Viên Mãn Bồ Đề, Ghi Lại Việc Vãng Sinh Của Tiên Mẫu Lý Thái Phu NhânTiên mẫu Lý thái phu nhân, húy là Nguyệt Phụng, pháp hiệu Tu Bích là con thứ của tiên sinh Lý Đăng ở thành phố Chương Hoá. Năm 24 tuổi, bà được gả cho họ Trịnh, vào đúng lúc sự nghiệp nhà họ Trịnh thất bại, cha chồng qua đời ở Hạ Môn. Bấy giờ, bất luận là quản lý việc nhà hay đãi người tiếp vật đều do tiên mẫu gánh vác. Hơn hai mươi năm, bà đã ngậm đắng nuốt cay, dưỡng nuôi bảy anh chị em tôi. Trong lúc gia cảnh ngày càng khá giả thì không ngờ năm tôi mười bốn tuổi, cha đột nhiên qua đời. Lúc đó, đứa em trai thứ ba năm tuổi, em trai thứ tư chỉ có hai tuổi. Gặp biến cố lớn lao này, mẹ tôi đau lòng rơi lệ máu, đến mức không muốn sống. Chỉ vì tôi và các em còn nhỏ dại không nơi nương tựa, mẹ đành nén đau thương nuôi dưỡng chúng tôi.

Sau khi cha tôi qua đời, kinh tế trong nhà cũng vì thế càng thêm túng quẩn, bữa cơm thường ngày cũng khó mà duy trì, bao nhiêu sự việc lớn nhỏ trong ngoài đều trông mong vào một mình mẹ đảm đương. Nhưng mà khó khăn, gian khổ cứ liên tục, tai họa bệnh tật cứ liên tiếp kéo đến, mẹ tôi nhẫn nhục chịu đựng, tình thế rất thê thảm, quả thật tôi chẳng thể nào thuật hết. Tôi đã từng giữ trẻ cho người ta. Mỗi lần gặp khó khăn không như ý, về nhà tôi đều chua xót thuật lại cho mẹ nghe. Mẹ thường rơi nước mắt khuyên tôi: “Bao gian khổ khó khăn này, chúng ta nhất định phải nhẫn nại kiên trì đến cùng, sau này mới mong có ngày nở mặt nở mày với thiên hạ”. Những lời nói hằng ngày ấy cũng là để khích lệ cho nhau.

Mẫu thân từ lúc được gả đến nhà cha tôi, bà đã chịu hết muôn nghìn nỗi đắng cay khổ nhọc, bà lại càng nhận rõ con người thế gian đều là khổ, không, vô thường. Vận may lớn nhất của bà là được sự tiếp dẫn học Phật của ân sư Tuyết Công. Suốt mười mấy năm bà ăn chay niệm Phật, chưa từng gián đoạn. Lòng tin của bà đối với Phật pháp ngày càng kiên định. Bất luận gió, mưa, lạnh, nóng nơi nào có cơ hội nghe kinh niệm Phật, bà nhất định tham gia, không bao giờ bỏ qua. Tôi thấy mẫu thân dù phải chịu bao gian nan khốn khổ nhưng vẫn không dao động được quyết tâm học Phật, niệm Phật và lòng tin Phật của bà. Sự kiên nhẫn và thái độ an lành ấy của bà, nhất định đã đạt đến chỗ tốt đẹp trong Phật pháp. Khi đó, tôi cũng phát khởi tâm hướng thượng, muốn học Phật pháp. Qua sự cảm hóa từ nơi Lão nhân gia, thế là cả nhà bắt đầu ăn chay.

Năm mười sáu tuổi, được sự hướng dẫn của mẹ, tôi đã tham gia lớp học bổ túc quốc văn của Hội liên xã thành phố Đài Trung tổ chức, nghe ân sư Tuyết Công giảng thuyết các môn Luận ngữ, Phật học v.v… đồng thời quy y Tam bảo, bắt đầu học Phật.

Năm mười chín tuổi, được ân sư Tuyết Công thương xót cho làm đệ tử thị giả theo hầu bên cạnh Lão nhân gia, tôi thường xuyên tiếp nhận được sự huấn luyện dạy dỗ, thu được nhiều lợi ích. Từ đó, tôi sửa đổi được những thói quen hư hỏng như: lời nói ngang tàng, mắng nhiếc người, uống rượu v.v… Đồng thời, tôi cũng hạ quyết tâm lĩnh thụ năm giới. Xét ra, ngày nay tôi có thể thâm tín Tam bảo, trường chay học Phật, nhận được sự lợi ích trong Phật pháp, là nhờ công lao của mẹ lấy bản thân mình làm gương dẫn dắt!

Bản tính của mẹ tôi luôn từ bi, trung hậu, dịu dàng, ngay thẳng, vui thích làm điều thiện, nhất là thích giúp đỡ người khác. Những ai có nhu cầu trợ niệm, bà không quản thời tiết lạnh nóng, sớm chiều, dù cho canh ba nửa đêm cũng đều đáp ứng. Bạn bè đều yêu thích điểm tốt của bà.

Dù mẹ tôi tiếp thụ nền giáo dục văn hoá của Nhật nhưng vẫn cố gắng học tiếng Trung Quốc. Hơn nữa, bà còn đem ba bản kinh “Phật thuyết A-di-đà kinh Phổ môn phẩm, Niệm Phật viên thông” v.v… làm khóa tụng thường ngày. Điều đáng quý nhất có thể nói là bà đã: “Dùng niệm Phật làm phương thuốc hay, giải tỏa ưu phiền của mình”. Suốt mười mấy năm, bà ít khi đau ốm, ngẫu nhiên gặp chút bệnh, bà không thích dùng thuốc, chỉ uống nước chú Đại-bi do chính mình trì tụng. Còn nhớ khi đứa em trai thứ hai tôi lên sáu tuổi, nó đau bàng quang, kết thành bệnh sạn, tiểu tiện rất khó khăn. Hằng ngày, nó đều đau đớn kêu khóc, nhà lại không có tiền cho thầy thuốc phẫu thuật trị liệu. Thế là, ngày nào mẹ cũng cầu nguyện, trì nước chú Đại-bi cho em trai tôi uống. Sáng sớm ba hôm sau, khi vào nhà xí tiểu tiện, đứa em cảm thấy bỗng nhiên hồi phục như thường, liền nhìn kỹ trong bồn thấy hai viên sỏi màu trắng lớn bằng hạt cơm. Từ đó về sau, cả nhà phát sinh lòng tin sâu sắc đối với nước chú Đại-bi, mẹ đã trì. Trong thôn có người bệnh hoặc khi trẻ em sợ hãi giật mình đều uống nước chú Đại-bi của mẹ trì tụng và đều có công hiệu đặc biệt. Thế là, người đến xin nước chú Đại-bi càng ngày càng nhiều. Tôi thường nói đùa: “Mẹ có thể làm bác sĩ, bệnh viện sẽ phải đóng cửa thôi!” Mẹ nói nghiêm túc mà chân thành: “Đức Phật là vị đại y vương, trị những bệnh nhỏ này, có gì kỳ lạ đâu?”

Mẹ không khéo nói, chỉ biết khuyên người niệm Phật, bất luận đối phương có học vấn hay không. Bà luôn bảo mọi người: “Niệm Phật thật sự rất tốt, Phật lực không thể nghĩ bàn! Phật Tổ không gạt người đâu!”.

Nếu như đối phương nêu câu hỏi, lúc không có cách nào trả lời thì bà liền cầm lấy quyển sách “Phật pháp thành tựu ngay trong đời sống” do ngài Tuyết Công trước tác, Hội liên xã xuất bản, mời đối phương xem thử, hoặc là bảo họ đợi con tôi về, nó sẽ trả lời cho ông.

Hai năm gần đây sức khỏe của mẹ không tốt, van tim hở rộng, lúc nghe kinh, niệm Phật, chỉ tịnh mẹ thường có hiện tượng hôn trầm, khiến tôi vô cùng lo sợ, rất sợ đại sự vãng sinh của mẹ gặp phải chướng ngại này. Vì thế, tôi luôn nhắc nhở bà không quên chính niệm. Mẫu thân vô cùng tin tưởng nói: “Không cần lo sợ, mẹ nhất định sẽ vãng sinh”. Cả đời mẹ gặp biết bao đả kích, lòng nhàm chán cõi Ta-bà rất ư bức thiết, gặp việc liền lễ Phật, cầu Phật. Cứ nhìn xem công phu niệm Phật, lòng tin sâu sắc, nguyện thiết tha thuần thục của bà, lại sự ưa giúp đỡ người khác của bà; từ cái tâm không hại người của bà, có thể gọi là chính-trợ song tu, tôi mới được chút an lòng.

Ngày mùng 7 tháng 6 năm Dân quốc 62 (1973), tôi tham gia thi tốt nghiệp của hệ ban đêm trường đại học Trung Hưng, khi đợt thi đầu tiên sắp xong, đột nhiên tôi cảm thấy trong lòng như có tảng đá đè nặng, tâm thần rất khẩn trương bồn chồn, chính mình cũng cảm thấy kỳ quái. Đến đợt thi thứ hai, tôi vẫn không cách nào bình tĩnh, đối mặt với đề thi, hoàn toàn không có cách nào phát huy, chuẩn bị làm bài cho tốt, cuối cùng nghĩ không ra, không biết mình làm đáp án như thế nào, thi xong trong lòng lại càng buồn bã.

Khi đến Thiện Quả Lâm để đón mẫu thân đi nghe kinh xong trở về nhà, tôi mới vừa xuống xe, liền nghe người bạn trong Liên xã bảo: “Khi nghe kinh, mẹ anh bị hôn mê, bất tỉnh nhân sự, đã đưa bà vào bệnh viện rồi”. Lúc đó, tôi mới biết nguyên nhân vì sao tâm thần bất an. Qua sự kiểm tra chẩn đoán của bác sĩ, mẹ tôi bị bệnh tai biến mạch máu não. Tuy đã được tiêm thuốc cấp cứu nhưng cũng không chuyển đổi. Lúc đó, tuy tôi vô cùng đau buồn nhưng cũng rất hiểu mình nên làm thế nào, lập tức tôi đến bên cạnh mẹ niệm Phật.

Ngày thứ hai, ân sư Tuyết Công đến thăm và nói: “Mẹ con phước báo rất lớn, hôn mê trong quá trình nghe kinh tại đạo tràng, ấn tượng lưu lại trong tâm thức vẫn là nghe kinh cầu đạo, nếu có thể trợ niệm tốt thì có thể vãng sinh”. Qua sự chẩn đoán của bác sĩ đã không còn cách nào cứu chữa, tôi đành phải dời mẹ đến Thánh Liên Thất chuyên tâm trợ niệm. Lúc ấy, các bạn trong Liên xã không ngừng đến trợ niệm. Đến chiều, các bạn học của lớp Trung Huệ và Minh luận xã đều phát tâm phân ban đến trợ niệm.

Trong khoảnh khắc buổi sáng ngày thứ ba, mẫu thân đột nhiên tỉnh táo khôi phục tri giác, niệm Phật theo đại chúng được vài câu, sau đó bà mỉm cười vãng sinh trong câu danh hiệu Phật…Ban đầu, tôi và chị thứ ba trong nhà bỗng nghe rất rõ ràng có tiếng niệm Phật tha thiết hòa trong tiếng niệm Phật của mọi người, liên tục mười mấy câu. Sợ âm thanh này sẽ ảnh hưởng đến chính niệm của mẹ, tôi lập tức tìm kiếm nguồn gốc của âm thanh tha thiết này, liền phát hiện mọi người đều chú tâm trợ niệm, hoàn toàn không có âm thanh hoặc biểu hiện nào bi thương, đây hẳn là mẹ đã niệm. Sau khi trợ niệm liên tục 12 giờ, lúc thay y phục cho mẹ mới phát hiện toàn thân mẫu thân mềm mại, gương mặt từ ái tươi hơn khi còn sống.

Sau khi hỏa táng mẹ xong, thu được xá lợi năm màu hình dáng như tượng Phật, cao hơn một tấc (bức tượng lớn nhất khoảng 4,2cm x 3cm), tượng Bồ-tát (tượng lớn nhất khoảng 4,5cm x 3,6cm) như ý, chim anh vũ, và hạt chuỗi lớn nhỏ gần vài trăm viên, chất màu như ngọc thúy, ánh sáng tươi đẹp ấm áp. Chúng tôi thỉnh ân sư Tuyết Công nhận định. Ân sư tán thán: “Những xá lợi này rất hiếm có, không thể chỉ đáng làm xá lợi nhà họ Trịnh các con, mà chính là sự việc hưng thịnh của nhà Phật, đáng được bảo tồn cúng dường tốt”. Những bạn trong Liên xã xem xong, đều tán thán nói mãi: “Pháp môn niệm Phật, quyết định không uổng phí công phu!”.

Ôi, khi mẹ còn sống, tuy có tâm độ người nhưng ngặt nỗi ăn nói vụng về, khó mà thu được hiệu quả. Sau khi vãng sinh, bà thị hiện các loại xá lợi thù thắng minh chứng, đồng thời lấy đây tiếp dẫn bạn đồng tu có tín nguyện thật tâm niệm Phật, cuối cùng đã đền bù được tâm nguyện trong bấy lâu nay.

Than ôi, từ 14 tuổi tôi đã mất cha, đến nay đã hơn 18 năm, mẹ cẩn thận chăm sóc nuôi dưỡng cả nhà, hy vọng không đến nỗi sai lầm, lấy thân làm gương khéo léo dẫn dụ, hướng dẫn tôi học Phật, hơn nữa được gần gũi đại thiện tri thức, hầu hạ ân sư Tuyết Công, tùy thời được lĩnh thụ, đào tạo trui rèn. Những ân đức này đều là do mẹ từ bi hướng dẫn ban cho đấy! Đáng thương mẫu thân từ khi vào nhà họ Trịnh, trải qua bao hoạn nạn, ngậm đắng nuốt cay! Suốt bốn mươi năm, mẹ không quản nhọc nhằn, không ngần ngại trách hờn, lúc nào cũng hy vọng con cái trưởng thành nên người, có thể tự lập; nhưng tôi bất tài, đã không thể gieo trồng cội đức lập nghiệp, để an ủi lòng Lão nhân gia, lại chưa thể làm tròn hết trách nhiệm của trưởng tử, chia buồn cùng mẫu thân, khiến cho mẹ phải nhọc nhằn quá độ, bỏ lại tình thân thương nhớ của con thơ mà từ biệt mãi cuộc đời. Đau lòng thay! Bất hiếu như Thắng Dương, Thắng Lô, Thắng Vinh, tội lỗi đầy trời, trăm thân khó chuộc, trời xanh mênh mông, làm sao có thể tận cùng! Thuật hết đức mẹ hiền trong muôn một, tang chế đớn đau, lời không mạch lạc, cúi xin mọi người minh giám.

Ngày mùng 7 tháng 6 năm Trung Hoa Dân quốc 62 (1973), đứa con mồ côi, Trịnh Thắng Dương rơi lệ kính thuật; Liễu Nhân sửa lại thành văn bạch thoại.

Tháng 2 năm 2003, thu thập tài liệu từ tin tức ở Tây phương.
Ghi chú:

1. Theo Nguyệt san Minh Luân, tuần thứ 22 đăng tin. Vào 7giờ 30 chiều ngày 07 tháng 6 Dân quốc năm thứ 62 (1973), cư sĩ Lý Nguyệt Phụng ở tại Thiện Quả Lâm Đài Trung đang ở pháp hội nghe ngài Tuyết Công[40] tuyên giảng kinh “Khuyến phát Bồ-đề tâm văn”, đột nhiên hôn mê bất tỉnh ngay đạo tràng. Qua sự trợ niệm của các Liên hữu, vào khoảng hơn 1 giờ sáng ngày 09 tháng 6, Lý cư sĩ đã hôn mê hơn một giờ rưỡi, bỗng nhiên hé môi niệm Phật. Sau khi niệm được mấy câu danh hiệu Phật với buồn vui xen lẫn, cư sĩ đã vãng sinh một cách rất an lành. Lúc đó, con trai con gái của cư sĩ từng thấy hai luồng ánh sáng, rồi còn nhìn thấy hoa sen xuất hiện trên không trung. Nhóm thanh niên trường Cao đẳng Phật học Minh luân xã đến tham gia trợ niệm, có người thấy ánh sáng rực đầy nhà, có người thấy hoa sen bay lên hư không, nhiều loại tướng đẹp, có thể nói là hiếm có. Trước đêm hỏa thiêu, em trai còn chưa học Phật của Lý cư sĩ, đột nhiên từ Chương Hóa điện về dặn dò chuẩn bị bình sạch đựng xá lợi; sau khi hỏa thiêu, quả nhiên lựa ra được khoảng mấy trăm viên xá lợi năm màu. Trong đó, có một số xá lợi như tượng Phật, tượng Quán Thế Âm, hoặc cầm thú, hạt chuỗi rất thù thắng đáng quý.

2. Cư sĩ Trịnh Thắng Dương nói: “Sau khi mẫu thân vãng sinh, từng báo cho tôi tin tức ở Tây phương. Vì đương thời tuy tôi rất tin mẫu từ đã vãng sinh, nhưng vẫn còn hy vọng nhận được tin tức. Do đó, sau khi mỗi chiều tắm gội xong, tôi liền ngồi xếp bằng niệm Phật đợi tin. Bấy giờ, đó chỉ là một tấm lòng thành ngu muội, kết quả qua ba ngày đều không có tin gì cả. Đến 3 giờ sáng ngày thứ tư, đột nhiên tôi nghe tiếng cánh cửa sắt dưới lầu bị kéo ra, tôi cho là kẻ trộm, nhất thời tinh thần chấn động, bỗng nhiên thấy ở phía tây có một luồng hào quang xẹt xuống. Ở mặt đất cũng có một luồng hào quang xông lên, cả hai giao tiếp nhau. Đây là cảnh thứ nhất. Tiếp đó, tôi thấy có một vị thân tướng to lớn nhìn không rõ mặt, chỉ thấy mảnh lụa trên đầu Ngài, trực giác bảo tôi đây chính là Bồ-tát Quán Thế Âm. Bên cạnh Bồ-tát có một người thân tướng hơi nhỏ. Ban đầu thì mờ mờ, sau đó dần hiện rõ, tôi mới thấy rõ ràng là mẫu thân. Tôi vội vã chạy tới nắm lấy tay mẫu thân, hỏi: “Có phải mẹ đã vãng sinh rồi không?” Mẫu thân gật đầu, khi ấy tôi chợt giật mình tỉnh giấc”.

Trích Niệm Phật Công Đức của pháp sư Tịnh Không