1.- Phát tâm trợ niệm giúp người khác được vãng sinh Tây phương là việc thay thế chư Phật rộng độ chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi, là việc vô cùng lớn lao. Công đức này không thể nghĩ bàn. Vì vậy phải hết sức cẩn thận nếu không sẽ làm mất đi nhân duyên vãng sinh của người lâm chung! Xin hãy cẩn thận! Xin hãy cẩn thận!
2.- Khi đến nhà người lâm chung, trước tiên hãy mời toàn thể gia quyến đến để nói cho họ biết đây là thời điểm vô cùng quan trọng của người lâm chung. Vì họ đang ở ngưỡng cửa của siêu thăng hay đọa lạc. Trách nhiệm này là của toàn thể gia quyến, nếu gia quyến muốn người lâm chung được siêu thăng không đọa lạc thì mỗi mỗi sự việc đều tuân thủ theo sự chỉ đạo của ban hộ niệm, không được làm điều gì trái lại, đó là việc để người lâm chung nhất định được vãng sinh Tịnh độ.
3.- Khi vào trong phòng người bệnh, ban hộ niệm phải có thái độ thành khẩn, lời nói ôn hòa, để người bệnh nghe được tâm lý không hoài nghi. Trước tiên nên ôn lại và tán thán những việc lành mà bình thường người bệnh đã tạo, khiến cho tâm họ phát khởi sự hoan hỷ, kế đến nói về công đức và bốn tám lời nguyện của Phật A Di Ðà, cùng cõi Cực Lạc vui sướng, làm cho người bệnh sinh vui mừng và phát khởi chánh tín cầu sinh Tây phương. Người trợ niệm nên xem người bệnh như thể người quyến thuộc để có thể có tâm thành khẩn tha thiết. Tuy nhiên, đời nay tuy không phải quyến thuộc của họ mà có thể đời trước, hoặc nhiều đời trước họ đã từng là quyến thuộc của chúng ta. Vì vậy trong Kinh Phạm Võng có nói: “Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta”, điều này bằng con mắt phàm phu chúng ta trong đời sống hằng ngày không thể nhận ra được, chớ hoàn toàn giữa ta và người bệnh lại không có quan hệ hay sao?
4.- Trong phòng người bệnh, ngoại trừ người khai thị ra, không để một lời nói hay một người nào ở lại, không được nói chuyện tạp gì vì khi họ nghe được làm phân tâm, mất đi chánh niệm. Nếu như có bà con thân quyến đến thăm nom thì người trợ niệm nên hỏi họ: “Có phải anh (chị) đến đây vì trợ niệm hay không?”. Nếu họ bảo phải thì mời họ cùng trợ niệm. Bằng không thì gia quyến phải nói rõ cho họ biết để khỏi mất lòng, nên mời họ đến phòng khách tiếp đãi vì khi người bệnh thấy được họ chắc chắn sinh ra sự luyến ái làm mất chánh niệm. Ðây là trách nhiệm của người trợ niệm, không nên vì sợ mất lòng, vì làm chướng ngại cho sự chánh niệm của bệnh nhân, làm mất đi khả năng vãng sinh Tây phương. Ðiều này là hoàn toàn trái với bản hoài độ sinh của chư Phật, lại không thích hợp với tôn chỉ của người trợ niệm.
5.- Lúc trợ niệm hoặc niệm bốn chữ “A Di Ðà Phật” hoặc niệm sáu chữ “Nam mô A Di Ðà Phật”. Niệm nhỏ hay lớn, thấp hay cao nên hỏi qua người bệnh là tốt hơn cả. Nếu như bệnh nhân bị cấm khẩu, vậy thì không nên niệm Phật quá nhanh, nếu nhanh thì nghe không rõ ràng, cũng không nên quá chậm vì chậm sẽ gây nên hôn trầm, cũng không nên quá cao, nếu cao thì người trợ niệm không thể trì niệm lâu dài và cuối cùng cũng nên đừng thấp quá, nếu thấp quá sẽ nghe không rõ ràng. Vì vậy người trợ niệm nên niệm không cao, không thấp, không nhỏ cũng không to, mà nên niệm từng câu, từng câu rõ ràng, từng chữ từng chữ khoan thai, khiến cho thần thức người bệnh nghe từng chữ từng câu rõ ràng. Niệm Phật như vậy mới là chân chính trợ niệm. Không nên tùy tiện theo ý nghĩ riêng mà niệm, lúc thì cao, lúc thì thấp, lúc nhanh lúc chậm, trợ niệm như vậy thì người bệnh không lợi ích chi. Tóm lại, chúng ta phải hiểu rằng nguyên nhân trợ niệm cho người lúc lâm chung vì họ khí lực cạn kiệt suy sụp không thể tự mình khởi lên ý niệm nhân duyên niệm Phật mà họ hoàn toàn nhờ vào sự trợ giúp của tha nhân niệm hồng danh A Di Ðà Phật. Vì vậy chúng ta cần phải niệm rõ ràng, làm cho tâm người bệnh, niệm niệm quay về an trú trong câu niệm Phật, luôn luôn thấy rõ hết thảy sự việc, và luôn chánh niệm. Niệm niệm tương tục không gián đoạn, đến lúc lâm chung nhất niệm niệm Phật, liền được vãng sinh. Ðây cũng là trách nhiệm chung của chúng ta thay thế Ðức Phật nhiếp độ chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi.
6.- Có khi trợ niệm trong một thời gian đã lâu, bỗng nhiên người bệnh tinh thần trở nên tỉnh táo, hoặc có thể nói chuyện, hoặc than thở, hoặc cơ thể có thể hoạt động và nhiều dấu hiệu khác. Trong trường hợp này người trợ niệm nên biết đây là dấu hiệu cho thấy trong vòng khoảng 2 giờ nữa họ sẽ tắt thở. Ví như một ngọn đèn dầu, dầu trong đèn từ từ cạn thì ánh sáng cũng do đó từ từ mà tắt. Nhưng trước khi dầu hoàn toàn hết thì tự nhiên ngọn đèn bùng lên trong giây lát rồi mới tắt. Thỉnh thoảng nghe nói có trường hợp người bệnh như trên, vì người trợ niệm chưa có kinh nghiệm nhận thức nên ngừng việc trợ niệm, trường hợp này hết sức nguy hiểm. Vì vậy chúng ta là những người trợ niệm cần nhận thức rõ vấn đề nêu trên.
7.- Khi ban trợ niệm vừa mới đến nơi mà gặp trường hợp bệnh nhân vừa mới tắt thở hoặc đã tắt thở trước đó một, hai hoặc ba tiếng đồng hồ, người trợ niệm nên biết đây là giây phút vô cùng quan trọng, tốt nhất trước tiên lớn tiếng khai thị, sau đó mới bắt đầu trợ niệm. Vì sau khi người bệnh tắt thở, không luận là thân quyến có khóc hay là không, tâm họ luôn luôn rối loạn. Nếu lớn tiếng khai thị tâm của họ, có thể biết được do hai nguyên nhân sau :
1.- Tâm người bệnh có quy y (quy vào danh hiệu Phật) nên biến phiền não thành chánh định.
2.- Cũng đã có phát nguyện cầu sinh Tây phương (tâm vui vẻ nghe danh hiệu là có thể sinh Tây phương).
Người khai thị nên lớn tiếng hướng dẫn họ như sau: “Hỡi ông (bà) gì! Mọi chuyện lành dữ trong quá khứ xin ông (bà) đừng nên suy nghĩ đến nữa, tài sản con cháu trong nhà hãy nên xả bỏ, không nên mảy may một niệm chạy theo, một lòng niệm Phật A Di Ðà để được vãng sinh sang cõi Cực Lạc. Tất cả chúng tôi sẽ niệm Phật trợ niệm cho ông (bà), ông (bà) nên dồn hết tâm lực nghe câu niệm Nam mô A Di Ðà Phật. Hãy an trụ vào đó mà vãng sinh Cực Lạc”. Sau khi khai thị xong là bắt đầu trợ niệm ngay. Nếu như người làm chung bình thường có tín nguyện niệm Phật cầu vãng sinh Tây phương thì nhất định được vãng sinh Tây phương. Nếu như bình thường có tín nguyện cầu sinh Tây phương thì nghe được danh hiệu trợ niệm thì công đức không thể nghĩ bàn. Như trong Kinh Ðịa Tạng có nói: “Người nào lúc lâm chung, nghe được một danh hiệu Phật, có thể tiêu trừ được trọng tội vô gián địa ngục”. Cho nên người trợ niệm vào giây phút lâm chung công đức niệm Phật thật lớn lao thay.
Trích Những Vấn Đề Cần Biết Khi Lâm Chung”
Biên soạn: pháp sư Thế Liễu
Dịch giả:Thích Tâm An
Ông (bà) nên hiểu rằng không luận là người nào, hai việc bệnh khổ và tử vong là điều không thể tránh được. Nếu ông (bà) có bệnh khổ thì không nên để tâm vào bệnh khổ đó mà hãy chuyên tâm nhất ý niệm Nam mô A Di Ðà, niệm niệm rõ ràng, tưởng đến việc vãng sinh thì bệnh khổ tự nhiên giảm nhẹ bình thường.
Người niệm Phật chúng ta, đến giây phút lâm chung bất luận là việc gì đều nên buông xả để tâm được thanh thản nhẹ nhàng, chỉ nương tựa vào một câu Nam mô A Di Ðà, thanh minh rõ ràng, niệm niệm chấp trì danh hiệu thì khoảng 3 ngày, 5 ngày, cho đến 7 ngày được vãng sinh. Từ đầu chí cuối chỉ một tâm niệm cầu sinh Tây phương nếu có thể y theo lời tôi nói, thì tôi bảo đảm ông (bà) nhất định được vãng sinh, không nên giống như người thế tục không có sự hiểu biết đến lúc lâm chung nếu có bệnh khổ chỉ kêu mẹ kêu cha, chỉ cầu thiên thần, quỷ thần giúp đỡ, đây là sự mê lầm vô cùng lớn lao. Chúng ta cần hiểu rằng người niệm Phật lúc lâm chung, không luận có bệnh hay là không. Cốt yếu là nên cầu lòng từ bi của Phật A Di Ðà sớm đến tiếp dẫn. Còn Thiên, Thần, Quỷ chỉ nằm trong lục đạo luân hồi, là còn sinh tử, làm gì có sức mạnh năng lực mà ông (bà) cầu nguyện, cầu thoát khỏi sinh tử luân hồi?
Chỉ có lòng từ bi và 48 lời nguyện của Phật A Di Ðà cùng năng lực và thần thông quảng đại của Ngài mới có thể cứu độ chúng ta thoát ly sinh tử được. Nếu ông (bà) còn ôm lòng cầu nguyện thiên thần, quỷ thần giúp đỡ thì hãy nên xả bỏ đi, nhất tâm niệm Phật cầu sinh Tây phương. Còn quý ông (bà) thọ mạng chưa hết thì niệm Phật có thể tiêu trừ nghiệp chướng của mình, như vậy bệnh cũng đã hóa vui rồi. Bằng ngược lại thọ mạng ông (bà) đã hết thì ông (bà) nhất định vãng sinh. Giá như niệm Phật chỉ cầu lành bệnh mà không cầu sinh Tây phương thì dù thọ mạng ông (bà) đã hết thì Tây phương khó mà sinh, hoặc thọ mạng chưa hết, bệnh nhất thời khó mà lành, song chẳng những không tốt mà sự khổ vì bệnh lại càng gia tăng. Ông (bà) cần hiểu rằng: Chúng ta sống ở cõi Ta bà ô trược này phải chịu nhiều khổ não hay sao? Nếu được vãng sinh thì thọ hưởng được nhiều vui sướng hay sao? Nếu ông (bà) còn có tâm cầu khẩn trời, thần, quỷ gia tâm giúp đỡ, điều này cho thấy ông (bà) còn sợ chết, nếu còn tâm sợ chết thì tâm ông (bà) cùng với tâm nguyện của Phật A Di Ðà cách xa nhau. Vì thế Tây phương khó mà sinh được, phải chịu khổ hải sinh tử mãi mãi, không có ngày xuất ly.
Nếu ông (bà) còn tâm sợ chết thì tự trách mình. Tại sao ta đã phát tâm niệm Phật, quyết chí cầu sinh Tây phương làm sao còn đeo mang tâm niệm sợ chết tự mình làm chướng ngại cho việc vãng sinh của mình? Vì vậy mình muốn vãng sinh thì nên khẩn thiết nhất tâm niệm Phật cầu Phật từ bi sớm đến tiếp dẫn.
Tóm lại bệnh khổ phát hiện lúc lâm chung, là do oan gia ác nghiệp nhiều đời của chúng ta sở cảm, họ hiện ra ngăn cản nên phát hiện thành nhiều loại khổ não khiến tâm chúng ta sinh phiền não, làm chướng ngại cho việc niệm Phật vãng sinh. Nếu chúng ta hiểu rõ được như vậy thì không bị các loại ma chướng sở chuyển. Ðiều tốt nhất là chúng ta nên chí thành khẩn thiết niệm Phật, niệm niệm không buông lơi, dồn hết tâm lực nương tựa vào danh hiệu Nam mô A Di Ðà Phật thì được vãng sinh Tịnh độ.
Trích Những Vấn Đề Cần Biết Khi Lâm Chung”
Biên soạn: pháp sư Thế Liễu
Dịch giả:Thích Tâm An
Hỏi: Thân Trung Ấm Còn Có Cơ Hội Niệm Phật Vãng Sanh Không?
Trả lời: Cư sĩ Hồ, tổng cán sự của đạo tràng chúng ta đã học Phật được mười bảy năm, nhưng mẹ của cô thì không có học Phật, mẹ cô là một người rất lương thiện, nhưng chưa từng biết đến Phật pháp, thấy con gái học Phật bà cho là mê tín.
Đến khi bà bị bệnh, bị bệnh nặng một số bạn đạo của con gái bà đến bệnh viện trợ niệm cho bà, bà cũng niệm theo nhưng nửa tin nửa ngờ, bà hay hỏi: Có thật không?… Có phải thật vậy không?…
Cho nên việc trợ duyên rất là quan trọng, có được vị Pháp Sư thường hay khai thị cho bà, nhắc nhở bà hãy niệm Phật cùng với mọi người, có vậy bà mới đi được.
Tang lễ của bà được tổ chức tại viện Hỏa Lâm Đài Loan, là một đạo tràng Tịnh-Tông của chúng ta, nơi đây đã làm Phật thất cho bà, Tam Thời Hệ Niệm bảy tuần Thất bốn mươi chín ngày. Cũng coi như là bà tốt duyên, có hơn ba trăm bạn đạo niệm Phật suốt ngày đêm không gián đoạn, bốn mươi chín ngày không gián đoạn.
Linh cửu của mẹ cô được quàn tại phòng kế bên niệm Phật Đường. Cô đã gặp một bà cậu. Mẹ cô đã nhập vào người của bà ấy, nhập vào người của bà cậu đó và báo rằng bà ấy cũng biết là mình đã qua đời, bà còn báo rằng:
“Tại sao các vị lại tốt với tôi như vậy?”… Bà rất kinh ngạc!… “Có phải là nhờ con gái của tôi không? Tại sao lại tốt với tôi như vậy?”…
Đây là lần đầu bà báo tin, chúng tôi đều khuyên bà ấy niệm Phật, khuyên bà cầu sanh Tịnh-Độ, hiện tại bà là thân trung ấm. Sau khi nghe xong bà vô cùng cảm tạ. Sau khi cảm tạ rồi thì bà hỏi Phật pháp.
“Thế nào là Phật, tại sao lại phải niệm Phật, niệm Phật có lợi ích gì không?”
Chúng tôi có một vị Pháp sư trẻ tuổi giảng giải cho bà hiểu, bà hỏi rất nhiều và sau khi nghe giải đáp rồi bà rất hoan hỷ nói:
“Được! vậy thì tốt tôi sẽ nghe kinh”.
Bà muốn nghe kinh người nhà cho bà nghe bằng tivi, tivi được đặt bên cạnh quan tài mở kinh Địa-Tạng, lại nữa… đích thân bà yêu cầu mỗi tối thì thay đĩa. Xem xong rồi phải đổi cái khác, người đi thay đĩa rất là vất vả nên bà dặn cô con gái bảo phải tìm một cái đầu máy hát karaoke nào có thể phát bốn trăm trang bài hát, đi tìm cái máy đó. Quả là có. Cô đã tìm được, trong đó chứa bốn trăm trang. Mở kinh Địa-Tạng cho bà nghe suốt ngày đêm không gián đoạn, sau đó không thấy nhập hồn nữa. Hình như là hơn hai tuần không thấy.
Hơn hai tuần sau bà lại nhập lên lần nữa, cô hỏi là bà đã đi đâu? Bà nói là:
“Không có đi đâu chỉ nghe kinh”.
Sau khi nghe kinh suốt ngày đêm, khoảng mười mấy ngày bà lại nhập lên nói là:
“Bây giờ không cần nghe kinh nữa mà cần niệm Phật, nói tôi muốn được vãng sanh mà tại sao đức A-Di-Đà vẫn chưa đến rước tôi nữa?”…
Khoảng thời gian sau cùng bà niệm Phật đến ngày chung thất Tam Thời Hệ Niệm, ngay ngày thứ bốn chín bà lại nhập xác về nói là:
“Rất cám ơn mọi người đã cho bà tăng thượng duyên này, rất là cảm ơn. Bà đã vãng sanh Thế giới Cực Lạc rồi”.
Mọi người hỏi là bà đã ở phẩm vị nào?…
“Hạ Phẩm Trung Sanh”
Một người chưa từng biết đến Phật pháp mà sao lại được như vậy? Là do thân trung ấm được độ, bà là người thứ nhất mà chúng tôi đích thân chứng kiến.
Hỏi: Tại Sao Trong Khoảng Thời Gian Được Tiếp Xúc Phật Pháp Của Thân Trung Ấm Ngắn Như Vậy Mà Lại Được Vãng Sanh?
Trả lời: Vì trong kiếp quá khứ Bà đã có tu qua pháp môn này, nhưng tu chưa có thành công, nên đời này khi lâm chung được nghe lại khiến cho thiện căn đời trước trỗi dậy, dõng mãnh tinh tấn buông bỏ vạn duyên, không có lưu luyến tí nào, cho nên Bà ấy mau chóng được thành tựu.
Việc hy hữu khó được hơn là, bà ấy còn sống không tin Phật, chết rồi cũng không tin Phật. Đến khi chết rồi thân trung ấm nghe được Phật pháp Bà ấy đã nhận rõ, nghe theo những lời trợ niệm này, Bà ta không còn là thân người mà là thân trung ấm nghe theo lời trợ niệm cũng được vãng sanh.
Nguyên nhân tất cả đều là do thiện căn đời trước, chứ trong đời này không có duyên nghe được Phật pháp, vừa nghe qua họ liền giác ngộ, vậy thì cũng giống như người này ý chí, tín tâm kiên định như vậy. Từ trường của Ma không làm ảnh hưởng đến họ, họ vừa khởi tâm thì đức Phật A Di Đà liền phóng hào quang và họ được lợi ích. Chỉ cần mình vừa khởi niệm thì liền được gia trì. Cho nên qua đó sự cảm ứng thật không thể nói hết.
Hỏi: Người Chết Tiến Vào Thân Trung Ấm, Được Bạn Bè Làm Phật Sự Siêu Độ Và Suốt Bốn Mươi Chín Ngày Niệm Phật Cho Họ. Xin Hỏi Như Vậy Có Thể Siêu Độ Cho Thân Trung Ấm Vãng Sanh Thế Giới Tây Phương Cực Lạc Không? Có Phải Cũng Nên Dựa Vào Tự Thân Của Thân Trung Ấm Niệm Phật Cầu Sanh Thế Giới Tây Phương Cực Lạc Mới Có Thể Nhờ Ân Phật Tiếp Dẫn Không? Thân Trung Ấm Còn Biết Tự Mình Niệm Phật Cầu Vãng Sanh Không?
Trả lời: Tự thân trung ấm niệm Phật cầu vãng sanh rất ít thấy, thực sự rất là hiếm có, nhưng quả thật là có. Câu chuyện về mẹ của cư sĩ Hồ, chính là hiện tượng mà bạn hỏi đây. Bà ấy quả thật được vãng sanh.
Lúc sanh tiền Bà không có biết Phật, sau khi chết rồi mới học Phật, nghĩa là sao?… Trong bốn mươi chín ngày, đại khái là trong khoảng bốn mươi chín ngày đó, mọi người ngày nào cũng tụng kinh niệm Phật hồi hướng cho Bà. Thân trung ấm của Bà vẫn chưa có rời khỏi, thân trung ấm rất là cảm động, Bà muốn nghe kinh, phát tâm niệm Phật cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Thời gian sau cùng của ngày thứ bốn mươi chín Bà lại nhập xác về báo với mọi người là đức Phật A-Di-Đà tiếp dẫn Bà hạ phẩm trung sanh. Cho nên sau khi con người tắt thở việc trợ niệm suốt bốn mươi chín ngày rất quan trọng, rất là quan trọng.
Việc này có được vãng sanh hay không?… Thực sự mà nói chúng tôi nghĩ là tương đối chính xác, vì thiện căn trong đời quá khứ của Bà sâu dày, trong kiếp quá khứ Bà đã từng học qua Pháp môn này, do trong đời này Bà sanh trong gia đình giàu sang nên quên sót, lơ là rồi. Đến khi sắp chết gặp thiện duyên này nên Bà được ngộ, đây là sự thật.
Nên khi bạn hỏi chúng tôi hiện có chứng cứ, chúng tôi có thí dụ trung ấm có thể vãng sanh, nhưng còn phải nhờ vào thiện căn của mình đời trước, rồi đời này mới gặp được thiện duyên nên được nhiều người trợ giúp như vậy. Lúc đó Niệm Phật Đường có hơn ba trăm người niệm Phật giúp Bà suốt bốn mươi chín ngày, đây là Pháp duyên rất khó mà gặp được.
Nếu ta một mặt niệm Phật, một mặt còn muốn tham thiền, một mặt niệm Phật một mặt còn muốn niệm chú, đó là xen tạp. Đó không phải là tịnh niệm. Một mặt niệm Phật một mặt còn muốn xem kinh, còn muốn nghiên cứu giới luật thậm chí còn muốn đi làm pháp hội, cả thảy đều là xen tạp. Trong quyển “Tây Phương Xác Chỉ” của Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát có một đoạn khai thị rất rõ ràng, rất minh bạch. Tôi đem đoạn này rút ra in sau tấm hình của A Di Đà Phật là để nhắc nhở các bạn đồng tu nên biết cái gì gọi là xen tạp. Bồ Tát bảo với chúng ta rằng niệm Phật kỵ nhất là xen tạp. Hễ có xen tạp thì tâm không thanh tịnh thì không phải là tịnh niệm thì trái nghịch với phương pháp của Đại Thế Chí Bồ Tát dạy cho chúng ta. “Nhược năng thường trì vô khổ bất trừ”. “Trì” là chấp trì danh hiệu. Phật hiệu phải thường niệm không được gián đoạn. Lúc niệm Phật phải tịnh niệm kế tiếp mới có thể lìa khổ mới có thể được vui. Thật sự được lìa khổ được vui.
Một bức thư phúc đáp khắp nơi – Lời văn tuy quê thật, nhưng nghĩa lý vẫn căn cứ trong kinh. Nếu có ai y theo đây mà làm, sự lợi ích sẽ rộng lớn vô cùng! – Ấn Quang pháp sư.
– 1 –
Pháp môn Tịnh Độ trùm khắp cả ba căn, gồm thâu hàng lợi độn, là đại pháp của đức Như Lai, để mở phương tiện cho tất cả thánh phàm đều được giải thoát sanh tử, lên ngôi Bất Thối ngay trong hiện đời. Với pháp mầu nhiệm đặc biệt nầy mà không tin không tu, thật là đáng thương, đáng tiếc!!
Pháp môn Tịnh Độ lấy tín, nguyện, hạnh làm tông chỉ.
Tín là ta phải tin cõi Ta Bà có vô lượng sự khổ; tin cõi Cực Lạc có vô lượng điều vui; tin ta là phàm phu đầy nghiệp lực, quyết không thể nương cậy vào sức mình để dứt hoặc chứng chơn, thoát sanh tử ngay trong hiện đời; tin Phật A Di Đà có lời thề nguyền rộng lớn, nếu chúng sanh nào niệm danh hiệu Ngài, cầu về nước Ngài, khi mạng chung sẽ được Ngài tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.
Nguyện là ta nên nguyện mau ra khỏi thế giới nầy, nguyện sớm sanh về cõi vui kia.
Hạnh là ta phải chí thành khẩn thiết niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật, mỗi thời mỗi khắc đừng để tạm quên, tùy theo hoàn cảnh gấp hoãn lập một khóa trình, sớm tối lễ bái trì tụng trước bàn Phật. Ngoài thời khóa tụng, những khi đi, đứng, nằm, ngồi và làm những công việc không dụng tâm, đều nên niệm Phật. Lúc ngủ nghỉ phải niệm thầm, không nên ra tiếng và chỉ niệm bốn chữ A Di Đà Phật để dễ nhiếp tâm. Lại, những khi y phục không chỉnh tề, hoặc giặt rửa, tắm gội, đại tiểu tiện, cho đến lúc đi ngang qua chỗ không sạch sẽ, cũng đều phải niệm thầm. Chí tâm niệm thầm, công đức cũng đồng như niệm ra tiếng. Trong những lúc ấy nếu niệm ra tiếng thì chẳng hợp nghi thức và có lỗi không cung kính. Không luận niệm lớn tiếng, nhỏ tiếng, niệm Kim Cang hoặc niệm thầm, đều phải trong tâm ghi nhớ rành rẽ rõ ràng, miệng niệm rành rẽ rõ ràng và hai tai nghe rành rẽ rõ ràng. Niệm như thế thì tâm không còn dong ruổi theo cảnh ngoài, vọng tưởng lần dứt, câu niệm Phật lần thuần, công đức rất lớn.
– 2 –
Người niệm Phật phải hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, tâm từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành (Thân không sát sanh, trộm cướp, tà dâm; miệng không nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói hung ác; ý không tham dục, giận hờn, ngu si, tà kiến). Lại cần phải: cha lành, con thảo, anh em thương kính, chồng vợ thuận hòa, chủ nhân, tớ trung, mỗi người đều giữ tròn bổn phận. Ta chỉ nên làm hết nhiệm vụ mình, đừng so đo phiền trách người khác đối với mình có trọn cùng không. Nếu người nào đối với gia đình xã hội làm tròn thiên chức, đó là người lành. Người lành mà niệm Phật thì dễ có cơ cảm, quyết định khi lâm chung được Phật tiếp dẫn sanh về Tây Phương vì tâm hạnh hợp với Phật. Trái lại, những ai miệng tuy niệm Phật, song lòng không nhiễm đạo, đối với cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bạn bè làng xóm không tròn bổn phận thì tâm hạnh trái với Phật, khó được vãng sanh. Tại sao thế? Bởi người ấy tâm không điềm tịnh thuần hòa, tự sanh ra mối não phiền chướng ngại, nên khó được cảm thông với Phật, đó cũng là lẽ tất nhiên.
– 3 –
Người niệm Phật nên khuyên thân bằng quyến thuộc và tất cả đồng nhân đều niệm Nam Mô A Di Đà Phật và Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (Mỗi ngày như niệm Phật 1.000 câu thì niệm Quán Âm 500 câu, niệm Phật 10.000 câu thì niệm Quán Âm 5.000 câu. Niệm nhiều ít so theo đây mà gia giảm). Ta đã tìm được con đường giải thoát yên ổn, lại nỡ nào để cho đấng sanh thành, người quyến thuộc cùng tất cả đồng nhân mất sự lợi ích lớn, chìm trong biển khổ ư? Huống chi giữa cõi đời nhiều hoạn nạn, khó tránh sự hiểm nguy như hiện nay, nếu có thể thường niệm Phật và Quán Âm, tất sẽ được lượng từ bi ủng hộ, gặp dữ hóa lành. Giả sử không tai nạn mà chí tâm trì niệm, cũng sẽ được nghiệp tiêu trí sáng, chướng hết phước nhiều. Hơn nữa, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây Phương, tức là thành tựu kẻ phàm phu làm Phật, công đức rất lớn, đem công đức ấy hồi hướng vãng sanh tất sẽ mãn nguyện.
– 4 –
Người niệm Phật khi tụng kinh, trì chú, lễ bái, sám hối, cứu tai nạn, giúp kẻ nghèo, tất cả công đức lành đều phải hồi hướng vãng sanh Tây Phương, không nên cầu hưởng phước báo ở cõi trời, cõi người, trong hiện tại hoặc đời sau. Nếu có tâm niệm ấy thì mất phần vãng sanh và phải bị chìm đắm trong biển luân hồi khổ não. Nên biết, hưởng phước càng nhiều tất gây nghiệp càng lớn, qua một đời sau nữa quyết khó khỏi đọa vào đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Chừng ấy muốn trở lại làm thân người, được nghe pháp hiện đời giải thoát của môn Tịnh Độ, còn khó hơn lên trời. Phật dạy chúng sanh niệm Phật cầu về Tây Phương, là vì chúng sanh mà giải quyết vấn đề sanh tử ngay trong hiện kiếp. Nếu chỉ cầu đời sau hưởng phước báo ở cõi nhân thiên tức là trái với lời Phật dạy, như đem hạt bảo châu vô giá đổi lấy một thẻ đường để ăn, há chẳng đáng tiếc lắm ư? Kẻ tối tăm niệm Phật không cầu vãng sanh mà cầu hưởng phước báo, cũng như đây không khác.
– 5 –
Người niệm Phật không nên tập theo lối tham cứu của nhà tu Thiền. Vì kẻ tu Thiền hầu hết đều không chú trọng về việc tín nguyện vãng sanh. Dù có niệm Phật, họ chỉ chú trọng vào câu ‘Niệm Phật đó là ai?’ để cầu khai ngộ mà thôi. Ta chỉ nên niệm Phật cầu sanh Tây Phương, khi được thấy đức A Di Đà lo gì không khai ngộ? Nếu ở cõi này tu Thiền, như hoặc nghiệp dứt hết thì có thể thoát sanh tử; thảng như hoặc nghiệp chưa dứt thì đã không thể cậy vào sức mình để giải thoát, lại vì không tín nguyện nên không được nương nhờ sức Phật ra khỏi luân hồi. Hai bên tự lực và Phật lực đều không nhờ cậy được, người ấy đâu thể nào thoát khỏi trần lao? Nên biết bậc pháp thân Bồ Tát khi chưa thành Phật đều phải nhờ oai lực của Phật, huống chi ta là phàm phu đầy nghiệp chướng mà ưa luận về sức mình, không cầu sức Phật ư? Lời ấy tuy cao, song xét lại hành vi thật là thấp kém! Sự hơn kém của Phật lực và tự lực khác xa nhau như trời vực, nguyện đồng nhân nên thể tất nghĩa nầy!
– 6 –
Người niệm Phật không nên bắt chước kẻ ngu tối, làm những việc hoàn thọ sanh, gởi kho. Bởi sự hoàn thọ sanh trong Kinh Phật không có nói, do người sau bày đặt ra. Còn gởi kho là muốn cho mình khi chết rồi thành quỷ, nên mới sắm trước tiền của đồ vật cho thân quỷ dùng. Đã có tâm niệm muốn làm quỷ thì khó được vãng sanh. Như người nào chưa làm thì thôi, nếu đã làm, phải bạch rõ trước bàn Phật như vầy: ‘Đệ tử là… chỉ cầu vãng sanh, những đồ minh khố đã gởi khi trước, xin đem chẩn tế cho cô hồn.’ Như thế mới không chướng ngại cho sự sanh về cõi Phật.
Lại những thứ kinh: Thọ Sanh, Huyết Bồn, Thái Dương, Thái Âm, Nhãn Quang, Táo Vương, Thai Cốt, Phân Châu, Diệu Sa… đều là kinh ngụy tạo, không phải kinh của Phật nói, không nên trì tụng. Những kẻ quê tối, không chịu tụng Kinh Đại Thừa (như các kinh: A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Tâm Kinh, Kim Cang, Pháp Hoa, Dược Sư, Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm v.v…) mà chỉ tin các thứ kinh ngụy tạo ấy, muốn làm những việc hoàn thọ sanh, phá địa ngục, phá huyết hồ, mới yên tâm. Nếu có người hiểu Phật Pháp khuyên bảo nói đó là những kinh ngụy tạo, họ cũng không nghe lời. Nên biết, làm các Phật sự, chỉ có niệm Phật là công đức rộng lớn, nên đem số tiền hoàn thọ sanh, phá địa ngục, phá huyết hồ ấy, thỉnh những vị tăng chơn chánh niệm Phật cho thì được lợi ích rất nhiều.
– 7 –
Người niệm Phật nên ăn chay trường, như chưa được thế, thì giữ lục trai hoặc thập trai, để lần lần bỏ hẳn các thứ thịt của chúng sanh, mới là hợp lý. Lục trai là các ngày: mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30; nếu thêm vào đó mấy ngày: mùng 1, 18, 24, 28 thì thành ngày thập trai. Những tháng thiếu, nên ăn trước một ngày. Lại, tháng giêng, tháng năm, tháng chín là ba trai nguyệt, nên ăn chay trường và làm các việc công đức. Dù chưa ăn chay được, cũng nên mua thịt cá đã làm sẵn, chớ sát sanh trong nhà. Nếu mỗi ngày sát sanh thì cái nhà ấy đã thành lò sát sanh, là chỗ oan quỷ tụ hội, không được an lành. Cho nên sát sanh trong nhà là điều rất cấm kỵ.
– 8 –
Người niệm Phật nên khuyên cha mẹ niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Muốn cho cha mẹ khi lâm chung quyết định được vãng sanh thì phải dặn trước người quyến thuộc về cách trợ niệm và chớ nên khóc lóc cùng bày vẽ những điều vô ích. Lại, lúc bình thời phải vì cha mẹ giảng rõ sự lợi ích của môn niệm Phật khiến cho song thân thường niệm không quên. Thế thì chẳng những cha mẹ được lợi ích, mà quyến thuộc hiện tại hoặc con cháu đời sau cũng được ảnh hưởng giải thoát an lành. Về phương pháp trợ niệm khi lâm chung, không luận già trẻ, đều phải làm đúng như thế.
– 9 –
Người nữ khi sắp sanh thường bị đau khổ không kham, có khi vài ngày sanh không được, hoặc chết vì sản nạn. Có người tuy sanh được nhưng lại bị huyết băng và nhiều bệnh nguy hiểm. Đứa con sanh ra thì bị các chứng cấp nạn, kinh phong v.v… Cho nên, người nữ lúc sanh sản, nên chí thành khẩn thiết niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Khi niệm cần phải to tiếng, không nên niệm thầm, vì niệm thầm do tâm lực kém nên sức cảm ứng cũng kém. Lại trong lúc ấy sản phụ đang dùng sức sanh đứa bé ra, nếu niệm thầm thì nín ép hơi phải mang bệnh. Nếu chí thành khẩn thiết mà niệm, quyết không có sự đau đớn, khó sanh, huyết băng, đứa con sẽ khỏi bệnh kinh phong, và các chứng nguy hiểm khác. Dù gặp trường hợp khó sanh, có nguy hiểm đến tánh mạng, sản phụ cùng những kẻ hộ sanh cũng phải đồng to tiếng niệm Quán Âm. Người quyến thuộc tuy ở nơi khác đều phải vì sản phụ niệm giúp. Như thế, không đầy giây phút, sản phụ liền được yên ổn mà sanh. Kẻ ngoại đạo không rõ lý nầy, chấp chặt một việc cung kính, chẳng biết căn cứ theo sự mà luận lý, khiến cho mấy bà lão niệm Phật xem sanh sản là việc đáng sợ, cho đến dâu con của mình sanh cũng không dám qua săn sóc, huống chi là niệm Quán Âm? Nên biết Bồ Tát lấy sự cứu khổ làm lòng, lúc sanh sản, tuy lõa lồ không sạch, nhưng đó là việc dĩ nhiên, không phải mình tự ý buông lung, nên niệm đã không có tội lỗi, mà lại khiến cho mẹ con sản phụ gieo trồng căn lành. Nghĩa nầy trong Kinh Dược Sư đã có nói, không phải tự tôi đưa ra điều ức kiến. Ấn Quang nầy chỉ là người đề xướng mà thôi.
– 10 –
Người nữ từ mười hai, mười ba tuổi đến bốn mươi tám, bốn mươi chín tuổi đều có nguyệt kinh. Có kẻ bảo: trong lúc nguyệt kinh, chẳng nên lễ bái trì tụng. Lời này rất không hợp tình lý. Thời kỳ có kinh, mau thì hai ba ngày, lâu đến sáu bảy ngày mới dứt; người tu trì cần phải niệm Phật không xen hở, đâu nên vì một chút bệnh nhỏ thiên nhiên mà bỏ lãng thời tu niệm ư? Khi có nguyệt kinh chỉ nên lễ bái ít (lễ bái ít chớ chẳng phải tuyệt nhiên không lạy), còn sự tụng kinh, niệm Phật đều chiếu theo lệ thường. Nên thường thay giặt vải dơ, phải rửa tay cho sạch sẽ, đừng dùng tay dơ mà lần chuỗi, lật kinh và đốt hương. Trong Phật Pháp, pháp pháp đều viên thông, hàng ngoại đạo chỉ chấp một bên lý, người đời phần nhiều lại ưa tin lời ngoại đạo, không rõ chánh lý Phật giáo, nên không được thấm nhuần pháp lợi.
– 11 –
Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, tìm tiếng cứu khổ. Khi gặp những tai nạn: đao binh, nước lửa, đói kém, cào cào, ôn dịch, khô hạn, cướp bóc, oan gia, thú dữ, rắn độc, ác quỷ, yêu mị, nghiệp binh, kẻ tiểu nhơn hãm hại v.v… nếu phát tâm sửa lỗi làm lành, lợi mình lợi người, chí thành khẩn thiết niệm Quán Thế Âm không xen hở thì quyết định sẽ được nhờ sức từ bi ủng hộ tránh khỏi tai nguy. Nếu vẫn còn giữ lòng bất thiện, dù có xưng niệm, chẳng qua là gieo chút căn lành về sau, không được sự cảm ứng hiện tại, vì chư Phật, Bồ Tát thành tựu niệm lành cho người, tuyệt không thành tựu niệm ác cho người. Như không phát tâm sửa lỗi làm lành, lầm lạc muốn đem công đức niệm Phật, Bồ Tát, để cầu cho việc ác của mình thành tựu thì quyết không được cảm ứng. Rất không nên phát tâm điên đảo ấy.
Đã niệm Phật, cần phải giữ trọn nhơn luân, gìn lòng thành kính, dứt các điều dữ, làm các việc lành, giữ lòng tốt, nói lời tốt, làm việc tốt. Việc nào mình làm được thì thiết thật mà làm, như không làm được cũng nên phát lòng lành ấy, hoặc khuyên người có thế lực làm, hoặc thấy người làm sanh tâm vui đẹp. Thốt lời khen ngợi việc lành cũng thuộc về công đức của tâm và miệng. Nếu việc mình không thể làm, khi thấy người khác làm được mà sanh lòng ganh ghét, đó là tâm hạnh của kẻ tiểu nhơn. Như thế, quyết định phải bị mất phước tổn thọ, không được kết quả tốt, cần để ý răn chừa. Rất không nên giả mặt hiền lương để mua danh chuốc lợi, tâm hạnh ấy quỷ thần đều ghét, có thì mau cải, không thì nên cố gắng làm lành.
– 12 –
Có nhiều người nữ vì không rõ chánh lý, hoặc bất hiếu với cha mẹ chồng, khi dễ chồng, quá cưng yêu chiều chuộng con, ngược đãi tôi tớ, hoặc là mẹ ghẻ hiếp đáp, hành hạ con riêng của chồng. Những người ấy đâu biết rằng: hiếu thảo với cha mẹ chồng, kính trọng chồng, dạy dỗ con cái, ra ân huệ cùng hàng tôi tớ, an ủi nuôi dạy con riêng của chồng, chính là đạo thánh hiền ở thế gian mà cũng là phép tắc đầu tiên của đạo Phật. Nếu có đủ công đức ấy mà tu Tịnh Độ thì quyết định danh dự thêm nhiều, phước thọ bền vững, khi mạng chung được Phật tiếp dẫn về chín phẩm sen. Nên biết đã có nhân phải có quả, nếu ta gieo nhân hiếu kỉnh, từ ái, tự nhiên sẽ được quả hiếu kỉnh từ ái. Vì người tức là vì mình, hại người còn quá hơn hại mình, cho nên mỗi người đều phải làm tròn bổn phận, Phật trời tất sẽ chứng tri.
– 13 –
Trẻ con khi vừa khôn lớn, phải dạy cho chúng biết đạo lý hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ và việc ba đời nhân quả, sáu nẻo luân hồi. Như thế là làm cho chúng hiểu tâm của mình cùng tâm chư Phật, Bồ Tát, trời đất, quỷ thần, mỗi hơi thở thông nhau. Nếu khởi một niệm bất chánh, làm một việc không phải thì các vị ấy thảy đều biết, như đối trước gương sáng, hình ảnh tốt xấu hiện ra rõ ràng, không che giấu được. Đã hiểu như thế, tất nhiên chúng sẽ sợ hãi, gắng sức làm lành. Chẳng luận người nào, dù là con cái tôi tớ trong nhà cũng không nên đánh đập mắng chửi thô tháo. Phải tìm cách khuyến hóa, khiến cho chúng biết phụng thờ bậc trên, nhường thuận kẻ dưới, kính trọng giấy chữ, chẳng xài phá cơm gạo, quần áo, của tiền, yêu tiếc sanh mạng loài trùng kiến, không ăn vặt vãnh để khỏi mang bệnh. Nếu dạy được như thế, thì một ngày kia quyết định chúng sẽ thành người lương thiện. Trái lại lúc con cháu còn thơ ấu, cha mẹ chẳng chịu dạy dỗ, để mặc cho chúng buông lung, khi lớn lên nếu chúng nó không là kẻ dung ngu, cũng là hàng phỉ loại. Chừng ấy dù có ăn năn cũng vô ích. Lời xưa nói: ‘Giáo phụ sơ lai, giáo tử anh hài’ (Dạy con dạy thuở còn thơ, dạy vợ dạy lúc ban sơ mới về), tánh tình phần lớn là do ảnh hưởng của tập quán, cho nên phải cẩn thận từ bước đầu tiên. Cá nhân là phần tử của xã hội, trong thiên hạ bình yên hay loạn lạc, cội nguồn đều do sự hiền lương hoặc bạo ác của con người. Vậy những điều trên đây quan hệ, thiết yếu, không phải tôi bàn luận chuyện vô ích, xa vời…
– 14 –
Ấn Quang tôi năm nay đã quá già yếu, tinh thần mỗi ngày thêm suy kém, không còn đủ sức để phúc đáp những bức thơ gởi đến. Chỉ vì sự lưu thông thuận tiện, nên xa gần lầm nghe chút hư danh, gởi thơ hỏi đạo quá nhiều. Nếu tôi không đáp, vẫn tự hơi có phụ ý người gởi; như mỗi mỗi đều phúc đáp, thật ra cũng không đủ tinh thần. Vì thế, tôi cho in bức thơ dài nầy để phúc đáp cùng khắp. Trong đây, những điều quan hệ về sự tu trì, cách lập thân xử thế, đạo thờ cha mẹ, dạy con cái, tôi đều nói lược qua. Về sau, ai đưa tin đến hỏi đạo, tôi đều dùng thơ nầy phúc đáp, hoặc có vài điều đặc biệt, cũng chỉ nên thêm đôi hàng nơi bức thơ gởi đến mà thôi. Như thế, để cho đạo niệm đôi bên được thông nhau, mà tôi cũng đỡ bớt sự nhọc mệt. Nếu vị nào muốn hiểu suốt kinh nghĩa, xin thưa hỏi nơi các bậc Pháp Sư dựng cao tràng pháp, Tông Giáo kiêm thông. Nhưng nên biết, dù thông suốt kinh pháp, cũng chưa chắc được thoát sanh tử. Muốn thoát sanh tử luân hồi, phải chú trọng nơi sự tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương!
Trích Lá Thư Tịnh Ðộ
Nguyên tác: Ấn Quang Ðại Sư
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Đại thừa Kinh giáo ngày ngày phải đọc tụng, cách đọc thế nào? Bạn chỉ đọc một môn chủ yếu mà bạn đang tu, không nên đọc quá nhiều, đọc được quá rộng, tâm của bạn sẽ bị loạn. Mục đích của đọc Kinh là gì? Mục đích là ở tu Định, khai mở Trí Tuệ, cho nên đọc tụng Đại thừa là tu hành, y theo phương pháp,theo y quy mà làm, làm cho tâm cung kính của chính mình hiển lộ ra.
Xã hội ngày nay con cái bất hiếu với cha mẹ, học sinh bất kính với thầy giáo, pháp hội giảng kinh chúng ta còn có lễ tiết long trọng, nghinh thỉnh pháp sư, cái biểu hiện này phải thường làm để cho đại chúng đọc tiếp ➝
Các Phúc Đáp Gần Đây