Tại sao hành giả niệm Phật lâu năm nhưng không thấy nhiều tiến triển? Thượng toạ Thích Giác Đăng sẽ giải toả nhiều uẩn khúc trong tâm để giúp chúng ta niệm Phật tinh tấn và sớm đạt được kết quả hơn trên bước đường tu tập. đọc tiếp ➝
Niệm Phật mà không phát lòng Bồ Đề, thì không tương ứng với bổn nguyện của Đức A Di Đà Phật, tất khó được vãng sanh, thành tựu sở nguyện. Lòng Bồ Đề là tâm lợi mình, lợi người, trên cầu thành quả Phật, dưới nguyện độ chúng sanh “thượng cầu hạ hoá”, tế khổ quần mê.
Tuy phát lòng Bồ Đề mà không chuyên trì niệm Phật, không thành nhất phiến, thì không được vãng sanh. Nên các liên hữu cần phải lấy sự phát lòng Bồ Đề làm chánh nhân, niệm danh hiệu Phật làm trợ duyên, rồi sau mới cầu sanh Tịnh Độ. Người tu tịnh nghiệp (tu pháp niệm Phật) cần phải hiểu biết điều nầy thật sâu rộng, cần thiết phải vừa tu niệm vừa nghiên cứu nghiêm tầm giáo lý pháp môn tu càng thêm hiệu quả.
Trong đời mạt pháp, người phát tâm tu niệm Phật, vẫn có nghiệp trần dấy động, ma sự nhiễu dương, nguyên do bởi ba nguyên nhân : không rõ giáo lý, ít học kinh điển, nhất là pháp môn tu; không nhất tâm tìm cầu, phát tâm tu cho lấy lệ, để được ca tụng tán thán là Đại Sư Tịnh Độ, chỉ nghiên cứu xem chừng năm ba câu pháp, vội cho là người tu của pháp môn niệm Phật, do ngã mạn, nên không gặp thầy lành bạn sáng; thiếu tự tin, xem lại những hành động không tốt của mình, hay thích nói lỗi người, khoe khoang điều tốt của mình, hay chê Tông phái nầy khen Tông phái nọ, rốt cuộc mình không tu được ở đâu, ai nói hay cũng được, nói quấy cũng xong; họ có tu hành gì đâu mà nói hay nói quấy, biết gì mà nhận định, cuộc đời tu của họ không lúc nào tự soi xét lại chính mình, xem mình đã làm được gì, tu được gì, làm được gì cho Thầy Tổ, cho pháp môn, cho Phật pháp?
Với ba điều trên, sự tự xét chỗ sai lầm của chính mình là điều mà người liên hữu Tịnh Độ rất cần thiết trong lúc thực tập, hành pháp. Đại để muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, không phải dùng chút phước lành, chút công đức lơ là là được; muốn thoát sự khổ sống chếtn luân hồi trong muôn vạn kiếp, không phải dùng tâm dần dà, hẹn hò, hứ khả, rồi lo rong chơi du hý, không lo tự cảnh tỉnh, trở về với cuộc sống hiện thực để có cơ hội tìm cầu giải thoát, vãng sanh Tây phương theo sở nguyện ban đầu! Họ đâu rõ chiếc bóng vô thường cô liu lặng lẽ, mới sớm mai thấy đó, rồi hoàng hôn phủ mất đó, đâu nên không siêng năng lo dự phòng giữ tịnh tâm gìn chánh niệm trước ư?
Còn e sức chí nguyện không thắng nổi sức tình ái trong tam giới buộc ràng. Lúc bấy giờ tâm niệm Phật không hơn nổi tâm dục trần, như những kẻ niệm Phật, tu nhơn hạnh kém, lơ là biếng trể, nữa tin nữa nghi ngờ pháp Phật, thì ta cũng đành không biết làm sao vậy.
Đại Sư có bài kệ khuyến tấn :
Nam Mô A Di Đà,
Người nào không biết niệm?
Tuy niệm, chẳng tương ưng
Mẹ con khó hội kiến
Khi đi đứng ngồi nằm
Đem tâm nầy thúc liễm
Mỗi niệm nối tiếp nhau
Niệm lâu thành nhứt phiến
Như thế, niệm Di Đà
Di Đà tự nhiên hiện
Quyết định sanh Tây phương
Trọn đời không thối chuyển
Niệm Phật cần phải có niềm tin sâu nguyện thiết, như Đại Sư Tĩnh Am từng khuyến tấn : đi đứng nằm ngồi luôn gìn chánh niệm, hoặc kiết thất thực tập thúc liễm thân tâm, hoặc kinh hành vào đại định, lực Phật gia trì thành nhứt phiến, như kim cang bền chắc, một đời không thối chuyển, niềm tin yêu pháp môn, lục độ vạn hạnh ảnh hiện, lợi ích khắp mười phương, chúng sanh nương nhờ oai đức, làm bạn thánh hiền, dự hội hải chúng liên trì nơi thế giới Tây phương mầu nhiệm.
Cảnh Ta-bà thời ngắn khổ,
Cõi trời vui sướng nhưng không bền,
Miền Cực lạc thuần vui lại bất thối,
Thế nên Cực lạc quyết được về!
Người mới học đạo, nhẫn lực chưa thuần nên phải mượn tịnh duyên để giúp phần tinh tiến. Bởi ở cõi Ta-bà Phật Thích-ca đã nhập diệt, Ðức Di-lặc chưa giáng sanh; miền Cực lạc thì đấng Từ phụ A-di-đà hiện đương thuyết pháp. Với đức Quán Âm, Thế Chí và vô số bậc thượng thiện nhân đều là bạn tốt.
Ở Ta-bà các loài ma nổi dậy, làm não loạn người tu; trái lại, nơi cõi Cực lạc trong ánh đại quang minh đâu còn ma sự! Ở Ta-bà dễ bị tiếng tà quấy loạn, sắc đẹp mê tâm; miền Cực lạc thì chim nước rừng cây đều tuyên diệu pháp, chánh báo thanh tịnh, đâu có nữ nhân! Thế thì duyên tu hành thuận tiện đầy đủ không đâu hơn cõi Tây phương.
Sự vui ở Cực lạc mầu nhiệm không cùng, đâu phải chỉ như cảnh chùa thanh tịnh. Vì vậy, xuất gia là tốt mà không chịu cầu vãng sanh, đó là điều lầm thứ nhất.
Nguyện tham phỏng bậc tri thức mà không muốn thấy Phật, là điều lầm thứ hai.
Muốn gần gũi chùa lớn mà không mến hải chúng thanh tịnh ở Tây phương là điều lầm thứ ba.
Người ở Tây phương thọ mạng không lường, một khi gởi chất nơi hoa sen thì không còn sự khổ sanh già bệnh chết. Ở nơi đây tu hành tiếp tục mãi cho đến khi chứng quả Bồ-đề. Cam chịu luân chuyển ở cảnh Ta-bà ngắn khổ, mà quên miền Cực lạc trường xuân, đó là điều lầm thứ tư.
Thế nên những người chẳng tin lời Phật, khinh rẻ sự cầu sanh Tịnh độ há chẳng phải là mê lầm ư? Than ôi! Người không biết lo xa ắt có sự buồn gần, một khi mất thân này muôn kiếp đành ôm hận, chừng ấy hối sao cho kịp!
Vĩnh Gia Thiền sư nói: Người tu phước sanh lên cõi trời sẽ chiêu vời quả khổ ở tương lai, như bắn mũi tên lên hư không, khi sức đã mãn tên lại rơi xuống đất.
Trong kinh có lời: Chư Thiên cõi Dục vì cảnh ngũ dục quá thắng diệu dồi dào làm cho say mê, lại không có sự thống khổ làm cho thức tỉnh, nên khó phát tâm chịu nhọc, chịu khổ mà tu hành đạo hạnh. Vì hưởng phước vui mãi mà không tu, tất có ngày hết phước phải sa đạo. Còn chư Thiên trong cõi Sắc và Vô sắc lại vì mãi an trụ trong cảnh giới thiền định, khó tấn tu đạo giải thoát. Lúc sức thiền định đã mãn, vẫn y nhiên trở lại luân hồi.
Do đó, sanh lên cõi trời thời không bảo đảm giải thoát.
Người tu phước sanh trở lại cõi người, dầu cho thân người đời sau của ta do căn lành mà ở ngoài những chướng nạn (tàn tật, ngoại đạo, tà giáo, không gặp Phật, không nghe đặng pháp, v.v…) nhưng theo lời Phật, Phật pháp càng ngày càng đi sâu vào thời mạt, bậc minh sư, thiện hữu chân chánh tu hành có đạo đức tất là khó có, khó gặp. Thầy bạn giải thoát đã không, ai là người dẫn đường cho ta đắc đạo. Lại đương nhằm kiếp giảm, tuổi thọ con người càng lúc càng bớt lần, đời sau tu học chưa được gì rồi kế chết, đời thứ ba, thứ tư sẽ ra thế nào? Ta sẽ đi vào đâu?
Lại nữa, Phật đã nói: “Chúng sanh được thân người như đất dính móng tay, còn sa vào ác đạo như đất toàn cõi đại địa”. Sau khi bỏ thân này, ta dám cả quyết là không đi xuống ư?
Thế là dầu được sanh làm người trở lại cũng không thể bảo đảm là sẽ giải thoát.
Lại còn e rằng một bước trật chân chắc chắn là lăn xuống đến hố sâu. Ðây là điều đáng lo sợ cho đời sau mãi mãi phải bị trầm luân.
Vậy chúng ta phải quyết tâm tấn tu để kịp lo sao cho được giải thoát, và phải giải thoát nơi đời hiện tại này mà thôi.
Sự lợi ích hiện thế về pháp môn niệm Phật
Hòa Thượng Hồng Đạo
Lưỡng thế đốn khai sanh tử lộ
Nhứt thân tằng tác cổ kim nhơn
Nghĩa là:
Một thân từng diễn người kim cổ
Ðôi kiếp mở liền lối tử sanh
Chỉ 2 câu ngắn gọn thôi nhưng sau khi nghe qua đã khơi động trong tâm tư chúng ta một niềm cảm khái. Bởi lẽ từ vô thỉ kiếp đến nay chúng ta đã từng diễn người kim cổ xưa và nay, bản thân mình từng trôi dạt thăng trầm lên xuống trong 3 cõi, trong 6 đường: trời, người, A tu la, ngạ quỷ, súc sanh, và địa ngục. Sự xoay vần lên xuống thăng trầm đó không dừng cũng không dứt, cho nên trong Phật giáo đã mượn hình ảnh biểu tượng của bánh xe. Bánh xe này cứ xoay vòng để diễn tả nói lên sự sinh tử lên xuống của chúng sinh. Trong danh từ chuyên môn của Phật giáo gọi là luân hồi. Luân là bánh xe, hồi là xoay vần (vòng). Xoay vần lên xuống, xuống rồi lên. Nổi trôi trong 6 nẻo mà chúng ta gọi là lục đạo luân hồi. Không biết tự bao giờ ta thường đặt câu hỏi: Sanh tùng hà tứ lai? Tử tùng hà tứ khứ? Nghĩa là: Sanh từ nơi nào đến? Chết sẽ đi về đâu? Câu hỏi ấy cũng là niềm khắc khoải của không biết bao nhiêu người từ ngàn xưa mãi cho đến ngày nay… Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu qua chủ đề Niệm Phật Chấm Dứt Sự Luân Hồi.
Thế giới chúng ta đang sống đây, Đức Phật gọi là Thế giới Ta Bà. Thế giới Ta Bà này đầy dẫy những nguy hiểm và bất an. Con người SINH ra rồi nhận lấy bao nhiêu là nỗi khổ của cuộc đời, người giàu cũng khổ, người nghèo lại càng khổ hơn…
Thời gian thấm thoát trôi qua chưa làm được gì cho đời thì tuổi GIÀ đã vội đến, tai điếc mắt mờ, chân chùn gối mỏi… Người già ắt phải BỆNH, nói già mới bệnh chứ thực tế vừa mới sinh ra đã mắc phải bao nhiêu là thứ bệnh khổ trên đời rồi, đâu đợi tới già, bệnh tật thì muôn vàn khổ đau, quằn quại, khủng khiếp nhất là đọc tiếp ➝
Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam nói về việc giới sát phóng sinh như sau: “Chúng sinh từ xưa nay không dứt nổi nghiệp giết hại, ai ai cũng phạm vào việc sát sinh. Sát sinh có thể chia làm hai loại: Một là trực tiếp, hai là gián tiếp. Trực tiếp là tự mình giết hại chúng sinh, cắt xẻo lấy da thịt mà làm thức ăn. Gián tiếp là vì mình ăn thịt chúng sinh nên khiến cho người khác phải làm việc giết hại để phục vụ mình.
“Cái nhân tạo ra của hai loại sát sinh này tích tụ lâu ngày, gặp duyên thì kết thành cái quả của nạn đao binh, chiến tranh. Có người cho rằng, muốn cứu vãn nạn chiến tranh thì phải làm nhiều việc thiện như sửa cầu, làm đường… Lời nói như vậy không thể tin cậy được. Bởi vì nay phải chịu nạn đao binh chẳng phải do cái nhân quá khứ phá hoại cầu cống, đường sá. Nay muốn lấy việc làm đường, sửa cầu cống mà giải trừ, thì là hai việc hoàn toàn khác nhau.
“Tôi xin đem phương pháp phóng sinh đơn giản nói với các vị: Trước tiên phải gia trì chú Đại bi vào một ly nước sạch, rồi rưới lên mình chúng sinh được phóng sinh, miệng niệm bài sám hối như sau:
Chúng con xưa nay tạo ác nghiệp
Đều do ba độc tham, sân, si
Từ thân, miệng, ý mà sinh ra
Nay đối trước Phật cầu sám hối.
“Sau khi niệm như vậy ba lần rồi, lại vì những súc sinh ấy mà niệm Tam quy y:
Quy y Phật
Quy y Pháp
Quy y Tăng
Quy y Phật không đọa địa ngục
Quy y Pháp không đọa ngạ quỷ
Quy y Tăng không đọa súc sinh
“Tại sao đối với chúng sinh phải nói Tam quy y? Bởi vì tất cả chúng sinh đều có hai cái mạng: Một là thân mạng, hai là huệ mạng. Phóng sinh chẳng những cứu lấy thân mạng, mà cũng nên cứu lấy cái huệ mạng của chúng. Nói Tam quy y cho chúng nghe là tạo nhân lành cho chúng, nếu nghe mà nhận được thì đời sau sẽ không phải rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu được thân người thì có thể phát tâm Bồ-đề, tin sâu Phật pháp, sẽ có khả năng thành Phật. Đây tức là cứu cái huệ mạng của chúng.”
Pháp sư Viên Nhân dạy rằng: “Tật bịnh, ung thư, tai nạn… sở dĩ có thể bất hạnh sinh ra là duyên nơi nghiệp giết hại trước kia chúng ta đã tạo nên mà chiêu cảm lấy quả báo này. Phương thức giải quyết chính là phóng sinh. Nhờ vào việc bỏ tiền, bỏ sức để cứu mạng phóng sinh nên có thể đền trả vô số món nợ sát sinh trước kia mà chúng ta đã thiếu.
“Điều quý báu nhất của mỗi chúng sinh đều là mạng sống. Giết hại chúng thì chúng oán hận nhất, oan cừu kết sâu nhất, cho nên nói nghiệp giết hại là nặng nhất. Ngược lại, cứu sống được chúng thì chúng cảm kích nhất, tạo được nhiều phước thiện nhất, cho nên nói công đức phóng sinh là đệ nhất.
“Những ai phê phán, hủy báng việc phóng sinh, hoặc cản trở nghi ngờ việc phóng sinh cần phải lưu ý. Vì cản trở người phóng sinh thì cũng giống như sát sinh, khiến cho hàng ngàn hàng vạn sinh mạng không được giải cứu, phải hàm oan mà chết. Tội lỗi đó thật là vô lượng vô biên. Nhất định phải gấp rút sám hối, sửa lỗi, nếu không thì khổ hình nơi địa ngục nhất định không tránh khỏi.”
Trích lục từ Phóng Sanh Vấn Đáp của PS Viên Nhân
Giọng đọc của cư sĩ Thanh Trí
Các Phúc Đáp Gần Đây