Dứt Trừ Lòng Nghi Niệm Phật Biết Trước Thời Khắc Vãng SanhVào đời Tùy Văn đế (581-618), Sư Pháp Trí đến học ở Đông Việt. Những bậc am tường giáo nghĩa Đại thừa, Tiểu thừa, Sư đều lễ làm thầy, v́ vậy Sư trở thành người bác học đa văn, người đời ít ai sánh bằng. Cuối đời Tùy, Sư cho rằng pháp môn tu tập thẳng tắt nhất không gì bằng niệm Phật. Do đó, sớm tối Sư niệm Phật không gián đoạn suốt bảy năm. 

Sư suy nghĩ: 

– Phạm một tội đột-kết-la phải chịu tội trong một trung kiếp, điều này đáng tin, ý hẳn là thế. Nhưng xưng niệm một câu A-di-đà Phật sẽ diệt được vô lượng tội nặng trong ức kiếp, thì ta có chút nghi ngờ. 

Có người bảo với Sư: 

– Chớ có tự nghi ngờ, giáo pháp dạy niệm Phật lâu ngày sẽ có công đức, khi có công đức thì nghiệp chuyển hóa, nghiệp đă chuyển hóa thì tam-muội phát sinh. Nay ông không tin, tức là nghi ngờ giáo pháp của Phật. Nghi giáo pháp thì đức tin không có chỗ nương tựa, đă không có chỗ nương tựa thì tâm tự loạn, tâm đă loạn thì mất chính niệm. Đó là tội phỉ báng, là nhân đọa vào địa ngục, vậy thì sao lại khởi lên sự nghi ngờ như thế?
 
Nghe qua, Sư tỉnh ngộ, đến đài Đâu-suất ở chùa Quốc Thanh, tuyệt hẳn các duyên, nhất tâm niệm Phật, niệm đến chuyên nhất. Sư thường được cảm ứng, thấy bồ-tát Quan Âm và Thế Chí cùng hiện đến. Một hôm, Sư lại thấy ánh sáng của thiên quan[1], bảo bình[2], chiếu vào thân Sư. Sư báo cho tăng tục, người thân rằng: 

– Ta sẽ vãng sinh Tịnh độ vào một ngày gần đây, ai có thể sắm sửa thức ăn để tiễn biệt ta không? 

Mọi người đều cười, nói: 

– Nếu đúng như vậy thì chúng tôi đâu có tiếc một bữa cơm! Chỉ ngại Sư không thể vãng sinh thôi! 

Rồi họ hẹn ba ngày sau sẽ tổ chức bữa ăn. Ngày ấy, sau khi thụ trai xong, Sư cũng không bệnh gì cả, do đó, có người nghi ngờ việc Sư vãng sinh, và khởi tâm khinh nhờn. Đến chiều tối, mọi người ở lại chờ xem Sư vãng sinh. Khoảng gần nửa đêm, Sư ngồi trên giường dậy niệm Phật, rồi an nhiên viên tịch. Đêm ấy, có ánh sáng sắc vàng từ hướng tây chiếu xuống, tỏa sáng đến vài trăm dặm. Những người đánh cá ở trên sông tưởng rằng trời đă hừng đông, thuyền này ngóng thuyền kia, tất cả đều kinh ngạc. Thật lâu sau trời mới sáng. 

Ghi chú: 

Đức Phật dạy: “Lời nói của Ta như mật đựng trong chén, giữa và xung quanh đều ngọt, nên các ngươi phải tin nhận”. Cho nên tin một điều ác nhỏ sẽ đọa vào địa ngục, mà không tin niệm một danh hiệu Phật được sinh về Tây phương thật đáng gọi là tà kiến. Những năm gần đây, người thích trì chú, nghe nói công dụng của thần chú có thể dời núi lấp biển, sai khiến quỉ thần, cầu chi được nấy, ý thế nên vội tin; khi nghe nói đến công đức của cơi Tịnh độ, có thể thẳng tiến lên bậc Thánh, vượt qua ba cơi, thì thờ ơ không để ư đến. Đó là những người tà kiến. Thật là đáng thương! 

[1] Thiên quan 天冠: Mũ bồ-tát Quan Thế Âm, trên mũ có hóa Phật.

[2] Bảo bình 寳甁: Trên mũ của bồ-tát Đại Thế Chí có bảo bình.

Trích: Bốn Chúng Vãng Sanh
Biên dịch: Chúc Đức và các thành viên