Niệm Phật Nếu Nghi Bốn Trí Sẽ Sanh Biên Địa

Niệm Phật Nếu Nghi Bốn Trí Sẽ Sanh Biên Địa Chánh kinh: Phật bảo ngài Từ Thị:

Nếu có chúng sanh dùng tâm nghi hoặc tu các công đức, nguyện sanh cõi ấy, chẳng hiểu rõ Phật trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, đại thừa quảng trí, vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Ðối với các trí ấy nghi hoặc chẳng tin, nhưng vẫn tin tội phước, tu tập cội lành nguyện sanh cõi ấy.

Giải: Phẩm này giảng về cái nhân của thai sanh, khuyên nên sanh lòng tin sâu xa hầu khỏi đọa vào nghi thành biên địa: trong năm trăm kiếp chẳng được thấy Phật và Tăng, chẳng được nghe kinh pháp.

Ngài Tịnh Ảnh viết: ‘Trước hết nói “chẳng hiểu rõ Phật trí”, câu này là tổng, [những câu như] “bất tư nghị trí” v.v… là biệt. Phật trí uyên thâm, những trí khác không suy lường nổi nên bảo là “bất tư nghị”. Phật trí thật nhiều, chẳng thể kể hết nên bảo là “bất khả xưng”. Phật trí biết rõ cùng tột các pháp môn nên gọi là “quảng trí”. Phật trí ở địa vị cao trỗi nên gọi là “vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”.

Sách Hội Sớ lại nói:

“Chẳng hiểu rõ Phật trí” là nghi tánh đức bất tư nghì của Phật trí, chẳng ngộ được vì sao đức Như Lai là vĩ đại. Niệm Phật vãng sanh được kiến lập bởi Phật trí mà [chúng sanh] lại nghi ngờ trí ấy nên chẳng thể hiểu rõ Phật trí.

Bất tư nghị trí: vì trí huệ của Phật sâu rộng chẳng thể nghĩ bàn nên gọi là “bất tư nghị trí”. Niệm Phật vãng sanh được kiến lập bởi bất tư nghị trí mà [chúng sanh] lại nghi trí ấy nên bảo là “chẳng hiểu rõ bất tư nghị trí”.

Bất khả xưng trí là trí huệ của Phật nhiều đến vô lượng chẳng thể nói kể cho hết được nên gọi là bất khả xưng trí. Niệm Phật vãng sanh là do bất khả xưng trí thành tựu mà lại nghi trí ấy thì gọi là “chẳng hiểu rõ bất khả xưng trí”.

Ðại Thừa quảng trí là trí biết đến cùng tột các pháp môn nên gọi là đại thừa quảng trí. Niệm Phật vãng sanh là do đại thừa quảng trí cảm thành mà lại nghi trí ấy nên gọi là “chẳng hiểu rõ đại thừa quảng trí”.

Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí là trí ấy địa vị cao trỗi nên gọi là vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Nay niệm Phật vãng sanh đây do vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí phát khởi mà lại nghi trí ấy nên bảo là “chẳng hiểu rõ vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”.

Kinh nói: ‘Dùng tâm nghi hoặc’ nghĩa là do chẳng tin hiểu nổi Phật trí nên sanh tâm ngờ vực. Chữ “nghi” có bốn ý, dưới đây tôi sẽ tổng hợp những ý chính của các vị Ðàm Loan, Nguyên Hiểu, Tuấn Ðế và Cảnh Hưng để giảng.

* Một là chẳng tin vào bất tư nghị trí nên nghi nếu chỉ niệm A Di Ðà Phật chưa chắc đã được vãng sanh Cực Lạc, chẳng biết rằng bất tư nghị trí có đại oai lực chẳng thể suy lường được nổi. Hết thảy muôn pháp không pháp nào chẳng phải là tự lực, tha lực, tự nhiếp, tha nhiếp, thiên biến vạn hóa vô lượng vô biên. Há nên dùng cái tình thức còn ngăn ngại của phàm phu ngờ vực diệu pháp vô ngại của đức Như Lai; đâu biết rằng một tấm gương có thể hiện bóng muôn vàn cảnh tượng, củi chất ngàn năm một mồi lửa cháy sạch.

Vì vậy, chí tâm nhất niệm xưng danh tiêu diệt được trọng tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp. Mười niệm ắt được vãng sanh có chi là lạ!

* Hai là chẳng tin vào bất khả xưng trí, chẳng hiểu được rằng thể tánh của Phật trí là tuyệt dứt mọi đối đãi, lìa mọi lỗi lầm, tuyệt mọi sai trái.

* Ba là chẳng hiểu rõ đại thừa quảng trí, nghi Phật chẳng thể thật sự độ hết thảy chúng sanh, lại ngờ hết thảy chúng sanh niệm Phật chẳng phải đều được vãng sanh Tịnh Ðộ. Bởi thế, đối với A Di Ðà Phật bèn sanh ý tưởng suy lường.

* Bốn là chẳng hiểu rõ vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí, ngờ Phật chẳng đắc Nhất Thiết Chủng Trí. Do bởi nghi như thế nên đối với pháp môn niệm Phật chẳng thể chánh tín; do đó phải bị thai sanh.

Trong tác phẩm Tông Yếu, ngài Nguyên Hiểu lại viết:

‘Nếu người chẳng đoạn nổi bốn mối nghi đó thì dẫu sanh vào nước kia vẫn ở biên địa.

Nếu như có kẻ dẫu chẳng thể hiểu nổi cảnh giới của bốn trí vừa nói trên đây nhưng tự khiêm, tâm nhãn chưa mở nhưng ngưỡng mộ Như Lai, một bề tin phục thì những người như vậy sẽ tùy theo hạnh phẩm vãng sanh về cõi ấy, chẳng lạc vào biên địa.

Sanh vào biên địa là một loại riêng chẳng thuộc vào chín phẩm. Vì thế chẳng nên vọng sanh nghi hoặc’.

Lời luận này rất tinh xác, rất khẩn yếu. Nếu như tin hiểu được các trí của Như Lai thì là bậc thượng căn lợi trí; còn nếu chẳng tin hiểu nổi thì cứ giữ lòng rỗng rang, tự khiêm, tin kính, ngưỡng mộ các trí ấy thì cũng được vãng sanh, chẳng bị đọa vào nghi thành. Hành nhân Tịnh nghiệp nên đọc lại vài ba lần lời luận trên để thể hội sâu xa yếu chỉ ‘hư tâm ngưỡng tín’ ấy.

‘Nếu có chúng sanh đối với các trí ấy ngờ vực chẳng tin, nhưng vẫn tin tội phước, tu tập cội lành, nguyện sanh cõi ấy’ là nói về hạnh cảnh của kẻ bị sanh vào biên địa.

‘Tội phước’: ngũ nghịch, thập ác v.v… là “tội”; ngũ giới, thập thiện v.v… là “phước”. Chẳng kính tin nổi Phật trí, nhưng vẫn tin vào tội phước, nhân quả, thường tu lễ Phật, niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Do niệm Phật thật sự là căn bản của các điều thiện nên bảo là ‘tu các cội lành’. Hạng người như vậy tin phước chẳng tin trí, tin Sự nhưng lại mê nơi Lý nên bị đọa vào nghi thành.

Trích đoạn từ
Chú Giải Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
Vận Thành Hạ Liên Cư hội tập – Hoàng Niệm Tổ chú giải
Quyển Thứ Tư

Niệm Phật Nhưng Không Tin Chính Mình Sẽ Vãng Sanh Về Biên Địa

Niệm Phật Nhưng Không Tin Chính Mình Sẽ Vãng Sanh Về Biên ĐịaChánh kinh: Lại có chúng sanh tích tập thiện căn, mong cầu Phật trí, phổ biến trí, oai đức quảng đại bất tư nghị trí; đối với thiện căn của chính mình chẳng sanh nổi lòng tin nên đối với việc vãng sanh cõi Phật thanh tịnh, ý chí do dự, chẳng thể chuyên chú, nhưng do liên tục niệm Phật chẳng ngớt, kết thiện nguyện ấy thành căn bản nên vẫn được vãng sanh.

Giải: Ðoạn kinh này nói đến một loại hành nhân khác bị sanh về biên địa: tin tha mà chẳng tự tin mình.

Tin tha mà chẳng tin nổi tự thì chính là trí còn kém cỏi. Không có trí quyết định thì chẳng sanh nổi lòng tin quyết định cho nên ‘ý chí do dự, chẳng thể chuyên chú’. Tín nguyện chẳng vững thì chỗ mình y cứ [để tu tập] chẳng chuyên nhất nổi. Tuy vậy, vì hành nhân niệm Phật liên tục nên nương theo sức niệm Phật và sức phát nguyện bèn được vãng sanh, nhưng chỉ được sanh nơi biên địa.

Chánh kinh: Những người này do nhân duyên ấy tuy sanh về nước kia nhưng chẳng thể đến ngay chỗ Phật Vô Lượng Thọ mà chỉ ở trong thành bảy báu nơi biên địa của cõi Phật. Phật chẳng hề tạo ra như vậy nhưng do thân hạnh đã tạo [của hành nhân] nên tâm tự hướng đến [nơi ấy].

[Biên địa] cũng có ao báu, tự nhiên thọ thân trong hoa sen; thức ăn uống, các thứ khoái lạc như trên trời Ðao Lợi. Ở trong thành ấy, chẳng ra ngoài được. Nhà cửa ở ngay trên mặt đất, chẳng thể lớn nhỏ tùy ý muốn. Trong năm trăm kiếp, thường chẳng thấy Phật, chẳng nghe kinh pháp, chẳng thấy Bồ Tát, Thanh Văn thánh chúng.

Người ấy trí huệ chẳng sáng suốt, biết kinh càng ít hơn nữa. Tâm chẳng khai giải, ý chẳng vui sướng. Bởi thế, gọi đó là thai sanh.

Giải: Chữ ‘những người này’ chỉ hai loại người vãng sanh về biên địa đã nói ở trên.

‘Do nhân duyên ấy’ là do cái nhân tu thiện niệm Phật, phát nguyện cầu sanh nên cảm được chốn Biên Ðịa cõi Cực Lạc, sống trong cung điện bảy báu, ao báu, hoa sen, vui thú như ở trên trời Ðao Lợi và hưởng cái quả bất thối. Nhưng vì phạm lỗi nghi hoặc nên phải cảm lấy cái quả ‘chỉ ở nơi biên địa của cõi Phật’, sống trong nghi thành chẳng thoát ra được. Trong năm trăm kiếp chẳng được thấy nghe Tam Bảo.

Những điều như thế đều chỉ là do tâm tạo, do nghiệp lực dắt dẫn nên Phật bảo: ‘Phật chẳng hề tạo ra như vậy nhưng do thân hạnh đã tạo [của hành nhân] nên tâm tự hướng đến [nơi ấy]’. Ðây chính là điều kinh Hoa Nghiêm đã dạy: ‘Nên quán pháp giới tánh, hết thảy chỉ là do tâm tạo’. Ấy là vì tâm sanh thì các pháp sanh: địa ngục, thiên đường hay Tịnh Ðộ đều chỉ do tâm biến hiện. Thân mình hướng đến đâu cũng đều do nghiệp lực của chính mình lôi kéo. Nghiệp do tâm sanh nên bảo là ‘tâm tự hướng đến’.

Sanh trong biên địa cũng ‘tự nhiên thọ thân trong ao hoa sen báu’ nên chẳng phải là kiểu thai sanh như trong thế gian mà thật sự là liên hoa hóa sanh. Sanh sống khoái lạc như ‘trời Ðao Lợi’, nhưng ở miết trong ấy chẳng ra được ngoài. Chốn họ cư ngụ là ngay trên mặt đất, chẳng thể thăng lên hư không; nhà cửa cũng chẳng thể tùy ý hóa ra cao và to theo ý muốn.

Ðiều tệ nhất là trong cả năm trăm năm chẳng được thấy Phật, nghe pháp. Về ‘năm trăm năm’, bản Hán dịch chép rõ là ‘năm trăm năm trong cõi này’. Kinh chép ‘cõi này’ chứ không ghi là ‘cõi kia’, nên chữ ‘cõi này’ phải là cõi đức Thế Tôn đang thuyết pháp (tức là cõi Sa Bà). Vì lẽ đó, ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Năm trăm năm là số năm trong thế gian này’, nghĩa là con số năm trăm năm vừa nói đó là năm trăm năm so với kiếp sống con người hiện tại.Nhưng ta chẳng thể chấp nhất định rằng năm trăm ấy chính là năm trăm năm trong cõi trần gian này bởi vì phẩm số trong Cực Lạc là vô lượng nên phẩm số trong cõi Biên Ðịa cũng sai biệt vô lượng. Chẳng hạn như trong Quán kinh bảo trung phẩm hạ sanh thì ‘ở trong hoa sen trọn mười hai đại kiếp thì hoa sen mới nở’. Ðấy là cả một thời gian dài.

Trích lục
Chú Giải Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
Vận Thành Hạ Liên Cư hội tập – Hoàng Niệm Tổ chú giải – Như Hòa dịch Việt

Niệm Phật Tiêu Nghiệp Chướng

Niệm Phật Tiêu Nghiệp ChướngKinh nói: “Niệm một câu A Di Đà, tiêu 80 vạn ức kiếp tội lớn nơi đường sanh tử. Hằng ngày trong mọi nơi mọi lúc, đi xe đi tàu, rửa chén quét nhà đều có thể niệm Phật dễ dàng, lâu ngày thuần thục, nghiệp chướng tự tiêu.”

Phẩm “Hạt muối” trong tăng chi bộ kinh có ví dụ rằng “Một người dân đen đánh trộm một con dê của một nhà giàu có thế lực, có thể bị đánh đập đổ máu tại chỗ và bị tù tội. Nhưng một đại quan của triều đình bắt trộm con dê của nhà giàu có thế lực ấy thì không bị đánh đập, cũng không tù tội. Ví như một nắm muối thả vào một hồ nước lớn hay con sông lớn thì độ mặn không đáng kể, nhưng nếu nắm muối ấy cho vào một ghè nước thì độ mặn lại đáng kể. Cũng thế, cùng phạm một tội, với người tâm tư bỏn xẻn không tu tập giới định tuệ thì kết quả có thể đi vào địa ngục, nhưng với người có tu tập giới định tuệ, có từ tâm rộng rãi thì kết quả xem như không có”. Người niệm Phật, tức là đang tu giới định tuệ mà thường rải tâm từ cứu độ chúng sanh thì nghiệp chướng bao đời đều tiêu hết.

Trích Di Đà Huyền Chỉ
Kim Đài

Không Về Cực Lạc Còn Về Nơi Đâu?

Không Về Cực Lạc Còn Về Nơi Đâu?So sánh cõi Ta Bà với cõi Cực Lạc:

Chúng sanh cõi Ta Bà

1. Thân máu mủ hôi dơ từ thai ngục chui ra

2. Mỗi người tạo nghiệp khác nhau, tướng mạo xấu xí, các căn không đủ.

3. Toàn là chịu khổ. Nếu có chút vui, ấy là lấy khổ làm vui, các khổ đó là:

– Khổ về sanh: từ tử cung xú uế chui ra.

– Khổ về già: thân thể suy hao, tóc bạc da nhăn.

– Khổ về bệnh: thân thể do đất nước lửa gió hợp thành, giả hợp bất thường.

– Khổ về chết: cuộc sống mong manh, cái chết thình lình.

– Khổ về ân tình chia cách: Sợi dây ân tình cha mẹ vợ con khó dứt.

– Khổ về oan gia gặp gỡ: những kẻ thù ghét thường hay gặp gỡ.

– Khổ vì cầu không được: sự nghiệp khó thành, công danh thất bại.

– Khổ vì năm ấm bức bách: thân tâm nhiễm ô, tham dục lẫy lừng.

4. Trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi:

Người có tu, nếu được chút ít định lực rồi cũng thối thất, đâu dám mong đến đạo Bồ đề.

5. Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi:

Giành giựt vật lộn với đời, rất nhiều kẻ sống lang thang, không tạo được một mái nhà. Kẻ ở vỉa hè, người nằm xó chợ, xin ăn đầy dẫy, mù điếc bơ vơ.

6. Sống trong vô minh tăm tối:

Tham dâm, sân hận, si mê, chấp thân này là thật, các căn lẫy lừng như núi lửa chờ phun, vọng tưởng, phóng túng, không lúc nào ngừng nghỉ, thường sống theo ác kiến: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ.

7. Thường gây chiến tranh để giành giựt của cải địa vị, vì quyền lợi mà giết hại lẫn nhau.

Đại chúng cõi Cực Lạc

1. Thân kim cương bền chắc từ hoa sen báu hóa sanh.

2. Đủ 32 tướng tốt, đồng xinh đẹp như nhau.

3. Đều hưởng sự vui, không có các khổ

– Không sanh khổ, vì từ hoa báu trí giác hóa sanh.

– Không lão khổ vì là thân kim cương không biến hoại theo thời gian.

– Không bệnh khổ vì là thân na la diên bền chắc.

– Không tử khổ vì thọ mạng vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, đồng với thọ mạng Phật Vô Lượng Thọ.

– Không có cha mẹ vợ con nên không bị khổ về ân tình chia cách.

– Được các bậc thượng thiện nhơn dắt dìu giúp đỡ, nên không bị khổ về oan gia hội ngộ.

– Cầu chi được nấy nên không bị khổ về đau buồn thất vọng.

– Vì là thân hóa sanh nên rất uyển chuyển linh động, do đó dứt được thân kiến vì tâm thanh tịnh, nên không bị khổ về năm ấm lẫy lừng.

4. Vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi vì đều vào bậc bất thối, tiến lên địa vị Phật.

5. Thọ dụng tự nhiên: cung điện bằng bảy báu tự nhiên hiện thành. Muốn mặc có mặc, muốn ăn có ăn, y phục bát đĩa và thức ăn tự hóa hiện ra theo ý của mình. Nếu muốn cúng dường, đồ cúng tự hiện.

6. Trí tuệ sáng suốt, biện tài vô ngại. Dứt tham sân si, không còn thân kiến, các căn thanh tịnh, không vọng duyên phóng dật. Được năm thứ thần thông: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông.

7. Trụ ở bậc chánh định, không còn thối chuyển nơi đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, phân thân khắp mười phương thế giới làm lợi ích quần sanh.

Cảnh duyên cõi Ta Bà

1. Có đủ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

2. Hầm hố, gò nỗng, rừng rậm, chông gai.

3. Thời tiết đổi dời, nóng lạnh bất thường. Hay bị tai nạn nước lụt, hỏa hoạn, bão tố, động đất.

4. Các ma cùng ngoại đạo não loạn người tu.

5. Lời ái véo von, sắc dâm khêu gợi, lò mổ, quán rượu, đảng cướp nhà dâm, ác thú muỗi mòng đâu đâu cũng có.

6. Song lâm đã khuất, Long Hoa còn xa.

7. Đèn quang minh đã tắt, chúng sanh sống mãi trong đêm dài tăm tối.

8. Quan Âm Thế Chí, chỉ được nghe danh các người chung quanh, tà sư bạn ác.

9. Đồ ăn thức uống bị nhiễm độc chất suy hao cơ thể.

10. Thọ mạng ngắn ngủi, tu tập dở dang.

Thắng duyên cõi Cực Lạc

1. Không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cả đến tên gọi ba đường ác này cũng không có.

2. Vàng ròng làm đất, cây báu vút trời, lầu chói trân châu, hoa đua bốn sắc.

3. Không có đêm ngày nóng lạnh, vĩnh viễn là thế giới trường xuân.

4. Phật hoá tinh thuần, ngoại ma tuyệt tích.

5. Không có người nữ. Nước, chim, cây, lưới, gió nhạc thường diễn pháp âm, nghe rồi liền được thanh tịnh.

6. Thường được thấy Phật, được nguyện lực của Phật nhiếp thọ gia trì.

7. Quang minh của Phật chiếu đến thân làm cho tâm Bồ đề kiên cố.

8. Thường được gần gũi các đức Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, các đại Bồ tát, thường được dắt dìu. Mọi người chung quanh đều là bậc thượng thiện.

9. Nước tắm, đồ ăn, thức uống đều làm cho căn lành thêm lớn.

10. Thọ mạng vô cùng, đồng với Phật và Bồ tát, an nhiên tu tập trải qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp.

Trên đây chỉ lược sơ so sánh đôi phần, hơn kém đã rõ, cốt giúp các bạn đồng tu chọn chỗ quy hướng cho đời mình, cùng phát tâm dự hội Liên Trì:

Tịnh Quang mãi ngóng con về.
Không về Cực Lạc, còn về nơi đâu?

Trích Di Đà Huyền Chỉ
Kim Đài

Cõi Này Tu Thiện Một Ngày Đêm Hơn Trăm Năm Làm Lành Nơi Cõi Tây Phương Cực Lạc

Cõi Này Tu Thiện Một Ngày Đêm Hơn Trăm Năm Làm Lành Nơi Cõi Tây Phương Cực LạcTrong pháp hội Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký trong kinh Bảo Tích có nói: ‘Nếu có chúng sanh ở trong cõi Phật ấy tu các phạm hạnh suốt cả ức trăm ngàn năm vẫn chẳng bằng ở trong thế giới Sa Bà này, chỉ trong khoảng thời gian khảy ngón tay khởi tâm từ bi đối với chúng sanh. Công đức người ấy đạt được còn nhiều hơn thế nữa. Huống hồ là trong một ngày một đêm trụ trong tâm thanh tịnh’.

Kinh Tư Ích cũng dạy: ‘Như người ở cõi tịnh trì giới suốt một kiếp; người ở cõi này thực hành lòng từ trong khoảnh khắc vẫn là tối thắng’.

Kinh còn dạy: ‘Ta thấy trong những cõi Hỷ Lạc và cõi An Lạc không có khổ não, cũng không có danh từ khổ não. Trong những cõi ấy mà làm các công đức thì chẳng đáng kể là lạ. Ở chốn phiền não này mà nhẫn được sự chẳng thể nhẫn, lại còn dạy người khác pháp này thì phước ấy mới là tối thắng’.

Kinh Thiện Sanh cũng nói: ‘Lúc Phật Di Lặc xuất thế, thọ giới suốt trăm năm cũng chẳng bằng [thọ giới] một ngày một đêm trong cõi ta. Vì sao vậy? Trong thời của ta, chúng sanh có đủ cả năm thứ nhơ bẩn. Này thiện nam tử! Bát Trai Giới đây chính là con đường dẫn tới trang nghiêm vô thượng Bồ Ðề’.

Tôi dẫn nhiều kinh như trên nhằm chứng minh rằng trong cõi này, ngay trong khoảng ‘uống khổ, ăn độc, chưa từng yên nghỉ’ này mà hành nhân lại có thể trai giới thanh tịnh, nhẫn nhục, tinh tấn thì công đức của người ấy vượt xa những người khác trong các cõi Phật phương khác. Trong cõi này, tu hành dù ‘một ngày một đêm hơn cả làm lành suốt trăm năm trong cõi Phật Vô Lượng Thọ’, ‘trong mười ngày mười đêm hơn hẳn làm việc thiện suốt ngàn năm nơi các cõi Phật phương khác’.

Trích Chú Giải Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
Vận Thành Hạ Liên Cư hội tập
Hoàng Niệm Tổ chú giải
Như Hòa dịch Việt

Nhà Ngoại Cảm Phan Thị Bích Hằng Nói Về Cõi Âm Với Tộc Họ Phan [Video]

Nhà Ngoại Cảm Phan Thị Bích Hằng Nói Về Cõi Âm Với Tộc Họ PhanKhông nhằm mục đích khuyến khích sự mê tín dị đoan, thông qua bài nói chuyện giữa nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và dòng tộc họ Phan, chúng tôi một lần nữa muốn nhắn nhủ với các bạn sơ cơ rằng chết không phải là hết. Đạo Phật vốn chú trọng luật nhân quả mà phảng phất trong các câu chuyện của cô Hằng chúng ta càng nhận rõ hơn về vấn đề này: gieo nhân nào ắt gặp quả nấy. Như trong câu chuyện bà lão khi còn sống thích lừa người làm cho ăn phân trâu, đến khi nhắm mắt hài cốt khi tìm thấy lại nằm trong giữa bãi phân trâu. Hay câu chuyện khi sinh thời người dì cho đứa cháu nuôi ăn cơm với phân gián sau này chết đi hồn trở về đòi ăn cơm trộn lẫn phân gián… Những gì nhà ngoại cảm Bích Hằng “nhìn thấy” và kể lại giúp chúng ta có câu trả lời về những khúc mắc mà xưa nay chúng ta thường tự hỏi như chuyện thờ cúng, tập tục đốt vàng mã… Qua đó, người thật lòng tu đạo hãy lo tích phước lũy thiện ngay từ giờ phút này chớ để khi lâm chung e rằng quá muộn màng vì phải chịu quả báo khổ đau ở những đời sau.