Pháp Môn Niệm Phật

Pháp Môn Niệm PhậtTất cả chư Phật Như Lai, không vị nào không khuyên người cầu sinh Tịnh Độ. Các vị đều không chút lòng riêng tư, không chút tâm thiên lệch mong muốn chúng ta mau chóng thành Phật. Phương pháp thù thắng nhất chính là cầu sinh Tây Phương tịnh độ, nhanh hơn so với bất cứ pháp môn nào, thù thắng ngay trong thù thắng. Thế nhưng, thực tế có một số người nghiệp chướng sâu nặng nên không tin tưởng. Phật Bồ Tát cũng từ bi, tùy hỷ dạy pháp môn khác mà chúng ta thường gọi “tám vạn bốn ngàn”. Vậy “tám vạn bốn ngàn” là gì? Là do không tin tưởng pháp môn này, không tình nguyện học tập, không muốn cầu sinh Tây Phương Cực Lạc, chư Phật liền mở ra tám vạn bốn ngàn pháp môn. Phật mở ra vô lượng pháp môn vì những người nghiệp chướng sâu nặng.

Tường tận thông suốt đạo lý này chúng ta mới cảm nhận sự may mắn khi gặp được pháp môn của Phật, nhất định sẽ không xả bỏ, không nghi hoặc, mà một môn thâm nhập, tuyệt đối không động tâm. Với pháp môn khác, chúng ta có thể tán thán nhưng không cùng học. Thiện Tài Đồng tử có năm mươi ba lần tham học, pháp môn nào ngài cũng tham quan, cũng đều lướt qua. Thế nhưng ngài không học theo mà chân thành niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Cuối cùng ngài cũng về được thế giới Tây Phương Cực Lạc.

“Thọ dụng cụ túc đệ thập cửu”

Phẩm kinh này giới thiệu với chúng ta từ dung mạo đoan chính trang nghiêm, phước đức vô lượng, trí tuệ thông suốt, thần thông tự tại, tuổi thọ dài lâu, cho đến hoàn cảnh sinh hoạt thường ngày của người ở thế giới Tây phương Cực lạc. Đó là đích đến mà tất cả chúng sinh trên thế gian ngày đêm đang mong cầu. Nếu cầu phước, cầu trí tuệ, tự tại, thọ mạng, thì thế giới cực lạc mới được viên mãn. Chúng ta không thể cầu được ở thế giới này. Trong tám khổ có “cầu bất đắc khổ”, sau khi đã cầu chúng ta vẫn khổ. Người thế giới Tây Phương cực lạc không hề có ý niệm như vậy, tất cả đều tự nhiên, đều lưu xuất từ tánh đức, cho nên thân tâm của chánh báo thanh tịnh quang minh, y báo phước đức thù thắng, như trên đã nói “siêu thế hy hữu”. Trong kinh, Thế Tôn nói pháp phương tiện khéo léo, tuy nói nhưng “ứng niệm hiện tiền, vô bất cụ túc”. Người thế gian thường hay nói “tâm nghĩ sự thành”, nếu không chú tâm, chăm chỉ nỗ lực, sự việc không thể thành. Thế giới Tây Phương cực lạc cũng vậy, vừa nghĩ đến thì liền thành tựu.

“Phục thứ cực lạc thế giới, sở hữu chúng sanh”

Cái “sở hữu” này ý nghĩa rất dài, phía sau kinh văn có câu “hoặc dĩ sanh, hoặc hiện sanh, hoặc đương sanh”. “Dĩ sanh” là đã sanh đến thế giới Tây Phương cực lạc của Phật A Di Đà, thành Phật đã mười kiếp. “Hiện sanh” là hiện tại sanh đến thế giới Tây Phương cực lạc. “Đương sanh” chính là chúng ta, hiện tại chưa đi nhưng chắc chắn sẽ đi. “Đương sanh” là sự khẳng định đương nhiên. Khi chính mình hạ quyết tâm, không chút nghi ngờ cũng không lo nghĩ đã tạo nghiệp gì trong đời quá khứ, hiện tại thì chỗ “đương sanh” này, chúng ta sẽ có phần. Sau khi gặp được pháp môn, chỉ nghĩ đến Phật A Di Đà, không nên nghĩ những thứ khác. Trong kinh Đại thừa, đức Phật thường nói “niệm một câu Nam mô A di đà Phật tiêu hết tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội”. Chúng ta niệm có thể tiêu được hay không? Không thể! Khi chúng ta niệm “đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Vậy phải như thế nào khi niệm mới có sức mạnh lớn như vậy? Chính là người không có chút lòng nghi hoặc, trong tâm ngoài Phật hiệu không có bất cứ một tạp niệm nào. Niệm được như vậy sẽ tiêu hết tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội. Không nên khởi vọng tưởng, thậm chí thế gian pháp, chúng ta cũng không nghĩ đến, không nghĩ quá khứ không nghĩ hiện tại cũng không nghĩ tương lai mà chỉ nghĩ “A Di Đà Phật”, chỉ nghĩ kinh Vô Lượng Thọ, như vậy mới tiêu được tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội. Chỉ cần khởi một vọng niệm, công phu của chúng ta hoàn toàn bị phá hỏng. Do đó phải triệt để buông bỏ, vạn duyên buông bỏ, đương sanh ngay trong một đời này nhất định thành tựu, nhất định vãng sanh.

“Giai đắc như thị, chư diệu sắc thân, hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí tuệ minh liễu, thần thông tự tại”

Câu “giai đắc như thị, chư diệu sắc thân” là tổng thuyết. Diệu sắc thân chính là “hình mạo đoan nghiêm”. Chúng ta đã đọc phần trước bài kinh, sinh đến thế giới Tây Phương cực lạc, thế giới đó là hóa thân, không phải là thai sinh nên rất khó tưởng tượng. Người thế gian luôn từ nhỏ lớn dần tuổi tác theo thời gian, mỗi năm đều thay đổi. Trong khi đó, thế giới Tây Phương không như vậy. Thân người ở thế giới Tây Phương hoàn toàn giống đức Phật A Di Đà, giống từ tướng mạo thân thể đến phước đức vô lượng. Tuổi thọ ở ngay trong phước đức, tuổi thọ là phước đức đệ nhất, là vô lượng thọ, trí tuệ thông suốt, viên mãn.

Quá khứ, hiện tại, vị lai, quá khứ vô cùng, tương lai vô tận, cõi này phương khác, tất cả các pháp không gì là khó thông đạt. Kinh Hoa Nghiêm và kinh Lăng Nghiêm cũng đã nói qua vấn đề này. Trước đây chúng tôi cũng thường hay giảng “chư pháp sở sanh”, chư pháp là tất cả pháp thế xuất thế gian, sanh là sanh khởi. Tất cả pháp từ đâu mà ra?, đức Phật nói “do tâm hiện ra”, tâm đó là tự tánh, là chân tâm của chúng ta. Chúng ta “minh tâm kiến tánh” thì làm sao không biết được tác dụng của tâm tánh. Hư không, vũ trụ, vô lượng vô biên tinh cầu, và tất cả chúng sanh từ đâu mà ra?, từ trong tự tánh của chúng ta biến hiện ra. Khi minh tâm kiến tánh rồi, đương nhiên thứ gì cũng thông suốt tường tận, không cần phải học.

Đức Phật nói “sở tri chướng”, cái sở tri chướng này đã chướng ngại chúng ta, vốn dĩ chúng ta phải biết nhưng hiện tại lại không biết. Cho nên ý nghĩa của “sở tri chướng” và “phiền não chướng” không giống nhau. Bản thân phiền não là chướng ngại, còn sở tri thì không chướng ngại. Có loại chướng ngại chúng ta nhận biết, nhưng không phiền não. Tất cả chúng sinh đều có “trí tuệ đức tướng Như Lai”, nhưng vì sao hiện tại chúng ta không có trí tuệ thông suốt này? Kinh Phật thường nói, các tổ sư đại đức cũng thường nói: “sở tri chướng” là do khởi tâm động niệm. Kinh Lăng Nghiêm, tôn giả Phú Lâu Na hỏi rất hay: “tất cả chúng sinh có vô minh, vô minh bất giác sinh ba cõi, vậy vô minh này có từ lúc nào, do nguyên nhân gì mà ra?”. Đức Phật đáp cũng rất diệu: “vô minh chính là sở tri chướng”, “tri kiến lập tri là vô minh bổn”. Tri kiến chính là trí tuệ thông suốt. Sai sót chính ở chúng ta muốn lập tri. Lập tri là phân biệt, khởi tâm động niệm, liền chướng ngại trí tuệ thông suốt.

Chư Phật Như Lai thường ở trong định, không phải ngồi xếp bằng tĩnh tọa như người thường vẫn nghĩ. Trong định chính là tâm định, không kể đến thân, “đi đứng nằm ngồi” đều trong định, đó mới gọi là thiền định. Định là không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước. Định sinh huệ, tác dụng của định chính là trí tuệ thông suốt. Chúng ta không có trí tuệ bởi vì tâm động. Cho nên, nếu muốn cầu trí tuệ, không khó, chúng ta chỉ cần tận lực giữ gìn tâm, không để cho cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, phiền não dao động. Chúng tôi thường khích lệ các vị đồng tu bằng mười sáu chữ cần buông bỏ “tự tư tự lợi, danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần, tham sân si mạn”. Sau khi buông bỏ, chúng ta liền ở ngay trong định. Tuy định này không sâu nhưng có thể sinh trí tuệ. Có công phu thì khi mở bất cứ kinh điển gì, chúng ta sẽ không có chướng ngại, mà trên tinh thần “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa” như kệ khai kinh đã nói, mặc dù dĩ nhiên sự hiểu của chúng ta vẫn chưa đủ sâu, chưa đủ viên mãn. Tuy nhiên, sự hiểu đó lại chính xác, không sai, vì khi đó, chúng ta đã có sức định.

Nếu không buông bỏ mười sáu chữ vừa nêu, một chút định cũng không có, thì không những đức Phật giảng chúng ta sẽ không hiểu, mà chú giải của tổ sư chúng ta xem cũng không hiểu. Sở tri chướng ở ngay đó. Tâm càng thanh tịnh, trí tuệ càng lớn. Lời nói của cổ đức rất có đạo lý: tu hành Phật pháp chính là một chữ “buông”. Buông bỏ, từ sơ phát tâm đến quả vị Như Lai không hề khác biệt. Buông bỏ một phần, chúng ta liền có thể nhìn thấu một phần, nhìn thấu là trí tuệ thông suốt. Chúng ta liền có thể được một phần tự tại, thần thông tự tại, đều có thể có được người của thế giới Tây Phương cực lạc, vi diệu không thể nói hết.

Chữ “đương sanh” rất vi diệu. Ngày nay, chúng ta hạ quyết tâm tu Tịnh Độ, một lòng một dạ, đó chính là đương sanh, ngay đời này nhất định sẽ không còn luân hồi, nhất định được sinh Tịnh Độ. Bản thân tràn đầy tín tâm, sinh đến thế giới Tây Phương cực lạc những thứ này thảy đều có được, thậm chí còn viên mãn. Bồ Tát Thất Địa tiếp cận viên mãn, lên trên Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa Đẳng Giác đều viên mãn. Ngôi thứ năm chính là quả vị Như Lai cứu cánh.

Lý do của việc lựa chọn pháp môn niệm Phật

Vừa rồi đến Trung Quốc, chúng tôi gặp rất nhiều vị đồng tu Phật giáo trách móc rằng tại sao chúng tôi chỉ tuyên dương pháp môn Tịnh Độ mà không nói đến các pháp môn khác. Họ lo lắng chẳng lẽ tương lai chỉ có Tịnh Độ, còn các tông phái khác đều không có.

Kỳ thật họ không hiểu cách thức giảng kinh. Giảng bộ kinh nào, nhất định phải tán thán bộ kinh đó. Chúng tôi giảng Tịnh Độ mà lại tán thán Thiền chẳng phải làm trò cười hay sao? Đây là một nguyên tắc cơ bản. Bất cứ tông phái nào, khi giảng giải, chúng ta phải tán thán để người nghe mới có thể sinh tín tâm, có thể thọ dụng, y giáo phụng hành, chân thật được lợi ích.

Trước đây, một nữ tu của Thiên Chúa Giáo cho biết cô rất thích nghe chúng tôi giảng Mai Quế Kinh ở trường. Chúng tôi cũng đã hứa sẽ tìm thời gian thích hợp, cố gắng giảng qua một lượt trong phòng thu rồi tặng các vị phổ biến bên Thiên Chúa Giáo. Khi giảng Mai Quế Kinh, chúng tôi cũng tán thán Thiên Chúa Giáo, tán thán GiêSu, không thể so sánh họ không bằng đức Phật A Di Đà. Cho nên chúng ta cần hiểu, đây là qui củ của giáo học. Không luận giảng bộ kinh điển nào, không luận giảng pháp môn gì, nhất định phải tán thán. Chúng ta gặp đệ tử Phật môn tu học pháp môn tông phái khác, đều tán thán, không nên hủy báng, xem thường.

Trong “Du Già Bồ Tát giới bổn”, có một điều trọng giới, “khen mình chê người”, dường như xếp ở điều thứ nhất. Trọng giới thứ nhất là tán thán chính mình, hủy báng các tông phái khác. Tất cả pháp môn có trong nhà Phật không luận Đại thừa, Tiểu thừa, tông môn giáo hạ, hiển giáo mật giáo, kinh điển mà chúng ta y theo đều là Thích Ca Mâu Ni Phật nói. Nếu hủy báng kinh điển là báng Phật báng pháp. Có không ít người y theo pháp môn này tu hành thành tựu, chẳng phải như vậy là báng cả tăng sao? Cho nên có thể tán thán chính mình nhưng không được hủy báng Tam Bảo, vì hủy báng Tam Bảo, quả báo địa ngục A Tỳ, không thể vãng sinh.

Người tu Tịnh Độ chúng ta đối với bất kỳ tông phái nào cũng đều tán thán. Chúng ta cung kính Tam Bảo, không những tán thán Tam Bảo, mà cần tán thán cả các tôn giáo khác. Mặc dù tôn giáo không giống nhau, nhưng họ đều “do tâm hiện ra, do thức hiện bày”. Chúng ta và họ đồng một gốc, đồng một nguồn cội, đồng một tự tánh, vì vậy không nên xem thường, hủy báng. Không tường tận đạo lý này, thì việc học Phật chỉ là học suông, Phật hiệu cũng là niệm suông, làm sao có thể thành tựu. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa còn ở đời, đối với rất nhiều tôn giáo khác của Ấn Độ, Thế Tôn không hề hủy báng, không hề xem thường. Chúng ta cũng nên theo đó mà học. Căn tính tuy không giống nhau, không luận thuộc tôn giáo nào cũng đều khuyên người làm thiện, lánh ác.

Thời đại này là loạn thế, tai nạn triền miên, chúng ta trải qua ngày tháng rất khổ đau. Mọi người trên toàn thế giới bất luận tôn giáo, chủng tộc, quốc gia đều một mong cầu khẩn thiết “xã hội an định, thế giới hòa bình”. Do đó, những năm gần đây, chúng tôi ở Singapore, Úc Châu vẫn đang tiếp tục làm công tác đa nguyên văn hóa, đoàn kết tôn giáo, chủng tộc, hóa giải hiểu lầm, xung đột, hy vọng mọi người toàn tâm toàn lực cống hiến vì an định xã hội, thế giới hòa bình.

Chúng tôi có đưa ra tổng cương lĩnh gói gọn trong tám chữ “đối đãi bình đẳng, hòa thuận cùng sống”. Không nên phân tôn giáo, không phân chủng tộc, không phân quốc gia, không phân văn hóa, cũng không phân giàu nghèo sang hèn, chúng ta đều mong cầu đối đãi bình đẳng với nhau, hòa thuận cùng sống. Ngoài ra chúng tôi còn có năm cụm từ mười chữ “bao dung, tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm sóc”. Sau cùng tổng kết lại, chúng ta “hợp tác lẫn nhau”. Chỉ với mấy câu như vậy, chúng tôi đi khắp nơi trên thế giới, đến đâu cũng khuyên mọi người thực tiễn triệt để, bản thân quyết làm được, sau đó tiến thêm một bước yêu cầu người trong đạo tràng làm được, dần dần yêu cầu người trong thị trấn nhỏ thảy đều làm được

Chúng tôi ở Úc châu trong một trấn nhỏ chỉ có tám ngàn người đều làm thành công, vì mỗi cá nhân đều có lòng tự trọng, đều hy vọng trấn nhỏ này trở thành trấn mô phạm bình đẳng, đối đãi hòa thuận. Chúng tôi dự đoán khoảng vài năm nữa, trấn nhỏ này sẽ trở nên nhất nhì thế giới về hòa bình an định. Người dân xem người già như cha mẹ mình, xem người trẻ như con em ruột thịt mà tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.

Xây dựng thế giới hòa bình là việc không dễ dàng. Hội nghị hòa bình của Liên Hiệp Quốc tổ chức ở Thái Lan vừa qua, sau khi tham gia, chúng tôi cảm thấy không thực tiễn. Từ đó mới thấy, thật may mắn khi ở Toowoomba hình thành một mô phạm hòa bình, mà người Trung Quốc gọi là kiểu mẫu. Đó chính là mở rộng của thôn Di Đà, trấn nhỏ này đầy đủ điều kiện thiên nhiên, cư dân bao gồm hai loại người: trí thức, đa số có trình độ văn hóa rất cao, chiếm một phần tư nhân khẩu; ba phần tư còn lại phần lớn đã về hưu, và người về hưu ở các nơi đến đây dưỡng lão. Do điều kiện thiên nhiên ưu đãi nên nơi này còn gọi là trấn về hưu dưỡng lão. Cứ cuối tuần, chúng tôi thường tổ chức buổi tiệc ấm cúng dành cho khách thập phương tề tựu. Số lượng khách ngày càng tăng là điều đáng mừng. Mục đích buổi tiệc nhằm giáo dục, dẫn dắt nhân dân thực tiễn đối đãi bình đẳng, hòa thuận, cùng thực hiện bao dung, tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm sóc, hợp tác lẫn nhau. Hy vọng lãnh đạo các tôn giáo trong trấn nhỏ này, từ dẫn đầu đến thúc đẩy để trở thành trấn nhỏ hòa bình nhất thế giới.

“Hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ minh liễu, thần thông tự tại”, đều là đức năng tự tánh vốn đủ. Chúng ta có trí tuệ, có sức định sẽ khai mở được trí năng này vô tận vô lượng vô biên. Mọi người đều có thể khai mở.

“Thọ dụng chủng chủng, nhất thiết phong túc”

Tám chữ này chứa đựng muôn hình vạn vẻ. Ngày nay chúng ta có đời sống tinh thần, đời sống vật chất không những đủ mà còn rất đầy đủ, rất phong phú, không hề kém khuyết. Kinh nêu ra một vài ví dụ các thứ thọ dụng.

Thứ nhất là nơi ở, “cung điện”. Cung điện không có nghĩa là nơi ở của đế vương thời xưa mà đó chính là nhà ở cá nhân cùng nơi họat động đoàn thể.

Thứ hai, “phục sức” là điều kiện ăn mặc sung túc. Người thế gian ưa thích trang sức. Chư Phật Bồ tát cũng thường đeo anh lạc, gọi là “chúng bảo trang nghiêm”. Những thứ này đều tự nhiên, không do con người thiết kế chế tạo. Thế giới Tây Phương vốn mọi thứ đều tự nhiên, do nghĩ mà sinh ra.

Thứ ba, “hương hoa”, mười phương pháp giới tất cả chúng sinh không ai không thích hương hoa. Người ta rất chú trọng đến vườn tược. Người giàu sang Trung quốc thời xưa đặc biệt chú trọng đến hoàn cảnh nơi ở. Đến tham quan Trung quốc, chúng ta sẽ thấy còn lưu giữ lại rất nhiều khu vườn với những kiến trúc đẹp mắt ở Tô Châu, Dương Châu, Bắc Kinh. Không cần chờ đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, “do nghĩ mà sinh”, chỉ cần chúng ta quán tưởng, thế giới Tây phương liền hiện tiền trong cuộc sống của chúng ta.

“Phan cái trang nghiêm chi cụ, tùy ý sở tu, tất giai như niệm”

Câu nói này đã bao gồm hết tất cả vật chất đồ dùng trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, không thiếu thứ nào. Khi nào cần dùng, nó tự nhiên hiện ra; khi không cần nữa, nó liền biến mất. Cho nên, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, vào nhà của mỗi người đều thấy sạch sẽ, bóng láng không chút bụi trần, đồ dùng của họ cũng không cần phải cất chứa, vô cùng vi diệu. Bởi vì tất cả chúng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc đều có năng lực chuyển đổi năng lượng vật chất, có thể đem năng lượng biến thành vật chất, khi cần dùng thì thảy đều đầy đủ, khi không cần dùng thì chuyển biến vật chất này quay trở về thành năng lượng nên không cần phải cất chứa.

Trong kinh điển nhà Phật đã giới thiệu rất nhiều cảnh giới không thể nghĩ bàn, được khoa học gia hiện tại chứng thực. Thế nhưng hiện tại họ không biết dùng phương pháp gì để làm cho năng lượng và vật chất tùy tâm mà chuyển biến. Người thế giới Tây Phương Cực Lạc sớm đã biết được. Những năm đầu khi giảng bộ kinh này, chúng tôi đã khuyên các khoa học gia nên đến thế giới Cực Lạc “du học”. Nếu không, kiến thức họ học được sẽ rất có hạn. A Di Đà Phật là nhà khoa học vĩ đại nhất giữa vũ trụ này, cho nên học khoa học thì cần đi đến thế giới Cực Lạc.

“Tùy ý sở tu tất giai như niệm”, tất cả đều do tâm nghĩ sự thành, không như thế gian đời sống gian nan khổ sở. Thích Ca Mâu Ni Phật nói, sáu cõi của chúng ta là biển khổ. Có ba loại khổ lớn, “khổ khổ, hoại khổ, hành khổ”. Kinh Hoa Nghiêm nói “ba cõi đều khổ”, dục giới ba loại khổ này thảy đều đầy đủ, không ai có thể tránh khỏi được. Người cõi trời sắc giới công phu thiền định sâu, không có “khổ khổ”, nhưng họ có “hoại khổ”, “hành khổ”, vẫn không được coi là tự tại. Đến được cõi vô sắc, ngay đến thân thể này cũng không cần, không có “hoại khổ”, nhưng họ vẫn có “hành khổ”. Hành khổ vì cảnh giới này của họ không thể giữ được mãi. Họ có hạn chế của thọ mạng. Cõi trời Vô Sắc giới cao nhất, trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, tuổi thọ tám vạn đại kiếp. Người thông thường không ấn tượng sâu về con số tám vạn đại kiếp, nhưng đối với người con Phật thì tương đối dễ hiểu hơn. Trong kinh luận đức Phật dạy, thế giới này, một lần “thành, trụ, hoại, không” là một đại kiếp. Tám vạn đại kiếp là “thành, trụ, hoại, không” tám vạn lần. Thế nhưng rốt cuộc, nó vẫn là số lượng, cùng với thời không vô tận mà so sánh, vẫn rất ngắn ngủi. Tám vạn đại kiếp cũng qua nhanh, khi mất định lực vẫn bị đọa xuống sáu cõi luân hồi, không được cứu cánh. “Ba cõi đều khổ”, không hề có những ngày tháng tốt đẹp, muốn trải qua ngày tháng tốt đẹp, chúng ta hãy hướng đến, xem thế giới Tây Phương Cực Lạc kỳ diệu dường nào.

(Trích lục Kinh Vô Lượng Thọ, Phẩm 19)
Giảng tại cư sĩ Lâm Phật giáo Singapore, tháng 10- 2003

Lão hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ

Chí Tâm Niệm Phật Tịnh Độ Hiện Tiền

Chí Tâm Niệm Phật Tịnh Độ Hiện TiềnĐã lâu lắm rồi, từ cái ngày thơ ấu xa xôi khi con được mẹ dắt lên chùa, theo thời gian, tất cả mọi thứ đều như cứ trôi đi, duy chỉ có câu niệm danh hiệu Phật A Di Đà trầm bổng du dương còn đọng lại. Con thích niệm thầm danh hiệu Phật từ thuở ấy, âm thầm chẳng cho mẹ biết và cũng chẳng hiểu tại sao.

Khi lớn lên, cũng như bao người trẻ khác, con bị cuốn vào cuộc sống hối hả với bao thăng trầm, lợi danh, vinh nhục. Nhưng câu niệm Phật thì con vẫn âm thầm mang theo như một hành trang vô hình, trì niệm trong những lúc có thể, và rồi Sáu chữ Hồng danh trở nên thân thiết như một người bạn cố tri. Khi vui cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng như khi thất bại, lúc cô đơn cũng như khi hạnh phúc, niệm Hồng danh Phật liền thấy lòng ấm lại, hết chơi vơi, bình tĩnh và thanh thản hơn rất nhiều. Sau này học giáo lý Tịnh độ, con mới biết mình có căn lành với pháp môn niệm Phật thâm diệu này.

Càng niệm Phật, con nhận ra tình thương của Phật A Di Đà thật bao la, vô hạn. Hình ảnh Phật A Di Đà đứng trên tòa sen sáng lòa, duỗi cánh tay vàng tiếp độ luôn hiện ra trước mắt mỗi khi con niệm danh hiệu Ngài. Ngài thật cao cả và nhân từ, như một người cha, người thầy luôn soi sáng cho cuộc đời con. Với con, Phật A Di Đà không chỉ ở Tây phương mà ở ngay trong cõi Ta bà này. Ngài không chỉ cứu vớt những thần thức đọa lạc, tiếp dẫn họ vãng sanh mà còn luôn an ủi, soi sáng và thức tỉnh cho con cùng biết bao nhiêu người khác.

Giờ đây, con tin tưởng tuyệt đối vào Phật A Di Đà, cảnh giới Cực lạc thù thắng với vô vàn cảnh đẹp, thanh tịnh và trang nghiêm. Con luôn nguyện được sanh về Tịnh độ nên cố gắng xây dựng nền móng Tịnh độ trong cuộc sống hàng ngày. Sống với niềm tin trọn vẹn vào Phật A Di Đà, con cảm nhận sâu sắc năng lực cứu độ vô biên của Ngài. Chỉ một câu niệm Phật thôi, mà con hằng được soi sáng, chỉ dẫn và có nơi nương tựa. Cho đến một ngày, con nhận ra rằng “Tâm tịnh tức độ tịnh” hay nói cách khác “Đây là Tịnh độ/Tịnh độ là đây”.

Đúng là Tịnh độ ở Tây phương nhưng Tịnh độ cũng ở ngay đây và bây giờ khi tâm con bình an, vắng lặng và thăng hoa trong âm ba vang vọng điệp trùng Nam mô A Di Đà Phật. Sự đời thì vẫn cứ như nhiên, trôi đi với bao buồn vui thăng trầm nghiệt ngã. Con cũng đang xuôi trong dòng sông đời đó thôi nhưng sao tâm con bình an đến lạ, có thể vì con đã nắm được chiếc phao Thánh hiệu A Di Đà.

Cuộc đời con, rồi đây sẽ có những cái được thêm lên và cũng có nhiều thứ sẽ mất đi nhưng chắc chắn rằng câu niệm Phật thì luôn đọng lại, không thêm bớt. Tuy chưa được “Nhất tâm bất loạn” nhưng con nguyện hằng tâm niệm Thánh hiệu A Di Đà. Mỗi câu niệm Phật là một đóa sen, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Luôn tưới tẩm và thắp sáng những đóa sen Thánh hiệu Phật ngay trong cuộc sống này, thì rõ ràng Cửu phẩm Liên hoa cũng chẳng ở đâu xa.

Bạch Vân

Vị Trí Của Tịnh Độ Tông Trong Giáo Pháp Đức Phật

Vị Trí Của Tịnh Độ Tông Trong Giáo Pháp Đức PhậtĐức Phật Thích Ca Mâu Ni từ nơi pháp thân mà thị hiện tám tướng thành đạo ở cõi Sa Đà, giảng kinh thuyết pháp trong 49 năm chỉ nhằm mục đích muốn cho hết thảy chúng sinh lìa khổ được vui, viên thành Phật đạo.

Đúng như trong kinh đã nói: “Đức Như Lai dùng tâm vô tận đại bi thương xót chúng sinh trong ba cõi mà xuất hiện nơi đời, xiển dương giáo pháp vì muốn cứu vớt quần mê, đem lại lợi tích chân thật cho chúng sinh”. Lợi ích chân thật cứu kính mà đức Thế Tôn đem lại cho chúng sinh là dứt trừ cội gốc sinh tử luân hồi từ vô lượng kiếp, đưa chúng sinh đến Niết Bàn bỉ ngạn, nhanh chóng thành Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Nhưng chúng sinh ở cõi Sa Bà cấu nhiễm sâu nặng mê thất bản tâm, tham đắm vui chơi ở trong nhà lửa mà ngăn chướng thánh đạo. Đức Thế Tôn sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, trong khoảng 21 ngày vì 41 vị pháp thân Đại sĩ và hàng thiên long bát bộ có túc thế thiện căn thuần thục mà diễn thuyết kinh Hoa Nghiêm, các bậc đại Bồ tát như Văn Thù, Phổ Hiền v.v… đều lĩnh giải mà được lợi ích giải thoát, còn các hàng Thanh văn và Bồ tát sơ phát tâm thì không nghe, không thấy như điếc như ngây.

Khi ấy đức Thế Tôn suy nghĩ rằng: “Giáo pháp của ta thậm thâm vi diệu khó hiểu khó biết, hết thẩy chúng sinh bị trói buộc ở pháp thế gian, tham đắm năm dục cho nên không sao hiểu nổi, chẳng bằng cứ an nhiên nhập Niết Bàn là hơn cả”.

Khi ấy Phạm Vương và Đế Thích cung kính thỉnh đức Thế Tôn trụ thế, vì chúng sinh cõi Sa Bà mà chuyển bánh xe pháp. Sau ba lần cầu thỉnh, đức Phật im lặng hứa khả. Ngài liền nhập định để quán xét căn cơ của chúng sinh xem ai có thể tiếp thụ được giáo pháp thì sẽ độ cho. Ngài liền đến vườn Lộc Uyển xứ Ba La Nại, vì năm anh em ông Kiều Trần Như mà chuyển đại Pháp luân, thuyết giảng giáo pháp Tứ Đế.

Đức Thế Tôn giảng kinh thuyết pháp là tùy theo căn tính cao thấp khác nhau của chúng sinh, tùy bệnh mà cho thuốc, phương tiện lập ra năm thừa để mà tiếp dẫn . Thời A hàm, trước vì chúng sinh căn thính thấp kém mà giảng pháp Tứ Đế, Mười Hai Nhân Duyên, Lục Độ v.v… đó là quyền giáo Tam thừa. Đến thời kỳ Phương Đẳng thì phê phán Tiểu thừa chấp “Pháp”, thời Bát Nhã thì loại bỏ chấp ngã (ngã pháp đều không) trải hơn 40 năm đến hội Pháp Hoa mới khai quyền hiển thực, hội quy Tam thừa về Nhất Phật thừa. Một đời giáo hóa của đức Phật được chia thành năm thời tám giáo, nên nói: “tùy chúng sinh tâm ứng sở tri lường” (tùy theo tâm của chúng sinh mà đáp ứng những sự hiểu biết cần thiết, thích hợp).

Đức Thế Tôn trong quá trình giáo hóa, điều phục những chúng sinh có duyên với Phật pháp, Ngài quán sát thấy căn tính của chúng sinh đã dần thuần thục, có thể gánh vác được đại pháp xuất thế, Ngài liền tuyên dương bản hoài đó là giảng thuyết pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ. Kinh A Di Đà là pháp vô vấn tự thuyết, chỉ thẳng Tây Phương Tịnh độ, được hướng tới bậc trí tuệ đệ nhất – Xá Lợi Phất để giới thiệu, điều này ngầm chỉ đương cơ của pháp môn Tịnh độ phải là bậc thượng căn lợi trí, người có trí tuệ nông cạn khó có thể đảm đương, tin sâu mà không nghi ngờ.

Vậy pháp môn Tịnh độ chiếm vị trí nào trong giáo pháp của đức Phật? Như mọi người đều biết kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa là Nhất thừa viên giáo. Kinh Hoa Nghiêm được công nhận là vua của các kinh, song điều cốt lõi của thâu tóm toàn bộ kinh Hoa Nghiêm là phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện; điều cốt lõi của phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện là ở chỗ Bồ tát Phổ Hiền dùng 10 đại nguyện dẫn quy về thế giới Tây Phương Cực lạc.

Có thể nhận thấy Hoa Nghiêm và Tịnh độ là hết sức thậm thâm vi diệu. Trong kinh Pháp Hoa có kệ rằng: “Nhất xưng Nam mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo”. Nghĩa là chỉ cần xưng một câu Nam mô Phật đều tạo nhân duyên thành Phật đạo. Tịnh độ là chỉ cho phương pháp chuyên trì danh niệm Phật vãng sinh Cực Lạc ắt sẽ thành Phật. Đại Sư Ngẫu Ích tán thán rằng: “Hoa Nghiêm áo tạng, Pháp Hoa bí tủy, hết thảy tâm yếu của chư Phật, kim chỉ nam của Bồ tát vạn hạnh, đều xuất phát từ đó”.

Hoa Nghiêm là toàn viên, Pháp Hoa là thuần viên, ao tạng và bí tủy của nó đều không ra ngoài pháp môn Tịnh độ, điều đó chứng tỏ Tịnh độ tông là pháp môn viên đốn lại. Vả lại Hoa Nghiêm và Pháp Hoa tuy viên đốn lại phương tiện, chỉ cần trì danh niệm Phật, liền có thể viên thành đạo nghiệp. Như ngài Liên Trì Đại sư nói: “Việt tam kỳ vu nhất niệm, tề chư Thánh vu phiến ngôn”, nghĩa là một niệm tịnh tín thể nhập vào bể đại nguyện của Phật Di Đà có thể siêu việt công hạnh tu tập trong ba đại A Tăng Kỳ kiếp; chấp trì 6 chữ hồng danh Nam Mô A Di Đà Phật (phiến ngôn) liền có thể công đức trí tuệ ngang bằng với chư đại Bồ tát Quán âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền…

Như vậy, pháp môn Tịnh độ vừa phương tiện vừa cứu cánh, có thể nói là pháp liễu nghĩa bậc nhất trong các pháp liễu nghĩa, là pháp cực kỳ viên đốn trong các pháp viên đốn.

Tịnh độ Tông thu nhiếp và siêu việt một cách viên mãn hết thẩy các pháp môn. Một câu A Di Đà Phật gồm đủ cả 4 câu tông chỉ:

Lấy duy tâm làm Tông (toàn tâm tức Phật).

Lấy duy vật làm Tông (toàn tâm tức Phật).

Lấy tuyệt đãi viên dung làm Tông (ngoài tâm không có cảnh là tuyệt đãi – dứt bặt đối đãi tâm chúng sinh và tâm Phật dung nhiếp lẫn nhau là viên dung).

Siêu tình ty kiến làm Tông (vượt bỏ phàm tình, lìa bỏ thánh kiến.) Phật pháp có vô lượng pháp môn, nhưng chúng quy không ngoài 4 môn đó là: Hữu môn, Không môn, Diệc hữu diệc không môn và Phi hữu phi không môn. Điều này chứng tỏ Tịnh độ Tông thu nhiếp hết thảy các pháp môn một cách viên mãn. Lại thấy Tông duy tâm viên siêu hữu môn; Tông duy Phật viên siêu không môn; Tông tuyệt đãi viên siêu diệc hữu diệc không môn; Tông siêu tình ly kiến viên siêu phi hữu phi không môn. Điều đó chứng tỏ Tông tịnh độ điêu việt một cách viên mãn hết thảy các pháp môn.

Mặt khác chính viên thu lại viên siêu, chính viên siêu lại viên thu; siêu việt thu nhiếp đồng thời không ngăn ngại. Tất cả những điều đó càng chứng tỏ một câu A Di Đà Phật thu nhiếp, siêu việt hết thảy các pháp môn một cách viên mãn, là pháp môn đại tổng trì của 12 bộ kinh, cao sâu khó tin chẳng thể nghĩa bàn.

Đại sư Thiện Đạo với đầy đủ tuệ nhãn đã từng chỉ dạy: “Đức Như Lai sở dĩ xuất hiện nơi đời chỉ vì thuyết minh bản nguyện rộng sâu của đức Phật A Di Đà”. Câu nói ấy khai thông lỗ tai cho kẻ điếc, mỡ Gôn mặt Gào Kẻ mù loà, phát khổ; những điều chưa từng được phát khởi, tất cả nhằm chỉ rõ: Đức Thích Ca Như Lai (cho đến mười phương ba đời hết thảy chư Phật) thị hiện ở thế gian chỉ nhằm một mục đích duy nhất là tuyên thuyết pháp môn niệm Phật.

Câu nói đó không phải người tầm thường có thể chỉ ra được. Trong Tây Phương lược truyện tôn xưng ngài Thiện Đạo là hoá thân của Phật Di Đà, Đại sư Liên Trì thì nhận định: “Đại sư Thiện Đạo được mọi người tôn xưng là hoá thân của Phật Di Đà, nếu chẳng phải là hoá thân của Phật Di Đà thì cũng là hoá thân của các Đại Bồ tát như Quán âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền v.v…

Đại sư Ngẫu Ích cũng từng nói: “Một câu A Di Đà Phật chính là pháp Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác mà đức Thích Ca chứng đắc ở nơi đời năm ác trược này, nay lấy quả giác ấy trao lại toàn thể chúng sinh đời ác trược. Còn như cảnh giới của chư Phật, chỉ có Phật với Phật mới có thể hiểu thấu cùng tận, chẳng phải sức của chúng sinh trong chín cõi có thể hiểu được. Ẩn ý trong lời khai thị của Đại sư Ngẫu Ích với lời minh thị của Đại sư Thiện Đạo là không hai không khác, cái thấy biết của bậc thánh nhân tuy ở thời khác nhau nhưng cũng rất trùng hợp, thật đáng để chúng ta chắp tay tuân phục.

Như trên có thể thấy Tịnh độ tông chiếm vị trí trung tâm trong toàn bộ giáo pháp của đức Phật, là giáo lý liễu nghĩa thâu tóm toàn bộ giáo nghĩa trong Đại tạng giáo, chỗ tu hành chứng quả của nó là chỗ hội quy của tam thừa Phật pháp.

Như Đại sư Ấn Quang nói: “Pháp môn Tịnh độ rộng lớn không gì ngoài nó, khắp lợi ba căn, thu nhiếp thượng căn hạ trí. Chúng sinh trong chín cõi bỏ pháp môn này thì không lấy gì để viên thành Phật đạo; Mười phương chư Phật lìa pháp môn này thì không lấy gì phả độ quần mê. Hết thảy pháp môn đều từ pháp giới đó lưu xuất hết hành hành môn đều trở về với pháp giới đó”.

Người ta nếu có thể thể nhận sâu sắc địa vị trung tâm của pháp môn Tịnh độ trong giáo pháp của chư Phật sẽ phát sinh tín niệm sâu sắc pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ.

Thích Tiến Đạt

Con Phật Là Ai?

Con Phật Là AiTrôi lăn từ muôn kiếp nào. Không nhớ, không biết. Hễ cứ sinh ra thì tiếp tục trôi lăn. Tiền tài, sắc đẹp, danh vọng. Phải gắng sức học hành, thi cử, làm lụng, lao tâm khổ trí, tốn hao thời gian để có được những thứ ấy. Có khi vì bất tài hoặc vì kém may mắn, phải tìm cách chiếm đoạt từ kẻ khác, nơi khác, làm khổ người để được phần mình. Được rồi thì ăn ngon, ngủ kỹ. Những thú vui khác lần lượt xuất hiện, lôi kéo mình vào cuộc sống hưởng thụ xa hoa, không còn nhớ nghĩ đến niềm đau nỗi khổ của kẻ khác.

Một hôm mỏi mệt, dừng bước bên hiên chùa, lắng nghe một bài kinh, nghiền ngẫm một câu pháp. Bất chợt bừng ngộ. Bao nhiêu kiếp đời trầm luân, bao nhiêu năm tháng mê muội, chỉ trong một chớp mắt, tụ thành một mặt trời rực sáng rồi vỡ thành tro bụi rơi xuống thềm không môn. Từ đó quay về với Phật, trọng Pháp, kính Tăng, thấy rõ con đường để cất những bước chân hướng đến giải thoát tối thượng. Cũng từ đó được mệnh danh là phật-tử, là con của Phật. Đứa con này được sinh ra từ miệng của Phật, do từ lời vàng của Phật mà hóa sinh. Bởi là con của Phật, biết tự tâm vốn hàm tàng hạt giống của Như Lai, biết mình có thể nương nơi Pháp, dựa nơi Tăng, mà chăm bón và phát triển hạt giống ấy. Nếu hạt giống không có sẵn, dù trải muôn triệu kiếp nỗ lực huân tu, vẫn không thể nào trở thành Phật như Phật. Nếu không tin và thực hành Pháp, dù trải muôn triệu kiếp kính Phật, vẫn không thể nào trở thành Phật như Phật. Nếu không kính Tăng, không thân cận Tăng mà học hỏi như những bậc thầy thay mặt Phật hướng dẫn dìu dắt mình, dù trải muôn triệu kiếp tin Phật tin Pháp, vẫn không thể nào bước được những bước chân vững chãi đến giác ngộ an vui.

Là con Phật, thật hãnh diện, thật hạnh phúc. Trôi lăn bao nhiêu đời kiếp, học hỏi bao nhiêu đạo sư, chưa thấy ai cho mình niềm tự tin về phẩm tính siêu việt sẵn có, về khả năng thành Phật của mình, như là đức Phật.

Làm con Phật, chắc chắn sẽ thành Phật. Tin và hiểu thâm sâu điều này, tức là chuẩn bị đầy đủ hành trang cho chuyến viễn trình tiến về Phật quả. Nếu không tin, không hiểu, và không làm những việc phù hợp với phẩm tính Phật của mình, thì dù tại gia hay xuất gia, cũng chỉ là lạm xưng, không thể tự nhận là con Phật.

Bởi vậy trong hiện đời, khi có thể khẳng định mình là con Phật, phải sống như là một người con hiếu. Hiếu này không phải là phụng dưỡng cha lành, mà chính là chăm bón, tưới tẩm và phát triển hạt giống Phật của mình. Đứa con hiếu ấy, nếu không nói được những gì Phật nói, hãy im lặng như Chánh Pháp, đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác; nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quan sát, học hỏi những thiện tri thức, đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân; nếu không suy nghĩ được như Phật, hãy lắng tâm, tịnh mặc, đừng dấy khởi những ý niệm thị-phi, nhân-ngã, hơn-thua, chỉ gieo khổ đau đến người và làm tiêu mòn công đức của mình.

Con Phật là ai? – Là kẻ biết nghĩ điều lành, nói điều lành, làm việc lành. Đơn giản vậy thôi.

Ơi, kẻ lữ hành lang thang, nay đã trở về ngôi nhà yên ấm, còn phóng tâm vọng cầu nơi đâu, uổng phí gia tài của cha lành!

Vĩnh Hảo

Tây Phương Cực Lạc Là Quê Hương

Tây Phương Cực Lạc Là Quê Hương1 – VÌ SAO CẦN PHẢI NIỆM PHẬT?

Lúc bình thường tại sao bạn cần phải niệm Phật? Vì bình thường niệm Phật là để chuẩn bị cho khi lâm chung. Vì sao không đợi đến lâm chung mới niệm Phật? Vì hằng ngày niệm Phật chính là để huân tập hạt giống Phật vào trong tâm của bạn. Nếu bạn niệm mãi thì trải qua thời gian hạt giống đó lớn dần lên trong mảnh đất tâm của bạn và đưa bạn đến kết quả giải thoát giác ngộ. Nếu bình thường bạn không niệm Phật thì bạn không biết gieo hạt giống Phật vào mảnh đất tâm của mình. Khi lâm chung, thần trí rối loạn thì làm sao nghĩ đến Phật mà niệm được chứ. Tại sao vậy? Vì hiện tại không thường xuyên niệm Phật. Do đó, hằng ngày cần phải niệm Phật, lạy Phật tu pháp môn Tịnh độ. Được như thế thì hiện tại được bình an khi lâm chung không bị hôn mê tán loạn mà được tự tại vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc.

Tại sao phải vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc?

Bởi vì đức Phật A Di Đà trước khi chưa thành Phật tên là Tỳ kheo Pháp Tạng đã phát ra 48 lời nguyện trong đó có một lời nguyện “Sau khi tôi thành Phật, chúng sanh trong khắp mười phương nếu niệm danh hiệu của tôi “A DI ĐÀ PHẬT”, tôi nhất định tiếp dẫn họ về cõi nước của tôi, tương lai thành Phật…, chúng sanh trong cõi nước tôi đều hoá sanh từ hoa sen, nên thân thể thanh tịnh không bị nhiễm ô”. Với đại nguyện rộng lớn của Phật A Di Đà, nên tất cả chúng sanh ai ai cũng tu“pháp môn niệm Phật”, vì đây là pháp môn hợp với mọi trình độ căn cơ và rất dễ tu.

Kinh Đại Tập nói: “Thời mạt pháp ức ức người tu hành, khó có người đắc đạo, chỉ nương vào pháp môn niệm Phật thì độ thoát sanh tử”. Đây là nói ức ức người tu hành mà không có một người đắc đạo, chỉ có niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương Cực lạc mới thoát khỏi sanh tử. Đặc biệt vào thời đại bây giờ là vào mạt pháp, niệm Phật rất tương ưng và hợp căn cơ của người thời này.

Nhưng ở các nước phương Tây, hiện tại chưa phải là thời đại mạt pháp, có thể nói đang là thời kỳ chánh pháp. Tại sao nói đang là thời kỳ chánh pháp? Bởi vì Phật pháp mới vừa đến các quốc gia ở tây phương đang trong lúc thịnh vượng, hiện tại ở Mỹ có rất nhiều người thích ngồi thiền, đây là biểu hiện đang trong thời chánh pháp. Thời chánh pháp cũng tu pháp môn niệm Phật được, thời mạt pháp cũng tu pháp môn niệm Phật được. Vì sao trong thời đại nào cũng tu được, nếu người nào tu pháp môn khác mà không tiến bộ thì nên tu pháp môn niệm Phật.

Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ nói: “Có Thiền có Tịnh độ, giống như hổ mọc sừng, hiện đời làm thầy người, tương lai thành Phật thành Tổ”. Nếu vừa tham thiền vừa niệm Phật thì giống như hổ mọc sừng, hiện đời đủ tư cách làm thầy tương lai thành Phật thành Tổ.

Vì vậy, người chân chánh tham thiền cũng chính là người chân chánh niệm Phật, người chân chánh niệm Phật, cũng chính là người chân chánh tham thiền. Nói một cách nữa, người chân chánh trì giới, cũng chính là người chân chánh tham thiền, người chân chánh tham thiền, cũng chính là người chân chánh trì giới. Thế người chân chánh giảng kinh thuyết pháp cũng chính là chân chánh tham thiền. Sách Chứng Đạo Ca của ngài Vĩnh Gia nói: “Tông diệc thông, pháp diệc thông, định huệ viên minh bất trệ không.” Vừa tham thiền vừa giảng kinh, đây chính là tông thuyết đều thông. Hoặc nói một cách khác, người chân chánh trì chú, chính là người chân chánh tu mật tông, cũng chính là người chân chánh tham thiền.

Tuy nói năm loại: Thiền, Giáo, Luật, Mật, Tịnh, nhưng chung quy lại là một chứ chẳng phải hai. Nhưng nói rốt ráo, ngay một cũng chẳng có, sao lại nói năm loại chứ? Người học Phật chân chánh điều này cần hiểu rõ ràng.

Sở dĩ có người có tâm phân biệt cho rằng pháp môn niệm Phật là tối cao, tham thiền không đúng, hoặc có người nói tham thiền là tối cao, niệm Phật là sai lầm. Những người như thế đều chưa hiểu Phật pháp. Nên biết, tất cả đều là Phật pháp, đều bất khả đắc, đã không pháp để được, vậy sao trên đầu lại đội thêm cái đầu nữa chứ? Đã vô sự sao lại tìm việc làm gì nữa chứ? Nếu bạn thật sự hiểu và lãnh hội là không pháp để được. Có thể một vài người chưa lãnh hội hiểu điểm này, nghe xong họ thất vọng. Vì sao vậy? Vì Phật pháp phương tiện lập quyền pháp, chính là để nói thật pháp; Phật nói quyền trí, là đưa người đi đến thật trí. Thế nào là thật trí? Thật trí là một tên “quy vô sở đắc” là trở về chổ không thể đắc là thật tướng vô tướng, không hình không tướng, đó mới là trí huệ chân thật.

2 – CHÂN THẬT NIỆM PHẬT:

Chúng ta không được may mắn, sanh nhằm vào thời mạt pháp cách Phật khá xa nên pháp nhược ma cường, nhưng trong cái không may mắn đó lại gặp pháp môn niệm Phật. Pháp môn niệm Phật đã không tốn công, lại chẳng phí sức, rất dễ dàng và rất tiện lợi cho sự hành trì tu tập, bởi vì niệm Phật là thành Phật. Vì sao niệm Phật lại thành Phật chứ? Vì trong vô lượng kiếp trước đức Phật A Di Đà đã phát ra 48 lời nguyện, trong 48 lời nguyện đó, có một nguyện: “Nếu có chúng sanh xưng niệm danh hiệu của tôi, mà không sanh về thế giới Cực lạc, tôi thệ không thành chánh giác”.

Phật A Di Đà đã phát ra nguyện lực này, mỗi nguyện mỗi nguyện đều nhiếp thọ chúng sanh vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc. Với điều kiện là họ phải có lòng tin mãnh liệt. Đó là tin có đức Phật Di Đà ở thế giới Tây phương Cực lạc, nên nguyện đến đó làm đệ tử của đức Phật A Di Đà. Tha thiết một lòng xưng niệm danh hiệu Ngài và lấy ba món tư lương – Tín, Hành, Nguyện – làm căn bản cho việc vãng sanh.

Thế giới Tây phương Cực lạc không bị các thứ khổ não, đủ các thứ an vui, không có ba đường ác – địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh – chỉ có các loại chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, ca lăng tần già, cộng mạng, những loại chim đó đều do thần lực của Phật A Di Đà biến hoá ra để diễn hát pháp âm, chẳng phải là loại súc sanh thật. Thế giới Cực lạc không có các thứ ác duyên phiền não, khổ đau như thế giới Ta bà mà ở đó ngày đêm sáu thời diễn nói diệu pháp -niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Vì vậy, chúng ta muốn vãng sanh về thế giới Cực lạc thì phải chân thành niệm Phật, chân thành niệm Phật chính là tâm của mình phải chuyên nhất với câu Phật hiệu dù thành Phật hay không thành Phật, vãng sanh hay không vãng sanh không cần để ý tới, điều quan trọng ngay trong hiện tại chỉ một việc là nhất tâm niệm Phật mà thôi. Niệm Phật niệm phải cho chuyên nhất đến khi bạn lâm chung nhất định đức Phật A Di Đà lai nghinh tiếp dẫn bạn về thế giới của Ngài và tương lai nhất định thành Phật.

Vì sao người thông thường như chúng ta mà được Phật A Di Đà đến tiếp dẫn chúng ta chứ? Đạo lý này rất khó tin. Đúng thật vì đây là pháp môn khó tin, cho nên trong kinh A Di Đà không có vị nào thưa hỏi mà tự đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói. Vì không có người hiểu và cũng khó có người tin nhận về pháp môn này. Do vậy, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thương xót chúng sanh vào thời mạt pháp nên chọn con đường ngắn nhất để dạy bảo chúng ta tu hành.

Chân thành niệm Phật chính là miệng niệm Phật, tâm niệm Phật; đi, đứng, nằm, ngồi đều niệm Phật. Trong tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, toàn thân hành trì A Di Đà Phật. Sao gọi là hành? Giống như chúng ta bây giờ đến đây tham dự khoá tu niệm Phật, cho dù là bận trăm công ngàn việc, gia duyên bận rộn… khi vào tu thì phải buông hết xuống, làm thế nào trong quá trình tu niệm phải được nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn chính là trì niệm liên tục, chẳng phải niệm một chút rồi thấy hơi vất vả lại đi tìm chỗ nghỉ, đó là tâm giải đãi muốn tìm sự an nhàn theo thế gian, thế là không đắc niệm Phật tam muội, không chân thành niệm Phật. Người chân thành niệm Phật là nhất tâm nhất ý niệm Phật, ngay cả khi ăn cơm, uống nước, mặc áo, đi ngủ cũng không quên.

Xưa nay việc thường tình của con người là ăn, uống, ngủ nghỉ, việc này không thể thiếu được. Riêng người tu niệm Phật lại khác, đó là khi tu có ba việc cần phải quên, không để ý tới việc ăn uống, mặc áo, đói khát, ngủ nghỉ… Đây chính là chân thành niệm Phật. Nếu công phu tu một chút thì nghĩ đến ăn cơm thì đó chẳng phải chân thành niệm Phật; hoặc lạnh một chút thì vội đi tìm áo mặc cho ấm thân, đó cũng chẳng phải là chân thành niệm Phật; hoặc sợ thiếu ngủ đi tìm chổ ngủ tiếp, cũng chẳng phải là chân thành niệm Phật. Người chân thành niệm Phật không luận là đi đứng nằm ngồi hoặc làm bất cứ việc gì, trong tâm chỉ biết câu hồng danh sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”. Bạn trì niệm liên tục như thế lâu ngày sẽ kết thành một phiến, muốn được điều này bạn phải trì niệm liên tục không đứt đoạn, đến nước chảy cũng nghe niệm câu “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, gió thổi cũng nghe niệm “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, tiếng chim kêu cũng thành tiếng niệm “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”. Câu niệm “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” phải hoà với chính ta không tách rời. Niệm câu “Nam Mô A Di Đà Phật” không phải một mình ta, nghĩa là ta là yếu tố chính là năng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” và câu “Nam Mô A Di Đà Phật” là sở niệm, hoà lại thành một. Đến đây, gió thổi cũng chẳng lay, mưa to cũng chẳng động, đạt đến niệm Phật tam muội; nước chảy, gió động đều diễn nói diệu pháp – niệm “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” như thế mới đúng thật là chân thành niệm Phật.

Giả như nước chảy, gió động mà tâm cứ chao động trông Đông, ngóng Tây rồi phân biệt động tịnh như thế nào? Đó chẳng phải là chân thành niệm Phật. Hoặc miệng thì niệm Phật mắt thì nhìn trước ngó sau như trộm đồ, thế cũng chẳng phải là chân thành niệm Phật. Chân thành niệm Phật chính là tâm thiết tha với câu Phật hiệu, chẳng xen tạp một vọng tưởng nào vào, như lúc thì niệm lúc thì nghĩ đến chuyện ăn cơm uống nước, đúng sai, được mất…phải buông bỏ hết, như thế mới là chân thành niệm Phật. Niệm Phật không có bí quyết gì, chỉ đòi hỏi sự chuyên tâm mà thôi, chẳng cần quét vọng tưởng, đây chính là chân thành niệm Phật. Bạn lại chẳng trụ vào tâm này mà muốn quét sạch các vọng tưởng, thế cũng chẳng phải là chân thành niệm Phật. Bạn đề khởi chánh niệm, đó chính là chân thành niệm Phật, bạn muốn hết loạn tưởng, quét hết tà niệm, đó chẳng phải chân thành niệm Phật. Cho nên chân thành niệm Phật thật là vi diệu không thể nói, đúng thật bạn mới cảm nhận biết thôi, lại càng đại tự tại, không nhân, không ngã, không chúng sanh, không thọ giả, chỉ có NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

Nói là pháp; Hành là đạo, không chỉ nói mà không hành cũng như miệng nói ăn đồ ngon mà trong bụng lại bị đói, một chút thức ăn cũng không có. Hôm nay, tôi nói về đạo lý này, các vị phải hiểu rõ, điều chính yếu phải thiết tha chân thành niệm Phật, chân thành tu niệm Phật. Thời gian và sanh mạng của chúng ta quý báu vô cùng, nhớ đừng bỏ qua. Hy vọng mọi người luôn ghi nhớ ba điều này trước khi bước vào tu tập“Kiên Trì, Thành Thật, Hằng Ghi”

Mỗi niệm chân thành mỗi niệm thông
Tịch lặng cảm ứng tịch lặng trung
Cho đến non cao nước cùng tận
Rong chơi pháp giới khắp đông tây.

Có ai trong pháp hội hiểu ý nghĩa bài kệ này không? Chữ “niệm” thứ nhất là niệm phải từ nơi tâm phát ra, chữ “niệm” thứ hai là từ nơi miệng phát ra, niệm phải từ nơi tâm rồi phát ra ở miệng. Nếu chỉ “niệm” bằng miệng thì chẳng phải chân thành niệm rồi. Cho nên, niệm Phật hoặc niệm danh hiệu Bồ tát tâm miệng phải tương ưng thiết tha chân thành. Quý vị niệm đến tâm khẩu hợp nhất, một mà chẳng thấy hai, cũng chẳng phải niệm theo kiểu tuỳ hứng, cũng không phải tán loạn mà niệm, lại cũng chẳng phải xen tạp vọng tưởng mà niệm, làm được những điều trên, mới gọi là niệm Phật “chân thành”.

Niệm một cách chân thành mới có sự cảm ứng. Cảm ứng này như thế nào? Chính là tâm phàm phu cùng với ánh quang minh của Phật và Bồ tát tương thông, nên nói “quang quang tương chiếu, khổng khổng tương thông”. Sao lại có cảm ứng này chứ? Giống như gọi điện thoại, khi gọi đúng số thì bên kia “Alô!” bắt đầu giao tiếp liên lạc với nhau. Niệm Phật niệm Bồ tát cũng giống như gọi điện thoại, khi làn sóng bạn phát đi thì bắt gặp làn sóng của Bồ tát và ở bên kia các ngài cũng hỏi bạn: “Người nam lành, người nữ lành bạn muốn cầu gì nào?” Thì biết lúc đó bạn có sự cảm ứng rất mầu nhiệm.

Niệm Phật mà chẳng thành tâm thành ý thì giống như điện thoại có năm số mà bạn chỉ bấm gọi ba số, thế làm sao gọi được chứ? Niệm Phật và Bồ tát cũng như thế. Nếu như bạn niệm một lúc rồi không niệm nữa, thiếu sự chuyên tâm thành ý thì nhất định chẳng thông được. Khi quý vị tu tập thành tâm thành ý thì trong người quý vị sẽ phát ra một loại ánh sáng, ánh sáng đó giao cảm với ánh sáng quang minh của chư Phật và Bồ tát. Muốn được điều này mỗi vị trong chúng ta phải cố gắng tu tập. Giống như gọi điện thoại thì biết rõ ràng tiếng nói của đầu dây bên kia, mắt thịt phàm phu không có nhìn và nghe xa được, cho nên nói “lặng lặng cảm ứng lặng lặng trong” là vậy.

Câu “Sơn cùng thủy tận” nghĩa là đạt đến trình độ “Trăm đầu sào chỉ một bước chân, giơ tay nắm hết cả càn khôn tận”. Khi niệm đến chỗ sơn cùng thủy tận, đó thật là niệm mà chẳng phải niệm, kết thành một khối, niệm thành một phiến, đến đó quý vị “rong chơi pháp giới dạo Tây Đông”. Nếu như quý vị muốn vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc thì ứng một niệm là lập tức đi ngay, muốn dương thuyền từ để cứu độ chúng sanh thì từ thế giới Tây phương Cực lạc bạn ứng một niệm là bạn đến ngay thế giới Ta bà và khắp tất cả pháp giới. Chỉ cần bạn ứng một niệm là đi ngay. Nên nói “nhậm Đông Tây” hoặc “nhất như ý nhất thiết như ý, nhất tự tại nhất thiết tự tại” rồi.

Do đó, chúng ta là người học Phật, mỗi nơi mỗi chổ đếu phải chân thành, không có hư ngụy. Hư ngụy thì như “hoa không nở, quả không kết”. Người học Phật phải ghi nhớ điều này, đừng bao giờ lừa dối với chính mình. Kế nữa người xưa nói: “Quân tử cầu nơi mình, tiểu nhơn cầu nơi người”. Chúng ta không mang tâm ỷ lại, nên biết cảm ứng là tự mình nỗ lực chứ chẳng phải tự nhiên đến được.

Có người nói: “Niệm Phật được sanh về Tịnh độ, phải nương nhờ vào Phật lực tiếp dẫn”. Câu nói có thể đúng, nhưng có thể sai, vì sao vậy? Bởi vì câu nói này là đối cơ mà nói, là đối với người chưa hiểu biết gì cả, nên phương tiện tạo ra sự ham thích cho chúng sanh phát khởi tâm niệm Phật, hy vọng có thể dụng công ít mà thu hoạch lại lớn, giống như buôn bán kinh doanh, bỏ vốn ra ít mà thu vào thì nhiều, vì vậy Thánh nhân tuỳ cơ ứng biến, lời nói có Phật lực tiếp dẫn, mục đích là khích lệ cho chúng sanh nỗ lực niệm Phật.

Thực ra họ niệm danh hiệu Phật và Bồ tát mà được vãng sanh Tịnh độ, hoàn toàn có niềm tin rất lớn nơi chính mình. Vì sao vậy? Có phải niệm Phật là Phật niệm thay bạn được không? Niệm một câu danh hiệu Bồ tát là Bồ tát hiện ra không? Nếu nói không phải, sao nói nương dựa vào tha lực của các ngài? Giống như Phật và Bồ tát phóng ánh hào quang gia hộ cho bạn, đó là do công đức của chính bạn đã trì niệm danh hiệu Phật Bồ tát cho nên mới có cảm ứng như thế. Thí dụ như điện thoại, nếu như bạn chẳng có gọi thì có ai đầu dây bên kia nói chuyện với bạn được không? Cho nên người niệm Phật cũng như gọi điện thoại là vậy. Đạo lý ở chỗ này. Tâm hy vọng trông mong nương tựa vào năng lực của Phật để tiếp dẫn mình vãng sanh Tịnh độ, thật ra đó chính là tâm tham, tâm ỷ lại, không thể được. Chúng ta tu hành cái chính yếu là phải tự lực, tinh thần phải mạnh mẽ dũng khí, tinh tấn, được kết quả chẳng phải tự dưng do người khác ban tặng cho, niệm Phật có thể nói không nên trông mong và nương tựa vào sự tiếp dẫn của Phật.

Cổ nhân nói: “Làm tướng vốn không dòng, nam nhi nên tự cường”. Chúng ta là người học Phật nên có ý thức câu nói này: “Làm Phật vốn không dòng, chúng sanh nên tự cường” nếu chẳng được như thế, thì cả ngày cứ ỷ lại Phật lực tiếp dẫn, giống như con em nhà giàu ỷ lại sản nghiệp của cha mẹ, rốt cuộc tự làm hại chính mình, mọi người nên tỉnh giác chỗ này.

3 – DI DÂN ĐẾN THẾ GIỚI CỰC LẠC:

Phật tử A đông chúng ta phần nhiều có câu nói như thế này: “Người người Quán Thế Âm, nhà nhà Di Đà Phật”. Bồ tát Quán Thế Âm có nhân duyên đặc biệt với chúng ta, Ngài vui mừng khi chúng ta được đến thế giới Cực lạc, chẳng cần phải làm thủ tục di dân. Chỉ cần có “nhất niệm tâm thành” để ấn chứng, thì hoàn thành thủ tục, tuyệt đối chẳng có phiền phức gì cả, nếu như không “nhất niệm tâm thành” để làm chứng, thì chẳng có thể di dân đến thế giới Cực lạc.

Tại sao chứng minh nhất niệm tâm thành mới đến được? Cách này vô cùng đơn giản, rất dễ dàng, chỉ cần thành tâm thành ý niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”hoặc “Nam Mô Quán Thế Ậm Bồ tát” hoặc “Nam Mô Đại Thế Chí Bồ tát” là thành tựu rồi. Vì Phật A Di Đà là giáo chủ ở thế giới Cực lạc và có hai vị Bồ tát Quán Thế Am và Bồ tát Đại Thế Chí đứng hai bên Phật A Di Đà để cùng cứu độ chúng sanh. Còn gọi là Tây phương Tam Thánh, bất cứ niệm danh hiệu vị nào trong ba vị cũng được cả, niệm đến nhất tâm bất loạn, một trần không nhiễm thì được đới nghiệp vãng sanh, hoa nở thấy Phật hoặc Bồ tát.

Nếu chẳng muốn di dân đến thế giới Cực lạc, thế thì không cần phải trì niệm danh hiệu Tam Thánh, nếu muốn di dân đến thế giới Cực lạc thì phải niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, hiện đời có thể tránh được tam tai thất nạn, khi chết được bình an, sanh về Tịnh độ, một mà lợi cả hai sao chần chờ không làm chứ?

Chúng ta muốn niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, niệm danh của Ngài hoà lại thành một. Không tách rời ra được, đến lúc đó, không muốn đến thế giới Cực lạc cũng đến được? Vì sao vậy? Vì đã thấm nhuần sâu vào cội gốc rồi, tương lai cành lá sẽ phát triển và đơm quả.

4 – PHẬT A DI ĐÀ LÀ ĐẠI PHÁP VƯƠNG

Vì sao phải niệm “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” chứ? Bởi vì đức Phật A Di Đà có nhân duyên rất lớn với tất cả chúng sanh khắp mười phương thế giới. Đức Phật A Di Đà khi chưa thành Phật là một vị tỳ kheo, tên là Pháp Tạng. Tỳ kheo Pháp Tạng phát ra 48 lời nguyện, mỗi nguyện thệ cứu độ hết tất cả chúng sanh giúp cho họ thành Phật. Trong 48 lời nguyện đó có một nguyện như thế này: “Khi tôi thành Phật, mười phương tất cả chúng sanh, nếu trì niệm danh hiệu tôi, nhất định sẽ thành Phật. Nếu như họ chẳng thành Phật, tôi thệ cũng không thành Phật”.

Nguyện lực này của đức Phật A Di Đà, giống như sức hút của máy nam châm, mà mười phương chúng sanh giống như một hòn sắt, đều hút về thế giới Tây phương Cực lạc. Nếu như hút không được thì sao? Tỳ kheo Pháp Tạng chẳng có thành Phật A Di Đà. Cho nên, chúng ta cùng với tất cả chúng sanh xưng niệm danh hiệu của Phật A Di Đà đều có cơ hội thành Phật.

Kinh A Di Đà là không ai hỏi mà tự Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra. Vì sao không ai hỏi mà tự nói? Vì khó có người tin hiểu pháp môn này, cho nên không có người hỏi. Đại trí Xá Lợi Phất là bậc thượng căn, nhưng cũng không biết hỏi thế nào. Phật nói pháp môn này vô cùng thù thắng là phương tiện bậc nhất tu tập rất dễ thành tựu. Dụng công tu rất tiện ít tốn công tốn sức. Ngài nói: “Chỉ cần mỗi người chuyên tâm niệm Phật, niệm được một ngày, hai ngày, ba ngày…cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn, người đó khi lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng với Thánh chúng hiện ra để tiếp dẫn họ”.

Cho nên Phật nói pháp môn này ít người tin nhận vì là pháp môn trực tiếp rất thù thắng, đặc biệt thâu nhiếp ba hạng người thượng, trung hạ căn. Không luận họ là người thông minh hay ngu si nếu niệm Phật thì đều thành Phật cả.

Khi vãng sanh về thế giới Cực lạc ở đó “không có các sự khổ, đủ các sự an lạc” chúng nơi thế giới đó đều sanh ra từ hoa sen, không giống như loài người chúng ta phải sanh ra từ bào thai, ở thế giới Cực lạc bào thai là hoa sen, khi người ở trong hoa sen nở ra, tương lai nhất định thành Phật rồi.

NHẤT CÚ DI ĐÀ VẠN PHÁP VƯƠNG
NGŨ THỜI TÁM GIÁO TẬN HÀM TẠNG
HÀNH NHÂN ĐẢN NĂNG CHUYÊN TRÌ NIỆM
ĐỊNH NHẬP NHƯ LAI BẤT ĐỘNG ĐƯỜNG.

“NHẤT CÚ DI ĐÀ VẠN PHÁP VƯƠNG”, một câu Di Đà là vua của vạn pháp. “NGŨ THỜI BÁT GIÁO TẬN HÀM TẠNG”, năm thời: thời Hoa nghiêm, thời A hàm, thời Phương đẳng, thời Bát nhã, thời Niết bàn. Tám giáo: tạng giáo, thông giáo, biệt giáo, viên giáo, đốn giáo, tiệm giáo, bí mật giáo, bất định giáo. Năm thời, tám giáo hàm lại một, đều bao hàm trong một câu A Di Đà.

“HÀNH NHÂN ĐẢN NĂNG CHUYÊN TRÌ NIỆM”, không luận người nào trong chúng ta nếu chuyên tâm niệm Phật thì “NHẬP ĐỊNH NHƯ LAI BẤT ĐỘNG ĐƯỜNG” nhất định đạt đến tịch quang Tịnh độ, đến thế giới Cực lạc. Tất cả chúng ta sanh vào thời mạt pháp chỉ nương vào câu Phật hiệu A Di Đà để được cứu độ, ai muốn được độ thì chỉ có niệm Phật.

Bớt đi một câu nói
Niệm nhiều câu Phật hiệu
Si mê bị đoạn dứt
Liền liễu sanh thoát tử
Sống với pháp thân bạn.

5 – BỐN PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT:

Pháp môn niệm Phật có bốn cách niệm như sau:

1) Trì danh niệm Phật: Tai nghe danh hiệu Phật, nhất tâm xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, “ Nam Mô A Di Đà Phật”…

2) Quán tưởng niệm Phật: Quán tưởng chính là quán thấy, thấy cái gì?

A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu di
Hám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hoá Phật vô số ức
Hoá Bồ tát chúng diệt vô biên
Bốn tám lời nguyện độ chúng sanh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

3) Quán tướng niệm Phật: Quán tướng là đối trước đức tướng của Đức Phật A Di Đà, niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, đây chính là quán tướng niệm Phật. Mỗi câu Phật hiệu từ miệng niệm ra tai nghe rõ ràng, tâm tỉnh giác từng câu niệm, đây gọi là quán tướng niệm Phật.

4) Thật tướng niệm Phật: Tức là niệm từ nơi tự tánh, tức là Phật tánh là chân pháp thân của bạn cũng chính là tham thiền. Bạn tham câu “niệm Phật là ai?” -tìm hỏi người niệm Phật là ai?

Đến Phật thất bảy ngày viên mãn chúng ta tìm người “niệm Phật là ai?”, nhất định sẽ tìm được, không mất đâu, nếu bạn bị mất, thế thì thiếu chánh niệm đi lạc đường rồi, mau trở về nhà! Nếu không trở về nhà, thì không gặp Đức Phật A Di Đà rồi.

6 – BA MÓN TƯ LƯƠNG TÍN, NGUYỆN, HẠNH:

TÍN, NGUYỆN, HẠNH, chính là ba món tư lương của người tu pháp môn Tịnh độ. Sao gọi là tư lương? Giống như bạn đi du lịch đến một vùng nào đó, trước tiên phải chuẩn bị một ít thức ăn, đó gọi là lương. Lại đem theo một ít tiền thì gọi là Tư. “Tư lương” chính là thức ăn và những thứ tiền bạc nhu yếu trong sinh hoạt của bạn. Bạn đến thế giới Cực lạc, cũng cần ba món tư lương, đó là: tín, nguyện, hạnh. Điều quan trọng trước tiên là phải TÍN, nếu bạn không có tín tâm, thế là bạn không có duyên với Phật A Di Đà ở thế giới Cực lạc rồi, nếu bạn có tín tâm là có duyên với Ngài. Cho nên niềm tin là điều hết sức quan trọng của bất cứ hành giả tu tập bất cứ pháp môn nào của Phật pháp. Bạn tin, là tin chính mình, lại tín người khác, vừa tín nhân, tín quả, tín sự, tín lý.

TIN, sao gọi là tin chính mình? Bạn phải tin chính bạn nhất định về được thế giới Tây phương Cực lạc, bạn đầy đủ tư cách đến được thế giới Tây phương Cực lạc. Bạn không nên xem thường mình và nói rằng: “Chao ôi! Tôi gây tạo rất nhiều tội nghiệp, tôi không có cách gì để về được thế giới Tây phương Cực lạc.” Thế là bạn không có tin chính bạn rồi.

Bạn tạo rất nhiều tội nghiệp, phải không? Nhưng hôm nay bạn gặp cơ hội tốt, cơ hội tốt như thế nào? Có thể đới nghiệp vãng sanh (mang nghiệp cũ vãng sanh) bạn tạo những nghiệp gì, đều mang theo về thế giới Tây phương Cực lạc. Nhưng bạn nên biết, đới nghiệp là mang nghiệp cũ, chứ không phải mang nghiệp mới, tức chính là đời trước, đời trước chưa học Phật, mang tội nghiệp đó đi, nghiệp mới, chính là tội nghiệp tương lai, mang nghiệp cũ chứ không phải mang nghiệp mới, mang tội nghiệp quá khứ chứ không phải mang tội nghiệp tương lai. Bạn lúc trước đã gây tạo những hạnh vi tội lỗi bất thiện, không luận là nặng hay nhẹ, nhưng bây giờ bạn tự mình ăn năn cải đổi, bỏ ác hướng thiện, thế là tội nghiệp của bạn lúc trước đã gây tạo, có thể mang theo về thế giới Tây phương Cực lạc, không mang nghiệp tương lai.

Tín tha, nghĩa là bạn tin đích thật có thế giới Tây phương Cực lạc, từ thế giới của chúng ta trải qua mười vạn ức cõi Phật xa như thế. Đây là khi chưa thành Phật, Ngài có tên là Tỳ kheo Pháp Tạng, từng phát nguyện, tương lai tạo thành một thế giới Cực lạc, mong muốn mười phương tất cả chúng sanh đều sanh về cõi nước của Ngài, không cần gì nhiều, chỉ cần xưng niệm danh hiệu của Ngài, thì được về thế giới Tây phương Cực lạc, ngoài những việc khác ra đều phí công. Pháp tu này vừa dễ, vừa đơn giản, lại phương tiện, vừa viên dung, không phí tiền, không phí sức, có thể nói đây là pháp môn thù thắng, chỉ cần niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thì được sanh về thế giới Tây phương Cực lạc, đây chính là tín tha.

Lại phải tin nhân, tin Sao gọi là tin nhân quả? Bạn phải tin chính bạn trong quá khứ đã có căn lành, nay mới gặp pháp môn này, nếbạn không có căn lành, thì không gặp được pháp môn niệm Phật, cũng như không gặp được tất cả pháp môn của Phật. Bạn có căn lành, trong quá khứ đã gieo trồng nhân lành, nên nay gặp được pháp môn Tịnh độ mới có thể đầy đủ tín, nguyện. Nếu bạn chẳng tiếp tục vun bồi phát triển căn lành này, thì tương lai bạn chẳng có cơ hội để thành tựu quả vị giác ngộ, cho nên điều cần yếu bạn phải tin nhân, tin quả, bạn phải tin chính bạn ở trong đời quá khứ đã gieo có trồng nhân bồ đề, tương lai nhất định sẽ kết quả bồ đề. Giống như làm ruộng, khi gieo giống xuống cần phải chăm bón nó mới phát triển được.

Tin sự, tin lý. Sao gọi là tin sự? Sao gọi là tin lý? Bạn phải biết đức Phật A Di Đà có nhân duyên với chúng ta rất lớn, Ngài nhất định trợ giúp chúng ta thành Phật, đây là sự. Tin lý, tại sao chúng ta và Phật A Di Đà có nhân duyên rất lớn? Nếu không có nhân duyên chúng ta không gặp được pháp môn Tịnh độ, Phật A Di Đà cũng chính là tất cả chúng sanh, chúng sanh cũng chính là Phật A Di Đà. A Di Đà Phật là niệm Phật mà thành A Di Đà Phật, chúng ta cùng với tất cả chúng sanh tinh tấn niệm Phật, cũng có thể thành Phật A Di Đà, đây là lý.

Rõ lý, tỏ sự như thế chúng ta nương vào đó mà tu hành, như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Sự vô ngại pháp giới, lý vô ngại pháp giới, lý sự vô ngại pháp giới, sự sự vô ngại pháp giới”. Đứng về phương diện tự tánh mà nói, chúng ta và đức Phật A Di Đà là một, cho nên chúng ta đều đủ tư cách để thành Phật A Di Đà. A Di Đà Phật là Phật ở trong tâm chúng sanh, chúng sanh nào cũng là tâm của Phật A Di Đà, sự quan hệ này cũng có sự có lý. Đạo lý này, bạn cần phải tin và phải thực hành, không làm biếng giải đãi, giống như niệm Phật, ngày hôm nay phải hơn ngày hôm qua, không phải ngày hôm nay lại kém hơn ngày hôm qua.

“TÍN” đã giảng xong, tiếp theo giảng “NGUYỆN”. Sao gọi là nguyện? Nguyện chính là ý nguyện, ý nguyện của bạn, ý niệm bạn hướng mạnh thì tâm tưởng của bạn cũng như thế, phát ra một nguyện. Một nguyện này, chính là tứ hoằng thệ nguyện:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Chư Phật trong quá khứ và các bậc Bồ tát, đều dựa vào tứ hoằng thệ nguyện này mà chứng quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiện tại chư Phật và chư Bồ tát vị lai cũng đều dựa vào tứ hoằng thệ nguyện này tu hành chứng quả. Nhưng khi phát nguyện, trước hết bạn phải có tín tâm này, trước phải tin “có thế giới Cực lạc”. Thứ hai là tin có “Phật A Di Đà”. Thứ ba là tin “ta và Phật A Di Đà nhất định có nhân duyên rất lớn, ta nhất định sẽ sanh về thế giới Cực lạc”. Vì có đầy đủ ba “Đức Tin” đó, sau mới phát nguyện sanh về thế giới Cực lạc. Cho nên mới nói “nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung”. Ý nguyện của ta sanh về thế giới Cực lạc, không phải người nhà quyết định cho ta đi, cũng không phải người khác đến nắm tay dắt ta đi.

Tuy nói Phật A Di Đà đến tiếp rước ta, nhưng cái chính yếu là ý nguyện chính mình có muốn thân cận với Phật A Di Đà hay không? Ý nguyện sanh về thế giới Tây phương Cực lạc gặp Phật nghe pháp tu hành. Muốn thành tựu được “NGUYỆN” này, tiếp theo cần phải có “HÀNH”. Sao gọi là hành? “Nam Mô A Di Đà Phật”, “Nam Mô A Di Đà Phật”…đó ! Giống như cứu lửa cháy đầu phải đi mau cho rồi, có người muốn hại đầu của ta, thì mình vội vã tìm cách bảo vệ cái đầu của mình, vậy chẳng dám giải đãi.

Niệm Phật tức là thực hành tín, nguyện, hạnh, đây chính là lộ phí là tư lương để đi đường, tư lương chính là lộ phí là tiền để chi dụng. Đến thế giới Cực lạc giống như đi du lịch, đi du lịch bạn cần phải có tem phiếu, có tiền.. Còn ba món tư lương “TÍN, NGUYỆN, HẠNH” này chính là ngân phiếu mình đi du lịch.

7 – THẾ GIỚI CỰC LẠC LÀ THÀNH TỰU CHO CHÍNH MÌNH:

Chúng ta bây giờ niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” chính là mỗi người tự tạo thế giới Cực lạc cho chính mình, mỗi người tự trang nghiêm thế giới Cực lạc cho chính mình, mỗi người thành tựu thế giới cực lạc cho chính mình. Thế giới Cực lạc này không có cách xa mười vạn ức cõi Phật . Thế giới Cực lạc thật có cách xa mười vạn ức cõi Phật, tuy xa như thế nhưng không có cách xa một tâm niệm hiện tiền này của bạn và tôi. Bởi vì nó không ra khỏi tâm niệm của bạn và tôi, cho nên cũng không có cách xa mười vạn ức cõi Phật, chính là ở trong tâm của chúng ta.

Thế giới Cực lạc chính là chân tâm vốn có xưa nay của chúng ta, bạn nhận được chân tâm xưa nay của bạn thì sanh ở thế giới Cực lạc ở đây rồi. Bạn không rõ chân tâm xưa nay của mình thì không sanh về thế giới Cực lạc. A Di Đà Phật và chúng sanh chẳng phải hai. Cho nên chúng ta nói thế giới Cực lạc là không xa là thế, nhất niệm hồi quang biết cội gốc xưa nay là Phật, xưa nay chính là thế giới Cực lạc.

Chỉ cần bạn quét sạch tâm ô nhiễm của bạn đi, bạn không có tâm niệm tư dục, không có tâm đố kỵ, chướng ngại tâm, tâm tự tư, tâm ích kỷ, học hạnh Bồ tát làm lợi ích cho tất cả mọi người, giác ngộ vì tất cả chúng sanh, thế là cảnh thế giới Cực lạc xuất hiện. Bạn không có tạp niệm không có vọng tưởng, thế có phải là thế giới Cực lạc? Nếu chẳng phải là thế giới Cực lạc thì bạn nói đó là thế giới gì? Cho nên chẳng cần phải hướng ngoại tìm cầu.

Các bạn là thiện tri thức! Các bạn đều là bậc đại trí huệ, thông minh hơn tôi, tương lai các bạn thuyết pháp hay hơn tôi, chẳng qua bây giờ các bạn chưa hiểu hết tiếng Trung Quốc, tôi xin giới thiệu tặng cho các bạn bài ca:

Đại thánh chủ, A Di Đà
Đoan nghiêm vi diệu không gì bằng
Thất trân trì, hoa tứ sắc, dõng kim ba.

Đại thánh chủ này là ai vậy? A Di Đà, Ngài ngồi đó thân tướng đoan nghiêm, rất đẹp! Rất đoan nghiêm! Không gì đẹp bằng hảo tướng của Phật A Di Đà. Ao bảy báu này, cũng chính là “ao thất bảo” “hoa tứ sắc”, hoa sen trong ao có bốn màu sắc khác nhau. “Dõng kim ba” nước và sóng trong ao thất bảo đều là sắc vàng.

Chúng ta niệm “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”, ở ao thất bảo bên thế giới Tây phương Cực lạc hoa sen đang từ từ nở ra. Trong ao đó có tám loại nước công đức. Chúng ta niệm Phật niệm càng nhiều thì hoa sen càng nở lớn ra, bạn niệm Phật mà niệm ít, thì hoa sen nhỏ. Bạn nói: “Nếu không niệm thì sao?” Nếu bạn không niệm, thì hoa sen khô héo và đi đến chết thôi. Cho nên bằng giá nào bạn cũng phải tranh thủ tu tập để thành tựu quả vị giải thoát cho chính mình.

8 – NIỆM PHẬT TAM MUỘI:

Tâm tịnh trăng hiện nước
Ý định trời không mây

Khi bạn niệm Phật đạt đến niệm Phật tam muội, bạn nghe tiếng gió thổi qua cũng là âm thanh “Nam Mô A Di Đà Phật”. Bạn nghe tiếng mưa rơi, cũng là âm thanh “Nam Mô A Di Đà Phật”, bạn nghe tất cả âm thanh, đều là tiếng niệm Phật đó! Cho nên nói “nước chảy, gió lay đều diễn nói kinh điển”. Tiếng nước chảy cũng là “Nam Mô A Di Đà Phật”. Tiếng gió thổi cũng là “Nam Mô A Di Đà Phật”, nước chảy, gió thổi hết thảy đều là “Nam Mô A Di Đà Phật”. Cho nên Tô Đông Pha nói: “Khê thanh tận thị quảng trường thiệt, sơn sắc vô phi thanh tịnh thân”, âm thanh của suối chảy, đều là tướng lưỡi rộng dài của Phật để diễn nói diệu Pháp, màu sắc dáng núi cũng đều là pháp thân thanh tịnh của Như lai, đây chính là đắc được niệm Phật tam muội. Lúc trước tôi có làm một bài kệ niệm Phật:

Năng niệm năng niệm vô gián đoạn
Niệm Di Đà đã thành phiến
Tạp niệm bất sanh đắc tam muội
Vãng sanh Tịnh độ định hữu phán
Chung nhật yểm phiền sa bà khổ
Tài tương hồng trần tâm niệm đoạn
Cầu sanh Tịnh độ ý niệm trọng
Phóng hạ nhiễm niệm quy tịnh niệm.

Câu này nói: “Khẩu niệm năng niệm vô gián đoạn”, bạn niệm Phật niệm đến chỗ không gián đoạn, từ sáng cho đến tối chỉ âm thanh niệm Phật, không có thời gian ngừng nghỉ. “Khẩu niệm Di Đà đả thành phiến”, miệng luôn niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thường niệm như thế, kết thành một phiến.

“Tạp niệm bất sanh đắc tam muội”, bạn không bị các vọng niệm loạn tưởng lăng xăng khác, đây chính là đạt đến định niệm Phật, người niệm Phật nên nhận ra chổ này. “Vãng sanh Tịnh độ định hữu phán”, hy vọng bạn vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc, nhất định đạt được!

“Chung nhật yểm phiền sa bà khổ”. Từ sáng đến tối nhàm chán những nỗi thống khổ ở thế giới Ta bà này. “Tài tương hồng trần tâm niệm đoạn”. Bởi vì bạn biết ở thế giới Ta bà này là khổ, cho nên mau mau dứt bỏ những thú vui thế gian, khi các tâm niệm thế gian đoạn rồi, không còn tâm dâm dục, tâm thích đẹp ghét xấu cũng không có, tâm tranh danh, tâm đoạt lợi, buông bỏ tất cả các duyên thế gian xuống, phải thấy tất cả những thứ đó đều là giả, cho nên các niệm hồng trần đều đoạn dứt.

“Cầu sanh Tịnh độ ý niệm trọng”. Cầu sanh về thế giới Cực lạc ý niệm người đó vô cùng trọng yếu! “Phóng hạ nhiễm niệm quy tịnh niệm”. Buông bỏ niệm ô nhiễm ngay từ niệm đầu, ngay đó được niệm thanh tịnh rồi.

Bài kệ nói rõ về đạo lý niệm Phật. Tám câu kệ này tuy rất ngắn gọn, nhưng bạn tư duy suy ngẫm, nhất là đối với người tu pháp môn niệm Phật sẽ giúp ích cho các bạn rất nhiều.

Khoá tu Phật thất, mỗi hôm niệm Phật để làm gì vậy? Đó là gieo chủng tử Phật. Bạn niệm một câu Phật hiệu thì gieo một hạt giống Phật, niệm mười câu Phật hiệu thì gieo mười hạt giống Phật. Chúng ta mỗi ngày niệm trăm ngàn vạn câu Phật hiệu, chính là gieo hàng trăm ngàn vạn hạt giống Phật như thế. Khi bạn gieo hạt giống đó xuống, tương lai nhất định sẽ nảy mầm. Bạn không cần niệm Phật là tán tâm hay định tâm. Có một câu kệ rất hay:

Thanh châu đầu ư trọc thủy
Trọc thủy bất đắc bất thanh
Niệm Phật nhập ư loạn tâm
Loạn tâm bất đắc bất Phật.

Có một hạt minh châu, xưa nay bỏ trong nước “trọc thủy bất đắc bất thanh”, dù nước đó đục thế nào đi nữa, cũng đều thanh tịnh trong sáng cả. Người trì danh hiệu Phật, cũng giống như hạt minh châu vậy, bỏ vào trong nước thì nước sẽ trong.

“Niệm Phật nhập ư loạn tâm”. Tâm của chúng ta xưa nay vọng động thô tháo, vọng tưởng dẫy đầy, vọng tưởng này sanh thì vọng tưởng kia đến. Đến đi, đi đến giống như sóng biển, không khi nào dừng. Thế khi một câu danh hiệu Phật đi vào tâm loạn động thì “tâm loạn cũng được thành Phật”. Đó bạn thấy loạn tâm như vậy mà cũng thành tâm Phật rồi, bởi vì bạn niệm một tiếng Phật thì trong tâm bạn có một vị Phật, bạn niệm mười tiếng Phật thì có mười vị Phật, niệm trăm tiếng, ngàn tiếng, vạn tiếng niệm càng nhiều thì càng nhanh thành Phật. Bạn niệm một tiếng “Nam Mô A Di Đà Phật” trong tâm có một người niệm Phật. Bạn niệm Phật, Phật cũng niệm bạn, cũng giống như máy vô tuyến điện, bạn niệm một câu A Di Đà Phật thì máy vô tuyến sẽ thâu âm và phát đi, vậy gọi là cảm ứng đạo giao.

Qua bài kệ vừa rồi chúng ta thấy người niệm Phật được công đức không thể nghĩ bàn, dù niệm mà vọng tưởng vẫn còn nhưng vẫn thành tựu được công đức từ nơi tự tánh của họ.

Pháp môn được các Bồ tát hoan hỷ

Tâm của bạn như thế nào? Nó rất bận rộn đủ thứ chuyện vui buồn từ sáng cho đến tối, không lúc nào dừng nghỉ. Cho nên tâm này của chúng ta nếu chẳng cho nó một điều kiện gì thì nó chẳng có tự tại được, vì vậy phải tìm cho nó một câu “Nam Mô A Di Đà Phật”.

Một câu danh hiệu Phật cũng chính là tham thiền, bạn chẳng cần phải ngồi chỗ nào cả, chỉ cần nhắm mắt niệm Phật như thế cũng chính là tham thiền. Hoặc bạn mở mắt ra niệm Phật cũng là tham thiền. “Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, nói năng động tịnh thể an nhiên”. Tất cả bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi là tham thiền cả. Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ nói một bài kệ trong Tứ liệu giản:

Có Thiền có Tịnh độ
Giống như cọp mọc sừng
Hiện đời là thầy người
Tương lai làm Phật tổ
Có Thiền không Tịnh độ
Mười người tu chín người lạc
Không Thiền có Tịnh độ
Vạn người tu vạn người được.

Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn rất dễ tu, trong quá khứ được chư Bồ tát ca ngợi tán thán pháp môn Tịnh độ.

Bồ tát Văn Thù cũng tán thán pháp môn niệm Phật. Trong kinh Hoa Nghiêm – phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, Bồ tát Phổ Hiền cùng mười phương chúng sanh đồng nguyện vãng sanh Tịnh Độ và Bồ tát Quán Thế Âm cũng niệm Phật vãng sanh Tịnh độ. Nếu có vị nào nghe qua bộ kinh Lăng Nghiêm đều biết “Bồ tát Đại Thế Chí niệm Phật viên thông” nói người tu pháp môn niệm Phật vô cùng tốt. Cho nên Bồ tát Đại Thế Chí cũng tán thán pháp môn niệm Phật.

Ở trong quá khứ tất cả chư đại Bồ tát đều tán thán pháp môn Tịnh độ, chuyên tu pháp môn Tịnh độ, tất cả chư tổ trong quá khứ trước tiên tham thiền, sau lại niệm Phật, sau khi tham thiền khai ngộ rồi thì lại chuyên tâm niệm Phật. Giống như ngài Vĩnh Minh Diên Thọ niệm một câu A Di Đà Phật thì hiện ra một hoá thân của Phật A Di Đà. Thời cận Đại sư Ấn Quang chuyên xuyển dương pháp môn niệm Phật.

Cho nên pháp môn niệm Phật là pháp môn phương tiện bậc nhất, đơn giản, rất dễ tu, người hành trì pháp môn này rất là viên dung. Pháp môn này mười phương chư Phật đồng ca ngợi tán thán, bạn xem bản kinh Di Đà nói mười phương chư Phật có tướng lưỡi rộng dài, biến khắp tam thiên đại thiên thế giới đều ca ngợi tán thán pháp môn này. Nếu như nói không chân thật thì mười phương chư Phật làm sao ca ngợi tán thán chứ? Do vậy, đủ chứng minh người tu pháp môn niệm Phật vô cùng thù thắng, đặc biệt vào thời mạt pháp này, mọi người chúng ta phải nên tu theo.

Thế nhưng hiện giờ ở Tây phương là thời đại chánh pháp, các bạn không tu pháp môn niệm Phật, thế các bạn lại tham thiền, chẳng sợ khổ!

Đến Tây phương liễu sanh thoát tử

Trì danh niệm Phật là một pháp môn tu tập vô cùng quan trọng trong thời kỳ mạt pháp, cho nên hiện nay rất nhiều người tu tập và hành trì vào pháp môn niệm Phật.

Nếu bạn xem thường pháp môn niệm Phật thì hãy xem ngài Đại sư Vinh Mĩnh Diên Thọ niệm một câu “Nam Mô A Di Đà Phật” thì từ trong miệng bay ra một hoá thân Phật. Người thời đó ai cũng đều biết cả, cho nên công đức niệm Phật không thể nói hết được. Khi bạn niệm một câu Phật hiệu thì bạn lại phóng quang. A! Phóng một ánh hào quang, yêu ma quỷ quái đều bỏ chạy. Công đức và oai lực của việc niệm Phật là như thế không nói hết được.

Pháp môn niệm Phật, bạn chẳng cần trông mong đạt đến điều chân thật hay không chân thật khi tu. Chân hay giả điều quan trọng bạn dụng công tu là tốt rồi thì tự nhiên biến thành chân, nếu dụng công không tốt thì biến thành giả. Chẳng những pháp môn niệm Phật là như thế mà tất cả pháp khác cũng như vậy. Nên nói: “Người tà hành chánh pháp, chánh pháp trở thành tà, người chân chánh tu pháp tà pháp cũng trở thành chánh” . Đây hoàn toàn là do người.

Chúng ta bây giờ khi tu tập dụng công lễ Phật nên quán tưởng, quán tưởng cái gì? Quán tưởng thân thể này của chúng ta biến khắp mười phương vô lượng quốc độ cõi nước chư Phật, ở trong cõi nước Phật gặp mặt Phật chúng ta đến trước đảnh lễ. Bạn có thể quán tưởng pháp giới, thân thể của bạn cũng chính là pháp giới, rộng lớn như thế cho nên mới nói:

Nếu người muốn biết rõ
Chư Phật trong ba đời
Nên quán pháp giới tánh
Tất cả do tâm tạo

Pháp môn niệm Phật là pháp môn rất dễ hành trì tu tập, mọi người ai cũng tu được pháp môn này. Chỉ cần bạn niệm một câu “Nam Mô A Di Đà Phật”, tương lai khi đến lúc lâm chung bạn sanh về thế giới Tây phương Cực lạc, hoá sanh trong hoa sen, mỗi ngày nghe Phật A Di Đà nói pháp, tương lai thành Phật.

Xưa nay thường nói niệm Phật khi lâm chung thì vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc, còn hiện tại chúng ta chưa chết, thế bây giờ chúng ta niệm Phật để làm cái gì? Đúng không! Nhưng để có lợi ích khi chết thì khi sống bạn phải cần lo vun bồi trước. Giống như bạn trồng loại cây ăn quả, muốn thu hoạch kết quả thì bây giờ phải tốn thời gian ít năm chúng ta chăm bón thì cây mới phát triển được. Sự phát triển đó nó phải theo thời gian mỗi mỗi hôm mới cao dần. Niệm Phật cũng như thế, bạn bây giờ niệm Phật, đợi khi lâm chung mới không bị các bệnh thống khổ, không bị tâm tham, sân, si làm bấn loạn, nhất tâm niệm Phật thì Phật A Di Đà đến tiếp dẫn bạn đi. Bây giờ nếu bạn không niệm Phật, đến khi lâm chung tứ đại phân ly, khi ấy bạn muốn niệm Phật cũng không niệm được, trừ khi có bậc thiện tri thức đến trợ giúp cho bạn, nhắc nhở bạn, bảo bạn niệm Phật. Cho nên lúc còn sống, mỗi hôm niệm Phật, niệm được niệm Phật tam muội, kết thành một mảng, đến khi lâm chung tự nhiên niệm câu “Nam Mô A Di Đà Phật” thì chẳng bao giờ quên câu “Nam Mô A Di Đà Phật”. Khi bạn không quên câu “Nam Mô A Di Đà Phật” thì Phật A Di Đà cũng không quên bạn, chúng ta nương vào đại nguyện của Phật A Di Đà thì Ngài dùng kim đài đến tiếp dẫn bạn vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc.

Bạn niệm Phật, tôi niệm Phật, bạn và tôi niệm Phật làm gì đây?

Liễu sanh tử, chuyển Ta bà mỗi nơi thành cõi Phật

Không bạn không tôi có gì nào? Tịnh quán vạn vật đều rõ ràng

Phá vô minh dứt phiền não, vượt ba cõi qua bể ái hà.

Vì sao bạn niệm Phật? Tại sao tôi niệm Phật? Bạn nói đi! Người thiếu hiểu biết thì nói rằng: “Cầu Phật giúp con, ngày mai ăn uống cho tốt”. Có người vừa niệm vừa nói rằng: “Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật”, xin Ngài giúp con khỏi lạnh khỏi rét!” Có người niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, cho con tránh khỏi những phiền não, mọi việc đều cát tường như ý, bình an hạnh phúc”. Có người niệm Phật để cầu sung sướng trong hiện tại. Tuy có nhiều loại chẳng giống nhau, nhưng cái chính yếu chẳng phải cầu những việc đó, thế niệm Phật cầu chuyện gì? Đó là cầu “liễu sanh tử” thôi!

Người “liễu sanh tử” thì sống an vui tự tại. Còn các bạn chẳng “liễu sanh tử” thì vào ra hợp với sanh tử. Khi sống không biết được chính mình; không làm chủ mình khi sống và khi chết. Vậy làm sao làm chủ được đây? Nghĩa là bạn làm chủ được lúc sống, muốn sống thì sống, muốn chết thì chết. Bạn thích sống lâu muốn trường thọ thì mỗi ngày chúng ta niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, như thế mỗi ngày thọ mạng ta sẽ tăng lên, mạnh khoẻ lên. Ta muốn chết thì niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, thì Đức A Di Đà Phật đến đón ta về thế giới Tây phương Cực lạc. Được như thế thì thân không bệnh, tâm không tham luyến, tâm không tham những gì cả, ý không điên đảo, đây là nói ý cũng không điên đảo, giống như nhập vào thiền định, như thế mới sanh về thế giới Tây phương Cực lạc. Quý vị chú ý vấn đề này.

“Hoá Ta bà”. Chuyển hoá thế giới Ta bà thành thế giới Cực lạc, không còn sự đau khổ mà được tất cả sự an vui. Cho nên nói: “Nơi nơi dều là cõi Phật A Di Đà”. Nơi nào cũng đều là thế giới Cực lạc, không còn thế giới đau khổ phiền não nữa, nơi đâu cũng A Di Đà Phật.

“Không bạn, không tôi”. Bạn niệm Phật niệm đến không còn thấy bạn niệm, không có tôi niệm, không có thấy đối tượng là “Phật” để bạn niệm. Tại sao nói không có? “Ồ! Như thế rất nguy hiểm rồi! Niệm phải được chứ sao nói không có; thế là không xong rồi?” Chỉ sợ bạn không xong, nếu bạn xong rồi thì giải thoát rồi. Bạn không xong, nên chẳng được gì hết. Nếu bạn xong rồi thì sao? “Tịnh quán vạn vật đều liễu rõ”. Tất cả vạn vật thế gian bạn đều thấu hiểu rõ ràng, thậm chí loại chim nào màu gì, cây tùng sao lại mọc thẳng… bạn đều rõ biết hết.

Lúc này, bạn biết rõ hết rồi thì phiền não dứt sạch, vô minh phá hết. “Nhảy ra khỏi tam giới vượt khỏi biển ái bao la”. Bạn nhảy ra khỏi sông ái bao la là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Người ở trong trong tam giới như thế nào ? Giống như bị trôi theo giòng sông mênh mông rộng lớn ! Điên đảo, bạn nói yêu tôi, tôi nói yêu bạn, tình ái đến đi, chết rồi mà chẳng biết tỉnh ngộ, đến rồi đi rồi lại gặp lại trong vòng lưới ái, cuối cùng không ra khỏi.

Có người nói: “Thế tôi chẳng muốn nhảy ra sông ái”. Thế bạn đợi khi nào nhảy ra đây? Bạn muốn ở lại trong tương lai sao? Bạn sống nơi này rồi chết, chết rồi lại sanh ra nơi khác, cứ thế, sanh rồi tử lẩn quẫn trong vòng luân hồi, sống chẳng ra sống, chết chẳng ra chết, cho nên phải nhanh đi, nhanh nhảy đi, nhảy qua khỏi sông mê biển ái, nếu không nhảy qua thì chết chìm rồi ! Thật chết chìm rồi ! Người chết chìm sẽ như thế nào? Thì bị đoạ lạc đến cùng cực, tánh linh mất rồi hoặc biến thành những loại côn trùng nhỏ, như sâu, giun, dế… Trí huệ cạn cợt, phước báu không có, loài súc sanh như thế rất dễ sống và rất dễ chết. Nên nói “sống chẳng ra sống, chết chẳng ra chết”.

Thế bạn rõ biết về thế giới Ta bà này,vạn sự vạn vật đều không có nhất định luôn chuyển biến liên tục. Nếu bạn nói thế giới này là cố định thì chuyện đó không đúng. Bởi vì thế giới này là vô thường không bền chắc. Do không hiểu điều này nên xưa nay không đến được thế giới Tây phương Cực lạc. Nay hiểu ra rồi thì ngay bây giờ chỉ cần bạn niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thế là bạn và mọi người ai ai cũng đủ tư cách về thế giới Tây phương Cực lạc. Điều quan trọng là bạn niệm hay không niệm. Bạn niệm dù hiện tại có khó khăn, chướng ngại bạn cũng quyết tâm làm cho được, thế là việc khó làm mà bạn làm được, ngay đó thế giới Tây phương sẽ rất gần với bạn. Nếu bạn không niệm thì sao? Thì chẳng đến được. Chỉ cần bạn nhất niệm thì là sanh rồi; không niệm thì hợp với tử, thế là chẳng thành tựu được rồi. Nên biết các pháp ở thế gian này là không thật là không cố định.

Kinh Kim Cang nói: “Không có định pháp gọi là A nậu đa la tam miệu tam bồ đề” . Đây là nói đến chỗ vô thượng chánh đẳng chánh giác. Chính ta phải phát đại tâm dõng mãnh, chẳng sợ khổ, sợ khó, mỏi mệt, đói khát, dõng mãnh hướng tới trước, nhanh về thế giới Tây phương Cực lạc mới thôi. Chúng ta niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” đây mới là chân thật. Chúng ta niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” mới giúp chúng ta liễu thoát sanh tử.

BỒ TÁT ĐẠI THẾ CHÍ NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG

Lúc A Di Đà Phật còn là Chuyển Luân Thánh Vương, Ngài Bồ tát Quán Thế Âm là con trưởng, Bồ tát Đại Thế Chí là con kế. Hai vị đại Bồ tát này hiện đang ở thế giới Cực lạc đứng hai bên trái phải để phụ trợ cùng Phật A Di Đà cứu độ chúng sanh. Sau khi đức Phật A Di Đà nhập Niết bàn, chánh pháp trụ ở đời trải qua vô lượng kiếp, đến nữa đêm sau khi Phật A Di Đà nhập diệt, Bồ tát Quán Thế Âm lại thành Phật. Tên là “Phổ Quang Công Đức Sơn Như Lai”. Chánh pháp trải qua vô lượng kiếp thì vào nữa đêm ngài nhập Niết bàn, thì cũng nữa đêm đó Bồ tát Đại Thế Chí lại thành Phật, tên là “Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Như Lai”.

Bồ tát Đại Thế Chí tu pháp môn niệm Phật chỉ một câu Phật hiệu mà nhiếp thâu “sáu căn” nên đưa đến giác ngộ. Từ niệm Phật đến khi chứng đạo phải trải qua năm mươi hai giai đoạn là thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, rồi đến đẳng giác, diệu giác, cho nên Bồ tát Đại Thế Chí cùng với năm mươi hai vị bồ tát cũng là đại biểu năm mươi hai giai đoạn.

Trong chương “Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông”, Bồ tát Đại Thế Chí nói: “Ta nhớ lại trong vô lượng kiếp trước, có Phật ra đời tên là Vô Lượng Quang ,Vô Biên Quang, Vô Ngại Quang Phật, Diệm Vương Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỷ Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, Bất Đoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật, Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật. Trong kiếp đầu tiếp nối mười hai vị Phật ra đời, vị Phật sau cùng là là Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang, dạy ta niệm pháp môn niệm Phật, ta nhập vào chánh định, nên gọi là niệm Phật tam muội”.

Pháp môn niệm Phật có hai hạng người, một là hạng chuyên nhớ niệm, một người chuyên quên, hai hạng người này cũng từng gặp qua rồi. Một người chuyên niệm là chỉ cho Phật, một người chuyên quên là chỉ cho phàm phu. Phật thì luôn thương nhớ chúng sanh, chúng sanh thì thường quên Phật, nghĩ đến Phật thì hay biết mấy, nhưng ngặt nỗi là ở đâu họ cũng quên, không có tâm thanh tịnh tâm giác ngộ.

Phật vì sao lại nhớ đến chúng sanh chứ? Bởi vì Phật biết tất cả chúng sanh trong quá khứ là cha mẹ mình, vị lai là thành Phật và cùng chư Phật hiện tại đồng một thể giác ngộ bình đẳng, cho nên nói “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật” -đây là chỗ vĩ đại của Phật giáo cũng là giáo nghĩa tối cao của Phật giáo. Phật giáo nói năm giới, cấm sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu chính là thương yêu bảo hộ tất cả chúng sanh, chuyển hoá chúng sanh bỏ mê sớm trở về nhà, nhưng tất cả chúng sanh khi sanh đến thế giới này thì bỏ gốc theo ngọn, quay lưng với tánh giác của mình làm những điều hợp với trần tục, nhận giả làm chân, ngay cả quê hương chính mình, quên tất cả; kể cả chư Phật, Bồ tát, cha mẹ hiền tư, cũng quên hết. Tu pháp môn niệm Phật có bốn cách như sau: một là trì danh niệm Phật, hai là quán tượng niệm Phật, ba là quán tưởng niệm Phật, bốn là thật tướng niệm Phật. Chỉ sợ người không đủ đức hạnh, không đủ đạo tâm, chỉ niệm Phật có khi bị cảnh giới ma. Như hồi tôi gặp một trường hợp tại Hồng Kông, có một vị xuất gia ở chùa Từ Hưng, tu “Ban chu tam muội” là thường hành tam muội và ở trong phòng như thế đến chín mươi ngày, chẳng ngồi, chẳng nằm chỉ đứng và đi mà thôi. Có một hôm, tôi nghe ông ta niệm càng lúc tiếng càng lớn rồi chạy càng nhanh, tôi thấy hơi kỳ lạ, lại ghé mắt nhìn vào phòng xem thử. Thì ra chính vị tỳ kheo này đời trước là một con trâu, có công cày ruộng ở chùa nên khi chết mới đầu thai lại làm thân người xuất gia tu đạo. Nhưng tánh trâu chưa hết tập khí cũ còn như xưa, cang cường khó điều phục, nhưng do ông ta tu pháp Ban chu tam muội có thể dứt trừ tập khí xấu ác đó đi, nhưng đạo đức chưa đủ, định lực chưa kiên cố nên lạc vào cảnh giới ma. Ông ta thấy đức Phật A Di Đà đến ông ta liền chạy đến chỗ Phật quỳ, nhưng thật tế Phật sao lại quỳ trước mặt ông ta chứ? Chỉ là một con trâu nước biến ra Phật A Di Đà để đến dắt ông ta đi, sau khi tôi đến la lên thì ông mới tĩnh ngộ và trở lại bình thường.

Nếu như hai người cùng nhau nhớ niệm, mọi người cùng nhau chí thiết nhớ niệm, chẳng có buông lơi, chẳng thất niệm thì đời theo nhau như bóng với hình, không bao giờ rời xa được. Mọi người ai cũng không quên Phật thì ngay đời này có thể gặp Phật và sau khi vãng sanh thường gần Phật nghe pháp tu tập chẳng bao lâu sẽ thành quả vị giác ngộ. Mười phương chư Phật ngày đêm thương xót hộ trì cho tất cả chúng sanh, giống như mẹ luôn nhớ nghĩ đến con, nếu như con không nghe lời cha mẹ, bỏ đi không trở về nhà để cha mẹ ngày đêm trông đợi nhớ thương; khi con nhớ nghĩ đến cha mẹ khẩn thiết như thế mọi người trong gia đình mới gặp nhau đoàn tụ được

Nếu như tất cả chúng sanh trong tâm lúc nào cũng nghĩ đến Phật, nhớ đến Phật, dù bây giờ chẳng thấy Phật, nhưng tương lai nhất định cũng gặp Phật. Bởi vì chúng ta cách Phật quá xa mà không niệm Phật thì càng xa cách hơn nữa. Người tu pháp môn niệm Phật chẳng phải nhọc công tốn sức phương cách gì nhiều, hoặc bí quyết gì cả, chỉ cần chuyên tâm niệm Phật khi tâm hành giả và tâm Phật tương ứng thì trí huệ phát sanh giải thoát tự tại.

Như người đốt hương lên thì trên thân thể cũng có mùi hương, người niệm Phật cũng thế khi đốt hương Phật hiệu lên thì tương ưng với pháp thân và trí huệ của Phật, tánh giác nơi tự tâm hiển lộ Phật tánh, nên nói “Hương Quang Trang Nghiêm”.

Bồ tát Đại Thế Chí nói: “Khi ta mới phát tâm tu, chuyên lòng niệm Phật, tâm tâm tương tiếp, không có gián đoạn nên chứng nhập vào vô sinh pháp nhẫn. Hiện bây giờ trở lại thế giới Ta bà này, hay thường gia hộ và nhiếp thọ những ai chuyên tâm niệm Phật cầu vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc. Bây giờ Phật hỏi về pháp môn viên thông, con chẳng chọn những gì khác, chỉ chuyên thâu nhiếp thân tâm, không bị các duyên trần xoay chuyển, tinh tấn thâu nhiếp sáu căn không bị khởi bởi các duyên trần”.

Tịnh niệm chính là không khởi các vọng niệm, chỉ nhất tâm niệm Phật, không có niệm gì khác. Niệm niệm tương tục, không có gián đoạn, niệm Phật niệm đến niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm, mỗi niệm chẳng có rời tịnh niệm, tâm tâm tương ưng với tâm Phật, chính là “tức tâm tức Phật, tức Phật là tâm” tâm Phật nhất như mà đắc thành chánh định. Cho nên tôi nói pháp môn “niệm Phật” là đệ nhất.

HOA KHAI KIẾN PHẬT NGỘ VÔ SANH

Người nào từng tụng kinh, thọ trì biên chép mười lời đại nguyện của Bồ tát Phổ Hiền, thì có thể thấy mình khi sanh về thế giới Tây phương Cực lạc ở trong hoa sen.

Thế giới Tây phương Tịnh độ chỉ có người nam không có người nữ. Người sanh về đó đều hoá sanh trong hoa sen, hoa nở thấy Phật, tức liền được Phật A Di Đà thọ ký, cho đến khi thành Phật. Sau khi thọ ký, trải qua vô lượng na do tha trong trăm ngàn vạn kiếp, đến mười phương thế giới chẳng tính được thì tự mình thành tựu trí huệ, tâm tuỳ thuận chúng sanh làm lợi ích vô số chúng sanh. Người này ngồi ở toà Bồ đề đạo tràng hàng phục thiên ma và ma quân ngoại đạo, thành Phật, chuyển diệu pháp luân, giáo hoá chúng sanh, có thể khiến cho tất cả chúng sanh nhiều như số vi trần ở trong các thế giới phát tâm bồ đề, tuỳ theo căn tánh của các chúng sanh, dùng phương tiện quyền xảo để giáo hoá họ. Khi căn tánh của họ thành thục, trải qua nhiều kiếp làm lợi ích tất cả chúng sanh.

Người nam tu thiện và chúng sanh nào có thọ trì đọc tụng “Phổ Hiền Hạnh Nguyện” hoặc nghe được mười đại nguyện vương của Bồ tát Phổ Hiền, hoặc tin tưởng mười đại nguyện vương này, tâm ưa thích, thân thọ trì, đối trứơc tượng đọc tụng thọ trì, hoặc nói cho người khác nghe về mười đại nguyện này, công đức đó không thể nói hết được, chỉ có Phật và các bậc Bồ tát La hán mới biết công đức họ nhiều hay ít mà thôi. Khi các bạn gặp được mười đại nguyện vương của Bồ tát Phổ Hiền thì không nên khởi tâm nghi hoặc. Nên nói:

Tâm người tu đạo chớ nghi
Nghi tâm sanh khởi dễ đi đường tà

Người tu đạo, khi nghe những lời của Phật và các bậc Tổ sư giảng nói chớ có sanh tâm nghi ngờ, bạn có tâm nghi ngờ thì dễ rơi vào đường tà, nên tin tưởng và chân thật thọ trì, lắng lòng tiếp nhận đạo lý, sau đó chí thành thọ trì như thọ trì mười đại nguyện vương. Tụng lâu rồi, càng thông hiểu, sau khi trì tụng mười đại nguyện vương, phát tâm biên chép ấn tống, hoặc giảng nói cho người khác nghe mười đại nguyện vương này.

Mọi người mà hành trì như thế, chuyên tâm trong một thời gian ngắn thì nguyện lực tu hành và công đức đều thành tựu. Người nào trì tụng Phổ Hiền Hạnh Nguyện được phước nhiều vô lượng vô biên, ở trong biển khổ cứu độ tất cả chúng sanh khiến họ được an vui lợi lạc, giúp họ thoát khỏi biển khổ sanh tử khổ đau, đạt đến Niết bàn giải thoát và được vãng sanh về thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà.

“A Di Đà Phật” chỉ có bốn chữ, nhưng bao quát tất cả Phật pháp. Mỗi bộ kinh do đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra, đều có người thưa thỉnh, chỉ riêng kinh A Di Đà là không người thưa thỉnh, không ai hỏi mà chỉ tự Phật nói. Tại sao không có người thưa hỏi? Bởi vì không có người hiểu rõ pháp này. Pháp môn Tịnh độ chúng ta thấy rất đơn giản, nhưng thật tế có bốn chữ “A Di Đà Phật” bao quát tất cả tam tạng kinh điển, mười hai bộ kinh.

Mười năm về trước tôi chuyên niệm Phật có sự cảm ứng, nên làm ra một bài kệ:

A Di Đà Phật vạn pháp vương
Ngũ thời bát giáo tận hàm tàng
Hành nhân đản nhân chuyên trì tụng
Tất chí tịch quang bất động tràng.

“A Di Đà Phật” là chỉ câu Phật hiệu, nếu bạn chuyên tâm trì niệm câu Phật hiệu đó thì tất cả các pháp bạn đều thông hiểu rõ ràng, cho nên nói “A Di Đà Phật vạn pháp vương”. “Ngũ thời” là thời Hoa nghiêm, thời A hàm, thời Phương đẳng, thời Bát nhã, thời Pháp hoa, Niết bàn. “Bát giáo” là Tạng, Thông, Biệt, Viên, Đốn, Tiệm, Bí mật, Bất định giáo. Ngũ thời, bát giáo đều bao hàm trong bốn chữ “A Di Đà Phật”, cho nên người tu chỉ cần chuyên tâm trì niệm câu danh hiệu A Di Đà Phật, nhất định đạt được thường tịch quang tịnh độ trong đạo tràng bất động.

Có số người nhận định sai lệch rằng: “Công phu niệm Phật là giành cho ông già bà lão, không phải của người trí thức”. Đây là hiểu một cách sai lầm. Niệm “A Di Đà Phật” pháp môn này, người trí thức cũng tu được, ngu si cũng tu được, nói tóm lại pháp môn này giành cho ba hạng người ai cũng tu được đó là hạnh thượng căn, trung căn, và hạ căn.

Vì sao chúng ta phải niệm A Di Đà Phật chứ? Bởi vì chúng sanh ở thế giới Ta bà rất có duyên với Bồ tát Quán Thế Âm. Bồ tát Quán Thế Am ứng hiện ba mươi hai thân để cứu độ họ. Còn đức Phật A Di Đà lại càng có nhân duyên thù thắng, bởi vì đức Phật A Di Đà là thầy của Bồ tát Quán Thế Âm, là giáo chủ ở thế giới Cực lạc. Khi xưa, lúc chưa thành Phật A Di Đà, Ngài tên là Tỳ kheo Pháp Tạng, từng phát ra 48 lời nguyện, mỗi nguyện đều tiếp dẫn chúng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc mới nguyện thành Phật.

Thế giới Cực lạc chỉ có người nam, vì người ở đó đều hoá sinh từ hoa sen ra, người sinh về thế giới Cực lạc, trước hết thác sinh đầu thai vào hoa sen. Chúng ta nhất tâm niệm Phật thì hoa sen bên cực lạc sẽ lớn từ từ, niệm một câu Phật hiệu, hoa sen từ từ nở ra, niệm nhiều câu Phật hiệu thì càng lớn ra, đến lúc bằng bánh xe chuyển luân. Khi lâm chung, đức A Di Đà Phật hiện thân đến tiếp dẫn chúng ta về thế giới Tây phương Cực lạc. Tánh linh chúng ta ở trong nhụy hoa sen, khi hoa sen nở ra tức thời pháp thân hiện bày, cho nên nói “hoa nở thấy Phật” khi hoa sen nở ra thì sẽ ra một vị Phật tương lai.

Thế giới Cực lạc cách thế thế giới Ta bà qua mười vạn ức cõi Phật, người ở thế giới Cực lạc đều từ hoa sen hoá sanh, cho nên nói: “Nguyện sinh tây phương Tịnh độ trung, cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu”. Tất cả chúng sanh niệm “ A Di Đà Phật” thì sẽ sinh về thế giới Tây phương Cực lạc. Phật A Di Đà từng phát nguyện: “Khi tôi thành Phật, mười phương chúng sanh, nếu xưng danh hiệu tôi, đều sinh về nước của tôi, hoá sinh trong hoa sen, được quả vị vô thương chánh đẳng chánh giác”. Do vậy, người nào ở thế giới Ta bà xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, khi lâm chung thì Phật A Di Đà đến tiếp dẫn người này vãng sinh Tây phương Tịnh độ.

Thập phương tam thế Phật
A Di Đà đệ nhất
Cửu phẩm độ chúng sanh
Uy đức vô cùng cực.

Khi vào thời mạt pháp, Phật pháp dần đi đến hủy diệt, tất cả kinh điển dần biến mất, vì sao vậy? Vì chúng sanh thiếu phước báu, tội nghiệp sâu nặng, không có nhân duyên để xem kinh điển, chẳng cần phải nói tương lai, hiện bây giời có số người không có mắt, tay, và các bệnh tật nên một chữ trong kinh cũng không thấy, thật là nghiệp chướng làm cho chướng ngại, đây chính là mạt pháp, người có mắt mà không thấy và hiểu Phật pháp rõ ràng.

Vào thời mạt pháp các kinh điển lần huỷ diệt hết, đầu tiên là kinh Lăng Nghiêm, sau đó đến các kinh điển khác và sau cùng là kinh A Di Đà. Bộ kinh A Di Đà này, sẽ trụ ở đời hơn một trăm nay để độ tất cả chúng sinh. Đến hết thời gian đó, kinh A Di Đà cũng diệt mất, chỉ còn câu hồng danh sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” trụ ở đời một trăm năm nữa để độ tất cả chúng sinh. Qua một thời gian chỉ còn lại câu hồng danh bốn chữ “A Di Đà Phật” lại trụ ở đời một trăm năm nữa độ thoát vô số chúng sinh, cuối cùng bốn chữ “A Di Đà Phật” cũng diệt mất luôn. Phật pháp đến lúc này có thể nói là hoàn toàn hủy diệt.

Kinh A Di Đà, chẳng ai thưa hỏi mà tự Phật nói ra, bởi vì bộ kinh này vô cùng quan trọng. Chúng ta là người học Phật có duyên gặp được pháp môn này chớ có xem thường bỏ qua. Người tham thiền, tham câu “niệm Phật là ai”, đủ thấy trong quá khứ chúng ta đều có niệm Phật qua, mới biết tham thiền “niệm Phật là ai”. Nếu như không có niệm Phật qua mà tham câu “niệm Phật là ai”, căn bản bạn chưa từng niệm Phật thì ai niệm Phật đây? Bạn là người chưa từng niệm Phật thì làm sao có thể nói “niệm Phật là ai”, do câu thoại đầu “niệm Phật là ai” thì đủ biết trong quá khứ mỗi chúng ta trong đây ai nấy cũng từng niệm Phật qua rồi, chẳng qua niệm nhiều hay ít mà thôi có thành tâm niệm hay lúc niệm lúc không mà thôi. Mọi người chúng ta siêng năng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” vãng sinh về thế giới Tây phương Cực lạc, thế giới này có vô lượng chúng sinh vui hưởng đầy đủ khoái lạc.

NGƯỜI NIỆM PHẬT CHÍNH LÀ PHẬT.

Rất nhiều người cho rằng pháp môn niệm Phật không rõ ràng, hoặc có người thiếu niềm tin dù họ có niệm thì cũng niệm qua loa không mấy tha thiết. Tham thiền cũng chính là niệm Phật, niệm Phật cũng chính là tham thiền, người hiểu tham thiền mới là người hiểu niệm Phật, người hiểu niệm Phật mới là người tham thiền. Tham thiền là tức thân là Phật, có thể ngay mình cũng quên luôn, thậm chí ngay Phật cũng quên, bởi vì họ tự hỏi “niệm Phật là ai”.

Người niệm Phật nhất định họ có cơ duyên sẽ thành Phật, tâm tâm niệm niệm lúc nào cũng nghĩ đến Phật, cuối cùng nhất định sẽ thành Phật. Người tham thiền lại nói cái “chẳng được” chính là Phật, bởi vì tham thiền là tìm Phật, chẳng chịu nhận mình là Phật, tham “niệm Phật là ai” tìm đến tìm lui chính là hướng ngoại rồi.

Niệm Phật chính là trở về với Phật, trở về với tâm của chính mình, chẳng cần hướng ngoại mà tìm, niệm Phật chính là hoà Phật thành một phiến, nhất định vãng sinh về Tây phương Cực lạc. Bạn niệm Phật thì Phật niệm lại bạn, kết quả là thành Phật rồi, các bạn khỏi cần phải nghiên cứu tìm tòi chỉ chuyên niệm Phật cho tốt là được. Tham thiền cũng rất tốt, nhưng tham thiền cần phải chịu khổ, thứ nhất cần phải chịu đau chân mỏi gối, thứ hai mỗi giờ khắc phải xem coi lại chính mình quét sạch các vọng tưởng, tham thiền khó hơn niệm Phật, niệm Phật dễ hơn, các bạn chưa thấy sự vi diệu thù thắng của việc niệm Phật.

Tôi nói với các bạn một câu rất chân thành, tôi làm mọi việc mà tâm luôn hoan hỷ là nhờ niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Khi tôi ngủ tôi cũng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, ở trong mộng cũng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, khi đứng cũng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Bất cứ lúc nào cũng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” bởi vì A Di Đà Phật hoà với tôi lại thành một.

BÌNH THƯỜNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC DUYÊN LÀNH

Nếu như bạn chỉ nghĩ khi lâm chung niệm Phật thì sanh tâm lành, chẳng có dễ dàng như thế đâu. Khi người lâm chung thì ba loại hơi ấm, khí, thức đoạn rồi thì tiếp tục đi qua một cảnh giới khác chuẩn bị cho đời sống tiếp theo và chính ba loại hoả, khí, thức này hợp thành một mạng căn và ba loại này dứt thì sẽ dứt một mạng căn.

Cho nên nói: “Chim sắp chết, tiếng kêu của nó rất bi ai, người sắp chết lời nói của họ nghe rất hiền”. Người sắp lâm chung cũng thế trông rất tội nghiệp nếu ngay lúc đó tâm họ sinh khởi những thiện tâm trong một đời họ đã làm việc gì cho mọi người cho chính mình, việc gì đúng, việc gì sai, đều hiển hiện rõ ràng. Nếu người nào khi sống làm những việc không tốt lúc hấp hối lại phát khởi tâm sám hối một cách tha thiết và chỉ cần nghe một danh hiệu Phật, một danh hiệu của Bồ tát, hoặc một danh hiệu của một vị Bích chi Phật thì tất cả tội lỗi dù có vô lượng cũng đều tiêu diệt. Sinh khởi căn lành vô lượng ngay lúc đó. Cho nên lúc lâm chung là điều rất quan trọng vì quyết định cuộc sống đời sau hạnh phúc hay đau khổ. Nhưng được điều tốt cũng chẳng phải là chuyện dễ dàng khi phát ra tâm lành này để sanh về các cảnh giới lành nếu thiếu những nhân duyên tốt.

Vì sao bình thường chúng ta cần phải niệm Phật? Chính là chuẩn bị khi lâm chung không bị quên câu Phật hiệu, vì khi bình thương chúng ta niệm, thì khi lâm chung không bao giờ quên. Nếu bạn muốn khi lâm chung mới niệm, để phát sinh tâm lành, khi ấy thật chẳng dễ dàng chút nào, nhưng nếu phát sinh thì thật vô cùng hiệu nghiệm, chỉ cần nhất tâm sám hối thì ngay lúc đó tất cả tội nghiệp đều tiêu trừ.

Tác giả: Hòa thượng Tịnh Không
Việt dịch: Thích Thuận Nghi

Đại Nguyện Lực Thứ 18 & 19 Của Đức Phật A Di Đà

Đại Nguyện Lực Thứ 18 & 19 Của Đức Phật A Di ĐàThưa các liên hữu Phật tử!

Ai cũng biết đá nặng thì không thể qua biển được, nhưng có thuyền to chở qua thì dễ dàng. Chúng sanh cũng vậy, tội nhiều chướng nặng thì không thể liễu thoát sanh tử, nhưng có thuyền nguyện lực của chư Phật đưa qua biển sanh tử dễ dàng.

Pháp môn Tịnh độ là một pháp tha lực, là thuyền từ cứu độ chúng ta. Riêng bản thân tôi tự xét nghiệp chướng nặng, tự sức mình biết khó giải thoát đường sanh tử nổi, nhưng may quá tôi đã gặp được thuyền nguyện lực của đức Phật và đã bước lên thuyền (đủ Tín-Nguyện-Hạnh) từ lâu, chỉ chờ thuyền cập bến là đến cõi Phật.

Nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Phật thập phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn sanh về cõi nước tôi nhẫn đến 10 niệm, nếu không được sanh, (trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp), thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

Nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát Bồ đề tâm tu các công đức nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nều tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

Phần tôi có chỗ nương tựa rồi, nhìn thấy còn bao nhiêu chúng sanh chơi vơi trong biển khổ, do đó tôi muốn kêu gọi mọi người cùng bước lên thuyền, cùng được về cõi Phật. Chính vì vậy, từ lâu tôi muốn viết một tập sách nhỏ, trong đó nói rõ về nguyện lực thuyền từ của Phật để giới thiệu cho mọi người cùng biết. Nhưng vì lực bất tòng tâm, ý muốn mà sức khỏe… không cho phép. Cho đến hôm nay vì tha thiết ơn dày của Phật mà tôi cố gắng đem hết sức của mình luận giảng viết thành quyển sách nhỏ gởi tặng đến quý liên hữu để cùng tìm hiểu, tu học.

Thưa các liên hữu Phật tử, điều nguyện thứ 18-19 là nguyện lực quan trọng của Phật A Di Đà để tiếp dẫn chúng ta, nhưng phần nhiều khi giảng đến pháp môn Tịnh độ, thường chỉ chú tâm đến điều nguyện thứ 18 mà ít luận giảng nguyện 19, nên thường khuyên các Phật tử lúc lâm chung phải niệm Phật được 1 hoặc 10 lần mới được vãng sanh, do đó người tu thấy khó mà tự mất lòng tin của mình, không tin chắc mình được vãng sanh vì lo ngại không niệm được lúc lâm chung. Chính vì chỗ nghi ngại này mà tự ngăn cách mình với Phật (nên không cảm ứng đạo giao được). Để phá mọi nghi chấp đó, tôi xin giảng rõ 2 điều nguyện 18-19 của Phật A Di Đà để mọi người tin chắc mình được vãng sanh với điều kiện hành cho đúng văn nguyện của Phật.

Này các Phật tử! Trong nhà Phật thường nói đến “Nhân-Duyên: Nhân là hạt giống duyên là đất, nước, phân… có nhân, đủ các duyên hòa hợp lại thì sanh ra hoa quả”. Trái lại, có nhân thiếu duyên hoặc có duyên mà thiếu nhân thì không sanh ra quả được. Pháp tu Tịnh độ cũng không ngoài hai chữ Nhân Duyên. Nhân Tịnh độ là lời đại nguyện của Đức Phật lập ra, đây là phần của Phật đã tạo nhân sẵn dành cho chúng ta. Duyên Tịnh độ là lòng tin Phật-chí nguyện và hạnh niệm Phật. Duyên đây là phần của chúng ta phải tạo ra cho đủ. Như vậy có nhận đủ duyên hòa hợp nhau rồi, thì chỉ thời gian sinh trưởng và kết quả chúng ta được vãng sanh Cực Lạc còn Đức Phật thì mãn nguyện từ bi. Nếu chúng ta thiếu một trong ba điều kiện Tín-Nguyện-Hạnh là thiếu duyên Tịnh độ, nên không thể hòa hợp với nhân nguyện của Phật và không có quả vãng sanh được. Như vậy nhân nguyện của Phật là thuyền từ bi cũng đành bỏ trống. Vậy từ hôm nay, các Phật tử chúng ta phải tạo duyên Tịnh độ, lòng tin-chí nguyện-hạnh niệm Phật cho đủ, được như vậy là đúng với nhân nguyện của Phật, coi như mình đã bước chân lên thuyền Đại nguyện của Phật rồi, và yên tâm chỉ chờ thuyền cập bến Cực Lạc nữa là xong. Có nghĩa là đủ Tín-Nguyện-Hạnh rồi thì chỉ chờ mãn Báo Thân cõi Ta Bà liền vãng sanh qua Cực Lạc Nước của Phật A Di Đà.

Này các Phật tử: nếu các vị y theo điều nguyện 18-19 của Phật mà Tôi luận giảng tu niệm, mà không được vãng sanh khi lâm chung, thì Tôi xin nguyện: bao nhiêu tội khổ của quý Phật tử Tôi xin chịu thay và đọa xuống địa ngục cho đáng.

Này các Phật tử! Tôi dám nguyện như vậy là vì Tôi tin chắc các vị y theo nguyện 18-19 của Phật thì đều được vãng sanh tất cả. Nếu các Phật tử hành đúng văn nguyện 18-19 rồi mà không được vãng sanh, chẳng những tôi chịu đọa địa ngục, mà Phật A Di Đà cũng phải từ chức ngôi vị Chánh Giác.

Này các Phật tử! Một pháp tu có tôi phát nguyện, có Phật bảo hiểm có tánh cách quyết định cho đường sinh tử. Nếu không phải căn lành quá khứ của quý vị đã mùi, duyên lành xui đến thì làm gì quý vị gặp được thuyền nguyện lực của Phật và bài giảng của tôi. Cho nên tập sách nhỏ này tôi rút hết tâm huyết của mình và để tặng các Phật tử hữu duyên Tịnh độ. Tập sách này ngắn gọn nhưng có tánh cách quyết định.

Mong các quý vị xem kỹ hành cho đúng văn nguyện 18-19 của Phật, thì có tôi phát nguyện, có Phật đảm bảo trên đường về Cực Lạc.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Hôm nay, Tôi giảng điều nguyện thứ 18-19 của Phật A Di Đà. Vì phần nhiều ai cũng có thể niệm Phật được, nhưng hiểu cho rõ cái nguyên nhân và mục đích của sự niệm Phật thì ít ai hiểu được cho đúng. Do đó người tu niệm Phật rất nhiều mà kết quả thì rất ít, bởi vì niệm Phật mà không đúng cái mục đích mà Phật đã dạy chúng sanh niệm Phật.

Thông thường người đời cũng thường nói “Tu Niệm”. Như vậy chữ tu nó dính liền chữ niệm, có nghĩa người tu thì phải niệm Phật, niệm kinh… nên chữ tu người ta hiểu là phải niệm. Như vậy họ chỉ biết tu phải niệm, còn niệm để làm gì, và mục đích thì họ hoàn toàn không rõ. Cho nên nhiều người cả đời đi chùa niệm Phật chỉ cầu phước, cầu an, tai qua nạn khỏi… cầu như vậy cũng có đức tin vào chư Phật, cũng thuộc về thiện lành rất tốt, nhưng cầu như vậy không đúng cái mục đích mà Phật dạy chúng sanh, nên chúng ta phải hiểu thẳng rằng: niệm Phật để sanh qua thế giới của chư Phật. Tại sao niệm Phật mà được sanh qua thế giới của chư Phật? Vì Phật đã phát hoằng thệ nguyện: “Nếu chúng sanh nào muốn về nước Ngài niệm từ 10 niệm nếu không được sanh thì Ngài không ở ngôi Chánh Giác”.

Do cái nhân nguyện này mà Phật Thích Ca mới thị hiện vào đời mà dạy chúng sanh niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà để được sanh qua thế giới Cực Lạc của Ngài. Cho nên lời dạy của Đức Phật Thích Ca là dạy chúng sanh niệm Phật để sanh qua Cực Lạc của Đức Phật. Mà chúng sanh niệm Phật để cầu an cầu phước… như vậy nó không đúng cái mục đích Phật đã dạy mặc dầu chúng ta niệm Phật có niềm tin cũng gieo căn lành với đức Phật, nhưng niệm như vậy hiện tiền nó không được kết quả mỹ mãn vì nó sai mục đích của Ph-ật dạy. Cho nên hôm nay, tôi luận giảng điều nguyện 18-19 của Đức Phật A Di Đà để chúng ta biết chúng ta niệm cho trúng ý nghĩa mục đích, để kết quả một đời này vãng sanh về với Đức Phật.

Bây giờ tôi giảng “nguyện là gì?”. Nguyện là lời thề thốt hứa hẹn với mình, cho nên những vị phát tâm tu hành hướng về đạo quả Bồ đề được gọi là phát Tâm Bồ Tát. Các Ngài thường phát ra lời thề thốt, để lời thề thốt đó gọi là nguyện lực. Nó có sức mạnh nung nấu tinh thần để các Ngài y theo lời hứa hẹn đó mà tiến lên con đường tu để thành đạt cái ý chí đó, thực hành theo ý chí đó mà độ chúng sanh, gọi là lời thề nguyện. Nên nguyện lực là sức mạnh của lời hứa hẹn, gọi là lời thề. Cũng như người sắp ra chiến trận, họ biết trong chiến trận có nhiều sự gay go, gian khổ, nguy hiểm, người sợ thối chí đổi lòng nên người ta kết bạn thề vói nhau “Thà chết chứ không hàng” nên khi giao chiến dầu có khó khăn, nguy hiểm, người ta nhớ cái lời này mà dũng mãnh chiến đấu, sức mạnh của nó làm cho người ta vượt qua những khó khăn mà được chiến thắng, nên các Ngài Phát Tâm tu hành trước hết người ta có lời thề, cái tâm nguyện người ta muốn đạt cái mục đích đó, nhưng nếu phát ra mà chỉ tự với mình thì chưa đủ làm cho ý chí đó mạnh mẽ, nên cần có người khác chứng biết.

Cho nên tiền than Đức Phật A Di Đà còn là một vị Vua tên là Vô Tránh Niệm. Khi Vua Vô Tránh Niệm cùng quan phu tướng tên là Bảo Hải đến dự Pháp Hội của Phật Bảo Tạg Như Lai , khi vua Vô Tránh Niệm thấy Đức Phật Bảo Tạng Vương Như Lai dung sức thần thông phóng đạo hào quang cho thấy 10 phương quốc độ thế giới của Chư Phật. Tất cả cảnh giới hiện rõ trên đài Hào quang tròn (Giống như đài truyền hình chiếu phim).

Vua theo dõi nhìn từng Quốc độ hiện ra. Vua thấy có cảnh giới thì chúng sanh an vui thụ hưởng tự nhiên, thân vàng tướng đẹp, đất vàng bằng phẳng, thọ mạng lâu dài. Có cảnh chúng sanh khan khổ đói nghèo, thiếu thốn, nhều bệnh tật, đát đai hầm hố thô xấu… Vua mới thắc mắc vì sao các quốc độ không đồng nhau, thì Phật Bảo Tạng giải rằng : Do tâm thanh tịnh nên cảm ra thế giới thanh tịnh. Còn tâm bất tịnh thì cảm ra thế giới xấu nhơ… như vậy tất cả cảnh giới đều do tâm tạo.

Khi vua Vô Tránh Niệm hiểu được nguyên nhân rồi Ngài mới dung cái trí suy nghĩ để sắp đặt cái chí nguyện của mình dung cái tâm thanh tịnh mà hành đạo Bồ Tát để kết hợp thành một cảnh cực kỳ trang nghiêm đẻ Ngài nhiếp thủ chúng sanh đem về giáo hoá cho thành Phật.

Trong khi Ngài suy nghĩ sắp đặt xong rồi thì vua liền đến trước pháp hội của Phật Bảo Tạng, cầu Đức Phậtvà chúng hội Bồ tát chứng minh cho Ngài . Ngài thuẩta 48 lơì thề nguyện của mình để hứa hẹn với chúng sanh . Đại ý của 48 đại nguyện đó là nguyện kể từ nay Ngài phát 48 lời nguyện để trang nghiêm tịnh độ , để thành lập một cõi cực lạc hoàn toàn an vui, một lần sinh ra từ hoa sen hoá sanh và sống mãi cho đến ngày thành Phật (không còn sanh tử dời đổi đi đâu nữa).

Khi vua Vô Tránh Niệm quỳ gối chắp tay đối trước Phật Bảo Tạng và chúng hội trường thuật 48 lời Đại nguyện xong thì trời đất chấn động, trên không hoa rơi xuống như mưa. Đức Bảo Tạng thọ ký cho vua Vô Tránh Niệm về sau thành Phật hiệu là A Di Đà Phật thống lãnh cõi nước tên là Cực Lạc (tức Tây Phương Cực Lạc bây giờ). Khi Phật Bảo Tạng thọ ký xong rồi thì vua Vô Tránh Niệm kể từ đó mới tu Bồ tát Đạo.

Gọi là nguyện hạnh, vì cái lời nguyện là cái tâm của mình muốn đật cái việc nình đã muốn, nên khi nguyện có người chứng biết rồi, bắt đầu Ngài phải thi hành theo cơ sở nguyện là tu Bồ Tát Đạo .

Bố thí
Trì giới
Nhẫn nhục
Tin tấn
Thiền định
Trí huệ

Nếu nguyện mà không thành là nguyện suông cho nên nguyện lớn là đã khó rồi mà hành để đạt hoàn thành viên mãn sở nguyện là rất khó. Cho nên Đức A Di Đà tiền thân là vua Vô Tránh Niệm đã phát 48 điều Đại nguyện , nó bao chứa tất cả lòng từ bi để trang nghiêm cõi Phật độ.Trong 48 điều nguyện của Phật A Di Đà, tất cả các điều nguyện nhằm vào trang nghiêm tịnh độ Chỉ có 2 điều nguyện 18-19 là nhằm vào sự nhiếp thủ chúng sanh để đem về tịnh độ nên 2 điêu nguyện này thật quan trọngvà có tính quyết định.

Khi vua Vô Tránh Niệm phát 48 nguyện lực được Phật Bảo Tạng thọ ý rồi thì vị quan phụ tướng của vua tên Bảo Hải cũng phát nguyện rằng: cho đến khi tôi thành Phật . Tôi ngự trị vào cõi đời tối tăm đau khổ để giới thiệu chỉ daỵ cho chúng sanh . Biết được nguyện lực của Phật A Di Đà để nương nhờ nguyện lực của Ngài mà mau giải thoát đường sanh tử sớm thành Phật. Và Phật Bảo Tạng Vương thọ ký cho quan phụ tướng Bảo Hải về sau thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni ở thế giới Ta Bà Này.

Từ khi vua Vô Tránh Niệm và quan phụ tướng Bảo Hải được Phật Bảo Tạng thọ ký rồi, hai Ngài trải qua vô số tăng kỳ kiếp tu hạnh Bồ tát, lợi ích chúng sanh, đến kỳ viên mãn phước huệ của đạo bồ tát thì vua Vô Tránh Niệm thành Phật Di Đà làm giáo chủ cõi Cực Lạc. Trong khi Ngài thành Phật đã trãi qua 10 kiếp rồi mà thế ở thế giới Ta bà này chúng ta chưa biết, vì đức Phật Thích Ca chưa thị hiện vào đây. Cho đến khi Đức Thích Ca thị hiện vào đây rồi và Ngài dung Phật nhãn nhớ lại quá khứ Đức A Di Đà và Ngài đã nguyện nên Ngài mới dạy pháp môn Tịnh Độ , dạy chúng sanh niệm Phật để được sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.

Như kinh Vô Lượng Thọ Phật nói lại lịch sử tiền thân của Đức Phật A Di Đà . Trong khi kinh Bi Hoa nói tiền thân Phật A Di Đà là vua Vô Tránh Niệm phát 48 đại nguyện nơi Pháp hội của Phật Bảo Tạng và từ đó chuyên tu hạnh Bồ Tát vô số kiếp. Sau đó lại chuyển sanh làm Pháp tạng tỳ kheo ở thời kỳ pháp hộ của Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai , và muốn nhắc lại lời nguyện của mình với chúnh sanh nên Ngài mới tường thuật 48 đại nguyện một lần nữa , trong kinh vô lượng thọ , Phật Thích Ca nói Pháp tạng tỳ kheo này phát 48 đại nguyện trước Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai và hành 6 độ Ba la mật để thành tựu sở nguyện của mình , Trải qua vô số kiếp ngài thực hành trọn vẹn 6 độ ba la mật nên Ngài thành Phật hiệu A Di Đà ở phương Tây.

Như vậy vua Vô Tránh Niệm là thân trước , pháp tạng là hậu thân sau đều nhằm vào 48 đại nguyện của mình , cho nên bây giờ Ngài thành tựu hiện là A Di Đà, và dùng 48 lời nguyện đó luôn đứng bên cõi Cực Lạc danhg tay tiếp đón những người niện Phật khắp mười phương đem về giáo hoá cho thành Phật .

Nên hôm nay tôi giảng rõ điều nguyện thứ 18-19 cho các Phật tử biết nguyên nhân và lòng từ bi của Phật A Di Đà đã hứa hẹn với chúng ta, cái lời nguyện là lời hứa hẹn. Cũng như bây giờ trồng trọt, mình hứa với mọi người: “nếu tôi trúng mùa tôi sẽ cho anh cùng hưởng…” nhưng chúng ta hứa hẹn mà không có ai làm chứng , khỉtún mùa nhưng đôi khi do lòng tham nó làm cho mình đổi lòng và quên lời hứa trước. Người đời thường là như vậy , nên muốn thủ tín cho người tin lời hứa của mình thì cần phải cần người làm chứng . Nếu sau đó đổi lòng thì bị xấu hổ , mất mặt với thiên hạ. Cho nên Đức A Di Đà tiền than là vua Vô Tránh Niệm vì lòng từ bi muốn độ chúng sanh nhưng sợ chúng sanh nghi ngờ nên vua Vô Tránh Niệm và hậu thân sau là pháp tạng tỳ kheo mới phát lời thề và cầu đức Phật chứng minh lời hứa của mình để làm tin cho chúng sanh nên khi Ngài thành Phật rồi , Ngài y theo bổn nguyện của mình mà tiếp độ chúng sanh . Nên chúng sanh khắp 10 phương mà nương cái nhân duyên niệm Phật là đúng vao bổn nguyện của ngài, thì đều được Ngài độ thoát.

Trong 48 lời đại nguyện , Ngài nguyện nếu có một nguyện nào mà Ngài không thực hiện đúng như lời thệ nguyện thì ngài không thủ ngôi Chánh Giác. Nghĩa là quả vị Phật đó các Phật tử và Ngài đã thực hiện trọn vẹn cho nên Ngài mãi mãi là một vị Phật mà mười phương chư Phật đều khên ngợi là đệ nhất. Chính Đức Thích Ca thấy lời Đại nguyệnnày nên Ngài vào cõi đời mà dạy chúng sanh phải y theo cái nhân nguyện mà tạo duyên tín-nguyện-hạnh để được đức Di Đà độ thoát.

Bây giờ tôi giảng chánh văn : “Điều nguyện thứ 18 lúc toi thành Phật , thập phương chúng sanh chí tâm tín mộ muốn sanh được về nước tôi nhẩm đến 10 niệm như nếu không được sanh thì tôi không thủ ngôi chánh giác.(Trừ kẻ tội phạm ngũ nghịch và huỷ báng chánh pháp mà thôi)”.

Điều nguyện thứ 18 này hứa với chúng sanh rằng: “Lúc tôi thành Phật” có nghĩa trên đường tu Bồ tát hạnh và đến cái thời viên mãn trên đường Bồ tát hạnh đó là lúc Ngàu thành Phật . Thành Phật là lúc phước huệ viên mãn trí huệ thần thông tự tại gọi là toàn năng toàn trí toàn giác.

Thập phương chúng sanh.
Thập phương chúng sanh: có nghĩa là 10 phương: Đông – Tây – Nam – Bắc – Đông Nam – Tây Nam – Đông Bắc – Tây Bắc – Thượng Hạ.

Chúng sanh: chữ chúng có nghĩa gọi chung là chỉ chung cho tất cả chúng sanh . Sanh có nghĩa là sanh mạng, trên từ Bồ Tát xuống đến tận địa ngục gọi là 9 giới chúng sanh , đối với Phật gọi chung là chúng sanh.

Ngài nói thập phương chúng sanh chí tâm tín mộ muốn sanh về nước tôi chí tâm có nghĩa là ý chí, cái tâm con người gọi là tâm ý mà tâm ý nó gom lại tột độ để làm chi ? để tin mộ , là đem cái tâm chí cao độ nó tin tưởng Ngài là một vị Phật đã thành toàn năng toàn trí toàn giác có long từ bi có Đại nguyện lực.

Chúng ta tin tưởng Ngài đã thành Phật như Phật Thích Ca , có đầy đủ thần thông và nguyện lực. Và tin cái cõi Cực lạc do 48 nguyện lực của Ngài thành lập thật là trang nghiêm , an vui gọi là chí tâm tin . tin rồi bắt đầu mình mộ , mộ có nghĩa là gì? Chữ mộ có nghĩa là mến , nên chữ mộ ở đây gọi là tín mộ , nghĩa là mình đem hết cái tâm thành thật tin tưởng Ngài và quốc độ Ngài rồi mình mới cảm được cái ơn đức sâu dày của Ngài. Vì lòng từ bi mà phát 48 đại nguyện rồi thực hành đại hạnh trải qua nhiều số kiếp cho đến hôm nay thành một vị Phạt mà không vào Niết bàn an nghỉ, luôn đứng xoè tay mà tiếp đón chúng sanh từ khắp 10 phương mà đem về miền Cực Lạc.

Cũng như ngườ mẹ hiền tận tuỵ với đàn con thơ ấu dại xa bỏ quê hương lăn lội xứ người , người mẹ ngày đêm thao thức để rước đón con về để giáo hoá cho thành Phật . Nên mình cảm ái ơn đức sâu dày của Phật , ròi mình mới mến thương Đức Phật gọi là mộ .Mộ rồi mình muốn về nước Ngài , muốn có nghĩa là cái long muốn về Cực Lạc sống chung với Phật để nhờ Ngài dùng lòng từ bi giáo hoácho mình nên gọi là muốn .

Muốn sanh về nước tôi nhẫm đến 10 niệm , ở câu hiệu này có nghĩa chữ nhẫn không phải là nhẫn nhục mà ý nói tắt là muốn về nước tôi nhẩm đến 10 niệm nếu không được sanh thời tôi không ở ngôi Chánh Giác. Như vậy muốn về nước Ngài niệm được 10 niệm mà không được sanh thì Ngài không thủ ngôi Chánh Giác , chỉ trừ người phạm tội ngũ nghịch và huỷ bang chánh pháp mà thôi. Cái điều nguyện chỗ này chúng ta nên chú ý cho kỹ là Ngài nói tín mộ muốn về nước Ngài rồi niệm nhẩn đến 10 niệm nếu không được sanh Ngài không thủ ngôi Chanh Giác. Chỗ này chúng ta phải hiểu Ngài nói nếu không được sanh , có nghĩa là phải được sanh, nhưng được sanh Ngài không cho biết sanh ở đời này hay đời sau. Nên chỗ này chúng ta cần phải nêu ra đẻ luận rõ, vì cái nguỵên là cái nhân không thể nào mà thay đổi được .Nếu chúng ta thực hành đúng cái nhân này thì nhất định sẽ được đức Phật độ. Còn nếu chúng ta thực hành sai thì không thể khiếu nại được , nên cái chỗ này chúng ta cần phải để ý. Ngài nguyện rằng nhẩm đến 10 niệm nếu không được sanh, có nghĩa là phải được sanh.

Như vậy có người chí tâm tín mộ niệm 10 niệm rồi sau không tu niệm nữa có được sanh không? Nhất định dược sanh nhưng mà nó lọt về vô số kiếp về sau mới được sanh. Bởi vì tín tâm ham muốn và niệm được mười niệm , tức là mười niệm này nó kết vào chủng tử hạng thức A Lại Da , lâu đời lâu kiếp nó hiện hành phát sanh ra đến kiếp vị lai nó mùi mới được Phật độ. Như vậy , người tín tâm ham muốn niệm 10 niệm sau không niệm nữa thì được sanh ở kiếp về sau như vậy đường sanh tử nó còn dài. Nên cái câu mà Đức Phật nguyện niệm 10 niệm của điều nguỵện 18 của Phật A Dia Đà được Đức Thích Ca dạy rõ trong Quán Kinh và Kinh Niệm Phật Ba La Mật, nói 10 niệm được sanh một đời này này là niệm vào lúc lâm chung. Cho nên chúng ta phải hiểu cái lời nguỵện của Đức A Di Đà đã nguỵên cho đúng nghĩa trong Kinh Niệm Ba La Mật , Đức Thích Ca dạy 10 niệm được vãng sanh , là khi lâm chung phải cố giữ niệm cho được 10 niệm nối nhau thì liền được vào Phổ Đẳng tam muội của PhậtA Di Đà liền được sanh qua Cực Lạc .

Còn Quán Kinh cũng dạy 10 niệm vãng sanh là niệm lúc lâm chung . Như vậyđiều niệm thư 18 nói niệm 10 niệm được vãng sanh là ý Ngài nguyện lúc lâm chung ai niệm 10 lần thì Ngài liền đến tiếp dẫn sanh qua cực lạc bằng không Ngài không thủ Ngôi Chánh Giác. Vậy thì quá rõ rồi, nên chúng ta muốn sanh qua Cực Lạc phải niệm 10 lần vào lúc lâm chung (là lúc sắp chết). Mà muốn lúc lâm chung niệm được thì bây giờ phải tập niệm cho quen gọi là tích luỹ nghiệp Có nghĩa là lúc chúng ta đi, đứng, nằm ,ngồi chúng ta vẫn phải luôn niệm Phật hoặc niệm ra tiếng hoặc niệm trong tâm. Niệm: “Nam mô A Di Đà Phật” hoặc A Di Đà Phật đềi được cả, và phải niệm cho lien tục trong lòng chỉ trừ khi làm việc bằng trí óc thì chúng ta mới tạm ngưng , nhất là lúc sắp ngủ chúng ta niệm cho đến lúc ngủ quên mới thôi. Chúng ta niệm được như vậy là nó tích luỹ câu Phật hiệu , huân tập chất chứa trong tạng thức , nó thành cái chủng tử niệm Phật nó thành một cái tràng niệm Phật nó thành một sức mạnh niệm Phật , nó thành thói quen niệm Phật gọi là Tịnh nghiệp niệm Phật. Đến khi thân hoại mạng chung do cái thói quen niệm Phật này , nên vừa tác ý niệm Phật thì câu Hồng danh nó liền bung tràn ra do chúng ta đã huân tập sẵn nên nó rất dễ niệm . Còn nếu bình thường chúng ta không huân tập niệm Phật đến lúc lâm chung nào thì bệnh đau hành khổ , nào là thương con tiếc của rồi nghiệp tạo trong đời và nghiệp đời quá khứ nó hiện ra nên chúng ta khó mà niệm được. Cho nên Kinh A Di Đà Đức Phật dạy phải niệm từ 1 đến bảy ngày cho tâm không loạn để lúc lâm chung được vãng sanh. Và kinh Niệm Phật Ba La Mật đức Phật dạy ta thường đi dứng, nằm, ngồi phải luôn niệm Phật cho chuyên nhất , cho nó thành thói quen. Như vậy,đức A Di Đà nguyện là chúng sanh niệm chỉ có 10 niệm lúc lâm chung thôi . Nhưng đức Thích ca thấy chúng ta nghiệp chướng quá sâu nặng mà muốn niệm được lúc lâm chung thì phải huân tập. Cho nên chúng ta niệm Phật thường thì hiện đời được nghiệp chướng tiêu trừ được tai ưua nạn khỏi (mặc dầu chúng ta không có cầu an). Và đến khi lâm chung , do ta đã huân tập sẵn nên niệm Phật đựoc dễ dàng và sự vãng sanh được đảm bảo chắc chắn.

Có nhiều người nói: “Nếu vậy tôi đợi lúc lâm chung rồi niệm 10 niệm còn bây giờ chơi cho đã tu niệm mệt lắm?” Xin thưa bình thường không huân tập thì đến giờ chết không tài nào niệm được đâu . Cho nên muốn niệm được thì bình thời hãy niệm cho quen đi. Như vậy , ai đã tín mộ Ngài và niệm 10 niệm trong lúc lâm chung thì đều được vãng sanh , thì đều được vãng sanh , chỉ trừ người tạo tội ngũ nghịch. Tội ngũ nghịch là gì ? 1-là tội giết mẹ, 2-là tội giết cha , 3-là tội giết bậc A La Hán, 4-làm than Phật ra máu, phá hoà hợp tăng. Đây gọi là tội ngũ nghịch vì sao ? Vì cha mẹ có công nuôi dưỡng mình mà mình nhẫn tâm sát hại nó trái với đạo lý nên gọi là nghịch , còn những bậc A La Hán là người chơn tu hiền từ đã đắc đạo quả Thánh mà mình đem cái tâm ác giết hại , cho đến Đức phật có lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh , Ngài ra đời để cứu độ chúng sanh mà mình đem tâm ác giết hại cũng như Đề Bà Đạt Đa đem cái tâm lăn đá đè chân Phật chảy máu – gọi là phạm tội ngũ nghịch.

Ngày nay Phật không còn tại thế , nhưng ai ác tâm phá huỷ chùa tháp tượng phật thì đồng tội làm thân Phật ra máu . Còn tội phá hoà hợp tăng nghĩa là gì ? Là chúng tăng đoàn tụ hội nơi tu hành , nếu dung thế lực để chia rẽ , phân tán hoặc đâm thọc them bớt cho bất hoà nhau đều là phạm tội phá hoà hợp tăng. Nguyện của Phật chỉ trừ những người phạm 5 tội này và tội huỷ báng Chánh Pháp . Huỷ báng Chánh Pháp là gì ? Chánh Pháp là những lời Phật dạy cuả chư Phật gọi là “Kinh Luật” mà ai đen tâm khinh chê chống đối bài bác gọi là huỷ báng Chánh Pháp. Như vậy những người ác kiến không tin và những ngoại đạo hay chê bai giáo lý của Phật. Nhưng chúng ta cũng phải cẩn thận vì không khéo thì có lúc những người tu cũng dễ vướng phạm, là vì Pháp tu của Phật dạy rất nhiều, tổng cộng có đến 84 ngàn pháp môn tu , ai có duyên với pháp môn nào thích hợp thì họ tu theo pháp môn đó . Cũng như Pháp mon Tịnh đọ của chúng ta đang tuđây tuy dễ , nhưng những người không có duyên với Phật A Di Đà nên họ không tu theo , mà họ thích tu Thiền tông … đây là các pháp tự lực mặc dầu khó nhưng cũng là pháp của phật dạy chúng ta không được chỉ trách chê bai.

Nếu chúng ta khinh chê là phạm tội huỷ báng chánh pháp của Phật , cho nên Phật tử phải cẩn thận . Như vậy , nguyện 18 của Phật loại trừ người phạm tội ngũ nghịch và tội huỷ báng chánh pháp ra , tất cả chúng sanh trong 9 giới (1-Bồ tát 2-Thanh văn 3-Duyên giác Độc giác 4-Thiên 5-Nhơn 6-A tu La 7-Súc sanh 8-Ngạ quỷ 9-Địa ngục). nếu niệm danh hiệu Phật lúc lâm chung thì Ngài liền tới tiếp sanh về Cực Lạc. Như vậy, chúng ta thấy nguyện 18 này bao chứa tràn đầy lòng từ bi trong đây.Chỗ trừ tội ngũ nghịch , có nghĩa những tội đó thì Ngài không có đảm bảo . Còn các tội thông thường khácnhw 5 giới , 10 giới , 250 giới nếu có lỡ phạm mà biết hết long hướng về niệm danh Ngài lúc lâm chung thì nhất định có Ngài bảo trợ và tiếp độ , nếu không như vậy thì Ngài phải từ chức , tức là “không thủ ngôi Chánh Giác “.Có như vậy mới gọi là tha lực , là thuyền từ cứu độ chúng sanh .

Có người nói rằng như vậy 10 niệm của điều nguyện 18 được vãng sanh một đời này là phải niệm lúc lâm chung , như vậy nó còn sự khó khăn cho chúng sanh. Vì lúc lâm chung là lúc sắp chết, mà chết có nhiều cách khác nhau, đâu phải chết từ từ như chết bệnh chết đau mà còn có nhiều cái chết đột tử bất ngờ như chết đuối, té núi,trúng độc,trúng gió, xe đụng,sung đạn tai nạn bất ngờ… gọi là bất đắc kỳ tử thì làm sao mà niệm kịp mười niệm,như vậykhông niệm phật được1 hoặc 10 niệm thì coi như công tu một đời này phí uổng hay sao ? Cho nên chúng ta cần luận rõ lại là điều nguyện thứ 18 này có tánh cách gấp rút , cấp cứu chụp giựt và có phần chưa an tâm. Cho nên điều nguyện này thì có phần khó. Gấp rút là gì? Là đức phật nói chỉ cần tin mộ muốn về nước ngài nhẩm mười niệm có nghĩa là gấp rút , điều nguyện này lúc đầu có vẻ rất dễ, tại vì Đức Phật không có ra điều kiện phát Bồ đề tâm hoặc tu các công đức nên nó rất là dễ . Người bình thường , người khong có tu sẵn mà chỉ phát tâm tin tưởng mến mộ muốn sanh về nước Ngài mà niệm được 10 niệm khi lâm chung liền được vãng sanh . Dầu được vãng sanh nhưng phẩm vị rất thấp, ở các bậc hạ phẩm.

Vì sao, vì gấp rút nên người này không có sẵn các tu đức , không có phát tâm Bồ đề , không có niệm nhiều mà chỉ niệm được 10 niệm trúng vào văn nguyện của Phật nên được lòng bi nguyện của Phật tiếp độ người này với tính cách gấp rút , vì do người này chưa dự bị sẵn , hoặc chưa biết giáo lý Tịnh độ , mà đến lúc lâm chung gặp bậc thiện tri thức dạy nên chỉ tin và niệm kịp 10 niệm mà thôi. Như vậy cái nguyện 18 này dùng độ những người chưa chuẩn bị trước hoặc gặp Phật pháp quá muộn , nên y theo điều nguỵen này thì chúng ta cần phải có người trợ niệm lúc lâm chung nhắc cho mình nhớ niệm Phật , mình nương tiếng trợ niệm để niệm theo lúc cuối 10 niệm, và nương nguỵện của Phật mà được vãng sanh. Như vậy căn cứ văn nguyện 18 này thì chưa ổn , và chưa chưa yên tâm vì phải chờ kết quả giờ lâm chung , có niệm Phật được hay không mới biết được vãng sanh hay không. Chính vì lý do này mà phần nhiều người tu Tịnh độ không tin chắc mình có được vãng sanh hay không . Vì rất lo ngại đến lúc lâm chung biết có được tỉnh táo để niệm Phật hay không , mặc dầu mình có huân tập niệm Phật sẵn . Đây là một lo ngại chính đáng chung . Vì chúng ta là hạng phàm phu nghiệp chướng nặng nề nên chúng a phải lo. Trước kia tôi cũng có những ái ngại lo cho mình chỗ này. Và chính vua Vô Tránh Niệm ở kiếp quá khứ về trước lúc suy nghĩ lập nguyện Ngài cũng thấy rõ sự lo ngại của chúng sanh ở điều nguyện này (chưa an tâm) do đó Ngài mới phát nguyện tiếp điều nguyện thứ 19 để hỗ trợ nguyện 18 cho chúng ta an tâm.

“Nguyện thứ 19 lúc tôi thành Phật thập phương chúng sanh phát Bồ đề tâm, tu các công đức nguyện sanh về nước tôi, đến khi lâm chung nếu tôi chẳng cùng Đại chúng hiện trước người đó, thời tôi không thủ ngôi Chánh Giác”.

Giảng: là 10 phương chúng sanh phát Bồ đề tâm, có nghĩa là cái tâm rộng lớn, tâm quyết tu cho thành Phật để cứu độ cho chúng sanh, chứ không chịu dừng để nghỉ ngơi ở địa vị Bồ tát hay La Hán, người có cái tâm chí mong mõi được thành Phật gọi là phát tâm Bồ Đề. Cái tâm này nó không có đòi hỏi ở vật chất giàu nghèo sang hèn hay than thể xấu đẹp, nên từ vua chúa đến kẻ ăn mày đều có thể phát được tâm này nên người tu niệm Phật phải phát bồ đề tâm mới đúng với lời nguyện 19 của Phật rồi tiếp tu các công đức. Các công đức là gì ? các công đức gồm có tự lợi và lợi tha. Tự lợi là mình giữ giới ăn chay đọc tụng kinh, niệm phật, lợi tha là bố thí, cúng dường, ấn tống, thuyết giảng Chánh Pháp hướng người tu hành… tất cả các việc làm này gọi là tu các công đức. Tùy theo sức của mỗi người mà các công đức ít nhiều tùy khả năng điều kiện nhưng phải có các công đức đó. Làm các công đức đó rồi nguyện sanh về cõi nước tôi .

Chữ nguyện là muốn nói lòng mình mong muốn về cõi Phật rồi mình phát ra cái lời văn nguyện .
Ở điều 18 chỉ nói lòng ham muốn là chỉ cho trong tâm. Còn nguyện 19 nói nguyện sanh, là tâm muốn rồi phải phát nguyện ra lời nguyện, và nguyện bằng văn phát nguyện để nhắc tâm. Thân tâm hợp nhất hướng về một chỗ cho nó mạnh cũng gọi là nguyện lực , là sức mạnh của lời nguyền như trước đã giảng. Như vậy điều nguyện này nói phát Bồ đề tâm , tu các công đức rồi xoay các công đức đó thệ nguyện được sanh qua nước Cực Lạc. Đến lúc lâm chung, là đến lúc chết nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện trước người đó thời tôi không ở Ngôi Chánh Giác.

Đến đây chúng ta mới thấy rõ sự an ổn của điều nguyện 19 này , nó có sự bảo hiểm cho chúng ta . Vì điều nguyện 19 này đầu tiên Phật ra điều kiện phải phát Bồ đề tâm , Bồ đề tâm này phải đứng đầu và bồ đề tâm này đâu có khó , vì nó đâu đòi hỏi phải có tiền mới phát được , cho nên ai có tâm là đều phát được , là ý nguyện mong sau này được thành Phật để độ chúng sanh. Nếu có tâm này rồi thì đã có bồ đề tâm.Mình phải tự kiểm lại coi mình có tâm này chưa , nếu chưa thì liền phát cho nó đúngvowis văn nguyện của Phật. Tiếp nữa là tu các công đức , như vậy ít nhiều Phật không buộc ở số lượng nhưng phải có tu các công đức mới đúng văn nguyện . Nhưng nếu ai tu công đức nhiều thì sanh phẩm cao , còn ai tu công đức ít thì sanh phẩm thấp. Mình tu công đức rồi là đã ăn khớp với văn nguyện của Phật . rồi mình dây cái công đức đó , thề nguyện sanh về nước Ngài tức cõi Cực Lạc. Chữ nguyện này tôi xin nói cho rõ là lòng mình ham mộ mong muốn , nó rạo rực ấp ủ trong lòng mình luôn hướng về đức Phật , mình mới phát ra cái thệ nguyện.

Như vậy , chúng ta phải hiểu , chớ có nhiều người sơ sót lớn chữ nguyện này nên cứ đứng trước bàn phật đọc bài văn cầu sanh Tây phương và cho là mình đã có nguyện rồi , còn tâm thì không thường hướng về Tây phương mà ngược lại lo tiền của thế gian. Như vậy thuộc giả nguyện rồi, dầu cho có lòng thành trong lúc nguyện đọc , rồi sau buông ra tâm lại lo đam mê thế gian, đó là gián đoạn nguyện chứ không phải là chuyên , như vậy chưa kịp với lời nguyện 19 của Phật . Như vậy chỉ có thể gieo nhân lành về sau mà thôi , chớ chưa được độ trong đời này vì chưa nguyện thiết với Phật. Như vậy các Phật tử phải lập nguyện làm sao cho tâm mình luôn hướng về với Phật , giống như người con xa nhà nhớ quê hương , cha mẹ và luôn mong mỏi được trở về . Lòng mình phải thường hướng nghĩ như vậy mới gọi là có nguyện , đây cũng gọi là nguyện thiết.

Trong tư liệu giảng của Vĩnh Minh thiền sư nói tu Tịnh độ thuộc về giáo còn có tịnh độ hay không là thuộc về người . Mà giáo lý Phật dạy rồi , ai cũng tu được nhưng tu cho nó đúng Tịnh độ thì đâu phải ai cũng có đâu. Nên có vị thiền sư hạch vấn , nếu có 10 người tu 10 người đổ , vậy sao tôi thấy nhiều người tu niệm Phật vô số mà không mấy người khi chết được thoại ứng điềm lành , được vãng sanh ? Thì Liên Mộ pháp sư trong cuốn đường về Cực Lạc của Hòa Thượng Trí Tịnh , Liên Mộ pháp sư nói: Vì tu Tịnh độ mà chưa có Tịnh Độ . cái miệng niệm Phật um sùm còn tâm thì đam mê lục dục cõi Ta bà nên kết quả không có thoại ứng điềm lành vãng sanh . Nên các người không hiểu pháp tu. Chỉ thấy người niệm Phật thì cho rằng tu Tịnh độ , nhưng tại sao lúc chết lại không có thoại ứng điềm lành vãng sanh . Nên họ sinh nghi và họ thoái tâm không tin kinh dạy của Phật. Nên hôm nay nhữ nguyện này phải lập nguyện cho đúng văn.

Bây giờ tôi thí dụ cho Phật tử hiểu đúng chữ Nguyện. Cũng như có một người con vì nghĩa vụ đất nước phải tạm xa cha mẹ quê hương để thi hành nghĩa vụ . Anh ta xa quê hương nhưng lòng luôn nhớ thương cha mẹ hoặc người thân yêu (bạn bè), nhất là vào các đêm thanh vắng thao thức. Lòng chỉ mong cho mau tròn xong nhiệm vụ để trở về, chứ không thích mến ở lâu trong quân ngũ.

Chữ Nguyện của Tịnh độ cũng y như vậy. Nghĩa là lòng luôn hướng về Cực Lạc, nhớ thương Phật A Di Đà như nhớ thương mẹ hiền. Tuy thân sống cõi Ta bà, vì phải trở cái nợ cũ nhưng lòng không mê thích ở đây. Tâm tâm niệm niệm ấp ủ chờ ngày xong nợ trần để đoàn tụ nơi quê hương Cực Lạc .

Này các Phật tử được như vậy gọi là nguyện thiết , là đúng văn ngyện 19 rồi thì đến lúc lâm chung có Ngài và Đệt tử Thánh Chúng hiện ra. Chúng ta nguyện xét cho kỹ lời văn nguyện này thì chúng ta thật là an tâm, vì không sợ chết bất đắc kỳ tử, hoặc cận tử nghiệp. Vì văn nguyện 19 này gồm có 4 phần:

Là phát Bồ Đề tâm
Là tu công đức
Là nguyện về nước Ngài
Lâm chung Ngài hiện ra.

Như vậy 3 phần đầu là Bổn nguyện của chúng ta tu tạo , còn thứ 4 là phần của Phật , nên nếu 3 phần đầu tat u tạo đủ thì bổn phận của Ngài cùng Đại chúng hiện ra lúc lâm chung , như vậy chúng ta đủ 3 phần của văn nguyện 19 rồi thì chỉ còn chờ phần của phật khi lâm chung Ngài hiienj ra , miễn lâm chung là có Ngài , chớ Ngài không có ra điều kiện lâm chung lành hay dữ, tốt hay xấu. Như vậy chúng ta có Bồ đề tâm tu các công đức rồi nguyện thiết rồi thì dù lân chung bằng cách nào cũng được Phật hiện thân ra tiếp dẫn. Vì nếu Phật không hiện ra ,Phật phải từ chức ngôi vị chánh giác như lời nguyện của mình. Người đời sự nhất là các chứng bệnh nan y vì một khi vướng phải thì chết . Còn người tu ngoài pháp môn Tịnh Độ thì sợ nhất là bất đắc kì tử và cận tử nghiệp. Còn pháp môn tịnh độ này nếu chúng ta tu chỉ y theo điều nguyện thứ 18 thì chúng ta vẫn sợ như thường Nhưng đến điều nguyện thứ 19 này là có một thứ thần được trừ chứng nan y như cận tử nghiệp và bất đắc kỳ tử, vì sao vậy?

Vì Phật nói lâm chung Ngài đến. Thì thí dụ chúng ta bị té cây chết hoặc trúng độc chết đột ngột …
Đây gọi là bất đắc kỳ tử, có nghĩa là không biết trước kỳ chết . Không biết trước kỳ chết là ý muốn nói người phàm mình thôi, vì quá đột ngột nên mình không biết trước được . Nhưng đối với Phật thì làm sao gọi là bất đắc kỳ tử được? Vì Phật là nhất thiết chủng trí thấy biết rõ suốt quá khứ , vị lai từng mỗi chúng sanh , chừng nào chết và sanh đi đâu , Phật đều biết hết nên mình đã hành đúng nguyện 19 rồi . Nên xe co tong vô thì Phật đã hiện ra liền . Và Phật rước cái thần thức mình vãng sanh ngay lúc đó . Lúc đó chỉ còn lại cái xác vô tri . Xe tong chết thì có gì mà đau đớn mà sợ các Phật tử ? Hoặc chẳng hạn một chút nữa ta bị thuốc độc làm chết ta không hề biết nhưng Phật đã hiện ra rồi . Ta vừa hớp thuốc độc vô thì thì Phật liền hiện ra tiếp ta . Đây là thí dụ trường hợp những người nghiệp nặng phải trả bằng cách phải chết dữ như vậy. Nhưng Phật đâu có nói hiền dữ miễn hành đúng lời nguyện của Ngài thì lâm chung có Ngài tới. Vậy điều kiện quan trọng của mình không sợ cận tử nghiệp hoặc chết dữ. Mà mình chỉ sợ thiếu Bồ đề tâm tu các công đức , và lòng mình không thật sự nguyện về cõi Phật. Mình chỉ sợ mình thiếu các điều kiện đó thôi , chớ mình đủ rồi thì chết cách nào cũng không sợ. Còn cận tử nghiệp là gì? Là nghiệp ác đời trước của mình nó hiện ra giờ sắp chết , mà lúc chết đã có Phật hiện ra rồi thì cận tử nghiệp nào dám đối dầu với Phật , cận tử nghiệp là dành cho người tu pháp tự lực , vì sức tu còn yếu nên bị cái nghiệp ác của mình đời trước nó nặng hơn nên nó hiện ra lúc sắp chết để nó giật tay đôi với nghiệp hiện đời . Mà nghiệp quá khứ mạnh hơn nên nó dẫn mình bị đọa lạc. Còn chúng ta nương vào tha lực của Phật.

Giờ lâm chung có Phật và thánh chúng hiện ra rồi thì nghiệp nào dám hiện ra chống phá, đối đầu với Phật. Như vậy chúng ta kết hợp 2 điều nguyện 18 và 19 lại thì chúng ta sẽ vững vàng trên đường vãng sanh chúng ta chỉ còn chờ mãn báo thân này nữa là xong , bảo đảm chết đến là được vãng sanh.

Ở điều nguyện 18 nói niệm 10 niệm được vãng sanh là niệm ở lúc lâm chung, mà lâm chung niệm 10 niệm chúng ta còn e ngại sợ chết bất đắc kỳ tử và sợ cận tử nghiệp. Nhưng tiếp qua điều nguyện thứ 19 đây thì chúng ta hết sợ. Vì chúng ta đã hành đúng văn nguyện 19 có Bồ đề tâm , tu công đức nguyện sanh Cực Lạc rồi, lâm chung có Phật hiện ra .Mà có Phật hiện ra thì 1 niệm, 10 đâu có khó khăn gì nữa. mà niệm 10 niệmmj là trúng cả hai điều nguyện . Như vậy là chúng ta trúng số độc đắc cả cặp , tắt hơi là qua Cực Lạc lãn đài vàng liền. Nên thật sự người tu Tịnh độ đúng pháp rồi cái chết đến với họ như người đời trúng số cả cặp vậy , mừng quá bây giờ đi lãnh . Bởi vì người tu Tịnh độ lúc chết cái mặt lại vui hơn lúc bình thường mặt mày thần sắc họ tươi rói . vì thấy Phật tới rồi làm sao hổng vui được . trăm kiếp ngàn đời trong lục đạo này bao nhiieu cay đắng nó nhầu nhúng ta , bây giờ được đức A Di Đà đến đón rước về Cực lạc vĩnh viễn không còn sinh lão bệnh tử , được đầy đủ pháp lực của Bồ tát để độ người thân kẻ oán thì hỏi làm sao mà không mừng được. Nên hôm nay tôi đã luận giảng kỹ 2 điều nguyện 18 -19 này. Các phật tử phải hành cho đúng thì không còn lý do gì để lo sợ không được vãng sanh. Có nhiều người niệm phật rất giỏi , nhưng mà chỉ biết niệm thôi , chứ không biết phát Bồ đề tâm , không tha thiết mong mỏi về với Phật nên lúc chết nào tiếc của nào thương con ,có niệm đi nữa cũng chỉ gieo phước thôi chứ làm sao có thoại ứng điềm lành thấy phật hào quang qua rước.

Này các phật tử hôm nay tôi không có khỏe lắm , nhưng tôi phát hiện chỗ bảo hiểm của điều nguyện 19 này tôi rất an tâm . Tôi muốn nói ra cho những người đồng nghiệp tu hành hieur rõ để không còn phải lo sợ cận tử nghiệp và bất đắc kỳ tử nữa. Như vậy nguyên nhân của sự niệm Phật các Phật tử đã có rồi , là niệm Phật đẻ qua thế giới của Phật. Lời nguyện của Phật như biển, ai niệm trúng cái nhân nguyện của Phật là được biển thệ của đức Như Lai , nhớ cái đức từ bi nguyện lực của Phật mà tội chướng người đó được tiêu trừ nên mình niệm 10 niệm lúc lâm chung được vãng sanh còn lúc bình thời niệm nhiều thì nó tăng phần công đức nên phẩm vị vãng sanh càng cao. Nên Ngẫu Ích Đại sư nói: người được vãng sanh hay không là do nơi tín nguyện có cùng không . nếu có tín nguyện thì nhất định được vãng sanh . Còn niệm Phật làm công đức nhiều thì sanh phẩm cao , niệm Phật ít thì sanh phẩm thấp nhưng được vãng sanh hay không mới quan trọng , còn phẩm cao hay thấp không thành vấn đề. Cho nên chữ tín -nguyện trong Tông Tịnh độ các phật tử phải tạo cho có và cho kiên cố , mà cái chữ nguyện nó nắm cái vai trò chủ chốt quan trọng , ví sao vậy ? Vì trong nguyện nó bao gồm cả tín và hạnh rồi , còn tín có thể nó không bao gồm nguyện và hạnh trong đó. Vì sao ? Cũng như bây giờ cõi Cực Lạc do Phật Thích Ca giới thiệu thì cảnh Đông Phương giáo chủ của Phật dược sư cũng do đức Thích Ca giới thiệu.

Cho nên chúng ta tin cõi Cực Lạc thì chúng ta cũng phải tin cõi Đông Phương . Như vậy đối với Đông Phương chúng ta có tin mà không có hạnh nguyện . còn ngược lại có những chúng sanh cầu về Đông Phương họ cũng tin tây phương nhưng họ cũng không có hạnh nguyện về tây phương. Tôi nói ra để biết chữ tin nó nằm riêng rời ra, còn chữ nguyện thì không có đứng riêng rời được .như người nguyện về Cực Lạc thì đã có chữ tín thu theo rồi, chớ không tin thì nguyện đi đaau , nhờ có tin nên mới nguyện . Chữ nguyện này nó đứng chủ chốt quan trọng mà quan trọng này nó mới có sự vận hành niệm Phật theo , thành ra cái người năng nổ niệm Phật là phải biết người đó chí nguyện rất sâu mà cái nguyện này phải nhấn mạnh vào nó thì tự nhiên cái hạnh rất dễ niệm theo , chớ không phải ép niệm và có nguyện thì cái niệm mới thoải mái chớ không bị căng thẳng thần kinh. Cũng như pháp tu Thiền dung cái lý duy tâm Tịnh độ tự tánh Di Đà , họ mượn cái tên đức phật mà họ niệm để tự khai thị sáng Phật tánh của mình , họ không có chí nguyện gì với Phật hết hết, những người này tuy có niệm Phật nhưng không có mùi vị gì hết , nên nó rất căng thẳng mệt mỏi người này dầu có niệm phật được nhất tâm đi nữa thì cũng để tự khai thị tự tánh mà thôi .không có tin nguyện nên không cảm đến Phật thì không do đâu Phật trợ lực người này được. Còn chúng ta có nguyện rồi , niệm nhất tâm thì phẩm vị cao , còn nếu chúng ta không niệm nhất tâm thì phẩm vị thấp. Cho đến lúc lâm chung mà chúng ta y nguyện 19, chúng ta không niệm Phật được cũng quyết được vãng sanh .Vì nguyện 19 hoàn toàn không có bảo niệm nhưng để kết hợp nguyện 18 chúng ta phải niệm nếu kịp , còn không niệm cũng có phần bảo hiểm phần bảo hiểm của của điều nguyện 19 này. Còn nếu chỉ y theo điều nguyện 18 mà không kiêm tu theo nguyện 19 thì khi lâm chung phải niệm 10 câu niệm Phật mới được vãng sanh . Nếu không niệm kịp hoặc quên hoặc hôn mê thì coi như ở lại đường sinh tử chờ kết quả đời sau . Mà đời bây giờ đang nhằm lúc hiếp đạo đức ngày càng suy , bạo ác càng thịnh , người lành càng ít, người dữ nhiều nên nếu không quyết chí để vãng sanh đời này thì đời sau lên e khó tu hơn.

Hai điều nguyện này có cái đặc biệt của nó. Như nguyện 18 dùng để cứu vớt những người tu muộn người ác lúc lâm chung mới gặp thiện tri thức dạy tu . Vì lúc cấp bách này làm sao họ tu theo nguyện 19 kịp và cần có sự trợ niệm cho họ .Còn nguyện 19 có tính cách sẵn sàng chuẩn bị và được sự bảo hiểm của Phật . Nên có hộ niệm hoặc không , thậm chí không niệm Phật kịp hoặc hôn mê cũng quyết được vãng sanh . Nên chúng ta cần phải kết hợp hai điều kiện 18 -19 và hành cho đúng như lời giảng của tôi thì nhất định sẽ được vãng sanh. Này các Phật tử , nếu các Phật tử y theo lời giảng của 2 điều nguyện 18 và19 này nói rất quan trọng và trợ giúp với nhau mà mọi người y theo 2 lời nguyện này tu là vững chắc , không có lý do nào mà không được vãng sanh.

Một người ở thế gian họ không có tu , mà những người gọi là quân tử , một khi họ hứa với ai thì phải giữ lời , gọi là quân tử nhất ngôn . Còn Đức Phật của chúng ta nguyện đây là tự nguyện vì lòng từ bi tràn đầy với chúng sanh , nên muốn đem chúng sanh từ cõi khổ đến cõi an vui và giáo hóa cho thành Phật , tự tâm ngài phát nguyện ra nên cái nguyện là cái mực thước đo lòng ngài , mà lòng ngài từ bi quá độ nên cây thước 48 lời nguyện này là tột đỉnh tấm lòng từ bi của ngài đối với chúng sanh bao la hải hà nên tự nguyện , tức nhiên ngài phải làm tròn cái lời nguyện của mình. Vì quân tử thế gian còn không thất hứa với ai huống chi là một vị Phật lại quan trọng là đã hứa trước chúng hội có Đức Phật của mình đã chứng minh , và ngài thành Phật 10 kiếp đã qua rồi. Trong kinh niệm Phật Ba La Mật Đức Thích Ca nói lòng từ nguyện lực của ngài sâu dày nên từ quá khứ đến nay 10 kiếp đã qua chưa từng bỏ sót một người nào ,dầu người đó có phạm vào ngũ nghịch thập ác.

Điều nguyện 18 nói trừ người tạo tội ngũ nghịch và hủy báng chánh pháp nhưng mà quán kinh nói những người phạm ngũ nghịch thập ác biết hồi tâm sám hối niệm Phật một niệm , hoặc 10 niệm Phật A DI ĐÀ liền tiếp trước .Như vậy nguyện 18 nói trừ người tạo tội ngũ nghịch ….là ý đức Phật muốn rào đón trước . Cho mình đừng có dính vào những tội này , vì ai mà vướng vào cái tội này thì khó hồi tâm sám hối niệm Phật được. Bởi vì phạm vào rồi thì cực trọng nghiệp nó hành cho người này khổ đau , đâu có yên tâm mà hồi hướng sám hối được , cho nên triệu người mà phạm tội này may ra có vài người chịu ăn năn sám hối niệm Phật. Nên đức Phật vì lòng từ bi muốn cho chúng ta được bảo đảm vãng sanh nên Ngài rào đón trước bằng cái lời trừ ra .Nhưng mà ai lỡ phạm mà chịu quay đầu thì lòng từ của ngài không bỏ .Nên kinh Ba La Mật Đức Thích Ca nói đức Di Đà chưa từng bỏ xót một chúng sanh nào dầu người đó phạm vào ngũ nghịch là cái ý này đây. Cho nên chúng ta phải tin triệt để vào lời nguyện của Phật .Chúng ta hành cho đúng lời nguyện của ngài thì chúng ta không lo gì hết. Chẳng lẽ 10 kiếp đã qua đức Phật không bỏ xót ai hết mà bây giờ Ngài lại bỏ xót mình hay sao. Nếu đức Phật bỏ xót một người nào mà người đó hạnh đúng nguyện 18-19 tức thời Ngài phải từ chức ngôi vị Chánh Giác liền .Mà chẳng lẽ vì một người mà phá hoại ngôi vị Phật được sao .Thành ra chúng ta phải yên tâm không có bị một lý thuyết nào bài bác cho chúng ta ngã lòng .Gỉa sử Đức Thích Ca có hiện hình trở lại nói ta có pháp khác tu mau thành Phật hơn , mình cũng lạy mà xin tạ từ vì con chỉ nguyện 1 lòng theo đức A di Đà mà thôi . Như vậy đến như Phật hiện ra mà ta còn không thay đổi ý chí huống là các người thế gian bài bác phá hoạiys chí ta được. Được như vậy gọi là chí nguyện kiên cố , dầu tất cả mọi người trên cõi Tam Thiên này mới đẻ ra liền niệm Phật , niệm này đêm đến 100 năm rồi chết không có thoại ứng vãng sanh . Cũng không vì đó mà chúng ta sanh nghi , tại sao? Chẳng qua họ niệm nhiều mà thiếu chí nguyện và lòng tin. Thành ra Đức Di Đà đâu có bảo chúng ta niệm nhiều , 10 niệm thôi , nhưng 10 niệm đó phải có đủ lòng tin chí nguyện trong đó. Cho đến điều nguyện 19 Ngài không có vấn đề niệm gì hết , chỉ phát Bồ Đề tâm , tu các công đức nguyện sanh về nước tôi , lúc lâm chung tôi hiện ra trước người đó, hiện trước người đó để làm chi ? Vì tiếp độ nên Ngài mới hiện ra.

Như vậy điều nguyện thứ 19, Phật không có đề cập đến vấn đề niệm Phật , nhưng vì hỗ trợ cho nên chúng ta cần phải niệm Phật , vì tu các công đức công đức nào bằng công đức niệm Phật ,niệm Phật là công đức lớn nhất. Cái câu lúc tôi thành Phật thập phương chún sanh tu các công đức trong đó có công đức niệm Phật rồi . Như vậy niệm Phật tùy ích nhiều chúng ta kết hợp lại điều nguyện 18 – 19 thì an toàn bảo đảm nhất. Có nhiều người không tu , họ thấy mình niệm Phật họ hù dọa niệm thì niệm chứ không chắc đâu vì giờ chết cận tử nghiệp nó mới quan trọng. Ý họ nói họ không cần niệm Phật , họ có làm các đi nữa tới giờ chết họ niệm cũng được . Còn mình niệm cho nhiều biết đâu đến giờ chết cận tử nghiệp nó lôi mình trở lại , ý họ đánh giá như vậy. Thì bây giờ nguyện 19 này có Phật bảo hiểm lúc chết nên chúng ta an tâm . Vì cận tử nghiệp nào dám đối đầu với Phật , nghiệp ngũ nghịch thập ác còn không cản được Phật.

Người phạm tội ngũ nghịch là cái nghiệp cực mạnh mà niệm Phật còn độ được huống hồ chúng ta đã phát bồ đề tâm , tu các công đức và nguyện sanh về cõi Ngài đã trúng y lời văn nguyện 19 thì cận tử nghiệp nào dám hiện ra , bất đắc kỳ tử nào mà qua được Phật . Bất đắc kỳ tử là đối với phàm còn Phật là nhất thiết chủng trí làm sao không biết chúng sanh giờ nào chết mà biếtb rồi là Ngài hiện ra . Cho nên chúng ta phải giải cho thông, nguyện lực cho dõng mãnh , tin cho vững chắc thì chỉ còn thời gian mãn kiếp Ta bà liền sanh TỊNH ĐỘ.

Thích Thiện Thuận