Pháp sư Hải Khánh, họ Lý , húy Phú Quý . Tổ tiên ngụ tại huyện Tất Dương của Đông Nam tỉnh Hà Nam. Sinh vào năm Tuyên thống cuối triều Thanh (năm 1909). Vì sinh ra trong gia đình nghèo khó, chưa từng được đi học, nhưng thiên tánh nhân hậu, sống hiền hiếu biết lễ nghĩa. 11 tuổi pháp sư Truyền Đông thế độ xuất gia ở chùa Thanh Lương núi La Hán Nam Dương. 42 tuổi vào thường trụ ở chùa Lai Phật, chuyên tu Tịnh độ, lão thật niệm Phật. Năm 1989 thọ cụ túc giới tại chùa Bạch Mã. Ngày 11 tháng Chạp năm 1991 âm lịch, tự tại sanh Tây. Hưởng thọ 82 tuổi, tăng lạp 71 năm.
Y theo quy tắc của nhà Phật, sau khi vãng sanh để Ngài vào chum lớn. Đa số là sau ba năm mở chum, nếu như thân thể không hoại thì lưu toàn thân, thân thể hoại rồi thì sau khi hỏa táng an táng lần nữa. Sau 6 năm 9 tháng Pháp sư Hải Khánh ngồi trong chum, sư huynh của Ngài lão Hòa thượng Hải Hiền phát tâm mở chum. Không ngờ mở chum thọ ra, diện mạo Hòa thượng Hải Khánh như lúc còn sống, ngay cả y phục trên thân cũng không hư hoại chút nào. Mọi người vô cùng kinh ngạc tán thán không ngớt, thế là đem nhục thân của Ngài vào thờ trong chùa Lai Phật. Năm 2005, có cư sĩ phát tâm cúng dường thiếp vàng nhục thân của Ngài.
Vóc dáng của Pháp sư Hải Khánh thấp bé, vô cùng hiền từ. Các vị cư sĩ đều nói:
“Nếu như luận về cần kiệm, Khánh Công cũng không thua kém gì lão Hòa thượng Hải Hiền.” Lúc đó điều kiện của tự viện không tốt, thanh khổ cùng cực. Mùa đông Pháp sư Hải Khánh toàn thân bông vải (áo bông này hiện được cất trong Kim Cang quán chùa Lai Phật), mùa hè ăn mặc đơn sơ, nhưng cả ngày Ngài đều vui tươi hớn hở, thường nở nụ cười. Ngài không thích nói chuyện, một vị cư sĩ hồi tưởng lại nói: “Tính tình Khánh Công rất tốt, chưa bao giờ làm người khác sanh phiền não. Bởi vì Ngài có chút nói lắp, nói gì cũng nói không lưu loát, cho nên cũng không thích nói chuyện phiếm. Nhưng mà có một điểm, khi Ngài niệm ‘A Di Đà Phật’ không bị lắp, vì vậy nên tôi chỉ nhớ rằng Ngài thích niệm Phật.”
Pháp sư Hải Khánh nói lắp nghiêm trọng, nhưng mà câu “A Di Đà Phật” này Ngài niệm rất rõ ràng, khi Ngài niệm Phật tiếng như chuông lớn, từng chữ tròn rõ, Ngài cũng chỉ biết một câu “A Di Đà Phật” này.
Trước thời kỳ “Văn Cách”, Pháp sư Hải Khánh bị điều đến Trương thôn trang bên cạnh chùa Lai Phật tham gia lao động. Ban ngày không thể niệm Phật, thì Ngài niệm Phật trong đêm sau khi mọi người đều ngủ. Một vị cư sĩ hồi tưởng lại nói: Lúc đó ông còn rất nhỏ, thích chơi cùng với Pháp sư Hải Khánh, buổi tối cũng phải đẩy giường sát nhau ngủ chung. Có lần nửa đêm, ông mơ mơ hồ hồ thức dậy đi vệ sinh, nhìn thấy Pháp sư Hải Khánh đang ngồi xếp bằng trên giường, giật cả mình, mau chóng đi tới đánh Pháp sư Hải Khánh, hỏi Ngài đang làm gì. Khánh Công nói ban ngày không cho niệm Phật, tôi nhân lúc ban đêm niệm Phật một chút.
Cả đời Pháp sư Hải Khánh trì giới niệm Phật. Bình thường Ngài đều chuyên niệm “A Di Đà Phật”, nhưng mà nếu như có người chào hỏi Ngài, Ngài trả lời người khác lại là “Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát”, mấy chục năm vẫn luôn như vậy.
Pháp sư Hải Khánh vô cùng hiền hậu, bá tánh ở Phương Viên đều rất tôn kính Ngài, nhưng mà không hiểu vì sao trong tự viện lại có người bắt nạt sỉ nhục Ngài.
Pháp sư Hải Khánh không biết chữ, ngoại trừ một câu Phật hiệu, cái gì cũng không biết, khi người khác vào chánh điện, Ngài chỉ đứng ngoài chánh điện niệm Phật, trong tự viện không có ai coi trọng Ngài. Những công việc dơ nhất nặng nhọc nhất trong tự viện đều là do Ngài làm, bởi vì tự viện còn có vài mẫu đất cằn, vì vậy mọi người thường thấy Pháp sư Hải Khánh vác theo cái sọt, vai vác cái xẽng đi khắp nơi dọn phân.
Có lần, một vị cư sĩ đến chùa Lai Phật, lúc đó tự viện vẫn còn trâu cày, có người chỉ vào Pháp sư Hải Khánh ở đằng xa nói với bà: “Chính là người đang đứng dựa vào chân tường, Hòa thượng hướng mặt về phía đông, người khác đều xem thường ông ấy. Ông ấy chỉ biết dọn phân, thường trở về tự viện không kịp giờ cơm. Có cơm thì ăn một ít, hết cơm thì không ăn.”
Pháp sư Hải Khánh thường đem theo dụng cụ ra ngoài dọn phân, nhặt củi, nhặt đá vụn rải đường. Khi trở về có cơm nguội rồi thì ăn một ít, hết cơm thì đói một bữa, Ngài không bao giờ oán than, cũng không nổi giận.
Những thực phẩm như trái cây, bánh khô, đường viên dâng cúng ở tự viện, vì thời gian cúng lâu, có số thực phẩm biến hư hỏng nổi mốc. Người khác lựa hết những đồ ngon, còn lại những gì hư hỏng cho hết Pháp sư Hải Khánh, Ngài cũng không có chút gì giận dữ. Có người nói: “Những thức ăn này không thể ăn thì cho trâu ăn đi!” Pháp sư Hải Khánh nói: “Trâu già kéo cày kéo bừa, ăn cỏ khô, cũng đủ cực khổ rồi, không thể để nó ăn những thức ăn này, tôi không thể thọ dụng là tôi có tội nghiệp, không thể tiếp tục đi hãm hại trâu.” Thế là Ngài đem những thức ăn đó đều chôn xuống bên cạnh rễ cây hoặc rải trong đồng ruộng. Một vị cư sĩ nói: “Lão Hòa thượng sống rất cần kiệm!” Pháp sư Hải Khánh nói: “Phật Tổ đang nhìn đó, ngẩng đầu ba thước có thần linh, vạn vật đều có Phật tánh, nên thọ dụng thế nào thì thọ dụng thế ấy.”
Mùa đông năm 1987 pháp sư Hải Khánh gặp trận bệnh nặng, có vị thầy vân du tứ phương đến qua đêm ở tự viện tự xưng biết đoán mệnh, nói đã tính được dương thị của pháp sư Hải Khánh đã tận, thầy ấy nói với người làm cơm ở trai đường, tốt nhất đừng cho pháp sư Hải Khánh ăn cơm nữa, cũng đừng uống thuốc, tắm rửa sạch sẽ đợi chết. Bốn ngày sau, cư sĩ hộ pháp Vương Xuân Sanh đến tự viện, nhìn thấy pháp sư Hải Khánh đang nằm trên giường hơi thở yếu ớt, hỏi Ngài có ăn cơm hay không, Ngài nói: “Ăn.” Cư sĩ Vương lập tức tìm lão Hòa thượng Hải Hiền, hai người một người nhóm lửa, một người cán bột làm mì, làm một nồi mì nước. Lão Hòa thượng Hải Hiền ngồi trên giường của Pháp sư Hải Khánh, dùng cái vai của mình đỡ Ngài, cư sĩ Vương từ tốn đúc Ngài từng muỗng từng muỗng một.
Pháp sư Hải Khánh ăn một lần hết bốn tô, dần dần tỉnh lại. Cư sĩ Vương hỏi Ngài: “Uống nữa không?” Pháp sư Hải Khánh nói: “Nếu trong nồi còn, uống thêm chút cũng được.”
Hòa thượng Hải Hiền và cư sĩ Vương đều thấy đau lòng mà nghẹn ngào khóc. Hai người lo lắng Pháp sư Hải Khánh cố uống, nên không cho Ngài tiếp tục uống nữa. Cư sĩ Vương muốn đi tìm vị thầy đoán mệnh ấy nói ra lẽ, nhưng bị Pháp sư Hải Khánh ngăn cản, Ngài nói: “Đây đều là nghiệp chướng của tôi, không thể trách người khác.”
Trong tự viện có vị Hòa thượng xuất thân làm lính, bình thường thích la mắng người khác, Ngài thấy Pháp sư Hải Khánh không vừa mắt, thường xuyên nói kháy Ngài. Các vị cư sĩ có lúc không bỏ qua được, liền đi nói lý lẽ với vị Hòa thượng đó, nhưng Pháp sư Hải Khánh chỉ cười khẽ, nhẹ nhàng với với vị Hòa thượng mắng Ngài: “Thầy tiêu nghiệp chướng cho tôi, tôi lên Cực Lạc quốc.”
Nhìn vào nhẫn nhục ba la mật của Pháp sư Hải Khánh: Người khác bắt nạt Ngài, hủy báng Ngài, trêu chọc Ngài, Ngài cảm ơn người khác giúp Ngài tiêu nghiệp chướng. Nghiệp chướng của Ngài thật sự tiêu trừ, vì vậy mới đi tự tại như vậy, để lại nhục thân xá lợi, không những thân thể không bị thối rửa, cả y phục cũng không hư hỏng.
Có đứa trẻ 16 tuổi họ Đào dắt theo đứa trẻ khác đến tự viện chơi, nó thấy pháp sư Hải Khánh lão thật, liền dùng lời nói ô tục chửi mắng Ngài, còn dùng cây gậy nhỏ đánh đầu của Ngài. Pháp sư Hải Khánh nghiêng đầu, cười mà nói: “Con muốn kết duyên với thầy sao? Nói với ba mẹ, thầy nhận con làm đệ tử, dạy con niệm ‘A Di Đà Phật’. Đi học giỏi làm việc tốt, lớn lên rồi nhà con đời đời đều phú quý.”
Niên đại 80 của thế kỷ 20, chùa Lai Phật vẫn chưa sử dụng nước máy, Tăng chúng uống nước đều nhờ vào cái giếng nước cạn tự đào. Mỗi khi trời hạn trong giếng không có nước, chỉ có thể đến thôn gánh nước uống. Có lần khi pháp sư Hải Khánh đến thôn gánh nước, bị một con chó cắn đến thương tích đầy mình. Chủ nhân con chó biết được chạy lại, vung roi da trong tay để đánh con chó này. Pháp sư Hải Khánh ngăn cản ông lại nói: “Con chó này nhìn thấy thì cắn tôi, chứng tỏ kiếp trước khi tôi làm chó đã cắn qua nó. Bây giờ nó cắn lại tôi, cái nợ này đúng lúc kết thúc. Nếu như ông đánh nó, làm tâm nó oán hận, vậy thì cái oán này sẽ tiếp tục kết, thương tích tôi chịu cũng uổng rồi.” Ngài xin thôn dân một ít bội mì đắp lên vết thương, lại mượn kim chỉ khâu lại y phục một cách đơn giản, sau đó cũng không quên lấy mỗi thùng nước một nửa rồi gánh về tự viện.
Còn có một lần, khi pháp sư Hải Khánh nhặt phân bên cạnh con lừa bị con lừa đá ngã nhào, chủ nhân con lừa lật đật đến dìu Ngài dậy, hỏi Ngài bị thương như thế nào. Pháp sư Hải Khánh nói: “Tôi không sao cả, ông mau tới xem chân con lừa có bị thương không?”
Ngài đối với người, việc, vật thật sự làm được chân thành, bình đẳng, cung kính. Một hôm, pháp sư Hải Khánh đang gánh phân đi, một người thanh niên đạp xe đạp chạy về hướng Ngài, bởi vì tốc độ xe quá nhanh, pháp sư Hải Khánh không kịp tránh qua, thoáng chốc bị đụng té bên cạnh đường mương, phân văng ra đầy mình của Ngài. Người thanh niên này không những không xin lỗi, còn chửi pháp sư Hải Khánh bị té bên đường mương, nói cản đường đi của anh ta. Lúc này có người vác xẻng đi ngang đường, vừa thấy người thanh niên này ngang ngược vô lễ, tức muốn vung mạnh xẻng đánh anh ta. Pháp sư Hải Khánh nằm ở đường mương lập tức lên tiếng ngăn cản ông ta rằng: “Đừng đánh anh ta! Đừng đánh anh ta! Đừng trách anh ta, đều là lỗi của tôi!” Hòa thượng Hải Khánh chịu thiệt thòi, người khác bắt nạt Ngài, Ngài đều cam tâm tình nguyện mà tiếp nhận. Thiệt thòi là phước, người chịu thiệt thòi có phước. Từ những việc này có thể thấy thành tựu của Ngài là tu từ nhẫn nhục ba la mật. Kinh Kim Cang nói: “Nhất thiết pháp vô ngã, đắc thành vu nhẫn.” Bá tánh của tám thôn mười dặm đều biết Hòa thượng Hải Khánh trung hậu thành thật, tính tình hiền lành. Các thôn dân bất luận ai có chuyện, Ngài đều tận tâm tận lực giúp đến cùng.
Đầu tháng chạp năm 1973, thời tiết lạnh lẽo, Trương thôn trang có một con nghé mới vừa ra đời mười mấy ngày bị té xuống giếng sâu hơn mười mét. Đây là giếng nước duy nhất trong thôn có hơn 300 năm lịch sử, thành giếng toàn bộ dùng gạch xanh xây thành, miệng giếng có bốn miếng gạch bao quanh. Trên thành giếng có rất nhiều chỗ đã bị ăn mòn thành động, nghé con trong quá trình vùng vẫy đã có miếng gạch rớt xuống đáy giếng, cực kỳ nguy hiểm. Có người nói: “Vì một con nghé con, không cần phải mạo hiểm cứu đâu.” Nhưng nếu không đi cứu nghé con, nó bị kẹt trong giếng, mấy trăm người này uống nước là vấn đề khó khăn rồi. Một nhóm người đứng nhìn nhau, nhìn nghé con hơi thở yếu ớt, không vùng vẫy được nữa, nhưng không có ai chịu xuống giếng.
Lúc đó Hòa thượng Hải Khánh đang lao động ở thôn, hôm đó đúng lúc Ngài đi qua đường này, thấy tình cảnh như vậy không do dự nói để ba người thanh niên gan dạ kéo sợi dây thừng, đưa cái thang xuống, bản thân Ngài đi xuống dưới giếng. Hòa thượng Hải Khánh trong giếng rất khó khăn để cởi áo bông để quấn vào thân nghé con, lại dùng dây thừng buộc nó lại, để người khác từ từ kéo nghé con lên trên. Nghé con được cứu rồi, nhưng trong khi kéo Pháp sư Hải Khánh lên, một miếng gạch rớt xuống đập trúng đầu của Ngài, mặt Ngài liền nhuộm đầy máu tươi. Sau khi lên, vài người tới quanh Ngài để băng bó, Hòa thượng Hải Khánh không bằng lòng cười và nói: “Máu tôi chảy là Phật Tổ kêu tôi làm cái ký hiệu trên mặt.”
Bên cạnh có một vị phụ nữ trung niên họ Trịnh vốn không tin Phật, lúc đó không kiềm lòng được mà nói: “Người ăn chay niệm Phật thật tốt!” Sau này sau khi cô học Phật, vô cùng cung kính người già, thường làm việc tốt giúp đỡ mọi người.
Có vị cư sĩ nói: “Khánh Công chính là một người thực thực tại tại như vậy. Ngài không có văn hóa, không nói được đạo lý lớn, nhưng trong cuộc đời tu hành mấy chục năm, Ngài vẫn luôn dùng hành động thực tế để thuyết minh Phật pháp, hoằng dương Phật pháp.”
Rất nhiều vị cư sĩ lớn tuổi khi tưởng nhớ về Hòa thượng Hải Khánh, đều đồng thanh mà nói: “Thường xuyên nhìn thấy Hòa thượng Hải Khánh khiêng vác dụng cụ làm ruộng, chẻ củi nhặt phân, tu sửa cầu đường.”
Tháng 8 năm 1975, mấy ngày liên tục mưa tầm tả làm cho mực nước con sông nhỏ phía tây thôn Trương dâng trào, làm sập cây cầu đá đã hơn trăm tuổi. Lúc đó Hòa thượng Hải Khánh vẫn còn trong đội sản xuất và một số thôn dân cùng nhau đem theo dây thừng, sợi thép đến cứu nguy. Nhưng mà mấy chục người tận lực làm cả buổi sáng, cũng không tu sửa được cây cầu đá, bởi vì có một cục đá nặng ngàn cân bị trôi vào trong bùn lắng cách cây cầu hơn năm mét. Mọi người đều nói nếu như cục đá này không dời lại đây, cây cầu này sẽ vĩnh viễn bị hủy.
Trong lúc mọi người đang chán nản thất vọng, Hòa thượng Hải Khánh chậm rãi nói: “Sắp đến trưa rồi, để tôi thử xem! Sẽ không để người dân ở nơi này gặp khó khăn vì không có cầu để qua lại.” Hòa thượng Hải Khánh đụng chuyện không lúng túng, bình tĩnh ung dung, không sợ gian khó. Ngài im lặng quan sát tỉ mỉ cục đá bị rơi vào trong bùn lắng, nói thầm trong miệng một lát (thực ra mọi người biết Ngài đang niệm “A Di Đà Phật”, nhưng chính sách lúc đó không cho phép, không thể niệm Phật lên tiếng), sau đó dùng một sợi thép và hai cây gậy gỗ lớn, quả thật là cạy cục đá trong bùn lắng ra ngoài. Chỉ thấy cục đá đó lăn mấy vòng, tựa vào bên cạnh trụ cầu. Mọi người đều đặc biệt kinh ngạc! Có người hỏi Pháp sư Hải Khánh sao lại làm được như vậy, Ngài khiêm tốn cười và nói: “Đó toàn là A Di Đà Phật gia trì!”
Lúc đó đường cái vẫn còn là đường đất, mỗi khi trời mưa thì mặt đường bị ngập hư, vì vậy thường xuyên có thể nhìn thấy Hòa thượng Hải Khánh mang theo cái xẻng đi sửa đường. Ngài không thích nói chuyện phiếm, càng không khoe công lao của bản thân mình. Sau khi làm việc về trễ thì ăn chút cơm nguội, có lúc cả cơm nguội cũng không còn, thì ăn ít màn thầu nguội. Khi đó chính phủ nông thôn đều được Ngài làm cảm động, khi họp kêu gọi cán bộ đảng viên đều phải học tập sư phụ Hải Khánh của chùa Lai Phật.
Thời kỳ cuộc sống vô cùng gian khổ trong ba năm khó khăn, Hòa thượng Hải Khánh thường xuyên cứu nguy giúp nghèo. Ngài ở bên đường lớn bố thí cháo và nước cho người qua đường. Bản thân Ngài thiếu ăn ít uống, nhưng lại thường xuyên chịu đói đem thức ăn nước uống tặng cho người khác. Những việc làm này người lớn tuổi bản địa ai ai cũng biết.
Lúc đó Hòa thượng Hải Khánh ăn cơm là dùng cỏ tranh làm thành cái chén. Bản thân Ngài khai khẩn một miếng đất hoang, trồng một ít khoai lang và cây cao lương. Rất nhiều người còn nhớ Ngài thường xuyên tự mình hấp khoai lang hoặc là trộn rau dại món cháo cao lương, dùng chén cỏ tranh cho người qua đường ăn.
Khi mới trùng kiến lại chùa Lai Phật, chỉ có 3 phòng cỏ tranh nhỏ và một cái chảo nhỏ. Nấu cơm nhờ nhóm rễ cỏ tranh, cuộc sống rất khó duy trì. Nhưng Hòa thượng Hải Khánh vẫn một mực kiên trì nấu nước sôi, sau đó ngâm lá cây liễu vào thau sành cho người qua đường uống. Lão hộ pháp cư sĩ Đảng vào nhiều năm sau từng hỏi Hòa thượng Hải Khánh: “Những ngày tháng khổ như vậy làm sao Ngài chịu đựng được vậy?” Lão Hòa thượng Hải Khánh nói: “Toàn là nhờ A Di Đà Phật đó!”
Hậu đức thiện hành của Ngài đã vô hình ảnh hưởng sâu sắc tới bá tánh ở phương này. Mùng 1, 15 mỗi tháng mọi người đều đi lễ bái nhục thân của Hòa thượng Hải Khánh. Ai gặp phải vấn đề nan giải cũng sẽ đến cầu nhục thân vị Bồ Tát này.
Cũng như lão Hòa thượng Hải Hiền, lão Hòa thượng Hải Khánh cũng không rời Phật pháp mà hành thế pháp, không bỏ thế pháp mà chứng Phật pháp. Xem những ngôn hành khi Ngài trụ thế, đó gọi là chân tu hành. Tu hành không phải một ngày niệm bao nhiêu vạn tiếng Phật hiệu, niệm bao nhiêu bộ kinh. Không phải vậy! Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác của Ngài đều tương ưng với Bồ Tát.
Hòa thượng Hải Khánh cũng không có đi học, không biết chữ, chính là một câu “A Di Đà Phật” niệm đến cùng, ngoại trừ một câu Phật hiệu thì không có gì hết. Ngài là tiêu chuẩn của “một môn thâm nhập, trường thời huân tu”. Sau khi Ngài vãng sanh lưu lại nhục thân bất hoại, toàn thân Xá Lợi, đây cũng là chứng minh cho chúng ta: Một câu Phật hiệu có thể làm đại sự, đại sự viên mãn, đại sự cứu cánh, không cần kinh điển, câu Phật hiệu này thì có thể làm xong hết!
Trích: Cuộc Đời Hòa Thượng Hải Hiền
Chuyển ngữ: Diệu Âm Diệu Hiệp
5 BÍ QUYẾT NIỆM PHẬT ĐỂ THÀNH TỰU TỊNH NGHIỆP
1/ Ít nói, ít can dự vào việc đời để giữ Tâm Ý Thanh Tịnh.
2/ Niệm Phật trong im lặng (niệm thầm 24/24). Ta đang công phu mà người khác không biết Ta công phu. Ta đang niệm Phật mà người khác không biết Ta niệm Phật.
3/ Coi tất cả Chúng sinh là CHA MẸ quá khứ (để hiếu thuận), và là CHƯ PHẬT vị lại (để cung kính), tóm lại là 2 chữ HIẾU KÍNH làm Thái độ đối người, tiếp vật.
4/ Coi tất cả mọi người, mọi vật, mọi việc là A DI ĐÀ PHẬT để bất kể mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh đều liên tục niệm A DI ĐÀ PHẬT (khắc khắc lưu tâm câu A DI ĐÀ PHẬT, niệm bất kể ngày đêm).
5/ BUÔNG BỎ VẠN DUYÊN, NHẤT TÂM NIỆM PHẬT.
Pháp sư Tịnh Không khai thị
Tui ngẫm nghĩ về thế giới Cực Lạc, càng nghĩ tui thấy Phật A Di Đà sao mà tài tình quá. Thế giới của ngài được thành tựu cách đây 10 kiếp, nếu so sánh với các thế giới của các chư Phật khác thì thế giới Cực Lạc còn quá non trẻ. Nhưng sự thành tựu của thế giới Cực Lạc thì không nơi nào sánh bằng vì không những nơi ấy đẹp nhất, vui nhất, mà điều tui không thể tưởng tượng được đó là số lượng thánh chúng như thanh văn, duyên giác, bồ tát nhiều vô kể không thể tính được. Trong kinh A Di Đà, Phật nói ngay cả ngài Mục Kiền Liên với thần thông đệ nhất dù có trổ hết tài nghệ tính đếm cũng không tài nào tính xuể được! Ôi sao mà hay đến vậy? Các vị cứ nghĩ xem, dù cho thế giới nào khác thì cư dân bình thường (chưa phải là bậc thánh) thì dù có đông và nhiều thế nào cũng có thể biết được. Còn các vị đã chứng quả thánh trở lên lại rất ít. Trong khi ở thế giới Cực Lạc, ngoài cư dân bình thường ra, số lượng thánh chúng nhiều vô số kể. Đặc biệt hơn là cả 2 bậc phàm phu và thánh chúng đều được sống chung với nhau, ngày ngày được gặp nhau trong Phàm Thánh Đồng Cư Độ.
Thế Giới Cực Lạc còn non trẻ như thế, nhưng số lượng thánh chúng và bồ tát vãng sanh về nơi ấy nhiều không nơi nào sánh bằng. Vậy thì vì sao chúng ta còn chần chừ gì nữa chẳng niệm Phật để được vãng sanh và được gặp các vị ấy? Ở thế giới Cực Khổ của chúng ta tìm mỏi mắt cũng chưa chắc gặp được một vị minh sư thì nói gì đến chuyện gặp thánh nhân để cầu đạo. Chuyện thoát ly sinh tử là chuyện quá xa vời.
Tạm gát chuyện cơm áo gạo tiền hàng ngày qua một bên đi quý vị ơi, chỉ vài phút mỗi ngày thôi cũng được, niệm mấy trăm hay mấy nghìn câu Phật hiệu A Di Đà cũng được. Dù niệm Phật ít, nhưng niệm hàng ngày đừng quên. Góp gió thành bão, khi lâm chung tự mình sẽ có đủ tư luơng để về Cực Lạc rồi. Lúc ấy còn gì vui sướng bằng?
A Di Đà Phật
Thế Giới Cực Lạc chỉ toàn là bậc thánh chứ không có phàm phu. Cái gọi là Phàm Thánh Đồng Cư Độ thì trong ba kinh Tịnh Độ hoàn toàn không có nói đến. Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật đã dạy rằng “những chúng sanh vãng sanh về cõi đó đều là bực bất thối chuyển” tức mặc nhiên họ đã là bậc thánh rồi!
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT !
Huynh hãy cố gắng niệm Phật thật nhiều, thật chăm chỉ vào để vãng sanh về Cực Lạc, hoa sen mọc ở một trong bốn cõi là giỏi lắm rồi. 🙂
A Di Đà Phật.
Trong các cõi Phật, không chỉ riêng Tây Phương Cực Lạc mà tất cả các cõi Phật đều gồm có 4 cõi. Đó là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, cõi Phương Tiện Hữu Dư, cõi Thật Báo Trang Nghiệm, và cõi Thường Tịch Quang.
Tuy nhiên, có một điều khác biệt khi so sánh cõi Tây Phương Cực Lạc với các cõi Tịnh Độ của các chư Phật khác ở mười phương thế giới. Đó là trong các cõi Phật khác, 4 cõi Tịnh Độ xếp chồng lên nhau từ dưới lên trên. Nói cách khác là bồ tát ở các cõi dưới như Phàm Thánh Đồng Cư Độ không thể nhìn thấy bồ tát ở cõi trên là Phương Tiện Hữu Dư Độ. Bồ tát ở cõi Phương Tiện Hữu Dư Độ không thể nhìn thấy các bồ tát ở cõi trên nữa là Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Tương tự, bồ tát ở cõi Thật Báo Trang Nghiêm Độ cũng không thể nhìn thấy chư Phật ở Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Đó là vì giữa các cõi có sự ngăn cách.
Ở Tây Phương Cực Lạc thì 4 cõi này không phải xếp chồng lên nhau, mà là nằm ngang với nhau. Vì thế bồ tát ở bất cứ cõi nào cũng có thể nhìn thấy nhau được, không có ngăn ngại. Cho nên sanh về nơi ấy một nơi cũng tương tự như sanh về tất cả, ngày ngày được gần gũi với các bậc đại bồ tát, hay còn gọi là pháp thân đại sĩ. Đây là điều thù thắng ở Tây Phương Cực Lạc mà các cõi Phật khác không có. Cho nên Phật Thích Ca mới khuyên bảo chúng ta nên vãng sanh về nơi ấy.
Tất cả chúng sanh sanh khi sanh về Cực Lạc đều là bậc bất thối chuyển bồ tát, tức là Thất Địa Bồ Tát trở lên. Người bình thường phải mất 2 đại A Tăng Kỳ Kiếp mới tu được đến địa vị này. Cho nên ở Cực Lạc không có phàm phu. Chỉ là phàm phu vãng sanh hay bậc thánh Thanh Văn vãng sanh đều sanh về một nơi, nơi đó là Phàm Thánh Đồng Cư Độ. Chứ không phải ở Cực Lạc có phàm phu.
A Di Đà Phật.
Gửi bạn Hữu Minh,
Xin cho hỏi trong ba kinh Tịnh Độ thì chỗ nào Đức Phật nói đến 4 cõi Tịnh Độ như bạn đã nói vậy? Người tu Tịnh Độ thì nhất định phải y cứ vào lời của Đức Phật dạy trong các kinh Tịnh Độ, nếu lời của người khác nói không đúng với lời Phật dạy trong kinh thì nhất quyết không theo! Lòng tin như vậy mới đúng là “Thâm Tâm” (là lòng tin sâu), mới đúng là “Chí Thành Tâm” (là lòng tin chân thật) mà Đức Phật đã dạy trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ!
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT !
Gửi bạn Pub King:
Nói về 4 cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà thì có rất nhiều bài viết của chư tổ và cổ đức đã nói về điều này. Ngài Ấn Quang Đại Sư (tổ sư thứ 13 Tịnh Độ tông, cũng tức cũng là Đại Thế Chí bồ tát), có nói trong Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục như sau:
Luận về bốn cõi Tịnh Độ:
* Hai cõi Phàm Thánh Đồng Cư và Phương Tiện Hữu Dư là ước theo phàm phu đới nghiệp vãng sanh và tiểu thánh Nhị Thừa đã đoạn Kiến Tư Hoặc mà lập, chứ chẳng thể ước theo Phật mà luận. Nếu ước theo Phật mà nói thì chẳng những toàn thể bốn cõi Tịnh Độ đều là Tịch Quang, mà ngay cả đời ác ngũ trược, tam đồ ác đạo, không sự gì Phật chẳng thấy là Tịch Quang. Vì thế nói: “Tỳ Lô Giá Na ở khắp mọi nơi. Chỗ đức Phật ở gọi là Thường Tịch Quang”.
“Khắp mọi nơi là Thường Tịch Quang” thì chỉ bậc đã chứng ngộ viên mãn Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na quang minh chiếu khắp mới thọ dụng được thôi, còn mọi người khác đều mới chỉ chứng được vài phần. Từ Thập Tín trở xuống cho đến phàm phu, về Lý thì có Thường Tịch Quang Tịnh Độ, nhưng về Sự thì chẳng có. Nếu muốn hiểu rõ hãy nghiên cứu phần luận về bốn cõi Tịnh Độ trong sách Di Đà Yếu Giải; sách Phạm Võng Huyền Nghĩa cũng giảng đầy nghĩa này (Tỳ Lô Giá Na, Hán dịch là Quang Minh Biến Chiếu, hoặc Biến Nhất Thiết Xứ, chính là cực quả rốt ráo của chư Phật, là hiệu chung của những vị đã chứng viên mãn pháp thân thanh tịnh. Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na cũng thế. Như Thích Ca, Di Đà, Dược Sư, A Súc Bệ v.v… chỉ là những danh hiệu riêng của các hóa thân Phật mà thôi. Chữ Lô Xá Na, Hán dịch là Tịnh Mãn, do hết sạch Hoặc nghiệp, viên mãn trọn vẹn phước huệ nên ước theo quả báo do Trí Đức và Đoạn Đức cảm thành mà gọi như vậy).
Lại phải biết rằng Thật Báo, Tịch Quang vốn là một cõi. Ước theo quả cảm bởi xứng tánh thì gọi là Thật Báo, ước theo lý được chứng rốt ráo thì gọi là Tịch Quang. Sơ Trụ mới dự vào Thật Báo, chứng được một phần Tịch Quang. Diệu Giác mới là thượng thượng Thật Báo, rốt ráo Tịch Quang. Như vậy từ Sơ Trụ cho đến Đẳng Giác đều chỉ chứng được vài phần hai cõi này, đối với cực quả Diệu Giác thì hai cõi ấy đều là rốt ráo.
Nói đến Thật Báo là chỉ ước về phần chứng, nói đến Tịch Quang là chỉ ước về cứu cánh. Tịch Quang vô tướng, Thật Báo có đủ cả vi trần số chẳng thể nghĩ bàn Hoa Tạng thế giới hải vi diệu trang nghiêm. Ví như hư không vốn chẳng phải là các tướng, nhưng hết thảy các tướng đều do hư không mà phát hiện. Lại như gương báu rỗng sáng, trong suốt, trọn chẳng có một vật gì, nhưng hễ Hồ đến Hồ liền hiện bóng, Hán đến Hán liền hiện bóng. Thật Báo và Tịch Quang tuy một mà hai, tuy hai mà một. Vì muốn cho người dễ hiểu nên nói là hai cõi.
* Trong bốn cõi Tịnh Độ: người đới nghiệp vãng sanh sống trong Đồng Cư, người đoạn Kiến Hoặc sống trong Phương Tiện, người phá vô minh sống trong Thật Báo, người hết sạch Vô Minh trụ trong cõi Tịch Quang.
Thêm nữa, Thật Báo là ước theo quả báo cảm thành mà nói, Tịch Quang là ước theo lý tánh được chứng mà nói; chúng vốn thuộc một cõi, nhưng giảng như vậy cho người ta dễ hiểu. Vì thế, người phần chứng thuộc vào Thật Báo, người mãn chứng thuộc về Tịch Quang. Chứ thật sự trong cả hai cõi đều có đủ cả phần chứng lẫn mãn chứng. Trong Văn Sao, tôi đã từng trình bày tường tận.
Cõi Đồng Cư tuy có đủ ba cõi kia nhưng người chưa đoạn Hoặc chỉ thọ dụng được cảnh Đồng Cư. Dù là cảnh của người đới nghiệp vãng sanh nhưng chẳng thể gọi cõi đó là cõi phàm phu vì họ đều đạt được ba thứ Bất Thoái.
Tịnh Ðộ có bốn cõi: Phàm Thánh Ðồng Cư, Phương Tiện Hữu Dư, Thật Báo Trang Nghiêm và Thường Tịch Quang.
1) Cõi Phàm Thánh đồng cư
Có 2 loại cõi Phàm Thánh đồng cư : Loại Phàm Thánh đồng cư uế độ như cõi Ta Bà. Trong cõi ấy cũng có các vị thật Thánh (tứ quả) và quyền Thánh (Bồ tát, Phật) xuất hiện giáo hóa chúng sanh, cho nên chúng sanh cũng được ở chung với các vị Thánh. Nhưng một khi các vị thật Thánh nhập Niết bàn, các vị quyền Thánh mãn duyên hóa độ, thì phàm – Thánh khác xa, thăng – trầm chia cách. Chúng sinh lại vẫn khổ đau, trầm luân biết ngày nào ra.
Loại thứ hai là cõi “Phàm thánh đồng cư Tịnh độ”. Cõi này các vị Thánh ở chung cùng với những người được vãng sanh, để thuyết pháp giáo hóa họ, khiến cho họ giác ngộ bản tâm, rồi tiến tu lên đến Phật địa.
Nay pháp môn vãng sanh bỏ đồng cư uế độ sanh về đồng cư Tịnh Ðộ, được sanh Cực Lạc liền đoạn sanh tử nên gọi là “vượt ngang tam giới” (hoành siêu tam giới). Người vãng sanh chẳng đợi đoạn hai hoặc: Kiến, Tư, chỉ cần phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm, liền được Phật nguyện ngầm gia bị, quyết được vãng sanh Tịnh Ðộ. Việc này rất dễ nên gọi đạo dễ hành. Phương tiện vượt thẳng như thế rất thù thắng hy hữu, mười phương không đâu bằng nổi. Do vậy, cõi Ðồng Cư của Cực Lạc vượt xa cõi Phật mười phương. Lại còn đới nghiệp vãng sanh: dẫu còn là phàm phu chẳng bị thoái chuyển, một đời thành Phật.
2) Phương Tiện Hữu Dư độ
Nếu người niệm Phật dụng công sâu đậm: lìa được tâm tạp loạn, chuyên niệm một câu danh hiệu, tâm, miệng tương ưng, từng chữ phân minh, tâm chẳng rời Phật, Phật chẳng rời tâm, niệm niệm tiếp nối chẳng có gián đoạn. Niệm Phật như thế gọi là Sự nhất tâm. Nếu đạt đến cảnh giới này tuy chẳng
cầu đoạn hoặc mà kiến, tư phiền não tự nhiên đoạn mất. Từ Ðồng Cư uế độ cõi này sanh ngang sang cõi Phương Tiện Hữu Dư của Cực Lạc
3) Thật Báo Trang Nghiêm độ
Nếu nhớ Phật, niệm Phật rành rẽ phân minh, đi, đứng, nằm, ngồi chỉ có một niệm ấy, không còn niệm thứ hai, chẳng bị các niệm tham, sân, phiền não tạp loạn thì gọi là Sự nhất tâm. Trên mặt sự đã đạt nhưng về lý chưa thấu triệt, chỉ thuộc về Ðịnh môn, chưa có Huệ môn.
Nếu trên đầu sào trăm thước tiến thêm một bước, nơi bổn tánh mình chợt khế hợp, biết rõ năng niệm, sở niệm chỉ là nhất tâm, chẳng trụ hữu niệm, chẳng rớt vào vô niệm như Sớ Sao viết: ‘Nếu nói là có thì bổn thể của cái tâm năng niệm tự nó là không, đức Phật đang được mình niệm cũng trọn chẳng thể được. Nếu bảo là không thì tâm năng niệm sáng ngời chẳng lầm lẫn, đức Phật được niệm phân minh rạng ngời’.
Vô niệm mà niệm, niệm nhưng vô niệm. Nói, nghĩ dứt bặt, chẳng thể gọi tên, mô tả; chỉ là nhất tâm, thể vốn sẵn thanh tịnh, nào có pháp gì tạp loạn được. Ðấy gọi là Lý nhất tâm, thuộc về Huệ môn, kiêm cả đắc định. Niệm Phật nếu đạt đến lý nhất tâm, phá một phần vô minh thì sanh trong Thật Báo Trang Nghiêm độ, đồng thời chứng một phần Thường Tịch Quang độ.
Thật Báo Trang Nghiêm độ là nơi cư ngụ của Pháp Thân Ðại Sĩ. Các vị Ðại Sĩ từ Sơ Ðịa trong Biệt giáo, Sơ Trụ trong Viên giáo trở lên mới được sanh cõi ấy. Phá một phần vô minh, chứng một phần Pháp Thân mới sanh được cõi này.
Bậc Ðại Sĩ cõi ấy sắc tâm tự tại, thân và cõi ảnh hiện, trong một đầu lông hiện cõi Bảo Vương. Trong một hạt bụi chuyển đại pháp luân, xứng tánh trang nghiêm vô chướng, vô ngại. Bốn mươi địa vị Pháp Thân Ðại Sĩ từ bậc Bồ Tát sơ trụ trong Viên giáo cho đến Ðẳng Giác Bồ Tát đều thuộc cõi này. Mỗi địa vị đều chứng một phần Thường Tịch Quang độ.
4) Thường Tịch Quang độ
Cõi Pháp Thân của Phật ngự được gọi là Thường Tịch Quang. Sách Yếu Giải viết: ‘Thể của Thật Tướng chẳng tịch chẳng chiếu. Tịch mà hằng chiếu, chiếu nhưng luôn tịch, chiếu mà tịch cưỡng gọi là Thường Tịch Quang. Tịch mà chiếu cưỡng gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân’. Vì vậy, thân và cõi chẳng hai; đều là cưỡng gọi. Tịch chiếu đồng thời chẳng phải là cảnh suy lường được.
Thêm nữa, ba chữ Thường Tịch Quang phơi bày trọn vẹn ba đức Niết Bàn của Như Lai bí tạng. Thường là Pháp Thân đức vì Pháp Thân thường trụ. Tịch là Giải Thoát đức vì trần lao vĩnh viễn tịch tĩnh. Quang là Bát Nhã đức do trí quang chiếu khắp.
Ðẳng Giác Ðại Sĩ phá sạch bốn mươi mốt phẩm vô minh, liền phá một phẩm sanh tướng vô minh tối hậu, Pháp Thân hiển lộ hoàn toàn, chứng trọn vẹn ba đức, triệt ngộ ngọn nguồn bổn tâm, rốt ráo thanh tịnh, chứng nhập Thường Tịch Quang độ.
Chú giải kinh Vô Lượng Thọ của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
Vận Thành Hạ Liên Cư kết tập
Bửu Quang Như Hòa Việt dịch
Cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà thì trong các kinh Tịnh Độ có nói ở đây nè. Phải nói là quá nhiều:
Kinh Quán Vô Lượng Thọ:
https://thuvienhoasen.org/images/file/vGgUTzTZ2wgQAAlM/quan-vo-luong-tho-phat-kinh-so-sao-dien-nghia.pdf
Kinh Vô Lượng Thọ:
https://thuvienhoasen.org/images/file/GMZzKLRV2QgQAHQV/chu-giai-kinh-phat-thuyet-dai-thua-vo-luong-tho-trang-nghiem-thanh-tinh-binh-dang-giac-nhu-hoa-dich.pdf
Kinh A Di Đà:
https://daibaothapmandalataythien.org/kinh-di-da
https://quangduc.com/a21066/chuong-7-kinh-a-di-da
https://langnghiem.com/vi/a-di-da-kinh-so-sao-dien-nghia-quyen-9-tap-253-260/
Phật kể trong kinh Thế Giới Tây Phuơng đẹp nhất không đâu bằng. Không biết đã có ai được vãng sanh rồi trở về đây báo mộng kể lại về sự thù thắng nơi ấy chưa các bạn?
Trong bài giảng Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa cách đây 14 năm, lão hòa thượng Tịnh Không có kể về Tổ Huệ Viễn 4 lần thấy Phật và thánh cảnh Tây Phương. Mình xin trích dẫn nguyên đoạn dưới đây:
Vào thời Tấn, Sơ Tổ Huệ Viễn đại sư hướng dẫn một trăm hai mươi ba người cùng chung chí hướng, thảy đều tu Tịnh Độ, đều cầu vãng sanh, lấy Hổ Khê làm giới hạn, không ra khỏi giới tuyến ấy, phát nguyện vãng sanh tại nơi ấy. Quả thật, một trăm hai mươi người ai nấy đều vãng sanh, đúng là tuyệt diệu!
Vãng sanh đương nhiên có kẻ trước người sau. Khi Viễn Công đại sư vãng sanh, Ngài thấy A Di Đà Phật và những đồng tu trong Niệm Phật Đường ấy đã vãng sanh trước theo A Di Đà Phật cùng đến tiếp dẫn Ngài. Ngài bảo đại chúng: “A Di Đà Phật đến đón ta, ta sẽ vãng sanh trong ngày hôm nay”. Ngài lại bảo mọi người: Trong thời gian Ngài ở trên núi ấy, trong quá khứ đã ba lần thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới, lần này là lần thứ tư, nhưng chẳng kể với ai! Người khác hỏi Ngài: “Thế giới Cực Lạc như thế nào?” Ngài nói: “Hoàn toàn giống như trong kinh điển đã giảng”. Quý vị phải biết kinh điển khi đó chính là kinh Vô Lượng Thọ, Viễn Công đại sư mở Niệm Phật Đường do dựa theo một quyển kinh này! Vì sao? Kinh Di Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật vẫn chưa được dịch ra, có thể là đã được truyền đến Trung Quốc rồi nhưng vẫn chưa dịch sang tiếng Hán, cho nên Ngài chỉ dựa theo kinh Vô Lượng Thọ. Tổ sư đã nêu gương đúng đắn cho chúng ta, dù thấy cảnh giới tốt đẹp đến đâu đi nữa vẫn chẳng nói, trong tâm chính mình như như bất động, càng thêm dụng công, đấy là cảnh giới tốt. Công phu của quý vị đạt mức kha khá, Phật, Bồ Tát bèn thị hiện cảnh giới để làm gì? Nhằm khảo nghiệm quý vị, quý vị như như bất động, công phu sẽ tăng cao. Nếu quý vị động tâm, ngay lập tức bị giáng cấp: Vẫn chưa chịu nổi khảo nghiệm, chưa đủ sức qua nổi cái ải này!
A DI ĐÀ PHẬT
Gửi bạn Én Em,
TN tin là chăc chắn có, tuy nhiên, báo cho ai biết lại là chuyện hữu duyên. Bởi với người không tin Tịnh Độ, pháp và lời của Phật Thích Ca dạy họ còn phản bác, nói gì người họ chưa từng thấy mặt, nghe tên? Do vậy, với TN, có ai về thông báo lại cảnh giới của Tịnh Độ hay không không quan trọng, quan trọng là bạn có thực tin, thực hành lời Phật Thích Ca chỉ dạy để mà vĩnh ly sanh tử hay không? Còn nếu phải thực mắt thấy, tai nghe mới chịu tin, TN e rằng khi vô thường ập tới, bạn đã không còn cơ hội để phát tín nguyện hành nữa.
Nguyện chúc bạn tỉnh giác tu học.
TN
THAM QUAN CÕI CỰC LẠC
Dưới triều Minh, niên hiệu Vạn Lịch, tại tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc, quan tri huyện Ngô Giang tên là Viên Hoằng Đạo, ông xét xử các án kiện tụng rất thông minh, quyết đoán, chính trực. Nhờ thế đường quan lộ hanh thông, dần được thăng lên chức Lễ Bộ Chủ Sự.
Sau một thời gian làm quan, ông thấy mệt mỏi với sự đời, cáo quan về tìm đường học Đạo, quy y Tam Bảo, nghiên cứu Phật Pháp.
Ban đầu, Viên Hoằng Đạo học thiền với Lý Trác Ngô, vốn bản tính thông minh, ông học rất nhanh, tín giải thông suốt những tầng nghĩa lý cao siêu, biện tài sắc bén. Nhưng cho dù thế, ông vẫn thấy có điều gì đó còn thiếu sót, vì dù sao, ông cũng không có đắc đạo gì, chỉ là hiểu Đạo trên lý thuyết. Ông tự nghiệm xét, thấy dù biện tài lý luận không ai sánh kịp, cũng chỉ là lời nói suông, không có lợi ích thiết thực, đầu thai qua kiếp sau sẽ lại quên hết, chính mình vẫn nằm gọn trong guồng quay sinh tử luân hồi, biển khổ vẫn ở trước mắt.
Vậy nên ông chuyển sang tu theo Tịnh Độ, chuyên tâm niệm Phật cầu vãng sinh, vì pháp môn này mới thực sự cho ông một con đường thoát khỏi biển khổ ngay một kiếp này. Từ khi theo Tịnh Độ, Hoằng Đạo sớm hôm sám hối lễ niệm, đồng thời gắng giữ gìn giới cấm. Ông đem những kiến giải sâu sắc của mình về kinh điển, cùng với tất cả tâm huyết viết ra bộ “Tây Phương Hiệp Luận”, phân tích rõ ràng thiệt hơn, khuyên mọi người hướng theo Tịnh Độ. Cuốn sách vẫn được lưu truyền tới tận bây giờ.
Không bao lâu, Hoằng Đạo được triều đình triệu tập phục chức quan cũ, ông tiếp tục làm quan, dần thăng tiến đến chức Huân Ty Lang Trung. Khi đã có tuổi, ông cáo lão xin nghỉ. Sau đó, ông xin vào ở trong một ngôi chùa tại thành Kinh Châu, chuyên tâm niệm Phật. Được ít lâu thì Hoằng Đạo thân không bệnh, an lành mà tạ thế.
Người em trai của ông là Viên Trung Đạo, cũng là một viên quan đã cáo lão về hưu, từ lâu cũng theo tu học Phật Pháp, chuyên tâm niệm Phật cầu vãng sinh, tuy nhiên giới luật có phần chểnh mảng. Từ ngày anh trai mất, ông cũng đau đáu một nghi vấn, không biết anh trai mình một đời tu học như thế, liệu mãn kiếp có được như ước nguyện sinh về Cực Lạc thật không ?
Một đêm, nhằm ngày rằm tháng mười năm Giáp Dần, vào niên hiệu Vạn Lịch thứ 42 (1614), khi khóa tụng xong, ông tĩnh tọa. Bỗng chợt có trạng thái như vào định, thần thức vượt lên khỏi nhà, nương mây bay đi. Hai bên chợt xuất hiện hai đồng tử bay đến nói với ông:
– Hãy theo chúng tôi!
Rồi họ dìu ông nhắm hướng Tây bay đi lẹ làng như chim. Trung Đạo nhìn xuống dưới thấy núi, đầm, ruộng nương, thành ấp, làng xóm, nhỏ như đàn ong, tổ kiến. Có khi bay thấp xuống một chút, liền ngửi thấy mùi tanh hôi từ dưới bốc lên nồng nặc, liền gắng sức vượt thẳng lên cao mới cảm thấy thanh tịnh lại. Dần dần họ tăng tốc, đưa ông bay nhanh như chớp, trải qua không bao lâu, hai đồng tử bỗng hô lên: “Dừng lại!” rồi cùng đáp xuống đất.
Trung Đạo nhìn quanh, thấy một đô thành rộng lớn, đường xá ngay thẳng như giăng dây, mặt đất bằng phẳng sáng chói, chẳng phải cát đá như ở nhân gian. Dọc theo bên đường có đầm ao rộng lớn, bờ ao bằng bảo thạch với hoa văn ảo diệu. Trong ao, hoa sen ngũ sắc tươi đẹp đua nhau nở, hương thơm tuyệt diệu khác thường.
Dọc theo bờ ao có hàng cây tỏa ra ánh sáng rực rỡ, các thứ chim lạ hòa nhau hót lên những tiếng thanh tao. Bắc qua ao là những cây cầu bằng vàng ròng thiết kế tinh xảo. Đi theo cầu qua bờ bên kia là những tòa lầu các đẹp lộng lẫy mà cảnh trần gian khó sánh kịp. Người trong lầu tướng mạo đều thanh sáng, tươi đẹp như thiên nhân, họ nhìn Trung Đạo mà mỉm cười. Hai đồng tử đi mau, Trung Đạo đuổi theo không kịp, vội kêu lên rằng:
– Xin tạm đứng trên cầu, đợi tôi một chút.
Hai đồng tử dừng lại, ông mới bước theo kịp, cùng tựa lan can cầu tạm nghỉ.
Trung Đạo vòng tay hỏi:
– Xin được hân hạnh cho biết hai vị là ai? Đây là nơi nào?
Một đồng tử đáp:
– Chúng tôi là thị giả của Linh Hòa tiên sinh, Ngài muốn cùng ông gặp gỡ nói đôi chuyện, nên bảo đến đón tiếp.
Cư sĩ lại hỏi:
– Tiên sinh ấy là người như thế nào?
– Ngài chính là anh trai ông – Viên Hoằng Đạo. Sau khi gặp mặt ông sẽ tự biết, hiện thời chúng ta phải đi đến nơi cho kịp!
Nói xong họ cùng qua cầu, men theo con đường tới một khu rừng có hơn ngàn cội cây to lớn, lá như làm từ ngọc phỉ thúy, cánh hoa màu hoàng kim. Sau rừng cây có một cái hồ rất rộng, một cây cầu bắc qua, dẫn tới một cửa bằng bạch ngọc, một đồng tử đẩy cửa tiến vào trước. Đồng tử kia dẫn Trung Đạo đi qua hơn 20 lớp lầu các, kim sắc chói rực rỡ, hoa linh cỏ lạ phơ phất bên thềm.
Khi tới dưới tòa lầu nọ, Trung Đạo thấy có một vị đứng chờ sẵn, thần thái tựa như anh trai mình, nhưng đẹp hơn nhiều, mặt sáng như ngọc, áo tựa ráng mây, cao hơn trượng, bước đến đón rước, mừng rỡ bảo:
– Đệ đã tới đó ư?
– Nhị huynh… ?!
Hoằng Đạo gật đầu cười, rồi dắt tay Trung Đạo lên lầu, trên đó có bốn năm vị tướng mạo như thiên nhân, mọi người cùng ngồi xuống bàn, Hoằng Đạo nói:
– Đây là vùng biên địa ở Tây Phương Cực Lạc. Những hành giả niệm Phật, tín giải chưa thành, giới luật chưa trọn, phần nhiều sinh về chốn này. Nơi đây cũng gọi là Giải Mạn Quốc (xứ của người tu còn bê trễ). Phương trên có lâu đài của Hóa Phật, trước lầu có ao to rộng hơn trăm do tuần, trong ao có sen báu.
Chúng sinh mười phương sinh về nơi hoa sen ấy, đúng kỳ hoa nở, chia nhau đến sống trong các lầu đài, cùng những bạn tu có duyên tụ hội nhau. Do không có những cám dỗ trần tục, nên khai ngộ dễ thành, chẳng bao lâu tu tiến lên sinh vào chính quốc ở Cực lạc!
Trung Đạo thầm nghĩ: “Cảnh đẹp như thế này, mà hãy còn là biên địa ư?” Nhân đó hỏi:
– Huynh sau khi tạ thế, thì sinh về chỗ nào?
– Huynh chí nguyện vãng sinh tuy tha thiết, song tình nhiễm chưa dứt trừ, mới đầu sinh về nơi đây ít lâu, nay thì đã được vào chính quốc cõi Cực Lạc. Nhưng do tu tập chưa đạt, nên chỉ thuộc hàng địa cư, không được cùng các bậc Bồ Tát ở lầu các giữa hư không, còn phải tiến tu thêm nữa.
Rất may lúc còn tại nhân gian, nhờ trí huệ sáng suốt, anh từng soạn bộ “Tây Phương Hiệp Luận”, nên cảm phước báo được bay đi tự tại, dạo chơi các thế giới. Chư Phật nói pháp, đều được đến nghe, đây thật là điều thù thắng!
Nói xong, nắm tay Trung Đạo bay lên hư không, phút chốc vượt ngàn muôn dặm, rồi đáp xuống một chỗ. Nơi đây không có chia ngày đêm bởi nhật nguyệt, ánh sáng luôn rực rỡ chẳng bị ngăn che. Đất lưu ly trong ngoài sáng rực, trụ dây hoàng kim thất bảo giao xen ngăn chia ranh giới. Cây ở đây đều là thứ quý hiếm như Chiên Đàn, Cát Tường… hàng hàng nối nhau, vài muôn ngàn lớp.
Mỗi mỗi lá mọc ra các hoa đẹp tuyệt diệu, màu sắc như kỳ trân dị bảo. Bên dưới cây là ao báu, vô lượng đợt sóng gợn, tự nhiên phát ra tiếng thuyết pháp vi diệu. Trong ao sen báu muôn màu phóng ánh sáng kỳ lạ. Xung quanh lầu có treo vô lượng nhạc khí, tự khua động diễn các pháp âm vi diệu. Những điều ghi chép trong kinh A Di Đà và Vô Lượng Thọ tả về cõi Cực Lạc, so với đây mười phần chưa được một. Ngước nhìn lên, nhiều lầu các lơ lửng giữa hư không, đẹp huyền ảo giữa những vầng mây. Hoằng Đạo nói:
– Chỗ đệ thấy là quang cảnh của hàng chúng sinh địa cư ở Cực Lạc. Qua khỏi chốn này là nơi ở của chư Pháp thân Bồ Tát, cảnh trí còn đẹp đẽ gấp muôn ngàn lần nơi đây. Thần thông của các vị ấy cũng ngàn muôn phần bội hơn. Huynh nhờ huệ lực có thể đến dạo chơi, mà không ở lại được. Đi qua nơi đó nữa là chỗ cư trú của bậc Thập địa Bồ Tát cùng Đẳng giác Bồ tát, huynh không thể đi đến và hiểu được. Xa hơn nữa, là cảnh giới của đấng Diệu giác Bồ Tát, duy chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấy biết!
Nói xong, lại cùng bay đến một nơi khác, điện các chói sáng khác thường, chẳng biết làm bằng chất gì. Cảm thấy hoàng kim, bạch ngọc của nhân gian sánh với thứ báu này, thì chỉ như đất cục mà thôi. Nơi đây không thành quách, chỉ có lan can bao bọc. Hai người cùng ngồi dưới lầu trò chuyện. Hoằng Đạo nói:
– Khi còn ở nhân gian, huynh không ngờ cảnh đẹp, niềm vui trác tuyệt đến như vậy! Giả sử khi ở Ta Bà, huynh giữ giới luật thêm tinh nghiêm, thì sự thọ lạc chẳng phải như thế này thôi đâu! Đại khái tâm giải ngộ sâu sắc, cùng với giữ giới tinh nghiêm, sẽ được sinh phẩm rất cao. Thứ nữa, là giữ giới tốt, sinh phẩm rất ổn.
Nếu tâm giải ngộ sâu sắc mà không giữ giới tốt, phần nhiều bị sức nghiệp lôi kéo, tái sinh vào hàng Bát bộ quỷ thần. Những bạn đồng tu lâm vào cảnh này, huynh đã trông thấy rất nhiều.
Về phần đệ, trí tuệ kiến giải Bát Nhã tuy sâu, song sức giới định rất kém. Nếu kiến giải lý nhiệm mầu mà không sinh ra giới định, cũng thuộc về loại cuồng huệ mà thôi! Khi trở về Ta Bà, đệ phải nhân lúc còn mạnh khỏe mà thật tu thật ngộ, giữ tịnh nguyện cho tha thiết, siêng làm phương tiện giúp người, thương xót tất cả, chẳng bao lâu sẽ có lúc cùng huynh hội ngộ. Nếu lơ là để lạc vào đường khác, thì thật là đáng kinh, đáng sợ!
Như chưa thể giữ giới hoàn toàn, hãy tuân hành theo pháp “Lục trai” của ngài Long Thọ cũng được. Trong các giới, giới sát rất quan trọng. Xin gửi lời nhắn nhủ bạn đồng tu: Dù cho có tài thuyết pháp như mưa sa mây cuốn, đối với sự tịnh tu nếu không thật hành, cũng là vô ích!
Huynh và đệ từ thuở Phật Không Vương đã nhiều kiếp làm anh em một nhà, cho đến khi luân hồi sáu cõi cũng đều như thế! Nay may mắn huynh đã được về chỗ tốt, sợ đệ bị lạc vào ác đạo, nên phải dùng sức thần thông phương tiện, đem đệ đến đây khuyên bảo. Bây giờ báo nghiệp giữa hai cõi tịnh và uế khác nhau, đệ không thể ở lâu được!
Nói xong, Hoằng Đạo liền vượt lên hư không mà bay đi. Trung Đạo đứng lên bước chậm rãi theo bờ ao ngoạn cảnh, bỗng như trượt té xuống nước, rơi mãi một lúc thì giật mình tỉnh lại.
Lúc ấy Trung Đạo nhìn lại ngọn đèn tàn còn trên giá, ánh trăng sáng vẫn chiếu qua song, thời khắc đã sang canh tư. Liền vội lấy giấy bút ghi chép lại sự tình, đặt tựa là “Tịnh Quốc Du Ký”.
(Trích “Thấu Hiểu Luật Vũ Trụ” – Tác giả: Quang Tử).