Lâm Chung Bệnh Khổ Bức Bách Dũng Mãnh Niệm Phật Được Vãng Sanh

Lâm Chung Bệnh Khổ Bức Bách Dũng Mãnh Niệm Phật Được Vãng SanhCư sĩ Văn Trọng Tử, tự Tử Dữ, hiệu Khải Sơ và Ðại Thịnh đời Minh, người huyện Tiền Ðường. Thuở bé lắm bịnh, chí muốn thoát sanh tử, không có ý định lập gia đình. Ông quy y với Tổ Vân Thê, thọ trì pháp môn Niệm Phật, dốc lòng tin, cật lực tu hành.

Em rể là cư sĩ Hoàng Nguyên Phù tự Thừa Huệ, hiệu Tịnh Minh tính người khẳng khái, thanh cảnh, không thích bon chen cõi tục, hiếu thuận, thích bố thí. Ông Văn thấy em rể thanh bần như thế bèn hướng dẫn đến quy y với tổ Vân Thê. Sau ông Hoàng mửa ra máu, lâu ngày càng nặng, ông Văn lại dạy em rể hãy niệm Phật. Ông Hoàng càng thống khổ; vừa mới tỉnh, Văn cư sĩ đã lớn tiếng hỏi:

– Lúc mắt chú dại đi thì lúc ấy mới biết khổ, rốt cục sẽ đi về đâu?

Ông Hoàng run sợ:

– Phải làm thế nào đây?

Ông Văn bảo:

– Chẳng gì bằng niệm Phật!

Ông Hoàng hỏi:

– Bác dạy em niệm tự tánh Di Ðà hay là niệm Cực Lạc Di Ðà?

Ông Văn bảo:

– Chú cho là có hai hay sao?

Ông Hoàng có phần tỉnh ngộ, liền thỉnh Tăng, bày tượng Phật, giảng nhân duyên Tịnh Ðộ, xuống tóc, thọ giới Sa Di và trợ niệm cho mình; tự suất lãnh cả nhà niệm Phật suốt bảy ngày. Chợt nghe mùi hoa sen, ông Hoàng mỉm cười, nói kệ, ngồi ngay ngắn qua đời.

Ðến khi ngài Hám Sơn Ðức Thanh đến điếu tang ngài Vân Thê, ông Văn cũng đến lễ thỉnh, xin được thế phát. Ðại Sư bảo:

– Tứ đại chẳng thể ngăn trở được Phật tánh, râu tóc có trở ngại chi! Cha mẹ còn, Phật tử đành cam bất hiếu hay sao?

Ông mới thôi. Về sau, bị bịnh nặng, ông tự thị mình tín lực mạnh mẽ, vãng sanh chẳng khó khăn gì. Ðến lúc bịnh gần chết, bao nhiêu nghiệp tích tập hiện tiền, tâm thần hoảng hốt, ông mới biết là Tịnh nghiệp chưa thuần, vãng sanh chẳng dễ dàng, bèn cố nhỏm dậy, kêu ầm lên:

– Mau thỉnh thiện tri thức niệm Phật giúp ta!

Bạn bè nhóm lại, niệm Phật suốt mấy ngày, nhưng những nghiệp cảnh tập khí vẫn vần vũ, ông lại kêu:

– Căn bản sanh tử không người nào khác dẹp nổi!

Liền đứng dậy, mặc áo, tắm gội, đối trước Phật đốt hương trên cánh tay, buồn thương, thành khẩn sám hối, niệm Phật suốt đêm không chút mệt mỏi. Ông tự biết túc chướng đã băng tiêu, tâm an thần sảng, Tịnh Ðộ hiện tiền, hoan hỷ tịch định, vội cạo tóc, khoác cà sa ra dáng tăng sĩ, từ biệt mọi người, ngồi ngay ngắn qua đời.

(theo Mộng Du Tập)

Nhận định:

Ông Hoàng bịnh càng ngày càng nặng, chợt được nghe khai thị bèn tỉnh ngộ, liền nhất niệm kiên quyết nên bèn có thể buông xuống vạn duyên, niệm Phật bảy ngày, vãng sanh ngay chẳng trở ngại gì.

Ông Văn tuy sớm dốc lòng tin, tận lực tu hành, nhưng tự thị mình tín lực mạnh mẽ, vãng sanh chẳng khó khăn; đến lúc nguy ách, tập khí hiện tiền, mới biết Tịnh nghiệp chưa thuần, vãng sanh chẳng dễ! Cho đến khi nhờ tri thức trợ niệm suốt mấy ngày vô hiệu mới rõ căn bản sanh tử không ai bạt trừ giùm mình được nổi!

Ðại sư Hám Sơn nói:

“Tập cảnh hiện tiền lúc lâm chung há chẳng phải là để thấy trước ác đạo ư? Sao chẳng dũng mãnh, phấn khởi, hô to một tiếng giận dữ, bạt trừ cội gốc sanh tử bao kiếp, biến nẻo khổ thành Tịnh Ðộ, há chẳng phải là những bậc trượng phu hay sao? Ðạo lý ấy há có thể dùng âm thanh, vẻ mặt cười cợt để thực hành nổi ư?”

Nếu tự thị là dễ thì sẽ lười nhác, còn biết là khó thì sẽ dũng mãnh, tinh tấn!

Trích: Niệm Phật Pháp Yếu
Gương Sáng Niệm Phật
Tịnh nghiệp đệ tử Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính kết tập

Đoạn Tuyệt Đồ Mặn Vãng Sanh Tây Phương

Đoạn Tuyệt Đồ Mặn Vãng Sanh Tây PhươngCư sĩ Châu Sở Phong, hiệu Diên Chương đời Minh, người tỉnh Vân Nam. Ông tánh hiền lương, thích niệm Phật, trị gia chẳng kể được, mất; có gì đều chia ngay cho người nghèo khổ hết.

Ai khen ông chỉ cười; ai mắng chửi, nhục mạ, ông cũng chỉ cười mà thôi! Mỗi sáng sớm, ông tụng kinh Kim Cang, kinh Di Ðà và niệm Phật hiệu rất vui vẻ, sung sướng! Ông thường bảo:

– Tôi chẳng bỏ công việc hằng ngày, nhưng chẳng dính vào tham ái, cứ như thế mà thôi!

Năm tám mươi chín tuổi, vào tiết Thanh Minh, ông đi viếng mộ để từ biệt tổ tiên, cha mẹ; trở về, bảo vợ:

– Tôi sắp đi đây, Phật Di Ðà đón tôi, Quán Âm và Thế Chí đều đến cả!

Lại bảo:

– Ðức Quán Âm bảo tôi dứt trọn đồ mặn trong năm ngày mới được vãng sanh Tây Phương!

Mỗi ngày, ông liền ăn một bữa cháo, một bữa rau. Ðến kỳ, tắm gội, đội mão, sai con cháu tụng Phật hiệu. Tự mình tụng kinh xong, ông đoan tọa mà hóa. Thân bốc ra mùi thơm, vẻ mặt hệt như lúc sống.

(Theo Kim Cang Linh Dị Lục)

  • Lời bàn:

Ai khen chỉ cười là mật hạnh tịnh tấn. Ai mắng chửi cũng cười là sân độc đã hết sạch. Có của cải gì liền chia hết là tham độc cũng đã tận. Phật và Bồ Tát đến đón, còn dặn phải kiêng đồ mặn trong năm ngày mới có thể vãng sanh, đủ chứng minh rằng dù chưa thể ngưng tay dao, miệng còn tham vị ngon vẫn có thể được vãng sanh. Xin hãy lấy việc ăn chay, kiêng giết chóc làm nhiệm vụ cấp bách.

Trích Niệm Phật Pháp Yếu
Gương Sáng Niệm Phật
Tịnh nghiệp đệ tử Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính kết tập
Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa dịch

Thập Niệm Hồi Hướng

Thập Niệm Hồi HướngCư sĩ Mã Vu tự Trọng Ngọc đời Tống, người huyện Hợp Phì. Cha là Trung Túc Công Mã Lương, làm thái thú Hàng Châu, được ngài Từ Vân Tuân Thức dạy cho pháp môn Tịnh Ðộ, cả nhà bèn thờ Phật.

Cư sĩ gặp được vị Tăng tên Quảng Sơ truyền cho cuốn Thập Nghi Luận của Tổ Thiên Thai, mừng rỡ bảo:

– Tôi nay đã tìm được chỗ về rồi!

Ông liền áp dụng pháp Thập Niệm Hồi Hướng của ngài Tuân Thức, tu tập suốt hơn hai mươi năm. Về sau, giao du với ông Vương Cổ, ông càng thêm tinh tấn niệm Phật, thường lấy việc phóng sanh làm Phật sự. Ông lần lượt làm thái thú ở Chuy Châu, Tân Ðịnh, cai trị bằng lòng nhân từ, độ lượng. Hằng ngày ông luôn định thời khóa tụng kinh chú.

Thuở đó, phu nhân của Hình Vương (Hình Vương là chú của vua Tống Triết Tông) nằm mộng dạo chơi Liên Trì, trông thấy ông mặc triều phục ngồi trên hoa sen. Sau đó, ông mắc bệnh, bèn tắm gội, thay áo, ngồi ngay ngắn niệm Phật mà qua đời. Người nhà đều nằm mộng thấy ông bảo:

– Ta đã được sanh vào Thượng Phẩm của Tịnh Ðộ!

Con ông là Vĩnh Dật cũng tu pháp Thập Niệm suốt ba mươi năm hơn; sau cũng mắc bệnh, thấy Phật và hai vị Bồ Tát tiếp dẫn, bèn kết ấn, thị tịch. Mùi thơm tràn ngập cả nhà.

(Theo Lạc Bang Văn Loại)

Nhận định:

Sáng ra niệm mười niệm thì dù là người bận rộn cũng dễ làm được. Nếu có thể mỗi ngày chí thành như thế thì không ai là không vãng sanh. Trường hợp của Mã công tử (Mã Vĩnh Dật) đủ để chứng nghiệm vậy.

Do sau khi đã tinh tấn niệm Phật, ông Mã lại còn thường phóng sanh và dùng lòng nhân từ, độ lượng để cai trị, phước huệ song tu nên ngay lúc còn sống thần thức đã ngao du Tịnh Ðộ; chết đi, liền sanh trong Thượng Phẩm. Những người đang nắm giữ quyền chức hãy nên học theo gương ông.

Trích: Niệm Phật Pháp Yếu
Gương Sáng Niệm Phật
Tịnh nghiệp đệ tử Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính kết tập
Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa dịch

Đợi Làm Xong 3 Điều Mới Niệm Phật E Đã Trễ

Đợi Làm Xong 3 Điều Mới Niệm Phật E Đã TrễThuở xưa có vị Tăng Đề Thi đến thăm người bạn tên Trương Tổ Lưu, là người rất siêng năng cần mẫn, việc nhà thật chu đáo. Ông cũng có tâm tin tưởng đức Phật nhưng lại thiếu ý chí cương quyết. Vị Tăng thăm hỏi và khuyên bảo ông:

– Sanh tử là việc lớn, ông cần phải sớm lo niệm Phật.

Ông Trương Tổ Lưu từ chối:

– Bổn phận của tôi chưa tròn, tôi còn ba việc phải làm cho xong.

– Ông nói ba điều ấy là ba điều gì?

– Thưa đó là: Linh cữu cha mẹ tôi chưa chôn, con trai tôi chưa cưới và con gái tôi chưa gả.

Vị Tăng thấy nghiệp của ông Trương Tổ Lưu còn quá nặng, vì chưa đủ thiện duyên nên Ngài không thể khuyên ông niệm Phật tu hành được, Ngài cáo biệt ra về.

Ít lâu sau ông Trương Tổ Lưu bỗng nhiên qua đời. Bấy giờ vị Tăng ấy lại đến phúng điếu và làm bài thơ rằng:

Ngô hữu danh vi Trương Tổ Lưu
Khuyến y niệm Phật thuyết tam đầu
Khả quái Diêm công vô phân hiểu
Tam đầu vị liễu tiện lai câu.

Tạm dịch:

Người bạn tôi tên Trương Tổ Lưu
Khuyên ông niệm Phật nói ba điều
Ba điều chưa trọn vô thường bắt
Đáng trách Diêm Vương chẳng biết điều.

Câu chuyện trên đây thật đáng để người đời suy gẫm mà thức tỉnh.

Người vâng lời đức Phật dạy, một lòng niệm Phật A Di Đà là ngọn đèn sáng phá tan màn tối âm u tịch mịch, là chiếc thuyền lớn đưa người qua biển khổ, là liều thuốc hay độ thoát sanh tử và cũng là con đường tắt vượt qua ba cõi.

Trích Cực Lạc Thù Thắng
Dịch giả: Hòa Thượng Thích Hân Hiền