Người Mẹ Điên

Người Mẹ ĐiênĐôi dòng giới thiệu về tác giả:

Chuyện “Vừa đọc vừa khóc” hay “Mẹ điên” của tác giả Vương Hằng Tích gần như ghi lại những sự kiện có thật, được xếp vào dạng “tiểu thuyết ghi chép thật” (ký thực tiểu thuyết), nhân vật chính là gia đình người cậu của tác giả .

Vương Hằng Tích là người dân tộc, nhà nghèo đói, thất học, học gần hết THCS thì năm 1985 rời khu tự trị tỉnh Hồ Bắc ra đi kiếm việc khi 15 tuổi, làm mọi việc cửu vạn rồi đi học nấu ăn, tự mày mò viết văn, chủ yếu là viết tản văn, ghi chép, tự truyện lặt vặt. đọc tiếp ➝

Lâm Chung Mê Man Bất Tỉnh Rất Khó Vãng Sanh

Lâm Chung Mê Man Bất Tỉnh Rất Khó Vãng SanhMê man bất tỉnh là một cái nạn rất khó chịu cho người muốn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc!

Chúng ta muốn một đời này vãng sanh về đó, thì phải chú ý đến điểm này. Vì một khi đã mê man bất tỉnh thì thường thường người hộ niệm đến khai thị, chúng ta không nghe được, người ta niệm Phật chúng ta không biết được và thường thường là cái tâm thức của chúng ta lúc đó đang quay cuồng trong dòng nghiệp báo, bị chi phối bởi oan gia trái chủ… nên không nghe được những cái lời khai thị, không theo được những sự dẫn dắt của ban hộ niệm. Đây là một điều mà vô cùng nguy hiểm!… đọc tiếp ➝

Sư Bà Thấy Phật & Cảnh Tây Phương Vãng Sanh Để Lại Nhiều Xá Lợi

Sư Bà Thấy Phật & Cảnh Tây Phương Vãng Sanh Để Lại Nhiều Xá LợiĐược Phật A Di Đà gia hạn sống thêm 5 năm. Sư Bà Thích Như Phụng thấy Phật, thấy cả cảnh giới Tây Phương Cực Lạc và được chết trong mùi thơm đúng như ước nguyện.

NHƯ Lai trưởng tử trụ Ta bà,
PHỤNG sự nhân quần dĩ lợi tha,
TÂY xứ phu tòa quy bỉ ngạn,
HƯNG Thiền châu kết độ hà sa,
NI đồ phổ nhuận Tôn Sư đức,
TRƯỞNG ấu đồng triêm pháp lục hòa,
MINH hiển từ tâm hành lục độ,
CẢNH huyền cao chiếu nhứt thiền gia.

Tháng 10 năm 2002, chúng tôi có việc phải về Việt Nam, trong thời gian mười ngày bên đó, chúng tôi được nghe quý Sư và Phật tử thường nhắc về hạnh tu của Sư Bà Như Phụng. Chúng tôi rất muốn được đến thăm Sư Bà nhưng vì lý do đặc biệt khiến chúng tôi không thể rời khỏi nhà. Sau khi trở về bên này, trong câu chuyện tham khảo ý kiến với Bác Tịnh Hải về vấn đề vãng sanh, chúng tôi có trình bày với bác rằng: “Dựa theo sách Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá Lợi của bác, cháu nghĩ tại Sa Đéc sẽ có hai vị cao tăng Ni sau này sẽ vãng sanh lưu Xá lợi”. Dự đoán ấy nay đã trở thành sự thật!

Mấy tuần trước, chúng tôi được gia đình cho biết, Sư Bà Như Phụng đã thị tịch và để lại rất nhiều xá lợi. Chúng tôi liền báo tin cho Bác Tịnh Hải rõ, bác yêu cầu chúng tôi liên lạc về Sa Đéc để thu thập hình ảnh và bài tiểu sử của Sư Bà do liên hữu Thiện Thành gởi qua, chúng tôi đã liên lạc trực tiếp với Sư cô Thích nữ Như Hiền thuộc chùa Tây Hưng để xin thêm những chi tiết về công hạnh tu tập và trường hợp vãng sanh của Sư Bà.

Sư Bà Thích nữ Như Phụng tự Diệu Thành, pháp hiệu Giác Mỹ, sinh năm 1911 tại làng Tân Vĩnh Hòa, Quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc. Là đệ tử xuất gia của Hòa Thượng Thích Vạn Ân thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 41. Thân phụ là cụ Phạm Văn Lắm, người rất hiền hòa phúc hậu, thân mẫu là bà cụ Huỳnh Thị Trúc, một người mẹ đảm đang đức hạnh. Sư Bà là con thứ sáu trong gia đình có tám anh chị em và là chị của cố Ni Trưởng Thích nữ Như Lan, trụ trì chùa Thanh Thiền ở Sa Đéc và Ni Trưởng Thích nữ Như Hiếu, đương kiêm trụ trì chùa Tây Hưng.

Thuở thiếu thời, Sư Bà thường xuyên lui tới chùa Tây Hưng, tụng kinh niệm Phật, công quả sớm hơm và quy y Tam Bảo. Càng ngày Sư Bà nhận thức sâu sắc về cuộc đời giả tạm, khổ nhiều hơn vui, từ đây chí xuất trần tu thiện pháp càng mãnh liệt. Khi duyên lành đã sẵn đủ, lại được sự chấp thuận của song thân, Sư Bà lên đường tầm sư học đạo. Năm 1929, lúc vừa tròn 19 tuổi, Sư Bà đến chùa Tây Hưng cầu Hòa Thượng Thích Vạn Ân xin được thế phát xuất gia tu học. Tháng 11 năm 1945, Hòa Thượng Bổn sư viên tịch, Sư Bà được giao phó trọng trách.

Sư Bà chuyên tu theo pháp môn niệm Phật A Di Đà. Thuở ban đầu, ngay sau khi xuất gia, Sư Bà niệm Tam Thiên Phật, rồi Vạn Phật, Ngũ Bách, tụng Sám Hối Hồng Danh, nhưng về sau Sư Bà chỉ niệm thánh hiệu “A Di Đà Phật”. Ngay cả khi Sư Bà kết hạt chuỗi bo bo, mỗi hạt bo bo là một biến “A Di Đà Phật”.

Công phu niệm Phật của Sư Bà không bao giờ dãi đãi, thời khóa niệm Phật hàng ngày bắt đầu từ 2 đến 4 giờ sáng; 7 đến 9:30 giờ; 2 đến 4 giờ chiều; 5:30 đến 7 giờ tối. Sư Bà ngọ trai lúc 12 giờ trưa và sau đó tụng Kinh A Di Đà, việc này Sư Bà đã thực hành nghiêm chỉnh ngay từ lúc mới xuất gia.

Sư Bà đã niệm Phật miên mật như thế trong suốt thời gian dài làm cho chúng tôi nhớ đến lời dạy của Ngài Ngẫu Ích Trí Húc Đại Sư mà Hòa Thượng Minh Tâm đã ghi trong Lời Bạt của sách Những Chuyện Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá Lợi: “Đời mạt pháp, ức vạn người tu hành, ít có một người đắc đạo. Chỉ còn nhờ phép Niệm Phật mới được độ thoát. Than ôi, nay chính là đời mạt pháp rồi mà bỏ pháp môn niệm Phật này thì còn pháp môn nào tu học được nữa”. Vì vậy trường hợp vãng sanh lưu lại Xá lợi của Sư Bà Như Phụng đối với hành giả chuyên tu theo pháp môn Niệm Phật chắc cũng không có gì ngạc nhiên.

Ngoài công phu niệm Phật, Sư Bà đã thực hành hạnh của Bồ Tát mà ít có người làm được. Như trên đã nói, Sư Bà kết chuỗi bo bo, mỗi hạt là một biến “A Di Đà Phật”, mỗi ngày kết hai tràng để tặng cho chúng sanh Phật tử, nguyện của Sư Bà là mong cho mọi người đều niệm Phật. Sư Bà phát năm cầu nguyện khi thí chuỗi là:

Cầu cho Phật tử dồi sào sức khỏe
Cầu cho người niệm Phật tài vật đầy đủ
Chí niệm thường tinh tấn
Thực hành hạnh nguyện Bồ Tát
Khi bỏ thân được vãng sanh Cực Lạc.

Ngày nay nhiều Phật tử ở hải ngoại có dịp về thăm lại chùa Tây Hưng vẫn thường nhớ đến những tràng chuỗi bằng hạt bo bo và ao ước có được xâu chuỗi như thế để tưởng Phật, niệm Phật.

Với tâm nguyện cứu độ chúng sanh, phát nguyện cầu siêu cho chư hương linh được siêu sanh lạc quốc, Sư Bà đã bỏ ra bốn năm trời, cứ vào mùa Thanh Minh, thường đến hết nghĩa trang này lại qua nghĩa địa khác để trì chú Tán Sa cho hương linh, mỗi phần mộ ba vòng. Năm 1948, Sư Bà cùng với Sư Bà viện chủ chùa Thiền Quang ở Sài Gòn tổ chức kỳ siêu, vớt vong bằng giàn Thủy Lục, trong đêm các Ngài tụng Kinh Địa Tạng, niệm Hồng danh “A Di Đà Phật” để hồi hướng cho chư hương linh.

Sau đó Sư Bà nhập thất ba năm. Trong thời kỳ nhập thất này, Sư Bà rất ít nói chuyện, thị giả hay Phật tử chỉ mang thức ăn vào thất rồi trở ra. Sư Bà chú tâm vào việc tụng Kinh niệm Phật để hồi hướng cho hương linh các chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn.

Năm 1964, Sư Bà lại nhập thất tịnh tu ba năm, tiếp tục nhứt tâm niệm Phật và tụng Kinh để hồi hướng cho ngôi Tam Bảo sung túc, huynh đệ tu hành tinh tấn, đàn na hưng thịnh. Và trong suốt thời gian sau này, Sư Bà vẫn thường xuyên nhập thất niệm Phật.

Năm vừa qua, thấy tuổi hạc đã cao, Sư Bà phát nguyện trước chư Phật: “Con nay đã trên 90 tuổi rồi sao lại chưa đi, nếu như thọ mạng chưa dứt, xin chư Phật cho con ở lại thế gian 5 năm nữa để con gieo trồng bo bo, kết chuỗi hầu khuyến khích Phật tử niệm Phật”. Mấy hôm sau, bên tai Sư Bà nghe có tiếng nói: “Thôi, mãn nguyện rồi, con nên đi đi”. Ở đây, Sư Bà xin thêm 5 năm nữa, chúng tôi vẫn thắc mắc, không rõ trước kia Sư Bà có nguyện gì nữa không, nếu là có thì có thể đã có sự cảm ứng đạo giao mà Sư Bà thường ít nói nên không ai biết được chăng ?

Sư Cô Như Hiền có kể lại, là cách đây gần một năm, khi ngồi trước chánh điện niệm Phật, Sư Bà ngửi được mùi hương thơm phảng phất rất là dễ chịu và nhìn thấy được cảnh giới tốt đẹp với những thứ cỏ lạ đều đặn, thẳng tấp trên cát mịn màng, thoáng xa xa người người lui tới trong y phục đẹp, trang nhã và lịch sự nhưng Sư Bà chưa được vào cảnh giới đó. Bỗng chốc Sư Bà nhớ ra là mình đang niệm Phật và đang ngồi ở chánh điện.

Những giờ phút sau cùng của đời người, trước khi được về với Phật, Sư Bà rất tỉnh táo, vui vẻ, hay hỏi han vuốt ve các Phật tử tới viếng thăm. Sanh tiền Sư Bà thường nguyện với Đức Phật A Di Đà, xin “được chết thơm”, xin đến lúc lâm chung được ra đi nhẹ nhàng, tinh thần minh mẫn. Nay nguyện của Sư Bà đã được thành tựu như ý.

Sư Cô Như Hiền nhớ lại lần thân bệnh vào năm trước, đôi lúc Sư Bà còn kêu than đau đớn nhưng lần sau cùng này, Sư Bà không kêu rên hay than đau và luôn luôn giữ thế nằm nghiêng về phía tay phải, thế nằm của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật khi nhập diệt.

Hơn chín mươi năm trụ thế, tấm thân ngũ uẩn được sử dụng để phụng sự Đạo pháp và chúng sanh đã hao mòn theo năm tháng, thân thế tuy mỏi mệt nhưng tinh thần luôn luôn trong sáng và tinh tấn niệm Phật. Khoảng bốn ngày trước khi vãng sanh, Sư Cô thị giả bạch thỉnh ý Sư Bà xin tụng bộ Kinh Đại Bi Đạo Tràng Sám Pháp – Lương Hoàng Sám để hồi hướng công đức cho Sư Bà, Ngài hoan hỷ chấp nhận, và thời gian này Sư Bà còn lên chánh điện để quan sát. Khi bộ Kinh được tụng đến quyển thứ bảy, qua phần Chú Vãng Sanh, đang tụng thời Sư Bà đã xả báo thân, thu thần viên tịch. Trong giây phút cận tử nghiệp này, Sư Bà vẫn còn nhép môi để niệm Phật, niệm thầm trong tư tưởng. Ngài ra đi với nét mặt hồng tươi khác lạ, da mặt căng thẳng và đầy nét hoan hỉ, trên tay vẫn còn cầm xâu chuỗi, cho đến lúc tay dũi thẳng ra xâu chuỗi mới rớt xuống một cách tự nhiên, nhẹ nhàng trước mặt quý Sư Cô. Lúc đó là 5 giờ chiều ngày mồng 8 tháng 9 năm Quý Mùi tức ngày 3 tháng 10 năm 2003. Nơi tịnh thất, trên chánh điện chùa Tây Hưng tiếng niệm “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” vang lên. Sư Bà trụ thế 92 tuổi, hạ lạp trải qua 63 mùa an cư kiết hạ.

Với hạnh nguyện lợi tha cao cả, Sư Bà đã cống hiến cả cuộc đời mình một cách thầm lặng cho đời và đạo. Việc làm của Sư Bà tuy đơn giản nhưng nếu không có Bồ Đề tâm, không có Bồ Tát hạnh thì cũng không dễ gì làm được. Công đức và đạo hạnh của Sư Bà vẫn còn sống mãi trong lòng người con Phật, nhất là Ni giới và hàng Phật tử tại gia. Đặc biệt nhất vẫn là vô số xá lợi đủ màu mà Sư Bà đã lưu lại cho hậu thế, trong đó có 5 viên XÁ LỢI NGỌC. Theo lời Sư Cô Như Hiền, Sư Bà Như Hiếu chỉ giữ lại một số xá lợi như đã thấy trong hình để khuyến khích Phật tử tu hành niệm Phật, số còn lại được đem đi rải trên sông.

Sư Cô Như Hiền còn cho biết, sau lễ trà tỳ tại lò hỏa táng Bình Hưng Hòa, huyện Bình Chánh – Sài Gòn, Xá lợi được đem về thất để lựa trong tối hôm đó. Đến 2 giờ khuya, giờ mà Sư Bà bắt đầu cho ngày tu niệm Phật, Sư Cô thị giả nghe thấy có luồng gió mát với hương thơm ngào ngạt giống như hương thơm của hoa sứ (ngọc lan). Mùi thơm này lưu lại cho đến mười phút.

Sư Bà Như Hiếu cho biết: “Sở cầu sở nguyện của Sư Bà Như Phụng đã được như ý nên Sư Bà đã trở về với Đức Từ Phụ A Di Đà Phật”.

Bốn năm trước đây, tại Sa Đéc, hàng Phật tử tại gia có cụ bà Diệu Thành đã vãng sanh để lại xá lợi với sự nhiệm mầu là từ chín viên nhỏ đã tự kết hợp lại thành ba viên xá lợi lớn (*), nay là Sư Bà Thích Nữ Như Phụng đã vãng sanh để lại nhiều xá lợi đủ màu và năm viên NGỌC XÁ LỢI. Sự vãng sanh của hai vị Bồ Tát nói trên thật là một tấm gương sáng, một bài học quý báu, giúp cho Phật tử ở Sa Đéc có lòng tin sâu xa vào sự thù thắng của Pháp môn Niệm Phật và nhứt là lời dạy vô cùng quan trọng của Đức Bổn Sư trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật nói phẩm thứ hai: “Bởi vậy mà Ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn hôm nay trân trọng xác quyết rằng: VÃNG SANH ĐỒNG Ý NGHĨA VỚI THÀNH PHẬT, VÌ VÃNG SANH TỨC LÀ THÀNH PHẬT”. Chắc chắn là trong tương lai nơi đây sẽ còn có thêm nhiều vị được vãng sanh!

Thiện Thành và Minh Thịnh cẩn ghi.

(*) Đây là lời thuật của vị Sa Môn đã trường chay trong suốt hơn hai mươi năm trước khi được đắp y vàng từ ba mươi năm qua. Ngài nay đã chín mươi tuổi, có lòng tin sâu xa vào Pháp môn niệm Phật, đã và đang thực hành pháp môn này một cách rốt ráo.

Lời Tịnh Hải:

Xin chư vị lưu ý, trong tập sách này có rất nhiều chuyện vãng sanh. Và toàn là những người chết đẹp bởi sau khi được Phật A Di Đà rước, mọi nghiệp chướng đều được Phật A Di Đà dùng Phật lực xóa hết, nên đã để lại những gương mặt thật đẹp.

Tại sao mỗi vị được vãng sanh, Đức Phật A Di Đà phải tốn công như vậy?

Bởi đó là đại nguyện của Ngài. Ngay trong nguyện thứ nhứt, Ngài đã nói: “Hết thảy chúng sanh, sanh vào nước con đầy đủ thân sắc, chân kim vàng tía, băm hai vẻ đẹp, tướng đại trượng phu, đoan trang nghiêm chánh, tinh khiết thanh tịnh, đều đồng một loại.

Thân xác của chư vị được vãng sanh, lưu lại ở đây đẹp đẽ như vậy, chỉ là một chuyện rất tầm thường. Theo tinh thần lời Kinh, khi Sư Bà Như Phụng đến Cực Lạc liền được thân kim vàng tía và đổi sang tướng trượng phu, tức thân nam và hình dạng tướng mạo đều giống Đức Phật A Di Đà.

Tại sao được vậy?

Tại vì, người tu pháp môn niệm Phật đều gọi Phật A Di Đà là Từ phụ. Đây là đức cha hiền từ thương tất cả các con.

Chúng ta khi nhập thai ở cõi này, đâu từng thấy trước mặt mũi cha mẹ, vậy mà khi được sanh ra còn giống cha hay giống mẹ. Còn bây giờ, chúng ta thờ Ngài, ngày đêm lại tưởng nhớ, niệm danh hiệu Ngài. Do thần lực của Ngài, nên về đến Cực Lạc tất cả đều giống cha như khuôn đúc.

Có dịp chúng tôi sẽ trình bày điều này nhiều hơn.

Cuộc đời Sư Bà là tấm gương tu hành kiên trì, đúng đạo pháp và pháp môn niệm Phật. Ngoài việc tự lực niệm Phật cầu vãng sanh, Sư Bà còn có tinh thần lợi tha. Sư Bà đặc biệt lo cho sự siêu thoát các vong linh tử nạn vì chiến tranh. Chẳng rõ Sư Bà Như Phụng có khả năng cầu cho người chết siêu thoát được hay không. Nhưng hành động và tinh thần của Sư Bà không trục lợi là điều chúng ta khâm phục.

Đối với người sống, Sư Bà gieo trồng bo bo lấy hạt và mỗi ngày đều ngồi kết hạt bo bo làm chuỗi để tặng Phật tử. Một hạt bo bo được kết, Sư Bà lại niệm một câu hồng danh A Di Đà Phật. Do tâm không chạy theo trần cảnh, mà suốt ngày chỉ niệm A Di Đà Phật, quả chính là Sư Bà đã niệm Phật mà trong tâm có Phật, như Hòa Thượng Tịnh Không nói.

Theo chúng tôi, Sư Bà đã diện kiến Phật A Di Đà một lần. Đó là lần Sư Bà yêu cầu cho hoãn lại ngày vãng sanh với hạn kỳ 5 năm. Căn cứ vào lời nguyện của Sư Bà và câu nói thầm lặng: “Thôi, mãn nguyện rồi, con nên đi đi” mà chúng tôi tin tưởng như vậy.

Ngoài ra, Sư Bà Như Phụng còn thấy cả cảnh giới Cực Lạc và được chết trong mùi thơm, đúng như Sư Bà ước nguyện.

Hòa Thượng Tịnh Không thường giảng: “có cầu sẽ có ứng”. Xin chư vị đọc kỹ cung cách tu hành của Sư Bà và hành động đúng theo Sư Bà, chắc chắn chư vị cũng được toại nguyện y như vậy.

Trích Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá Lợi
Cố cư sĩ Tịnh Hải

Không Nên Chờ Đến Đời Sau Rồi Tu Tiếp

Không Nên Chờ Đến Đời Sau Rồi Tu TiếpTrong đời này ta niệm Phật là có đại nhân, ta quyết lòng đem cái nhân này đi về Tây-Phương Cực-Lạc tức là nguyện vãng sanh, rõ ràng “Nhân” gặp “Duyên” sinh ra “Quả báo” vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Còn nhân này là nhân thành Phật, nhưng ta bỏ con đường vãng sanh thành Phật, lại chờ vài ngàn kiếp nữa mới nguyện vãng sanh về Tây-Phương, thật là oan uổng!

Trong những tọa đàm trước, Diệu Âm có nói câu này, có nhiều người nghĩ rằng cần phải tu thiện tích phước cho nhiều mới có khả năng vãng sanh, chứ làm gì mà vãng sanh dễ vậy? Vì tự nghĩ thế nên mới dẫn dụ người ta hãy niệm Phật để cầu phước. Cầu cho có phước rồi thì đời sau tiếp tục tu tiếp, chủ trương tiếp tục tu dưỡng phước-đức đến vô lượng kiếp như vậy, mong cho đủ phước để vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc!… Thì trong kinh cũng có nói rằng, một người nào trong đời này gặp câu A-Di-Đà Phật, niệm được câu A-Di-Đà Phật, chứng tỏ trong vô lượng kiếp về trước họ đã tu thiện phước nhiều lắm rồi, lớn lắm rồi, thiện-căn phước-đức đã có rồi, khiến cho đời này họ mới dám mạnh dạn mặc cái áo tràng, vào trong Niệm Phật Đường niệm câu A-Di-Đà Phật. Phật đã xác định như vậy, bây giờ chúng ta ngồi đây niệm Phật mà còn nghĩ rằng mình không có nhân-duyên, mình không có phước-đức?!…

Nghe trong các kinh khác, Phật nói muốn về Tây-Phương Cực-Lạc, muốn thành đạo Vô-Thượng phải tu vô lượng kiếp, thành ra quý vị cũng dẫn dắt chúng sanh tu vô lượng kiếp. Nhưng xin hỏi rằng, đời này mình tu như thế này, đời sau nếu mình được trở lại làm người, liệu có ai chỉ cho mình câu A-Di-Đà Phật để niệm nữa hay không? Đó là điểm thứ nhất.

Theo như ngài Ấn-Quang Đại Sư nói, giả sử như đời sau mình không trở lại làm người thì sao?… Ngài nói, nhờ có thiện-căn phước-đức lớn lắm mình mới gặp câu A-Di-Đà Phật. Tuy nhiên, đã sinh lại làm người trong thời mạt pháp của đức Thế-Tôn rồi, thì nghiệp chướng của chúng ta nó cũng tràn trề chứ không phải là yếu đâu, không phải nó thua cái thiện-căn đó đâu à!…

Nếu khôn khéo, mình nhanh chóng, gấp rút gom hết tất cả những thiện-căn phước-đức trong nhiều đời nhiều kiếp dồn vào đây để niệm câu A-Di-Đà Phật, thì ngày hôm nay ta có đại nhân để đi về Tây-Phương. Đi về Tây-Phương rồi thì ta sẽ có được tất cả. Tu hành như vậy thì ta đi con đường một đời thành tựu!…

Nếu bây giờ chúng ta chê bai những công hạnh tu hành trong quá khứ, cứ liệng, liệng cho hết, buông xuống cho trụi lủi đi những thiện-căn trước của mình!… Hoặc là chê bỏ nó đi!… Cứ việc chê bỏ đi!… Chê bỏ rồi tiếp tục lăn lộn trong cảnh sanh tử này mà tạo thiện-căn mới… Chưa biết thiện-căn mới sẽ như thế nào? Nhưng ta đành chịu thêm cảnh sanh tử luân hồi vô lượng kiếp nữa!… Thì đây cũng chính là ta quyết định lấy, chứ Phật không dạy như vậy!…

Bây giờ giả sử như một người không đủ thiện-căn phước-đức đi. Hỏi họ, muốn tạo thêm không? Xin thưa với chư vị, muốn tạo cũng dễ lắm!… Dễ lắm!… Dễ chỗ nào?…

– Một câu A-Di-Đà Phật thành tâm niệm thì phước tăng vô lượng, phước-đức tràn trề!
– Một câu A-Di-Đà Phật quyết lòng mà niệm Thiện-Căn tràn trề!
– Một câu A-Di-Đà Phật mà niệm gọi là Đại-Nhân-Duyên…

Nhất định ta được trở về Tây-Phương Cực-Lạc. Đó gọi là “Thâm tín nhân quả”…

Nếu mà chúng ta không tin rằng ta niệm một câu A-Di-Đà Phật là do một cái nhân-duyên vô cùng vĩ đại, vô cùng tốt đẹp trong quá khứ, mà chỉ nghĩ rằng: À! Người ta niệm, mình cũng niệm cho vui!… Thì xin thưa thật, ở đây có một trăm người, nếu có một người nào nghĩ rằng niệm câu A-Di-Đà Phật để tìm thêm chút phước-báu, là tự họ đã tách rời con đường thành tựu, đi theo con đường phước-báu để chuẩn bị chịu dập dềnh, dập dềnh vô lượng kiếp nữa trong sanh tử luân hồi rồi mới tính sau. Không biết trong vô lượng kiếp đó tình cảnh của họ sẽ như thế nào?…

Hồi sáng mình nói rõ rệt!… Lỡ lọt lại đời sau mà có được làm thân người đi nữa!… Làm người trong thời mạt pháp này thì sao?… Mạt pháp của Phật pháp có nghĩa là một đời Phật pháp sẽ yếu hơn một đời. Bây giờ chúng ta đã gặp cơ duyên niệm Phật trong cái thế mạnh hơn của Phật pháp, mà ta không chộp lấy cơ hội này để mau chóng đi về Tây-Phương, lại còn có ý niệm chờ đến đời sau!… Chờ khi mà Phật pháp yếu đi!… Chờ cho nghiệp chướng của ta nặng hơn!… Hỏi rằng chúng ta còn có cơ hội để đi về Tây-Phương thành đạo Vô-Thượng được nữa sao?…

Khi hiểu được chỗ này, thì chư vị mới thấy rõ ràng là ta ngồi đây niệm câu A-Di-Đà Phật, thật sự ta đang ở trên con đường thẳng bưng đi về Tây-Phương. Nếu ta đem tất cả thiện-căn phước-đức và nhân-duyên niệm Phật này để dồn vào việc vãng sanh trong một đời này. Nhất định đây là con đường tốt nhất, không có đường nào khác tốt đẹp hơn. Đó gọi là “Thâm tín nhân quả”.

Đừng dại gì dùng cái sơ tín hay cái nông tín, nông tín là niềm tin cạn cợt đó, mà niệm Phật hầu tạo thêm phước để đời sau tu tiếp nhé. Không nên làm như vậy! Làm vậy sẽ tội nghiệp cho huệ mạng của mình lắm!…

Vì sao?… Vì xin thưa rằng, dù thế nào đi nữa, tương lai ta có thiện-căn phước-đức lớn như thế nào đi nữa? Điều này chưa biết! Nhưng bên cạnh đó oan gia trái chủ của chúng ta đang ở sát bên mình đây nè!… Tuy rằng là người tu hành, nhưng anh không quyết lòng đi về Tây-Phương thì họ cũng không quyết lòng buông xả những oán thù mà chúng ta đã gây cho họ đâu!…

Tại vì sao?… Tại vì những người còn kẹt lại trong chốn lục đạo này thì không đủ khả năng trả cái món nợ sinh mạng của họ đâu ạ! Không trả món nợ sinh mạng cho họ, thì nên nhớ cho, nhất định họ không phải là Thánh đâu ạ!… Họ không phải là Phật đâu ạ!… Mà họ là một phàm phu đã bị chúng ta sát hại! Tâm phàm phu là tâm chấp trước nặng lắm! Tâm oán thù của họ mạnh lắm!… Họ không đành lòng tha thứ cho người cắt thịt, lột da họ đâu à!…

Nghĩ thử, chính ta là người đây này, cũng có lý trí đây này… Nhưng một người nào đó lỡ đụng chạm tới tự ái của chúng ta một chút thôi, mà ta còn căm thù lên, căm thù xuống tới mức không biết ngày nào mới có thể xả được! Nhiều khi người ta tới tạ tội, người ta quỳ lạy mình để xin lỗi mà mình cũng không chịu tha thứ!…

Con người đó!… Có lý trí đó!… Có tâm hồn đó!… Mà còn tệ như vậy đó!… Đừng nói chi những chúng sanh yếu hơn mình, họ mê muội hơn mình mà mình sát hại họ?!… Chính vì vậy mà oan gia trái chủ của chúng ta, xin thưa với chư vị, nếu một đời này mà họ biết rằng mình không phải là người đi thành Phật, thì không dại gì họ lại tin tưởng ở một người còn tham đắm cõi trần này đâu à! Một người đời này có khả năng thành tựu, trước tự giải thoát, sau cứu được oan gia trái chủ giải quyết oán thù, đền trả nợ nần mà không thèm đi, lại chờ, lại hẹn vài ngàn kiếp nữa!… Không ai dại khờ gì đi tin sự khất nợ phiêu phỏng của hạng người phàm phu tham chấp này đâu à!…

Chính vì thế, ách nạn cũng tại đây, mà giải ách nạn cũng tại đây. Nếu chúng ta quyết lòng thành tâm đi về Tây-Phương thành Phật, thì một lời nói khuyên nhủ điều giải oan gia trái chủ sẽ giải quyết nhẹ nhàng, thoải mái. Nếu chúng ta không chịu về, ngập ngừng, chập chững… thì lời điều giải sẽ không có ảnh hưởng gì hết! Chính vì thế, mà nạn tai hay là phước báu, Cực-Lạc hay là đọa lạc… đều ở từ trong tâm này mà ra hết.

Nếu chúng ta quyết lòng đi về Tây-Phương, trên thì A-Di-Đà Phật phóng quang tiếp độ, dưới thì oan gian trái chủ hộ trì, giữa thì chư Thiên-Long Hộ-Pháp chuẩn bị bảo vệ cho chúng ta con đường đi thành Phật… Còn nếu chúng ta rời khỏi con đường vãng sanh thành đạo, tức là chúng ta đi theo con đường đọa lạc, không bao giờ có một vị Long-Thiên Hộ-Pháp nào lại đi bảo vệ một người còn muốn trôi nổi trong lục đạo luân hồi đâu! Không có một vị Bồ-Tát nào lại bảo vệ cho một người muốn đi xuống dưới tam ác đạo để thọ nạn đâu!

Chính vì thế, chúng ta hãy ráng cố gắng quyết lòng niệm câu A-Di-Đà Phật. Chư vị nhìn đi… Đó!… A-Di-Đà Phật đó! Ngài sẽ gởi hai mươi lăm vị Bồ-Tát đến bảo vệ cho chúng ta liền. Hai mươi lăm vị Bồ-tát ngày đêm gia bị và không biết là bao nhiêu chư Thiên-Long Hộ-Pháp bảo vệ chúng ta. Chúng ta đi con đường an lành, thanh thản về Tây-Phương vừa thành Phật, trên thì tròn Phật đạo, dưới phổ độ chúng sanh. Cơ hội này biết bao nhiêu là sung sướng…

Mong cho chư vị lấy cái “Nhân-Duyên” này nhất định đi về Tây-Phương thành đạo nghe chư vị.

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Cư Sĩ Diệu Âm (Minh Trị)