Niệm Phật Cảm Ứng Hết Bệnh Kinh Niên [Video]

Niệm Phật Cảm Ứng Hết Bệnh Kinh NiênMột cụ bà mang chứng bệnh lắc cổ kinh niên do quả báo từ nghề nghiệp, bà thường ngắc đầu dế để làm món ăn cho khách hàng. Nay nhờ lòng chí thành, khẩn thiết niệm Phật cụ được lành bệnh tự lúc nào không hay. Từ một người hung dữ, tánh tình luôn nóng giận hay chửi bới người khác không kể những người thân trong gia đình, cụ bà Trần Thị Ích như đã lột xác hoàn toàn để biến thành một người biết cảm thương, đồng cảm với kẻ khác sau một lần “niệm Phật để tự tử” không thành. Chúng ta hãy nghe những lời bộc bạch tâm sự thật bình dị nhưng chân thành của cụ để tìm hiểu thêm “bí quyết” niệm Phật của cụ.

 

Bà Cư Sĩ Họ Hàn 2 Lần Thấy Phật Vãng Sanh Nhờ Tích Cực Hộ Pháp Cho Hoà Thượng Tịnh Không

Bà Cư Sĩ Họ Hàn 2 Lần Thấy Phật Vãng Sanh Nhờ Tích Cực Hộ Pháp Cho Hoà Thượng Tịnh KhôngĐây là chuyện niệm Phật thấy Phật vãng sanh đáng được chúng ta lưu tâm, vì người được Phật A Di Đà tiếp dẫn là một cư sĩ đã đóng góp một phần lớn cho cuộc đời tu hành và hoằng pháp của Hòa Thượng Tịnh Không.

Cuộc đời tu hành gian nan và sự hoằng pháp thành công ngày nay của H.T Tịnh Không, ngoài sự tự lực của Ngài, đáng kể nhứt là sự hộ pháp của bà Hàn cư sĩ.

Trong đời tu hành, H.T Tịnh Không gặp được 3 vị Thầy giỏi. Đầu tiên, Hòa Thượng Tịnh Không học với giáo sư Đông Phương Mỹ. Kế đó, học với Chương Gia Đại Sư thuộc Mật Tông. Sau khi Chương Gia Đại Sư viên tịch, Ngài Tịnh Không gặp cư sĩ Lý Bỉnh Nam.

Cư sĩ Lý Bỉnh Nam đưa điều kiện là phải buông bỏ tất cả những gì mà hai vị Thầy trước đã dạy thì ông mới thâu nhận làm đệ tử, và những Kinh sách nào, ông cho đọc mới được đọc.

Cư sĩ Lý Bỉnh Nam là đệ tử chân truyền của Ngài Ấn Quang, Tổ thứ 13 của Tịnh Độ Tông (xin xem bài Vãng sanh Lưu Xá Lợi của cư sĩ Lý Bỉnh Nam ở phần sau).

Năm 45 tuổi, theo lời tiên đoán của một nhà tướng số, đáng lý Hòa Thượng Tịnh Không đã chết trong cơn bạo bịnh như hai người bạn đồng tu đã chết trước, đúng như lời tiên đoán. Nhưng, nhờ Ngài biết buông bỏ tất cả. Kiên trì và miên mật niệm Phật suốt 1 tháng, H.T. Tịnh Không đã chuyển được nghiệp lực.

Theo chúng tôi, H.T. Tịnh Không đã niệm Phật thành khối và đạt được niệm Phật “Nhất Tâm Bất Loạn”, có thể Ngài đã được sự nhất tâm bất loạn.

Nghe các băng giảng của Hòa Thượng, chúng tôi nghĩ Ngài đã dứt được Kiến hoặc và Tư hoặc. Kiến hoặc có 10 loại: thân kiến, biện kiến, kiến thủ, giới thủ, tà kiến, tham, sân, si, mạn, nghi. Tư hoặc gồm có: tham, sân, si, mạn vi tế.

Lý nhất tâm bất loạn khó hơn, đòi hỏi phải phá một phần Vô minh. Khi nào phá được một phần Vô minh sẽ chứng được một phần Pháp thân. Vô minh tổng cộng có tới 42 phần.

Từ lâu vấn đề niệm Phật “Nhất Tâm Bất Loạn” được đề cập. Nhưng trong Kinh Vô Lượng Thọ, phẩm thứ 24 “Ba Bậc Vãng Sanh” không đòi hỏi Nhất tâm bất loạn, chỉ cần “nhất hướng chuyên niệm”.

Theo chúng tôi khi vượt qua niệm Phật thành khối, H.T Tịnh Không đã chuyển được nghiệp lực, việc sanh tử không còn thành vấn đề, nên Ngài đã không chết. Ngài sẽ tự tại vãng sanh, muốn đi hay ở lại Ta Bà lúc nào tùy Ngài thương lượng với Đức Phật A Di Đà. Điều này chúng tôi nghe qua trong dĩa CD Chuyển Nghiệp Lực Thành Nguyện Lực và dĩa MP3 Vãng Sanh Luận do Hòa Thượng Tịnh Không giảng. Chúng tôi sẽ đi sâu vào vấn đền này trong sách Tu Chứng Quả Vãng Sanh.

Bây giờ trở lại bà Hàn cư sĩ. Cuộc đời tu hành của H.T. Tịnh Không bỗng nhiên liên hệ đến gia đình của Hàn cư sĩ. Năm Hòa Thượng Tịnh Không 51 tuổi, Ngài bắt đầu sự nghiệp Hoằng pháp. Có chút tên tuổi thì tai họa xảy đến. Đạo Tràng mà Hòa Thượng xuất gia, muốn Ngài làm công việc cầu siêu cầu an, lo tiếp độ vong linh. H.T Tịnh Không từ chối. Vì theo Ngài, Kinh Sám hay cầu siêu không thể giúp cho người đã chết và các vong hồn được siêu thoát.

Kết quả, H.T Tịnh Không được mời ra khỏi chùa. Thời kỳ này, H.T Tịnh Không đã có đệ tử. Nhiều người đến các chùa khác để vận động cho Ngài Tịnh Không một chỗ tạm trú. Nhưng tất cả chùa am đều từ chối.

Trước tình thế này, Ngài Tịnh Không tiết lộ trong sách Làm Thế Nào Cứu Vãn Phong Hóa Xã Hội như sau:

1- Tôi phải từ bỏ con đường hoằng pháp lợi sanh theo đuổi Kinh Sám, lo tụng Kinh, sám hối, cầu an, cầu siêu tức là đi tiếp độ linh hồn.

2- Tôi phải hoàn tục, tiếp tục làm việc để mưu sinh.

Trước tình cảnh nguy kịch này, vợ chồng Hàn cư sĩ xuất hiện giúp đỡ cho Ngài Tịnh Không, dù rằng họ cũng không dư giả. Họ có phòng trống mời Ngài Tịnh Không về tạm ở.

Người tu mà rời khỏi Tăng đoàn là điều hết sức khổ sở. Bà Hàn cư sĩ tỏ ra là người hộ pháp đắc lực. Và cả gia đình họ Hàn phải gánh chịu nhiều mũi dùi gièm pha, phỉ báng. Do từ nhiều nơi đặt điều nói xấu và làm áp lực để khiến cho Ngài Tịnh Không không còn chỗ dung thân.

Chẳng những bà Hàn cư sĩ không đầu hàng trước áp lực, mà tích cực lo mướn chỗ cho Ngài Tịnh Không tập giảng Kinh. Trước đây, cư sĩ Lý Bỉnh Nam, Thầy của Ngài Tịnh Không chỉ dạy cách giảng pháp. Nếu mỗi tuần không có một ngày lên bục giảng pháp thì không thể nào trở thành một pháp sư giỏi.

H.T. Tịnh Không tiết lộ: “Tôi được sự gia trì của gia đình họ Hàn nên cơ hội giảng Kinh của tôi thật mỹ mãn. Mỗi tuần ít nhất có 3 lần lên bục giảng. Có lúc đến 5 lần 6 lần. Tối đa tôi nhớ, đại khái có 2 năm cơ hội lên bục giảng rất nhiều : sáng, chiều và tối. Mỗi tuần có 30 tiếng”.

Trong thời gian này, có lúc bà Hàn cư sĩ không để Ngài Tịnh Không nghe điện thoại. Bà muốn Ngài để hết thời gian và tâm trí vào việc luyện tập giảng pháp.

Bà quyết tâm đóng góp công sức để đào tạo một pháp sư giỏi. Từ năm Ngài Tịnh Không lâm nạn, bị bế tắc nhiều mặt cho đến lúc lập được một đạo tràng nhỏ là 17 năm. Năm đó Hòa Thượng được 68 tuổi lập được một đạo tràng nhỏ và lập thêm được một thư viện lấy tên Đồ Thư Quán Cảnh Mỹ. Một số người nghe Pháp sư Tịnh Không giảng pháp, sanh tâm hoan hỷ, tình nguyện xuất gia. Thế là Ngài Tịnh Không có được một Tăng đoàn nhỏ.

Ngài Tịnh Không và gia đình họ Hàn bị các chùa ở Đài Loan bao vây cô lập trong suốt 17 năm dài. Công đức hộ trì của bà Hàn cư sĩ và gia đình thật là vĩ đại. Nhờ có bà mà thời mạt pháp này có được một đại sư suốt đời lo việc hoằng pháp lợi sanh.

Tịnh Hải chúng tôi tuy không là đệ tử của Hòa Thượng Tịnh Không, nhưng cũng nhờ có sự hộ pháp của bà Hàn cư sĩ mà hưởng được lợi lạc trong các pháp giảng của Ngài Tịnh Không.

Bà Hàn cư sĩ hộ trì cho H.T. Tịnh Không suốt 30 năm. Bất ngờ bà lâm trọng bịnh. Tuy vậy mà vẫn thản nhiên như chẳng bịnh hoạn.

Ngày 1 tháng 3, bịnh viện bảo con bà, 2 giờ nữa bà sẽ đi, dạy họ lo hậu sự. Lúc đó 6 giờ chiều. Đến 8 giờ bà tỉnh dậy, đòi uống nước. Qua 10 giờ 30, Phật A Di Đà đến. Bà bỗng tỉnh táo hơn bao giờ hết, bà nói và cười. Chiều ngày 3 tháng 3, bác sĩ bịnh biện khám bịnh nói: “Những người học Phật thật khó hiểu. Tại sao không khỏe rồi lại hồi phục?”.

Phật A Di Đà xuất hiện lo việc dùm H.T Tịnh Không.

Lúc ấy, Ngài Tịnh Không chợt nghĩ chiếc áo cà sa màu hông không đúng pháp, nên bàn với Hàn cư sĩ đổi lại, dùng màu cà phê.

Xin hãy nghe H.T Tịnh Không kể về việc Phật A Di Đà lo việc dùm cho Ngài:

“Cho nên tôi gọi điện cho Đồ Thư Quán, bảo Ngộ Đạo lập tức thông báo cho cửa hàng Tăng phục Bản Kiều, cùng với chúng Tăng (nam) xuất gia của Đồ Thư Quán chúng tôi, mỗi một người may một bộ y 25 điều, màu cà phê. Lập tức thông báo cho bà chủ cửa hàng, hy vọng bà có thể may cho chúng tôi nhanh một chút.

Buổi tối, bà chủ cửa hàng Tăng phục đến Đồ Thư Quán để lấy số lượng, kích thước của chúng tôi. Chúng tôi nói với bà mong bà có thể may cho chúng tôi nhanh một chút. Bà nói cho chúng tôi bà đã biết rồi. Chúng tôi rất ngạc nhiên, làm sao bà có thể biết? Buổi trưa, Phật A Di Đà thông báo cho bà biết, nói Đồ Thư Quán có việc gấp, họ cần tìm thợ làm gấp cho họ. Chúng tôi nghe bà nói những điều này trong lòng vô cùng kinh ngạc, nhưng cũng vô cùng an ủi kinh ngạc vì từ trước đến nay chưa từng nghe qua, Phật A Di Đà đích thân thay thế người khác sắp xếp công việc, chưa từng nghe! Trong sách xưa cũng không thấy ghi chép về việc này. Như vậy đúng trưa hôm ấy, trưa mùng 3, Quán trưởng Hàn thấy Phật A Di Đà cùng lúc. Một người thì ở bệnh viện, một người thì ở cửa hàng, sự kiện này đem đến một niềm tin rất lớn cho chúng tôi.

Quả nhiên trang phục chúng tôi yêu cầu, bà chủ cửa hàng đưa đến đúng hẹn. Quán trưởng Hàn vào lúc 4 giờ 20 chiều mùng 5 an nhiên vãng sanh. Tăng phục đưa đến cho chúng tôi trước đó. Hết thảy chúng tôi đều như pháp, trong lòng an ổn, hoan hỷ vô song. Chúng tôi ngẩm nghĩ Hàn Quán trưởng đến thế gian này để hộ trì Phật pháp, nên có thể nói Phật A Di Đà phái Bà đến, Bà không phải là phàm nhân. Bà đến có nhiệm vụ của Bà. Bà đi, công đức Bà làm đã viên mãn. Phật A Di Đà tiếp dẫn Bà đi. Bà trong khoảng thời gian này 2 lần thấy Phật A Di Đà. Một lần thấy Hải Hội Liên Trì. Bà nói với chúng tôi Liên Trì rộng lớn lắm! Liên hoa đẹp lắm! Bà ra đi an lành như thế. Trước khi ra đi, Bà nói chuyện với chúng tôi rất thoải mái, chẳng có chút gì đau khổ. Bà đi rất vui vẻ.”

Trích Những Chuyện Niệm Phật Thấy Phật Vãng Sanh
Cư sĩ Tịnh Hải

Phim Du Tịnh Ý Công Gặp Táo Thần

Phim Du Tịnh Ý Công Gặp Táo ThầnPhim được lão hòa thượng Tịnh Không cố vấn chỉ đạo. Nội dung phim kể về sự chuyển nghiệp kỳ diệu của Du Công ngay trong chính gia đình ông. Nhờ được Táo thần khai ngộ ông đã hiểu vì sao cuộc đời của ông đã gặp nhiều trắc trở. Du Công đem kinh nghiệm của cả cuộc đời mình thành tâm viết nên câu chuyện này để mong rằng con cháu đời sau hãy xem đường đời gập ghềnh ly kỳ của mình mà lấy đó tự răn.

Việc đời xưa này nghịch nhiều thuận ít, bại dễ thành khó. Nhưng cho dù hoàn cảnh có khó khăn như thế nào cũng phải quyết giữ chánh đạo. Nếu dùng tâm không chánh đáng, dùng thủ đoạn để hưởng thụ thì rất ngắn ngủi. Đó gọi là đến rất nhanh, mà đi cũng rất nhanh. Sự vui vẻ chẳng biết bao giờ đến rồi chợt mất lúc nào. Rồi có một ngày tất cả những khổ báo mà mình phải nhận lấy là những điều mà tuyệt nhiên chúng ta không thể nghĩ đến.

 

Nằm Mộng Không Niệm Phật Được Khó Vãng Sanh

Nằm Mộng Không Niệm Phật Được Khó Vãng SanhCuối đời nhà minh, có Đại sư Tử Bách, là một trong bốn vị đại sư lỗi lạc của cuối nhà Minh, đó là : Đại sư Liên Trì, Hám Sơn và Ngẫu Ích. Một hôm, có vị tăng đến hỏi đạo. Sau khi đảnh lễ, vị ấy thỉnh Đại Sư Tử Bách khai thị.

Đại sư Tử Bách hỏi:

– Hằng ngày, ông tu pháp môn gì?

Vị tăng đáp:

– Đệ tử thuộc hạng độn căn, không thông thạpo các pháp môn, chỉ niệm A Di Đà Phật mà thôi.

Đại sư hỏi:

– Ông là người tu niệm Phật, vậy lúc nằm mộng ông có niệm Phật không?

Vị tăng đáp:

– Lúc tỉnh con niệm Phật dược, còn lúc mộng thì con không nhớ đến Phật.

Đại sư đáp:

– Niệm Phật như vậy làm sao có tác dụng! Trong mộng không nhớ niệm Phật thì việc ông cầu sinh Tịnh độ cũng giống như ngàn cân treo sợi tóc, đèn treo trước gió mà thôi!

Tại sao Đại sư Tử Bách lại nói như vậy? Tại vì lúc mộng cũng như chết. Nói như vậy không được thuận tai cho lắm, nhưng sự thật là vậy. Lúc nằm mộng là chết nhỏ (chết trong một thời gian), cứ tối ngủ không làm chủ được mộng là chết nhỏ, sáng mai thức dậy sinh hoạt bình thường, quanh năm suốt tháng cứ như vậy, không có chính niệm, niệm Phật, nếu một mai vô thuờng đến (chết lớn) làm sao mà niệm Phật? Hay nói cách khác: lúc nằm mộng (chết nhỏ) còn không niệm Phật được, vậy lúc vô thường (chết lớn) lại càng không niệm được. Các bạn hãy đem lời dạy này khảo sát lại bản thân mình, xem thử mình công phu niệm Phật tới đâu, có nắm chắc được vãng sinh hay không, liền có thể biết được mà nỗ lực niệm Phật.

Nằm mộng rất nguy hiểm, bạn không nên xem thường nó. Bạn phải đặc biệt chú ý. Khi nằm mộng là lúc thức thứ sáu (ý thức) không làm chủ được “linh giác” của mình, nó luôn chạy theo cảnh mộng thì thật là nguy hiểm!

Chuyện kể rằng: núi Phổ Đà ở Nam Hải, vào đời nhà Thanh có hòa thượng Liễu Tình. Nhân duyên xuất gia của thầy rất thú vị, chính là vì nằm mộng sau đó mới xuất gia. Thầy nằm mộng như thế nào? Lúc còn tại gia, thầy là một thanh niên tin Phật, ngày nào cũng tụng một quyển kinh Kim Cang, dù bận rộn như thế nào, khuya như thế nào thầy cũng nhất định tụng cho xong rồi mới đi ngủ. Thầy tu rất tinh tấn, trong ngày có thể cơm không ăn cũng được, nhưng không thể không tụng kinh.

Một đêm nọ, lúc ngủ thầy nằm mơ thấy nhà mình có một cỗ xe (lúc bấy giờ là xe ngựa), trên xe có sáu cô gái, cô nào cũng rất là dễ thương, sắc đẹp của các cô làm cho “chim sa cá lặn”, như tiên nữ giáng trần; chính là “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Các cô tiến đến gần hỏi: “Chàng ơi! Đến đây! Chàng ơi đến đây! Trên xe còn rất rộng, chúng thiếp có để cho chàng một chỗ này!”. Hòa thượng Liễu Tình lúc ấy là một thanh niên, cũng giống bao nhiêu người thanh niên khác, khó mà thắng nổi với những nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, cộng thêm với những lời mời ngọt như đường và những nụ cười “chết người”… cậu ta cảm thấy thú vị liền lên ngồi. Xe đi được một lúc thì dừng lại, sáu cô gái bước xuống, cậu cũng bước xuống. Cậu thấy phía trước có một cái cửa, nhưng cửa rất nhỏ. Sau khi sáu cô gái vào trong, cậu cũng có ý định vào theo. Nhưng rất lạ, sáu cô gái không đi mà bò vào, cậu cùng làm y như họ. Sau khi họ bò vào xong, đến lượt cậu, cậu thấy một vị thần Kim Cang, giống như Bồ tát Vi Đà tay cầm chày Kim Cang, vừa thấy cậu liền cản lại: “Ông không được vào đây ra mau, ra mau!”. Nhưng cậu cứ một mực đi vào, thần Kim Cang hét: “Đã nói không được vào, mà ông cứ cứng đầu muốn vào, nguời tụng kinh Kim Cang, không được phép vào nơi này, tôi đã bảo ông đi ra mà ông không chịu đi à!”, liền lấy chày Kim Cang nện xuống đầu cậu, khiến cho đầu cậu vô cùng đau nhức, ngay lập tức liền ngất xỉu, khi tỉnh dậy thấy mình nằm trên giường. Cậu nói: “À, thì ra là nằm mơ!”. Nhưng quái lạ, cậu cảm thấy ở đâu có mùi rất hôi như là mùi phân heo, mùi này từ trước đến nay trong nhà cậu làm gì có, mà cũng chưa từng nghe mùi này bao giờ. Chao ôi! Cậu cũng vô cùng mệt mỏi, trong dạ lại bồn chồn, mồ hôi ướt đẫm cả thân. Cậu xem kỹ lúc này mới quá nửa đêm, ngủ lại cũng không được, nên dậy tụng kinh Kim Cang và ngồi cho đến sáng. Đến sáng, cậu quyết định đi tìm nơi mà tối qua đã nằm mơ thấy, cậu đi tới những nơi gần đó để tìm xem, vốn dĩ cái cửa nhỏ là gì?

Ô! Nó kia rồi! Cậu vẫn còn nhớ như in cái cửa nhỏ này, đó là cái rãnh nước ở ngoài chuồng heo (nơi chuồng heo người ta đào một cái rãnh để cho phân và nước tiểu của heo chảy ra), chính là nơi tối qua cậu thấy mình đi vào. Bấy giờ cậu cảm thấy lạnh cả xương sống, liền đi tìm người chủ để hỏi thật hư thế nào.

Cậu hỏi:

– Thưa ông chủ! Cho tôi hỏi một chút. Nửa đêm hôm qua có ai đến đây không?

Ông chủ đáp:

– Làm gì có ai, nửa đêm mà đến.

Cậu hỏi:

– Tối qua tôi nằm mộng thấy bảy người đi vào trong đó bằng con đường nhỏ này, chẳng hay bên trong đó có xảy ra việc gì không?

Ông chủ cười và đáp:

– À! Có việc như thế này. Nhà tôi có nuôi heo nái, tối qua heo mẹ sinh được bảy con heo con, sáu con cái và con đực, nhưng con đực vừa sinh ra đã chết rồi.

– Con heo chết ông bỏ đâu? Có thể dẫn tôi đi xem được không?

– Tại sao lại không được nhỉ? Tôi bỏ nó ở bờ rào, cậu theo tôi!

Vừa nhìn thấy con heo đực, cậu biết ngay nó chính là mình, lúc này cậu cảm thấy hai lỗ tai ù ù, không nghe được âm thanh gì hết, trời đất tối om, quay cuồng, đảo lộn, tay chân run rẩy, nói không nên lời (cảm giác của cậu lúc này tôi không thể dùng ngôn từ nào mà lột tả hết được, chỉ có người trong cuộc mới hiểu thấu đáo). Cậu cố gắng chạy về thật nhanh mà miệng luôn lắp bắp: “Nguy… nguy… nguy… hiểm… hiểm… quá… quá!”. Tối hôm qua nếu không có thần Kim Cang quát cậu: ” Người tụng kinh Kim Cang không được phép vào nơi này”, và không dùng chày nện lên đầu cậu chắc chắn bây giờ cậu đã làm heo rồi. Sau khi tỉnh táo trở lại, cậu đến núi Phổ Đà xin xuất gia. Phương trượng núi Phổ Đà hỏi cậu:

– Tại sao ông muốn xuất gia? (tức là hỏi động cơ nào khiến ông đi xuất gia).

Cậu bèn đem tất cả mọi việc kể cho Phương trượng nghe. Nghe xong, Phương trượng nói:

– Như vậy cậu là người rất có thiện căn.

Nhân đó, Phương trượng đặt pháp danh cho cậu là “Liễu Tình”. Cho nên, gọi thầy là “Liễu tình Hòa Thượng”.

Mọi người khi nằm mộng cần phải đặt biệt chú ý, nhất là những bạn thanh niên, dù gặp thiếu nữ rủ cũng không đi. Các bạn có thể trả lời: “Tôi không đi đâu! Tôi có con đường của tôi!”. Muốn đạt được chính niệm như thế, cần phải luyện tập niệm Phật trong mộng. Nếu trong giấc mộng không có khả năng niệm Phật, mà còn bị giấc mộng lôi kéo thì thật nguy hiểm! Cổ đức có bài thi:

Nhất trán cô đăng chiếu dạ đài
Thượng sàng thoát khước miệt hòa hài
Thức thần diểu diểu tùy mộng khứ
Vị tri minh triêu lai bất lai?

Tạm dịch:

Một ngọn đèn con chiếu đêm dài
Lên giường cởi bỏ giày và tất
Thần thức mịt mờ đi theo mộng
Ngày mai không biết sẽ ra sao?

Chính là nói lúc ngủ cần phải để một ngọn đèn sáng hiu hiu, đây là thói quen của tất cả người dân chúng ta từ xưa đến nay, nên mới nói: “Một ngọn đèn con chiếu đêm dài”. “Lên giường cởi bỏ giày và tất”. Lúc đi ngủ cần phải bỏ cởi giày và tất. “Thần thức mịt mờ đi theo mộng”. Nếu ta không có sự tu tập, không có chính niệm niệm Phật, lúc đó thần thức của chúng ta sẽ mờ mờ mịt mịt luôn đi theo giấc mộng. “Ngày mai không biết sẽ ra sao”. Lúc nằm ngủ mà giống như Hòa thượng Liễu Tình thì thật nguy hiểm, nếu không nhờ thần Kim Cang đánh, chắc chắn sẽ không trở lại, sáng mai có còn hay không, không ai có thể biết được.

Trên đời này, không có ít trường hợp nằm ngủ rồi mới chết luôn. Có người cho rằng: ” Nhờ có tu hành, mới chết như vậy, không có sự thống khổ thì tốt chớ sao!”. Chết như thế này cũng không bảo đảm cho mấy, nếu trong mộng mà đi theo chư thiên và cõi trời thì chúng ta thừa nhận có thể tốt. Nhưng, vạn người chỉ có một mà thôi, còn toàn bộ giống như hòa thượng Liễu Tình cả, nếu chết như vậy không được gọi là có tu được! Đây chính là nói: phải luyện tập trong mộng. Nếu như trong mộng nhớ niệm Phật, thì khi lâm chung sẽ có chính niệm và sẽ nắm chắc được con đường vãng sinh.

Trích Tư Lương Người Tu Tịnh Độ
Tác giả: Pháp sư Hội Tính
Dịch giả: Đạo Quang

Xin tham khảo thêm: Giải Pháp Giúp Niệm Phật Trong Lúc Ngủ

 

Hành trì cho thiết thật Bài hát: Hành Trì Cho Thiết Thật
Nhạc: La Tuấn Dzũng
Lời: Cố HT Thích Thiền Tâm
Trình bày: Hương Giang
Phóng tác điệu dân ca Lý Chiều Chiều
Lặng nhìn ra chốn tỉnh lâu
Chốn tỉnh lâu, tỉnh lâu
Thấy trăng tròn là trăng sáng
Lắng nghe gió thoảng canh thâu
Lắng nghe gió thoảng canh thâu
Bát nhã hương lòng nhẹ, hương lòng nhẹ đưa
Tinh tấn niệm Phật Di Đà
Tinh tấn niệm Phật Di Đà
Phật tâm, Phật tâm là chung một vẻ
Cùng là cùng Phật tâm
Thiền Tịnh chẳng có hai mầu
Thiền Tịnh chẳng có hai mầu
Ngưng chuỗi, thầm riêng hỏi
Riêng hỏi, hỏi ta
Hoa đêm điểm điểm đầu
Hoa đêm điểm điểm đầu.