Bồ Tát Văn Thù Khuyên Chúng Sanh Thời Mạt Pháp Nên Hành Trì Pháp Môn Niệm Phật

Bồ Tát Văn Thù Khuyên Chúng Sanh Thời Mạt Pháp Nên Hành Trì Pháp Môn Niệm PhậtMột buổi sáng, vào lúc thanh trai, Pháp Chiếu đại sư thấy trong bát cháo ở Tăng đường, hiện rõ bóng mây ngũ sắc. Trong mây hiện ra cảnh sơn tự, phía Ðông Bắc chùa có dãy núi, chân núi có khe nước. Phía Bắc khe nước có cửa ngõ bằng đá. Trong ngõ đá lại có một ngôi chùa to, biển đề “Ðại Thánh Trúc Lâm Tự”. Mấy hôm sau, ngài lại thấy nơi bát cháo hiện rõ cảnh chùa lớn ấy, gồm vườn ao, lâu đài tráng lệ nguy nga, và một vạn vị Bồ Tát ở trong đó.

Ngài đem cảnh tượng ấy hỏi các bậc tri thức. Một vị cao Tăng bảo: “Sự biến hiện của chư Thánh khó nghĩ bàn được. Nhưng nếu luận về địa thế non sông, thì đó là cảnh Ngũ Ðài Sơn”. Nghe lời ấy ngài có ý muốn đến viếng Ngũ Ðài thử xem sự thật ra thế nào?

Năm Ðại Lịch thứ tư, Ðại Sư mở đạo tràng niệm Phật tại chùa Hồ Ðông. Ngày khai hội cảm mây lành giăng che chốn đạo tràng. Trong mây hiện ra cung điện lầu các. Phật A Di Ðà cùng hai vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí hiện thân vàng sáng chói cả hư không. Khắp thành Hoành Châu, bá tánh trông thấy đều đặt bàn đốt hương đảnh lễ. Cảnh tượng ấy hiện ra giây lâu mới ẩn mất. Do điềm lành này, rất nhiều người phát tâm tinh tấn niệm Phật. Ðạo tràng khai liên tiếp được năm hội.

Một hôm, Ðại Sư gặp cụ già bảo: “Ông từng có ý niệm muốn đến Kim Sắc thế giới tại Ngũ Ðài Sơn để đảnh lễ đức Ðại Thánh Văn Thù sao đến nay vẫn chưa thật hành ý nguyện?” Nói xong liền ẩn mất. Ðược sự nhắc nhở, ngài sửa soạn hành trang, cùng với mấy pháp hữu, đồng đến viếng Ngũ Ðài.

Năm Ðại Lịch thứ năm, vào mùng sáu tháng tư, Ðại Sư cùng đồng bạn mới đến chùa Phật Quang ở huyện Ngũ Ðài. Ðêm ấy, vào khoảng canh tư, ngài thấy ánh sáng lạ từ xa chiếu đến thân mình, liền nhắm phỏng chừng tia sáng mà theo dõi. Ði được năm mươi dặm thì đến một dãy núi, dưới chân núi có khe nước, phía Bắc khe có cửa cổng bằng đá. Nơi cửa có hai vị đồng tử đứng đón chờ, tự xưng là Thiện Tài và Nan Ðà. Theo chân hai đồng tử dẫn đường, ngài đến một ngôi chùa nguy nga, biển đề: “Ðại Thánh Trúc Lâm Tự”. Nơi đây đất vàng, cây báu, ao sen, lầu các rất kỳ diễn, trang nghiêm. Cảnh giới quả đúng như ảnh tượng đã thấy nơi bát cháo khi trước.

Ngài vào chùa, lên giảng đường, thấy đức Văn Thù bên Tây, đức Phổ Hiền bên Ðông. Hai vị đều ngồi tòa sư tử báu cao đẹp, đang thuyết pháp cho một muôn vị Bồ Tát ngồi phía dưới lặng lẽ lắng nghe. Pháp Chiếu bước đến chí thành đảnh lễ, rồi quì xuống thưa rằng: “Kính bạch Ðại Thánh! Hàng phàm phu đời mạt pháp, cách Phật đã xa, chướng nặng nghiệp sâu, tri thức kém hẹp, tuy có Phật tánh mà không biết làm sao hiển lộ. Giáo pháp của Phật lại quá rộng rãi mênh mông, chưa rõ pháp môn nào thiết yếu dễ tu hành cho mau được giải thoát?”

Ðức Văn Thù bảo:

– Thời kỳ này chính là đúng lúc các ngươi nên niệm Phật. Trong các hành môn không chi hơn niệm Phật và gồm tu phước huệ. Thuở đời quá khứ, ta nhờ quán Phật, niệm Phật, cúng dường Tam Bảo mà được Nhất Thiết Chủng Trí. Tất cả các pháp như: Bát-nhã ba-la-mật, những môn thiền định rộng sâu, cho đến chư Phật cũng từ niệm Phật mà sanh. Vì thế nên biết, Niệm Phật là vua trong các pháp môn”.

Ngài Pháp Chiếu lại hỏi:

– Bạch Ðại Thánh! Nên niệm như thế nào?

Ðức Văn Thù dạy:

– Về phương Tây của thế giới này, có Phật A Di Ðà giáo chủ cõi Cực Lạc. Ðức Thế Tôn đó nguyện lực không thể nghĩ bàn! Ngươi nên chuyên niệm danh hiệu của Ngài nối tiếp không gián đoạn thì khi mạng chung, quyết được vãng sanh, chẳng còn bị thối chuyển.

Nói xong, hai vị Ðại Thánh đồng đưa tay vàng xoa đầu ngài Pháp Chiếu và bảo rằng:

– Do ngươi niệm Phật, nên không lâu sẽ chứng được quả Vô Thượng Bồ Ðề. Nếu thiện nam tín nữ nào muốn mau thành Phật thì không chi hơn niệm Phật. Kẻ ấy nhất định sẽ mau lên ngôi Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Ðược hai vị Ðại Thánh thọ ký xong ngài Pháp Chiếu vui mừng đảnh lễ rồi từ tạ lui ra.

Hai đồng tử khi nãy theo sau tiễn đưa. Vừa ra khỏi cổng, ngài quay lại thì người và cảnh đều biến mất. Ngài liền dựng đá đánh dấu chỗ ấy, rồi trở về chùa Phật Quang.

Ðến ngày 13 tháng 4, Pháp Chiếu đại sư cùng hơn năm mươi vị Tăng đồng đến hang Kim Cang, thành tâm đảnh lễ hồng danh ba mươi lăm đức Phật. Vừa lạy được mười lượt, ngài bỗng thấy hang Kim Cang rộng lớn thanh tịnh trang nghiêm có cung điện bằng lưu ly, đức Văn Thù, Phổ Hiền đồng ngự trong ấy. Hôm khác, ngài lại đi riêng đến hang Kim Cang, gieo mình đảnh lễ, nguyện thấy Ðại Thánh. Ðang khi lạy xuống vừa ngước lên, Ðại Sư bỗng thấy một Phạm Tăng tự xưng là Phật Ðà Ba Lỵ. Vị này đưa ngài vào một đại điện trang nghiêm, biển đề là Kim Cang Bát Nhã Tự. Toàn điện nhiều thứ báu lạ đẹp mầu, ánh sánh lấp lánh. Dù đã nhiều lần thấy sự linh dị, nhưng ngài vẫn chưa thuật lại với ai cả.

Tháng Chạp năm ấy, ngài nhập đạo tràng niệm Phật nơi chùa Hoa Nghiêm định kỳ tuyệt thực tu hành, nguyện vãng sanh về Tịnh Ðộ. Ðêm đầu hôm, ngày thứ bảy, đang lúc niệm Phật, Ðại Sư bỗng thấy một vị Phạm Tăng bước vào bảo: “Ông đã thấy cảnh giới ở Ngũ Ðài Sơn, sao không truyền thuật cho người đời cùng được biết?” Nói xong, liền ẩn mất.

Hôm sau, trong lúc niệm Phật, vị Phạm Tăng hiện ra, bảo y như trước. Ngài đáp: “Không phải tôi dám giấu kín thánh tích, nhưng chỉ sợ nói ra người đời không tin sanh sự chê bai mà thôi”. Phạm Tăng bảo: “Chính đức Ðại Thánh Văn Thù hiện tại ở núi này, mà còn bị người đời hủy báng thì ông còn lo ngại làm chi? Hãy đem những cảnh giới mà ông được thấy truyền thuật với chúng sanh, làm duyên cho kẻ được nghe biết, phát khởi tâm Bồ Ðề”. Ngài tuân lời, nhớ kỹ lại những sự việc đã thấy, rồi ghi chép ra truyền lại cho mọi người.

Năm sau, sư Thích Huệ Tùy ở Giang Ðông cùng với chư Tăng chùa Hoa Nghiêm theo Pháp Chiếu đại sư đến hang Kim Cang lễ Phật. Kế đó, lại đến chỗ dựng đá lúc trước để chiêm ngưỡng dấu cũ. Ðại chúng còn đang ngậm ngùi ngưỡng vọng, bỗng đồng nghe tiếng hồng chung từ vách đá vang ra. Giọng chuông thanh thoát, ngân nga, nhặt khoan rành rẽ. Ai nấy đều kinh lạ, đồng công nhận những lời thuật của ngài Pháp Chiếu là đúng sự thật. Vì muốn cho người viếng cảnh đều phát đạo tâm, Tăng chúng nhân cơ duyên ấy khắc những sự việc của ngài nghe thấy vào vách đá. Về sau ngay nơi đó, một cảnh chùa trang nghiêm được dựng lên, vẫn lấy hiệu là Trúc Lâm Tự để lưu niệm.

Triều vua Ðức Tông, Pháp Chiếu đại sư mở đạo tràng niệm Phật tại Tinh Châu, cũng liên tiếp được năm hội. Mỗi đêm vua và người trong cung nghe tiếng niệm Phật rất thanh thoát từ xa đưa vẳng lại. Sau khi cho người dò tìm, được biết đó là tiếng niệm Phật ở đạo tràng tại Tinh Châu, nhà vua phái sứ giả mang lễ đến thỉnh ngài vào triều. Ngài mở đạo tràng niệm Phật tại hoàng cung, cũng gồm năm hội. Vì thế, người đường thời gọi ngài là Ngũ Hội Pháp Sư.

Từ đó Ðại Sư tinh tấn tu hành, ngày đêm không trễ. Một đêm nọ ngài thấy vị đến bảo: “Hoa sen công đức của ông nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc đã thành tựu. Ba năm sau là đúng thời kỳ hoa nở, ông nên chuẩn bị”. Ðến kỳ hạn, Ðại Sư gọi Tăng chúng lại căn dặn rằng: “Ta về Cực Lạc, mọi người phải gắng tinh tu!” Nói xong, ngài ngồi ngay yên lặng mà tịch.

Trích Mấy Ðiệu Sen Thanh Quyển 1
Cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm

Mức Công Phu Niệm Phật Từ Yếu Đến Giỏi

Mức Công Phu Niệm Phật Từ Yếu Đến GiỏiTrong ngày hôm nay có một số vị ở bên Âu Châu, bên Đức gọi qua, người ta nói những lời rất là tha thiết, mà rất là dễ thương, cảm động! Những đạo tràng ở bên Đức, Thụy-Sỹ, Tiệp-Khắc… người ta cũng phát tâm công phu theo như Niệm Phật Đường của chúng ta. Người ta đã tự nhận làm công cứ. Đây cũng là một cái duyên rất hay.

Trở về cách công phu chúng ta đang hô hào ở tại đây là vận động công cứ. Thì công cứ này hoàn toàn là tự nguyện, không phải bắt buộc. Có thể quý vị lập công cứ ghi điểm cũng được, tức là cầm cái tờ công cứ để ghi số. Hoặc là tự mình lập ra công cứ riêng, ví dụ như một ngày tôi sẽ dành ra ba tiếng đồng hồ để niệm Phật, thì chúng ta cố gắng làm sao dành ra ba tiếng đồng hồ để niệm. Hoặc là, có người nói một ngày tôi niệm ba chục chuỗi… thì đó là công cứ của mình. Cũng giống như có người nói, bây giờ tôi không tính chuỗi, mà tôi tính hơi thở. Cứ nằm xuống thở ra: “A-Di-Đà Phật”, thở vô: “A-Di-Đà Phật”… thì đó cũng công cứ.

Có rất nhiều cách công cứ, mà cái công cứ hay nhất, cụ thể nhất, thường thường bây giờ ở những đạo tràng người ta đang thực hiện, đó chính là làm những cái bảng để ghi nút nút nút vào đó. Khi nhìn vào đó mình biết mức công phu của mình đang đi tới đâu…

Bây giờ ở Việt Nam cũng có rất nhiều đạo tràng cũng đã xin nhận công cứ rồi. Bên Âu Châu, bên các nước khác nữa… Hiện nay chúng tôi đang soạn chương trình để gởi cho họ. Phải viết giấy đàng hoàng, cần dặn dò cẩn thận chứ nhiều khi có nhiều người thường vọng tưởng, tức là khi người ta lập công cứ như vậy thì cứ tưởng rằng mình chứng đắc?! Đây là điều không được đúng!

Xin nhắc nhở lại, công cứ này chỉ giúp cho ta có cái nấc thang để đi, đi cho vững vàng. Chúng ta nên nhớ là sau cùng ít ra chúng ta cũng niệm cho được mười niệm để vãng sanh. Đây là mức thấp nhất, tệ nhất chứ không phải là cao nhất đâu.

Nếu chúng ta nghĩ rằng, mười niệm dễ quá thì coi chừng bị rớt đài! Chính vì vậy mà Hòa Thượng Tịnh-Không khuyên chúng ta cố gắng công phu để đạt đến Thượng-Phẩm, nếu có trở ngại gì thì cũng rớt xuống Trung-Phẩm, Trung-Thượng-Phẩm… Trung-Hạ-Phẩm. Nếu mà chúng ta cố gắng đạt đến công phu Trung-Phẩm, thì có rớt cũng rớt xuống Hạ-Phẩm, chúng ta cũng được về Tây Phương. Nếu mà chúng ta chỉ đạt cái tiêu chuẩn Hạ-Phẩm thì thường thường là thi rớt. Ví dụ như đi thi, người nào mà chuyên cần học, quyết học cho được đậu cao, thì có thể còn xuống hàng trung trung. Nếu người nào học mà nghĩ rằng đủ rồi, thì nhiều khi vô trong trường thi sẽ quên hết! Trường thi của chúng ta là thi vượt qua sanh tử luân hồi. Lúc lâm chung không phải dễ đâu!…

Để cụ thể hơn, Diệu Âm đưa ra cái công cứ đã soạn ra để phổ biến cho đồng tu tại đây. Chương trình tại đây là như thế này…

Ngoài công phu sáng, tức là ở đây sáng thì từ 5 giờ đến 7 giờ. Quý vị ở nhà có thể thức từ 4 giờ đến 6 giờ, hoặc từ 9 giờ đến 10 giờ, hoặc là tu thêm cũng được… không sao hết. Riêng cách công phu sáng của Niệm Phật Đường chúng ta ở đây đã loan ra nhiều chỗ rồi, vì tu hay mà lại dễ. Vừa niệm Phật, vừa tụng kinh, vừa lạy Phật, lại vừa sám hối, (lạy Phật là sám hối), mà lại được có 30 phút để “Tập thể dục” nữa… Trong khóa công phu có cả thế gian pháp và Phật pháp được lồng vào trong đó, có vẻ hay, nên có nhiều người tham gia vào.

Công phu tối như chúng ta đang tu đây và những ngày tu tinh tấn thì không được tính vào công cứ. Mỗi ngày xin quý vị cần thêm công phu niệm Phật. Chúng tôi xin chia ra như thế này…

Nên nhớ rằng, chương trình này đưa ra chỉ để thẩm định công phu thôi, còn quý vị có theo thì theo, không theo thì thôi chứ không ai bắt buộc đâu. Chúng ta có thể tự do quyết định. Tự mỗi chúng ta phải lo lấy huệ mệnh của chính mình, không ai có thể lo cho mình được.

Công cứ chúng tôi đưa ra đây như thế này, mỗi ngày:

– Một người niệm từ không niệm câu nào hết cho đến dưới 1.000 câu. Nói về công phu thì thiếu công phu! Không có công phu! Tức là… Sáng có thể tu, chiều có thể tu, mà sau đó thì không chịu niệm Phật. Thì ở đây đánh giá rằng… là người không có công phu, và bản “Thẩm Định” thì cho rằng những người này chưa thật sự muốn vãng sanh. Tại vì nếu là người muốn vãng sanh thì không bao giờ có thời gian rảnh mà lại không chịu niệm Phật!?…

– Cái mức thứ hai là những người niệm từ 1.000 câu Phật hiệu cho đến 4.000 ngàn câu Phật hiệu một ngày. Họ tranh thủ để niệm được như vậy. Thì đây đã có công phu, nhưng mà “Công phu quá yếu”! Phải mau mau tăng thêm công phu. Đây là chiếc xe mới tập lăn, nhưng bị thiếu xăng rồi!… Xe lăn như vậy, sợ rằng đến lúc lâm chung chúng ta sẽ niệm không nổi mười niệm đâu. Đừng nghĩ niệm mười niệm là dễ dàng! Phải tập niệm cho nhập tâm. Nếu niệm không nhập tâm, thì niệm không nổi đâu. Chắc chắn! Vì công phu yếu quá, nên thường thường những thứ thế gian pháp, những chấp trước của thế gian thâm nhập vào tâm mình nhiều quá, đến lúc đó mình chịu không nổi! Xin chư vị có thể chiếu theo cái bản này mà tự nghiên cứu lấy nếu quyết lòng muốn đi về Tây Phương.

– Cái mức thứ ba là người niệm từ mức 5.000 câu cho đến 9.000 câu, dưới 10.000 câu. Thì mức này không gọi là quá yếu, mà gọi là “Yếu!”. Tức là dưới 10.000 câu vẫn là yếu, chưa đủ bảo đảm vãng sanh. Cần nên thêm công phu, không nên nghĩ vậy là đủ. Còn thiếu nhiều lắm!…

– Cái mức thứ tư là người nào niệm được từ 10.000 câu cho đến 14.000 câu, tức là chưa tới 15.000, thì công phu đã có. Công phu này “Được”, không đến nỗi quá yếu. Đây gọi là cái căn bản của người niệm Phật. Những người ví dụ như già quá rồi niệm không nổi nữa, thì cái mức 10.000 câu đến 14.000 câu nên cố gắng trì giữ để cho kịp… vì đã bịnh xuống rồi thì thời gian ra đi cũng không còn lâu nữa đâu, sợ rằng nếu sơ ý thì sau cùng chịu không nổi với nghiệp chướng. Thì ở đây chúng tôi thẩm định về căn bản là “Được”, và có thể tiếp tục giữ cái mức này dài lâu, không sao hết. Quan trọng là lòng chân thành của mình và cần nhờ ban hộ niệm tới giúp đỡ thì mình cũng có khả năng vãng sanh, nhưng mà cũng không chắc chắn lắm.

– Cái mức thứ năm là từ 15.000 câu cho đến 19.000 câu, tức là dưới 20.000 câu. Thì ở đây chúng tôi đánh giá là “Khá”. Những người nào mà niệm trên 15.000 câu, chưa tới 20.000 câu thì cũng được đánh giá là khá và có thể tiếp tục giữ cái mức này càng lâu càng tốt. Có thể giữ cho đến lúc lâm chung cũng được, và đây là điều đáng khuyến khích.

– Một cái mức nữa là những người niệm từ 20.000 câu cho đến 24.000 câu. Mức này được đánh giá là “Giỏi”. Xin chư vị khi niệm như vậy đừng nên quá trọng về số lượng, coi chừng khi mình coi trọng về số lượng thì niệm không rõ, niệm không vững, thì chủng tử A-Di-Đà Phật đi vào tâm của mình rất là yếu. Niệm như vậy cũng không có thể gọi là tốt được.

Mình phải thành thực với chính mình. Niệm phải niệm cho thật rõ ràng, dù nhanh cũng phải rõ ràng, dù lúc niệm thầm cũng phải rõ ràng từng câu từng câu. Chứ đừng nên ham số lượng nhiều quá! Về số lượng giấy tờ thì giỏi đó, nhưng về công lực thì yếu, cũng không nên. Hy vọng là những mức này có thể giúp cho chư vị tỉnh táo được cho đến lúc lâm chung. Nhất là khi được hộ niệm nữa thì đường vãng sanh không đến nỗi nào mà bi ai lắm.

– Còn những người niệm từ 25.000 câu trở lên. Là những người “Đặc biệt”, “Giỏi”, rất là “Đáng khen”. Nhưng xin thưa với chư vị là phải tập tùy sức mà niệm. Nếu mà mình niệm thấy từ 25.000 câu đến 30.000 câu mà thoải mái, pháp hỷ xung mãn thì chúng ta nên tiếp tục. Còn nếu mà mình cố gắng quá sức, làm cho mình bỏ ăn bỏ uống, làm cho mình xuống sức khỏe… thì chúng ta có thể chậm chậm lại một chút để giữ cho được cái mức quân bình vừa cả tâm lẫn thân mới tốt…

Những người niệm từ 25.000 câu trở lên được gọi là “Đặc biệt, quá đặc biệt”, thuộc vào hàng “Giỏi”, “Tinh tấn”. Xin nhắc nhở lại, là cần phải tùy sức đừng nên quá sức. Tại vì cố gắng quá sức cũng có thể dễ bị trở ngại!…

Đây là những cái mức chúng tôi đưa ra, xin quý vị có thể nhìn vào cái bản “Thẩm Định” này mà tự xét lấy mình. Nếu chúng ta quyết lòng nhất định đi về Tây Phương thì phải cố gắng, tự mình cố gắng, đừng có ỷ lại vào một cái gì hết. Thấy một người đó mê man bất tỉnh trong bệnh viện, đừng bao giờ nghĩ rằng mình không đến nỗi như vậy. Hòa Thượng Tịnh-Không nói, nghiệp chướng ai cũng có, bây giờ nó chưa có cái duyên, nó chưa có cái dịp trổ ra đó thôi, khi mà nó trổ ra rồi thì coi chừng nghiệp của mình còn nặng hơn người khác nữa mà không hay đó!…

Mong chư vị nghĩ đến huệ mạng ngàn đời ngàn kiếp, cố gắng tinh tấn tu hành. Mong cho tất cả chúng ta đều được thành tựu viên mãn…

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)

Thế Nào Là Tu Đúng, Tu Sai?

Thế Nào Là Tu Đúng, Tu Sai?Thế nào là tu đúng? Thế nào là tu sai? Những quan niệm sai lầm đã gắn vào cái tâm của họ. Xin thưa thực, người tu học Phật ngày hôm nay hình như lơ mơ lờ mờ chuyện này nhiều lắm. Trách nhiệm này quy cho ai đây? Chính Diệu Âm này hồi trước cũng đi nhiều nơi lắm, gặp chỗ nào có người tu, gặp chỗ nào có mái chùa, ngay cả nhà thờ Thiên Chúa cũng tới luôn, ấy thế mà năm mươi tuổi đầu, năm mươi năm trường tìm tòi, mà tìm không ra chỗ tu. Tình thực, cứ thấy người ta tu thì mình cũng tu, nhưng sau cùng rồi cũng không biết là tu như vậy để làm gì? Cũng có nghe pháp, nhưng mà nghe pháp rồi vẫn thấy lung tung, không biết đường nào để đi đây? Tình thực, xin nói thẳng thắn như vậy. Đến một lúc tự nhiên gặp câu A-Di-Đà Phật mới thấy ngỡ ngàng! Mới giật mình đứng sững sờ, đến nỗi người ta xô tới mình đi tới, người ta kéo lui mình đi lui, người ta tách ngang mình tách ngang… vì lúc đó cái cảm giác ngỡ ngàng giống như ở trên trời vừa rơi xuống dưới đất vậy. Nhờ cái cơ may đó mà mới có ngày hôm nay quyết lòng quyết dạ niệm câu A-Di-Đà Phật để đi về Tây Phương.

Khi chúng ta đã quyết chí tu hành, thì nhất định phải “Trạch Pháp” một cách rất mạnh mẽ. “Trạch” là gì? Là tuyển chọn. Phải tuyển chọn rất kỹ. Ngài Ấn-Quang Đại Sư nói rằng, Pháp của Phật không có cao, không có thấp. Không có pháp nào là cao, không có pháp nào là thấp cả, nhưng hợp với căn cơ thì mới sinh diệu dụng. Hợp với căn cơ có nghĩa là phải tuyển chọn. Tuyển chọn cho thật kỹ. Pháp nào Phật dạy ngay cho căn cơ của mình, phải chộp lấy đúng cái đó để đi thì nhất định một đời này được thành tựu, vì thực sự, pháp Phật là để cứu tất cả chúng sanh vượt qua sanh tử luân hồi, không còn tử không còn sanh nữa.

Ấy thế mà có rất nhiều, rất nhiều, vô cùng nhiều người nói về pháp Phật, nhưng lại không hướng dẫn cho người ta vượt qua cái cảnh sanh tử luân hồi, mà thường lại:

– Dùng thế gian pháp để nói.
– Dùng tâm lý ra nói.
– Dùng hội đoàn ra nói.
– Dùng những thiện lành thế gian ra nói… Đến nỗi nhiều người cứ lấy cái mẫu đó tu hành, tưởng vậy là tu học Phật rồi!

Cho nên, trách người học Phật không biết đường đi cũng tội nghiệp cho họ. Mà thực sự trách người nào khác cũng không trách được nữa, vì thực ra đời này mà tìm ra một con đường đi thẳng về Tây Phương nhất định là do thiện căn phước đức của người đó đã có rồi mới gặp được trường hợp này. Như vậy, ta đã ngồi được ở đây, ta phải biết rằng là do thiện căn phước đức trong nhiều đời nhiều kiếp ta đã có rồi mới tới đây được.

Thế nhưng coi chừng…

– Nghiệp chướng vẫn theo sát bên ta.
– Oan gia trái chủ vẫn theo sát bên ta.
– Nợ sanh tử vẫn theo sát bên ta.

Chỉ cần ta lơ là một chút thì tất cả những cái đó nó sẽ vươn lên, nó bao lại, nó kéo chúng ta về trong môi trường sanh tử luân hồi. Có nghĩa là ta tu rồi cũng tiếp tục con đường tử tử sanh sanh, sanh sanh tử tử, và xin thưa thực, tam ác đạo không phải là khó vào lắm đâu! Đây là sự thực.

Bữa nay chúng ta tiến lên một chút nữa, là niệm Phật nó có ba điểm cần phải thực hiện: Tín-Nguyện-Hạnh, và có ba điểm quyết không được dính vào, nhớ cho kỹ…

– Một là nghi ngờ, hồ nghi.
– Hai là xen tạp.
– Ba là gián đoạn.

Hôm nay chúng ta nói chuyện “Hồ Nghi”, nó liên kết với câu chuyện tối hôm qua. Có rất nhiều người khi đã gặp pháp môn niệm Phật, chính đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật nói: Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Chính Đức A-Di-Đà nói, Người nào niệm danh hiệu A-Di-Đà Phật, dù cho nghiệp chướng trong quá khứ có sâu nặng như thế nào đi nữa, trong đời này trước khi niệm câu A-Di-Đà Phật mà lỡ lầm, sai lầm như thế nào đi nữa, bây giờ quyết tâm niệm danh hiệu Ta, nguyện vãng sanh về nước Ta, đem tất cả những căn lành hồi hướng về nước Ta, dẫu cho mười niệm mà không được vãng sanh, Ta thề không thành Phật. Chỉ ngoại trừ những người đã tạo ra ngũ nghịch, thập ác và phỉ báng chánh pháp. Đây là lời Phật nói.

Ấy thế mà có những người cứ nghĩ rằng:

– Ta nghiệp chướng sâu nặng quá, nói thì nói vậy chứ không có cách nào có thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc đâu.

Cũng có những người nói:

– Người kia tu suốt cả đời vẫn không được vãng sanh, làm gì ta lại niệm Phật được vãng sanh?

Có nhiều người nói:

– Sao mà cống cao ngã mạn như vậy? Tại sao không tu để kiếm chút thiện, chút lành… để đời đời kiếp kiếp tiếp tục tu? Lại đi về Tây Phương Cực Lạc để thành Phật. Thật là cống cao ngã mạn!

Toàn bộ những lời nói này không phải là kinh Phật nói. Người học Phật mà không theo kinh Phật, lại nói ngược lời Phật dạy trong kinh. Đi vào trong Niệm Phật Đường, bao nhiêu người nhiếp tâm quyết lòng đi về Tây Phương Cực Lạc, mình lại nêu vấn đề hồ nghi ra làm cho niềm tin của người khác bị phá tan, làm cho người khác sợ, Khiến cho người ta nghĩ là không thể đi về Tây Phương được! Lời nói này đoạn mất đường thành đạo của người khác. Tội này lớn vô cùng lớn!

Chính vì vậy, mở một lời nói ra chúng ta phải cẩn thận vô cùng. Một lời nói tích cực, một lời nói khuyến tấn làm cho người ta tin tưởng đi về Tây Phương, dù người ta chưa được đi, dù ta không bỏ ra một đồng nhưng ta tạo ra không biết bao nhiêu công đức. Một lời nói ra, ta cũng không bỏ ra một đồng, người ta cũng không lợi một đồng, nhưng mà đoạn mất đường thành đạo của người khác. Một lời vô ý nói ra, coi chừng ta bị đọa lạc mà không hay! Đoạn cái thân mạng này không nặng bằng đoạn huệ mạng của người khác.

Khi tu hành chúng ta phải cẩn thận, hết sức cẩn thận. Trong kinh Phật nói, “Ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết”, là trường hợp này. Phật nói niệm Phật một đời này vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, ta lại nói dễ gì mà đi về Tây Phương Cực Lạc. Rõ ràng nói ngược!

Ngài Ấn-Quang Đại Sư nói: “Dẫu cho chư Phật trên mười phương bây giờ mà tái sinh xuống dưới cõi trần, trong thời mạt pháp này, cũng phải dạy cho chúng sanh niệm Phật vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc”.

Đức A-Di-Đà Phật nói: “Người nào dẫu cho tội như thế nào đi nữa, quyết lòng tin tưởng niệm danh hiệu ta, nguyện sanh về nước ta, dẫu mười niệm mà không được vãng sanh ta thề không thành Phật”.

Ngài nói như vậy mà có nhiều người không tin, lại nói những lời ngược. Ly kinh nhất tự!… Một chữ thôi!!!…

– Ngài nói được vãng sanh, mình nói không được vãng sanh!
– Ngài nói quyết lòng đi về Tây Phương, thì nhất định Ngài cứu, mình nói làm gì mà có chuyện cứu.
– Ngài nói bây giờ tội chướng nặng như thế nào nữa, bỏ đi. Quyết định buông xả những tình chấp thế gian ra. Những tập khí đó, bỏ đi. Quyết cầu về Tây Phương, nhất định Ta sẽ cứu về Tây Phương… Mình nói chị có nghiệp như vậy làm sao đi về Tây Phương? Anh có nghiệp như vậy làm sao đi về Tây Phương? Trời ơi!.. Ông kia niệm cả một đời không vãng sanh được, làm gì mà bây giờ anh niệm Phật được vãng sanh?!!!…

Nói toàn những chuyện để ngăn cản con đường vãng sanh của người ta. Rõ rệt nói sai kinh Phật.

Xin thưa với chư vị, đã quyết lòng tới đây tu, nhất định đạo tràng này đã ra cái phương châm “Tu thực”. Hãy quyết lòng quyết dạ mà đi, tuyển chọn một cách hết sức là cẩn thận. Người nào quyết lòng đi về Tây Phương, thì xin chư vị tới đây cộng tác với nhau, hỗ trợ cho nhau, cương quyết bảo vệ cho nhau đi về Tây Phương.

– Nhất định phải đóng lỗ tai lại, không được nghe bàn ra tán vô.
– Phải đóng con mắt lại, không được nhìn cái này cái khác làm cho tâm chúng ta loạn đi.
– Đóng miệng lại, nhất định ai nói gì nói, ta không bàn tới.

Nếu ta cứ bàn luận, bàn một cái thì bị vướng vào cái bẫy: “Đấu Tranh Kiên Cố”, ta bị nạn liền lập tức. Khi đã gặp được câu A-Di-Đà Phật là do thiện căn phước đức chúng ta đã có, mau mau làm cho thiện căn phước đức nó bùng lên, nó nổi lên, càng vững lên. Làm sao để cho thiện căn phước đức vững? Chính là niềm tin càng ngày càng vững. Và xin thưa thực, vì một người đầy rẫy nghiệp chướng thế này mà được về Tây Phương thành đạo mới chứng minh rằng câu A-Di-Đà Phật bất khả tư nghì!…

Ngài Pháp-Nhiên Thượng-Nhân nói: “Vì câu A-Di-Đà Phật đưa một người tội chướng sâu nặng mà về được Tây Phương thành Phật mới chứng tỏ rằng đạo pháp của Phật vi diệu”. Chứ bây giờ một pháp mà chỉ dành cho hạng Đại Bồ-Tát đi về Tây Phương thì đâu có gì đâu vi diệu. Chính lời thề của Đức Phật là để đưa chúng ta, chính chúng ta đây, vãng sanh về Tây Phương.

Muốn về Tây Phương không? Chắp tay lại thành khẩn niệm Phật. Chắp tay lại sám hối tất cả những lời nói nào sơ ý đã làm cho người ta mất tín tâm. Phải quyết lòng mà đi, tự nhiên trong một đời này chúng ta vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Tích cực-Vững vàng-Tin tưởng. Nếu chúng ta rời những điều này ra, nhất định chúng ta đi ngược với lời Phật. Đi ngược với lời Phật tức là tự mình đi theo con đường gọi là “Ma Nghiệp”. Ma nghiệp chính trong tâm này ứng hiện ra.

Như vậy, Phật cũng Tâm; Ma cũng Tâm, không ở đâu hết. Hãy bỏ cái “Tâm Ma” đi, quyết lòng niệm câu A-Di-Đà Phật. Niệm Phật thành Phật. Nhất định tất cả chư vị đều đi về Tây Phương Cực Lạc trong một báo thân này.

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)

Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Dạy Về Pháp Tu Tịnh Độ‏

Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Dạy Về Pháp Tu Tịnh Độ‏LTS: Đại lão Hòa thượng thượng Trí hạ Tịnh – Đệ nhất Phó Pháp chủ, Chủ tịch HĐTS GHPGVN – là bậc Tòng lâm thạch trụ và là một trong những đại dịch giả của Phật giáo Việt Nam. Mặc dù tinh thông cả Thiền lẫn Giáo, song Hòa thượng một đời chuyên tâm hành trì pháp môn Tịnh độ và luôn luôn khuyến tấn Tăng Ni, Phật tử ăn chay, giữ giới, niệm Phật…

Nhân dịp thực hiện chuyên đề về pháp tu Tịnh độ tại Việt Nam, đại diện Ban Biên tập và bộ phận biên tập Nguyệt san Giác Ngộ đã có cuộc thỉnh vấn, đảnh lễ Hòa thượng. Bài viết sau đây là lời kể về cuộc đời tu và lời dạy của Ngài về pháp môn Tịnh độ. Xin hân hạnh giới thiệu cùng quý độc giả.

Nguyệt San Giác Ngộ

Niệm Phật từ thuở thiếu thời

“Thuở nhỏ ở nhà, lúc đó khoảng 12-13 tuổi, tôi đã tự mình niệm Phật”, Hòa thượng kể. “Tôi đọc trong Tây phương trực chỉ, thấy có nói hễ niệm được 300 ngàn câu Phật thì được vãng sanh Cực Lạc. Tôi tin mà làm. Nhưng vì sao tin thì tôi không biết!”

“Tôi lấy quyển sách quảng cáo thuốc của ông anh (anh tôi làm chủ tiệm thuốc Bắc) đem về đặt trên gối ở đầu giường, cứ mở sách ra rồi… niệm Phật! Cứ tính niệm được 100 câu Phật thì lật một tờ. Mọi người tưởng tôi đọc truyện, bởi người ta có in kèm truyện trong sách. Tôi ở nhà mà niệm Phật lén vậy, không ai hay biết”.

Sinh năm 1917 trong một gia đình nhà nông chân chất tại Sa Đéc (Đồng Tháp), thân phụ của Hòa thượng qua đời từ lúc ngài lên ba, đến năm lên bảy thì thân mẫu cũng tạ thế, Hòa thượng sống với người anh thứ ba.

“Lúc tôi biết mến đạo là vào khoảng năm 1928, thời điểm người ta bắt đầu xây dựng Thánh thất Cao Đài ở Tây Ninh. Một số người bà con của tôi cũng ở gần đó, theo Cao Đài, để tóc bới và ăn chay trường. Tôi cũng ăn chay trường một mình ở nhà, thường ăn với nước cơm, nước muối. Bởi hễ thấy thịt cá là tôi nhớ ngay đến cảnh người ta đánh vảy, cắt cổ, làm thịt nên không ăn được”.

Hòa thượng không theo Cao Đài vì cảm thấy “không hạp”, dù ngài vẫn thường mượn các sách Thông thiên học của mấy thầy cô giáo để đọc.

“Tôi tin pháp môn niệm Phật, không lúc nào quên đạo Phật, nhưng lại vô chùa không được, vì chùa lúc nào cũng tối om om, tượng thì ông nào cũng đội khăn đỏ trên đầu, chỉ có một đốm sáng nơi lỗ mũi, về nhà thấy muốn nóng lạnh. Ngoài đường thì có một ông thầy đi trước, thằng nhỏ theo sau, đầu đội cái thúng, trong để chuông mõ, tượng Phật và đồ minh khí để đốt. Tôi nghĩ tu hành gì kỳ vậy nên không mến được!”

Đại diện Ban biên tập và bộ phận Biên tập NSGN đảnh lễ và thỉnh vấn Hòa thượng

Năm 15, 16 tuổi, Hòa thượng hết tuổi học trường Pháp Việt, qua cấp khác thì không đủ điều kiện, nên quyết định học nghề – từ học sửa xe đạp đến học sửa đồng hồ rồi theo người anh làm không công để học thuốc. Nhờ đọc sách thuốc mà Hòa thượng dần dần thông chữ Hán. Trong khi đó, gia đình người anh thường xảy ra cảnh lục đục nên Hòa thượng có ý xuất trần.

“Tôi muốn đi lắm, nhưng cha mẹ không có, tôi đang ở với anh chị nên cũng khó. Tôi lại còn người chị thứ sáu – bây giờ chị vẫn còn sống – hai chị em hủ hỉ có nhau, vui buồn chia sớt, nếu đi thì bỏ chị lại. Tôi học nghề, nghĩ rằng nếu chị ở vậy thì hai chị em có thể nuôi nhau”.

“Đến năm tôi 20 tuổi, chị lập gia đình. Tôi bắt đầu tính chuyện giải thoát thế gian. Nghe người ta nói ở Thất Sơn – Tà Lơn có nhiều người tu theo đạo Phật, có chùa, am, cốc, nên tôi bèn dò la, biết được chùa am chủ yếu tập trung ở Núi Cấm. Đầu năm 21 tuổi, tôi bỏ nhà lên núi, để lại lá thơ chớ không cho ai biết. Lúc đó nhằm ngày 14-2-Đinh Sửu. Khoảng hơn 2 giờ chiều thì tới chân núi, tôi quăng guốc chạy chân không, cảm thấy lòng nhẹ nhõm như không còn gì dính líu. Chạy rát chân thì đứng lại, leo lên gộp đá bên đường ngó bốn phía, tôi khấn vái rằng mình là người phàm mắt thịt, không biết đâu thánh phàm, nguyện ơn trên chỉ dẫn, cứ một mặt phía truớc mà bước đi, gặp chỗ nào thì ở đó chớ không chọn lựa”.

khoa-tu-phat-that-an-giang-2007

Khóa tu Phật thất năm 2007 tại chùa Vạn Linh – Núi Cấm, An Giang

“Khoảng hơn 5 giờ thì tôi tới Vạn Linh, nghe nói thầy đang ở ngoài cốc, đến tối mới gặp được. Sau thời Tịnh độ, thầy vào ngồi bên bàn, bóng đèn leo lét. Tôi đứng một bên; năm, bảy huynh đệ đứng bên kia thưa chuyện. Thầy chỉ tôi mà mắt nhìn mấy huynh đệ, nói: “Mấy đứa bây đừng coi thường cái thằng nay nghe. Đời trước nó là Hòa thượng, bây giờ nó cũng sẽ là Hòa thượng đó!”. Thầy nói thêm một mình: “Làm Hòa thượng nhưng nó cũng thích nhìn con gái lắm, nên sẽ bị tật con mắt suốt đời không hết”. Mấy tiếng này thầy nói chậm lắm. “Này, coi sửa soạn mai rằm cho nó tu!”. Tôi nghe vậy thì mừng lắm, không nghĩ đến việc bịnh tật hay Hòa thượng gì cả, mà cũng không biết Hòa thượng là gì, được chấp nhận cho ở chùa tu là mừng lắm rồi!”.

“Chỉ trong vòng 2 tháng, mấy thời công phu trong chùa tôi thuộc không thua ai khác, trong đó phẩm Phổ Môn tôi thuộc đầu tiên. Nguyên do là tôi không có áo dài mặc lễ Phật. Chùa có mấy cái dành cho Phật tử, tôi mượn để tụng kinh. Sau có một Phật tử phát tâm cúng bốn thước vải đà, yêu cầu tụng 60 biến Phổ Môn. Mấy huynh đệ thấy tôi không có áo dài mặc nên bảo tôi tụng. Do đó mà tôi thuộc lòng phẩm Phổ Môn, rồi mến luôn kinh Pháp Hoa”.

Hòa thượng được phân công viết sớ, được cho ở trong một cái cốc nhỏ nơi vườn chùa. Nhờ vậy mà ngoài việc tụng kinh, Hòa thượng còn tranh thủ tụng thêm bốn thời nữa, rất tinh cần. Nghe mấy huynh đệ nói đến việc tu khổ hạnh, Hòa thượng cũng quyết thực hiện.

“Tôi bỏ ngủ, không nằm nữa, đến độ lên quả đường cầm chén cơm ngồi sững mà ngủ, rớt hồi nào cũng không hay, vậy mà cũng không thành gì, nên thôi. Rồi tôi lại tuyệt cốc, chỉ ăn rau, ăn riết rồi đi lên dốc cũng không nổi, yếu quá mà cũng không thành ông gì, lại bỏ!”.

Do được đọc tạp chí Từ Bi Âm mà Hòa thượng phát khởi ý nguyện cầu học Phật pháp, vì ngoài các thời trống phách kinh kệ, ngài không được học gì thêm. Cuối năm 1939, Hòa thượng xin phép Bổn sư xuống núi về Sài Gòn rồi ra Trung cầu học. Đoạn đường hết sức gian nan, không ai giúp đỡ, không có phương tiện, ngài chỉ ôm gói quần áo mà đi, từ Sài Gòn ra Phan Thiết, tới Bình Định rồi đến Huế. Ban đầu Hòa thượng ở chùa Tây Thiên, sau nhờ thầy Giác Tâm (người Bến Tre) giới thiệu đến chùa Báo Quốc theo học Phật học. Bấy giờ là năm 1940, trường chỉ có duy nhất một lớp, đang học đến năm thứ 6 Sơ đẳng, còn vài tháng nữa thì lên Trung đẳng, song Hòa thượng cũng được nhận vào học, lại được cấp học bổng và cho nội trú. Năm 1941, ngài thọ Sa di giới rồi tiếp tục học lên Trung đẳng và tốt nghiệp vào năm 1942, đến năm 1945 thì tốt nghiệp Cao đẳng. Tiếp theo là thời kỳ Hòa thượng ra làm việc, phụng sự Đạo Pháp…

Năm 1955, Hòa thượng thành lập Cực Lạc Liên hữu tại chùa Vạn Đức (Thủ Đức), khuyến tấn mọi người niệm Phật, cầu vãng sanh Tịnh độ. Ngài là vị thầy đương thời chấn hưng Tịnh độ trong tòa nhà Phật giáo Việt Nam. Tịnh độ Liên hữu do ngài sáng lập được duy trì trong suốt mười năm – cho đến năm 1964, khi GHPHVNTN thành lập – khơi dậy một phong trào tu tập mạnh mẽ, giúp cho rất nhiêu hành giả quy hướng Tịnh độ.

Những lời dạy của Hòa thượng về pháp tu Tịnh độ

“Pháp môn trì danh niệm Phật đơn giản lắm”, HT nói. “Trước hết, luôn luôn phải có lòng tin. Tin ở nơi lời giới thiệu của Đức Phật Thích Ca về Cực Lạc thế giới của Đức Phật Di Đà là chơn thật; tin vào y báo, chánh báo của cảnh giới ấy, vì đó là chỗ mà tất cả chúng sanh và các bậc Thánh đều phải nên về. Do là y báo, chánh báo của cảnh giới Cực Lạc có thể đưa mình đến nơi bậc thánh, thành Phật chứ không ngưng trệ hay do duyên gì mà thối lui. Tiếp theo là tin nơi Pháp mà Phật Thích Ca đã dạy, phải như thế nào thì mới có thể về cảnh giới Cực Lạc”.

“Có nhiều cách để vãng sanh Cưc Lạc, song cách trì danh là đơn giản nhất. Bởi theo danh tự mà niệm thì dễ, còn quán tưởng thì trí lực của người rất khó đến. Muốn ở nơi sự quán tưởng đúng theo kinh nói thì các bậc hiền thánh mới có thể thực hiện được. Trong khi trì danh thì dẫu kẻ phàm phu, tục tử vẫn có thể niệm, cứ đúng theo Nam mô A Đi Đà Phật mà hành trì”.

“Quý huynh đệ thấy, nếu quán về 32 tướng tốt của Phật, ngay chỉ tướng lông trắng giữa chặn mày của Phật A Di Đà thôi cũng đã lớn bằng năm hòn núi Tu Di, như vậy thì làm sao nghĩ tới? Ở đây, ánh sáng lại tỏa ra khắp mười phương. Còn cặp mắt của ngài thì bằng bốn đại hải – đại hải đó không phải như ở biển ta, biển ở ta so ra thì chỉ là một cái cù lao – tưởng tượng sao nổi?”

“Cái tướng lông trắng đó của bất kỳ vị Phật nào, nếu kéo thẳng ra thì cũng đều đụng tới gót. Mà theo kinh, bề cao của thân Phật Di Đà là 60 muôn ức Na do tha số các sông Hằng (theo luận Câu xá thì một Na do tha bằng khoảng 100.000 tỷ – GN) – một hột cát được tính là một do tuần (khoảng 15-20 km), cộng lại là ra chiều cao thân Phật. Thử nghĩ, một sông Hằng có bao nhiêu hột cát, bao nhiêu do tuần? Mà thân ngài cao đến 60 muôn ức na do tha số cát sông Hằng! Do đó, tướng lông trắng đó cũng dài tương đương như vậy, xoắn tròn lại to bằng năm hòn núi Tu Di”.

“Đó không phải là cách nói tượng trưng đâu, mà Phật Thích Ca nói đúng thiệt như vậy. Nếu chỉ quán tưởng thân ngài cao như tượng mình thờ thì không chính xác. Còn nếu quán thật tướng chân như lại càng khó hơn nữa. Dù cũng có người làm được, nhưng chỉ là những bậc hiền thánh hiện thân. Do vậy, trì danh được xem là thấp nhất và dễ nhất. Mình đang đi bộ hay đi trên xe niệm Phật cũng được. Mình đang đứng ngắm cảnh cũng niệm được. Mình đang ngồi làm việc cũng niệm được và khi mệt mỏi quá nằm niệm cũng được. Chỉ trừ lúc nói chuyện là không niệm được thôi!”

“Trì danh nói là thấp song hành trì không dễ. Phải tin thực sâu, nguyện thực thiết và công hạnh phải chuyên cần thì mới hiệu nghiệm, nếu không thì cảnh khác chen vô phá hết. Khi niệm thì tâm và tiếng phải hiệp khắn nhau. Nghĩa là tâm phải duyên theo tiếng, tiếng phải ở trong tâm, đừng để nó xao lãng theo một tiếng gì khác, hễ nó rời ra thì phải kéo nó lại. Muốn được vậy, tiếng niệm phải cho rõ ràng, rành rẽ. Niệm như vậy phải chuyên cần, phải nhiều thời gian, phải đều đặn, phải tinh tấn lắm mới đắc lực. Khi niệm đã đắc lực thì tự nhiên trong tâm mình nổi lên tiếng niệm Phật mà mình không cần đề khởi, không cần nghĩ đến nó vẫn tự niệm. Ban đầu thì lúc được lúc mất, được thì ít mà mất thì nhiều. Cố gắng thêm thì được nhiều mất ít, cho đến khi không còn gián đoạn nữa thì gọi là niệm lực tương tục. Và như vậy mới đúng nghĩa “chấp trì danh hiệu”. Đó mới là nhơn của niệm Phật tam muội. Được vậy thì sự vãng sanh mới bảo đảm”.

“Tôi nói với mấy huynh đệ về chữ “chấp trì danh hiệu”. Chấp nghĩa là cầm, còn trì là giữ lại. Giống như tôi nắm quyển sách không buông ra vậy, hễ bỏ ra là không trì. Khi mình xưng danh hiệu ‘Nam Mô A Di Đà Phật’, làm sao trong tâm mình chỉ có ‘Nam Mô A Di Đà Phật’ mà thôi. Đừng có cái gì khác, đừng cho một niệm gì xen vào hết. Trong lúc niệm Phật mà còn niệm những thứ khac nữa thì không phải niệm Phật. Nếu chấp trì được danh hiệu như Phật Thích Ca nói thì nhất định vãng sanh. Làm không đúng thì không có kết quả. Lời Phật nói không khi nào sai cả, chỉ tại mình hiểu chưa đúng, mà khi hiểu đúng thì cũng không hẳn đã làm đúng”.

“Cũng có nhiều người đến than thở với tôi là muốn giữ cái tâm lại, nhiếp tâm để chấp trì danh Phật mà làm hoài nó vẫn cứ chạy. Vì cái chạy đó nó quen lâu năm rồi. Không phải lâu năm trong đời này, mà nó đã lâu năm trong nhiều đời trước nữa. Cho nên, mình phải cột, phải nắm lại, rồi lần lần ‘cột nắm’ cũng dần quen. Khi đứng lại thì nó cũng quen đứng luôn. Vậy nên, phải thật chịu khó để đạt nhất tâm bất loạn, tức niệm Phật tam muội. Trong Quán kinh nói, lúc Phật Di Đà hiện tiền thì các Phật khác cũng hiện tiền. Hiện tiền là hiện ra trước mắt chứ không phải chiêm bao”.

Hòa thượng nói thêm: “Khi dịch các kinh điển Đại thừa khác, tôi thấy trong các kinh đó đều có nói đến cảnh giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Như trong kinh Hoa Nghiêm, ngay cả các vị Đại Bồ tát nhập Bất khả tư nghì Giải thoát cảnh giới, khi các vị ngồi kề bên Phật còn khuyên với nhau xả bỏ thân này để về Cực Lạc, bởi duyên Cực Lạc khó có nước nào bằng. Vậy nên, chúng ta hãy chuyên tâm niệm Phật”.

CHÚC PHÚ – Q.KIẾN ghi
Nguồn tin từ Giác ngộ