung.

Hỏi: Nghe rằng có hai lọai niệm Phật :Tự lực niệm Phật và tha lực niệm Phật.Sự phân biệt này có cần thiết hay không chỉ là vẽ rắn thêm chân?

Đáp: Sự phân biệt này rất chính đáng vì sẽ giúp người tu hiểu chính xác Pháp Môn Tịnh Độ.

-Trước hết cần giản biệt Ngọai Đạo niệm Phật,họ đã mượn 6 chữ Hồng Danh muôn đức NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT mà luyện điển mở luân xa,lại giải thích Kinh A Di Đà theo lối đó.Quả là Tà Ma Ngọai Đạo ! Không cần phải bàn thêm, đã gieo nhân nào thì sẽ có quả đó.

Bây giờ nói đến chuyện trong nhà Phật,và xin đi từ thô đến tế:

Không thiếu người niệm Phật để cầu phước báo nhân thiên,nghĩa là mong hiện đời mình ấm no hạnh phúc,sau khi chết được tái sinh về các nẻo Trời,Người. Đây là vì cầu phước mới niệm Phật-Lệch với bản hòai của Đức Thích Ca, Đức A Di Đà .Kế đến là những người tu dùng 6 chữ NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT là để diệt trừ vọng niệm cho bản thân mình hoặc khai ngộ bổn tâm.Vậy là không họp với tôn chỉ của Tông Tịnh Độ do Đức Thích Ca dạy, đó là tự tu niệm Phật.Dĩ nhiên những người này không thể vãng sinh.
-Sau cùng xin bàn đến những người tu niệm Phật chân chánh nghĩa là họ có đủ Tín Nguyện và Hạnh,và Nguyện căn cứ theo lời Phật dạy trong ba Bộ Kinh : Phật Thuyết Vô Lượng Thọ,Phật Thuyết Qúan Vô Lượng Thọ Phật,và Phật Thuyết A Di Đà.

Trong ba Bộ Kinh trên,trọng yếu nhất là Phật Thuyết Vô Lượng Thọ .Trong bộ Kinh này, Đức Phật Thích Ca dạy cho chúng ta về nhân địa bản Hạnh và Đại Nguyyện của Đức Phật A Di Đà.Nếu không có Đại Nguyện của Đức A Di Đà thì không thể có cõi Tây Phương Cực Lạc và không ai có thể vãng sinh về đó được dù tu cao đến đâu ! Do không thấu triệt được điều này,nhiều người niệm Phật mà trong tâm tính tóan đủ điều .Nào là cần phải niệm Phật đến chỗ nhất tâm bất lọan mới được vãng sinh,nào là không biết khi chết Phật A Di Đà có đến rước không đây,nào là những người giới hạnh thanh tịnh mà niệm Phật mới được vãng sinh..v..v…Đây gọi là Tự lực niệm Phật.Nghĩa là cứ trông cậy vào công hạnh của mình để được vãng sinh , dùng phàm trí mà suy lường Phật trí.Do đó tu rất nhọc nhằn mà không chắc là có được vãng sinh hay không.

Tha lực là những người tin tưởng tuyệt đối vào lời dạy của Đức Phật Thích Ca trong 3 Bộ Kinh trên. Nghĩa là tuyệt đối tin tưởng vào Bổn Nguyện của Đức A Di Đà là dùng Danh hiệu Ngài để cứu độ tất cả chúng sinh.Cõi Tây Phương Cực Lạc có là do Đức Phật A Di Đà tạo ra cho những người được nghe Danh hiệu Ngài,tin tưởng Ngài.Vì vậy khi có đại phước duyên là hiểu rõ và tin sâu điều trên , họ Trì Danh hiệu Phật với niềm hoan hỷ vô tư,trong tâm không thể tính tóan lo nghĩ gì cả.Họ biết rằng họ chỉ cần tin tưởng,siêng năng niệm Phật là đủ.Mọi chuyện còn lại là do Đức Phật A Di Đà lo.Vấn đề vãng sinh là chuyện đương nhiên.

Dịch Giả:Viên Thông
Đánh Máy: PT Nguyên Trí