21 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Niệm Phật là một phương pháp tu tập rất quen thuộc với người học Phật ở Việt Nam chúng ta. Pháp môn Niệm Phật còn được gọi là pháp môn Tịnh độ. Nó quen thuộc đến độ hễ nghe nhắc đến pháp môn Niệm Phật là người ta nghĩ ngay đến phương pháp trì niệm Hồng danh Đức Phật A Di Đà.
Trong nhiều pháp môn tu thì đây có thể nói là một pháp môn dễ hành trì và hành giả có thể cảm nhận được sự lợi ích từ pháp tu của mình ngay trong hiện tại cũng như trong tương lai. Trong kinh Niệm Phật Ba-la-mật, Bồ tát Quán Thế Âm đã xác quyết rằng: “Pháp Niệm Phật tam muội là pháp thành Phật, là pháp chứng Vô thượng giác, là pháp thâm nhập cảnh giới bất tư nghì của chư Phật, là pháp mở bày tỏ ngộ tri kiến Như Lai, là pháp cứu độ tất cả mọi chúng sanh, là pháp siêu việt trên hết thảy hý luận cùng thiên kiến của nhị thừa”.
Trong xã hội hiện tại, theo như trong kinh điển gọi là thời mạt pháp, có rất nhiều chướng duyên, con người phần nhiều thường hay giãi đãi, hay thối thất chí nguyện hướng thiện và hướng thượng của mình, cho nên có thể nói rằng tu tập pháp môn Niệm Phật là phù hợp hơn cả. Như Thiền sư Thiên Như đã dạy: “Ðời mạt pháp về sau, các kinh sách đều bị tiêu mất hết, chỉ còn lưu lại bốn chữ A Di Ðà Phật để cứu độ chúng sinh mà thôi”. Qua đó cho chúng ta thấy pháp môn Niệm Phật có vai trò quan trọng và có sức ảnh hưởng sâu rộng đến mức nào. Sở dĩ pháp môn Niệm Phật có được sức ảnh hưởng lớn như vậy là vì nó đem lại nhiều lợi ích cho hành giả ngay trong giờ phút hiện tại và cả trong tương lai.
Trước hết, người niệm Phật sẽ có được sự an lạc, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Ngay trong lúc chúng ta chuyên tâm trì niệm Hồng danh Đức Phật Di Đà, tâm không còn chạy theo những ý niệm bất thiện, những tư tưởng loạn động, không còn bị những tâm niệm tham lam, sân hận và si mê quấy nhiễu. Tâm của chúng ta ví như một căn phòng, và trì niệm Hồng danh Đức Phật là thắp lên trong căn phòng tâm thức của chúng ta một ngọn đèn, khi ánh đèn sáng tỏ đã được thắp lên thì bóng tối trong gian phòng ấy sẽ tự nhiên bị đẩy lùi, bị tiêu mất. Hơn nữa, khi ta niệm Phật thì tâm trí không còn nhớ nghĩ đến những điều xấu xa, miệng và thân không tạo ra nghiệp ác. Một giờ niệm Phật, là một giờ không tạo nghiệp bất thiện; một ngày chuyên niệm Phật, thì trong ngày đó chúng ta tránh được các nghiệp ác. Không tạo các nghiệp ác cũng đồng nghĩa là tâm không bị giày vò bởi những lo âu, phiền muộn, do vậy mà chúng ta cảm thấy hạnh phúc, an vui.
Hơn nữa, khi lòng của chúng ta được an tĩnh thì tâm trí thường sáng suốt, minh mẫn. Nhờ vậy mà chúng ta phát huy được khả năng sáng tạo của mình đồng thời có thể đưa ra được những giải pháp đúng đắn, phù hợp để giải quyết những vấn đề khó khăn trong đời thường cũng như trong công việc. Vả lại, khi tu tập pháp môn Niệm Phật, chúng ta tưởng nhớ đến Đức Phật, đến những công hạnh của Ngài, quán chiếu về những phẩm tính cao quý của Ngài, những thứ đó sẽ dần dần thẩm thấu vào trong tâm thức, từ từ chuyển hóa những ý nghĩ, hành động và lời nói của chúng ta theo chiều hướng thiện lành. Nhờ vậy mà thân tâm được thanh lọc dần dần, và những phẩm hạnh cao quý được trưởng dưỡng ở trong ta. Hay nói cách khác, tu tập pháp môn Niệm Phật sẽ giúp chúng ta hoàn thiện bản thân mình, xây dựng cho mình một nhân cách đạo đức tốt, có được một cuộc sống hiền lương, thánh thiện.
Bên cạnh đó, tu tập pháp môn Niệm Phật sẽ làm vơi đi tâm sầu muộn. Trong những lúc buồn phiền, đau khổ, trong khi gặp nghịch cảnh như: lúc tử biệt sinh ly, lúc con cái hư hỏng, nhà cửa tiêu tan, kinh tế suy thoái, vợ chồng bất hòa, bạn bè phụ bạc, v.v… nếu chúng ta niệm Phật thì những điều buồn phiền, đau khổ ấy sẽ dần dần vơi đi. Vì khi niệm Phật, chúng ta không còn nhớ nghĩ đến những điều đau buồn ấy nữa. Hơn nữa, khi niệm Phật như thế, chúng ta tưởng nhớ đến đức hạnh của Ngài, những giáo lý Ngài đã dạy như là Vô thường, Tứ đế, Nhân quả,… thì sẽ có một cách nhìn nhận mới đối với những khổ đau, phiền muộn của chúng ta. Nhờ vậy mà ta không còn bị chi phối nhiều bởi những khổ đau, phiền muộn ấy nữa.
Không những thế, niệm Phật còn là một phương pháp an tâm rất hiệu quả. Những lúc bị lo âu, hồi hộp và bất an, để trấn an bản thân thì chúng ta nên niệm Phật, đưa tâm của mình về với câu Phật hiệu, nhờ vào sự nhất tâm trì niệm của bản thân cộng với sự gia trì của chư Phật, chúng ta dễ dàng tìm lại được sự an tĩnh. Đây là một điều lợi ích rất thiết thực của pháp môn Niệm Phật. Dù là ai đi nữa, nếu biết dùng câu Phật hiệu để tìm lại sự an tĩnh của tâm hồn thì đều dễ dàng đạt được kết quả như ý muốn. Cũng chính vì lợi ích này mà đôi khi có những em nhỏ đã đến với đạo Phật, biết đến câu Phật hiệu một cách rất dễ thương, rất hồn nhiên. Các em nhỏ thường hay sợ ma, nhất là đi vào những đoạn đường tối tăm một mình vào ban đêm. Thế nhưng vì hoàn cảnh, vì công việc mà buộc các em phải đi qua con đường đó chứ không còn con đường nào khác. Trong trường hợp như thế, có những ông bà, cha mẹ đã chỉ dạy các em niệm Phật. Họ bảo rằng, những lúc sợ ma, những lúc cảm thấy lo âu thì con nên niệm Phật, Đức Phật sẽ che chở cho con, gia hộ cho con thoát khỏi mọi hiểm nguy. Hoặc là lúc các em đi thi, các em cũng thường bị hồi hộp, bất an, để giúp con mình giữ được bình tĩnh, có những bậc phụ huynh đã dạy cho các em niệm Phật để lấy lại bình tĩnh, để được chư Phật gia hộ. Với niềm tin rất mộc mạc, dễ thương như thế, các em đó đã niệm Phật, để tìm lại sự an ổn cho tâm hồn. Như vậy, câu Phật hiệu đã trở thành một phương tiện hữu hiệu dẫn dắt các em vào đạo, hướng các em đến với con đường chân thiện mỹ.
Cùng với những ích lợi trên, tu tập pháp môn Tịnh độ còn giúp cho hành giả có được sự bình tĩnh trước những chướng duyên trong cuộc sống, và nhất là có được sự an định trong giờ phút lâm chung. Cận tử nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong sự tái sinh, sau khi kết thúc sinh mạng trong hiện tại. Người thiếu tu tập thì tâm thường rất hoảng loạn trong giờ hấp hối, khi đối mặt với tử thần, vì họ không biết mình sẽ đi đâu, về đâu, họ không nỡ dứt bỏ trần duyên, không đành từ bỏ những người thân yêu của mình, lại bị sự đau đớn, dày vò của thể xác nữa. Sự hoảng loạn và bám víu ấy sẽ khiến cho họ phải bị thác sinh vào những cảnh giới không mấy tốt đẹp. Nếu là người đã từng chuyên tâm tu tập pháp môn Niệm Phật, đã từng niệm Phật với niềm tin sâu sắc, với tâm nguyện chí thành, và với sự thực tập chuyên nhất thì trong giờ hấp hối lòng họ không hề nao núng, không chút hoảng loạn, vì họ hiểu rõ tính giả tạm của cuộc sống và tin chắc rằng họ sẽ được Đức Phật Di Đà phóng quang tiếp dẫn về thế giới Cực lạc.
Câu Phật hiệu còn là điểm tựa tinh thần vững chắc nhất cho những người có niềm tin vào Tam bảo, niềm tin vào tha lực gia hộ và che chở của Đức Phật A Di Đà khi họ rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng, không còn biết trông cậy, tin tưởng vào ai, không còn làm chủ được tình huống khi lực bất tòng tâm. Chẳng hạn như khi người thân của mình đang lâm trọng bệnh, chưa biết sống chết thế nào, khi họ phải đối mặt với tử thần. Trong những lúc ấy thì câu Phật hiệu là một liều thuốc vô giá đối với họ. Đặc biệt vào những lúc như thế thì mọi người thường niệm Phật vô cùng tha thiết và chí thành. Chính vì vậy mà chẳng những bản thân người niệm Phật được an tâm mà người thân của họ cũng được Phật lực gia hộ.
Còn có một điều lợi ích nữa của sự tu tập pháp môn Niệm Phật, đây cũng là mục đích chính yếu và lợi ích cao quý nhất của pháp môn này, đó là người tu pháp môn Niệm Phật đúng cách sau khi kết thúc đời sống hiện tại sẽ được vãng sanh về cõi Cực lạc. Vãng sanh Cực lạc thì chúng ta không còn phiền não, không bị bệnh tật, già yếu, lại còn được hưởng những niềm phúc lạc vô biên, và còn có điều kiện tốt, môi trường và hoàn cảnh tốt, bạn tốt để tu hành, chứng đạt quả vị giải thoát, giác ngộ, để rồi từ đó có đủ năng lực giáo hóa chúng sanh trong khắp mười phương.
Pháp môn Niệm Phật có những lợi ích thiết thực và cao đẹp như thế, cho nên Đại sư Ưu Đàm đã viết bài thơ để khuyến tấn mọi người rằng:
Đống xương sanh tử dường non cả,
Giọt lệ chia ly nước biển đầy!
Thế giới ngày kia rồi cũng hoại,
Đời người khoảnh khắc chớ mê say.
Cái thân nam nữ ngàn phen đổi,
Mà kiếp sừng lông vạn lúc thay.
Muốn khỏi luân hồi nhiều khổ hận,
Phải tu Tịnh độ gấp khi này.
Minh Nguyên
(Theo Giác Ngộ Online)
20 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Nỗi thao thức trong mỗi chúng ta là làm sao giải quyết được sinh tử bởi vì còn sinh tử thì chúng ta cứ mãi trôi lăn trong vòng luân hồi của lục đạo hết sức khổ sở. Vì sinh tử, chúng ta cứ mãi vô ra trong bào thai đầy hôi tanh máu mủ, nhơ nhớp của người mẹ, có khi nằm trong bào thai của con chó, con heo, con cá v.v… cứ mãi quay đi lộn lại trong vô lượng kiếp như vậy, thật là ghê rợn.
Vì sinh tử mà làm đảo lộn luân thường đạo lý, ví dụ như cha lấy con, con lấy cha, mẹ lấy con, con lấy mẹ, chị lấy em, cầm dao giết con vật để ăn, không ngờ ta giết cha mẹ, anh, chị, em, thân bằng quyến thuộc đọc tiếp ➝
20 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Hành giả nghi rằng: Nhớ niệm Phật A Di Đà, không chắc được vãng sanh về An Lạc. Vì sao? Trong kinh nói: “Đạo lý của nghiệp như quả cân bên nào nặng sẽ kéo nghiêng về bên đó”.
Vì sao có người trọn đời, hoặc trăm năm, hoặc 10 năm, hoặc một tháng không có ác nào không tạo, chỉ nhờ có 10 niệm liên tục, liền được vãng sanh, liền vào chánh định tụ, cứu kính không thối chuyển, cùng các khổ của ba đường ác cách xa vĩnh viễn.
Nếu như thế cái nghĩa phía nặng kéo về làm sao có thể tin. Lại nữa, từ vô lượng kiếp đến nay, tạo đủ các pháp hữu lậu, bị ràng buộc vào ba cõi, vì sao không cắt đứt kiết hoặc của ba cõi, chỉ trong thời gian rất ngắn niệm Phật A Di Đà liền được ra khỏi ba cõi. Như thế nghĩa bị nghiệp trói buộc làm sao giải thích được? Đối trị với điều nghi này nên Phật dạy: Trí không thể nghĩ bàn. Trí không thể nghĩ bàn là năng lực của Phật trí. Năng lực này có thể lấy ít làm nhiều, lấy nhiều làm ít, lấy gần làm xa, lấy xa làm gần, lấy nhẹ làm nặng lấy nặng làm nhẹ, lấy dài làm ngắn lấy ngắn làm dài.
Phật trí như thế vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Ví như, có trăm người, suốt trăm năm đốn củi, chứa đống cao ngàn trượng, chỉ cần cho một mồi lửa, nửa ngày là cháy sạch. Đâu có thế nói rằng đống củi trăm năm mà đốt nửa ngày không cháy hết. Lại như có người què được lên thuyền gặp gió thuận buồm căng, một ngày vượt xa ngàn dặm, đâu có thể nói người què một ngày không đến nơi cách xa ngàn dặm ư! Lại như có một người nghèo hèn, nhặt được vật quý của nhà vua, nhà vua mừng tìm được lại vật cũ, liền thêm trọng thưởng, người ấy chỉ trong khoảnh khắc giàu sang đầy dẫy. Đâu có thể nói người muốn được vua ban phải mười năm đèn sách khó nhọc còn không đạt được, huống hồ người kia chỉ có chút việc mà có được giàu sang như thế.
Lại có người yếu đuối, gắng sức leo lên con lừa còn không nổi, được lên xe chuyển luân Thánh vương, liền bay trên hư không, bay lượn tự nhiên. Đâu có thể nói người yếu đuối sức leo lên con lừa còn không nổi kia không thể bay được trên hư không ư! Lại như có một sợi dây thừng trói mười dũng sĩ, không làm sao dùng sức thoát khỏi, chỉ cần một đứa trẻ con dùng thanh gươm bén chém một nhát là dây đứt làm hai đoạn.
Đâu thể nói sức chú nhỏ không thể cắt được sợi dây thừng kia sao? Tất cả muôn pháp đều có tự lực và tha lực, tự nhiếp và tha nhiếp. Nghìn mở muôn đóng vô lượng vô biên, đâu có thể đem chỗ hiểu biết có trở ngại của mình mà nghi pháp vô ngại của người kia. Lại nữa, trong năm thứ không thể nghĩ bàn, Phật pháp là pháp không thể nghĩ bàn hạng nhất. Chúng ta không thể cho làm ác trăm năm là nặng, lại nghi mười niệm niệm Phật là nhẹ không được vãng sanh về thế giới An Lạc, vào chánh định tụ việc ấy hoàn toàn không đúng.
Đàm Loan Đại Sư
20 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Là người tu thiền, nghe nói niệm Phật tự nhiên thấy ngờ ngợ như dị ứng. Vì chúng ta biết rõ cứu cánh của hai pháp môn không khác, nhưng phương tiện vào cửa thì gần như đối lập. Một bên dùng tín hạnh nguyện để hành trì, còn một bên dùng trí tuệ chiếu kiến.
Bên này thì cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, bên kia thì vô sanh. Như hai người cùng lên núi, một người đi hướng đông, một người đi hướng tây, hai hướng đối lập, mỗi hướng có những hoàn cảnh khác nhau, nhưng khi lên đến đỉnh thì gặp nhau.
Do đó tu thiền mà bảo niệm Phật thì hoàn toàn không hợp lý, đó là vì chúng ta chỉ hiểu trên sự tướng mà chưa nhận ra lý tánh của niệm Phật.
Niệm là nhớ, Phật là giác, niệm Phật tức là nhớ tánh giác, như vậy người tu thiền có cần nhớ tánh giác không? Nói nhớ tánh giác là gượng nói, vì dễ khiến người hiểu lầm là tánh giác là cái bị nhớ, trong khi tánh giác là cái sẵn có của mọi người. Nhưng sống với vọng tưởng thì tưởng chừng như từ lâu quên không có, đến lúc biết có thì lại hay quên, cứ để vọng tưởng lôi dẫn, nên phải khắc ghi gọi là nhớ.
Kỳ thực tánh giác không bao giờ mất, chỉ cần không theo vọng tưởng, vì vọng tưởng là nghiệp của thân khẩu ý, là nguồn gốc của sanh tử luân hồi. Cho nên vọng tưởng lặn thì cái còn lại chính là giác. Dù tu pháp môn nào, nếu nhắm vào mục đích giải thoát sanh tử thì đều gặp nhau ở điểm này.
Pháp môn niệm Phật thì dùng danh hiệu Phật A Di Đà thường nhớ thường niệm không để vọng tưởng xen vào. Cho đến nhất tâm bất loạn thì người đó khi lâm chung sẽ được Phật A Di Đà đến tiếp dẫn, vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Chữ A Di Đà nghĩa là Vô Lượng Thọ, Vô lượng Quang, Vô Lượng Công Đức. Chúng ta thử xét xem có ai có thể hội đủ những đức tính đó, nếu không phải là tánh giác. Tánh giác không sanh diệt tức là Vô Lượng Thọ, sáng suốt không mê thường biết rõ là Vô Lượng Quang, lưu xuất các đức lành diệu dụng là Vô Lượng Công Đức.
Như vậy niệm Phật A Di Đà tức là nhớ tánh giác, mà tánh giác không có tướng mạo nên rất khó nhận. Nhờ hình ảnh đức Phật A Di Đà hoặc danh hiệu Phật A Di Đà mà bặt trừ những vọng tưởng cho đến nhất tâm bất loạn. Khi có sức lóng trong, liền trực nhận ra: “Tự tánh Đi Dà vô biệt niệm, bất lao đàn chí đáo Tây Phương”
Hoặc Sơ Tổ Trúc Lâm đã từng dạy trong Cư Trần Lạc Đạo Phú, hội thứ hai:
Tịnh độ là lòng trong sạch,
Chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương.
Di Đà là tính sáng soi,
Mà phải nhọc tìm về Cực Lạc.
Nhưng tại sao lại phải về thế giới phương tây thì rất vui (Tây Phương Cực Lạc thế giới). Ví như người ra chợ buôn bán từ buổi bình mình là phải bày hàng ra, rao hàng, giới thiệu, trông coi, giữ gìn mua bán vào ra, rất là vất vả lăng xăng vui buồn qua lại.
Cho đến bóng ngã về tây, trời sắp tối không còn ai mua nên thu dọn nghỉ ngơi, lúc đó mới cảm thấy nhẹ nhàng thảnh thơi vui khỏe. Trời tây là ngầm ý hoàng hôn phủ xuống thì phải dọn dẹp mọi việc để nghỉ ngơi, thời điểm đó rất vui. Cũng vậy nếu trong tâm chúng ta biết thu dọn các vọng tưởng lại, đừng để chúng bày biện lăng xăng thì lúc đó tâm an, không còn một bóng dáng phiền não, nên gọi là rất vui.
Như vậy người tu thiền không chờ đợi đến khi lâm chung mới về thế giới rất vui. Khi vọng tưởng đã dứt bặt không còn nguyên nhân của sự bất an, chính là vui.
Đây là một sự thật cụ thể kiểm chứng được trong hiện tiền đối với những hành giả đã nếm được pháp vị!
Như trên đã dẫn, tánh giác không có tướng mạo nên khó nắm bắt, khó nhận ra. Tuy không tướng mạo nhưng thường hiển lộ qua sáu căn, mắt thấy sắc nếu không có tánh thì làm sao biết nên gọi là tánh thấy, tai nghe tiếng liền biết nên có tánh nghe, tự mỗi căn đều có tánh biết, động dụng thì có khác nhưng tánh biết thì không hai.
Thói quen từ lâu nay của chúng ta là khi thấy sắc liền khởi phân biệt đẹp xấu để sanh ra biết bao nhiêu nghiệp nhân quả, quên mình theo vật trôi theo sanh tử luân hồi cũng vì sáu căn. Hôm nay nhờ có duyên lành tỉnh ngộ, biết mình có tánh giác không sanh diệt, không sanh già bệnh chết, thì có đâu luân hồi, nên phải cố gắng tu tập để sống được tròn đầy. Do đó:
– Mắt thấy sắc thì biết, liền nhớ tánh thấy nên không nhiễm đẹp xấu, không có vọng tưởng, không dính mắt đó là mắt niệm Phật.
– Tai nghe tiếng thì biết liền nhớ tánh nghe không khởi phân biệt hay dở… đó là tai niệm Phật. Tương tự chúng ta sẽ có đủ sáu căn niệm Phật.
Như vậy người tu thiền không phải không niệm Phật, mà niệm Phật là nhớ tánh giác, cho nên phải nhớ một cách tha thiết cho đến lúc sống được trọn vẹn với tánh giác không còn niệm mê, tức là toàn giác, là Phật. Đã tha thiết chí thành như vậy, nên không thể tính đếm trên xâu chuổi, trên thời khóa, trên sổ công cứ, nghĩa là không được phép nghĩ ngợi vì một niệm bất giác đã đủ thành tai họa rồi.
Người tu thiền không chỉ niệm Phật bằng miệng, bằng ý, mà niệm Phật bằng tất cả sáu căn. Vì bất cứ căn nào đối cảnh mà sanh tâm dính mắc thì cũng vào sanh tử luân hồi. Cho nên phải giữ gìn sáu căn niệm Phật một cách miên mật trong mọi oai nghi, cho đến lúc đối cảnh vô tâm thì chẳng hỏi thiền, mà cũng chẳng hỏi Phật.
Người tu thiền mà niệm Phật thì có một sức mạnh thần kỳ, ngay tức khắc đã sống trong thế giới Cực Lạc. Vì vừa có vọng tưởng dấy khởi liền nhớ tánh giác, thì vọng tưởng mất sức lôi dẫn, cho nên chẳng sợ niệm khởi mà chỉ ngại giác chậm. Giác được rồi thì tâm khinh an thơi thới, giác liên tục thì phiền não cũng tiêu tan, vì bị biết rõ nên rất vui, vui không phải đối lại với buồn, mà vui vì sáng tỏ, đã rõ nguồn cơn, chưa hề ô nhiễm.
Phuơng Hiếu (Theo Chùa Thành)
20 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Trong Phật giáo pháp môn tu hành tuy rất nhiều, nhưng tổng quát lại chỉ có hai con đường: con đường dễ đi và con đường khó đi. Nói là đường, chính là phương pháp tu hành, bởi vì phương pháp này có thể làm cho người ta giải thoát khỏi phiền não trói buộc và đau đớn bức bách mà đạt đến cảnh giới an vui tự do.
Giống như nhờ con đường mà mọi người đi được từ chỗ này đến chỗ kia vậy, cho nên gọi là con đường. Gọi là con đường dễ đi và con đường khó đi, chính là phương pháp dễ hành và phương pháp khó hành.
Con đường khó đi như tham thiền và tu quán đã nói ở trên, con đường dễ đi là niệm Phật. Bởi vì tham thiền và tu quán là hoàn toàn dựa vào sức mạnh của tự lực, mà sức mạnh tự lực của chính mình thì còn rất yếu, nếu muốn lấy sức mạnh yếu kém của mình để giải thoát những sự trói buộc của phiền não và rất nhiều sự bức bách đau đớn của thế gian thô trọng, vậy thì khó lắm! Khó lắm! Cho nên những pháp môn dựa vào sức tự lực gọi là con đường khó đi.
Pháp môn niệm Phật là pháp môn dựa vào tha lực, tha lực chính là Phật lực, Phật lực thì bất khả tư nghì, chúng ta nếu dựa vào Phật lực để cầu giải thoát thì dễ hơn. Ví như chúng ta muốn đến một nơi rất xa, nếu đi bộ thì cực mà lại lâu tới nơi; nếu đi thuyền hoặc máy bay thì khỏe lại nhanh đến. Cầu giải thoát bằng pháp môn niệm Phật thì như đi thuyền hay máy bay vậy, có thể thu được hiệu quả gấp bội lần. Cho nên pháp môn niệm Phật gọi là con đường dễ đi.
Bây giờ, lấy sự thật dưới đây để làm ví dụ chứng minh.
Ngày xưa có một người thợ rèn họ Hoàng, mọi người quen gọi ông ta là Hoàng thợ rèn. Vì cuộc sống, Hoàng thợ rèn phải vất vả từ sáng sớm đến tối mịt, vì thế ông chán ngán thân người, làm người khổ, chẳng có ý vị gì.
Một hôm nọ, có một người xuất gia đi ngang qua lò rèn ông ta, Hoàng thấy như bắt gặp được vị cứu tinh, vội vàng bỏ búa xuống chạy ra mời vào.
– “Thưa sư phụ! Con vì ba bữa cơm mà cực khổ quá, cả ngày đứng bên lò lửa, thật là chịu hết thấu! Xin sư phụ từ bi, dạy con một phương pháp giải thoát khổ đau!” Hoàng thợ rèn thỉnh cầu một cách khẩn thiết.
Nhưng vị tăng nhân không dạy ông ta phương pháp giải thoát khổ đau nào, chỉ bảo ông ta niệm Phật. Ngài nói:
– “Ông muốn tôi dạy cho phương pháp giải thoát khổ đau, dễ thôi, chỉ cần niệm Phật là được. Chẳng phải ông cả ngày đứng bên lò lửa đập sắt sao? Thế này nhé, lúc đạâp sắt, giơ búa lên ông niệm một câu “A Di Ðà Phật”, nện búa xuống lại niệm một câu “A Di Ðà Phật”, hôm nay trở đi ông cứ làm không ngừng như vậy cho tôi, chắc chắn nỗi thống khổ của ông sẽ được giải thoát.”
Hoàng thợ rèn nghe xong vui mừng khôn xiết, y giáo phụng hành ngay. Ông vừa đập sắt vừa niệm Phật không ngừng nghỉ, cả ngày đều như vậy. Mọi người thấy thế đều bảo ông ta ngu ngốc, đập sắt cả ngày đã mệt lắm rồi, nay lại thêm niệm Phật nữa, làm gì thế cho thêm cực, bèn khuyên:
– “Ông đập sắt chẳng phải là đã quá cực rồi sao? Sao lại phải niệm Phật để cho cực thêm? Thấy sức khỏe của ông, tôi nghĩ hay là ông đừng niệm Phật nữa.”
Hoàng thợ rèn cười nói: “Các ông không biết thần diệu của niệm Phật, các ông biết không, lúc chưa biết niệm Phật, làm việc tôi luôn cảm thấy quá nhọc nhằn, nhưng sau khi niệm Phật, thì tôi không thấy mệt nhọc nữa, ngược lại còn cảm thấy sung sướng!”
Vậy thì vì lý do gì? Bởi vì Hoàng thợ rèn lúc chưa biết niệm Phật, khi đập sắt ông ta luôn nghĩ đến đập sắt, cho nên mới thấy mệt. Hôm nay biết niệm Phật rồi, tuy vẫn làm công việc cũ, nhưng tận cùng đáy lòng ông luôn nghĩ đến Phật, đặt hết niềm hy vọng trên cõi Tây phương, vì thế tinh thần vô cùng phấn khởi, cho nên quên hết nhọc nhằn.
Sau này Hoàng thợ rèn vãng sinh bên lò lửa! Khi lâm chung ông ta nói kệ rằng: “Bon bon beng beng, luyện lâu thành thép, bình yên đã tới, tôi về Tây phương.” Nói xong nhắm mắt thị tịch.
Phương Hiếu (Theo Chùa Thành)
20 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ,Vô duyên đối diện bất tương phùng. Âu đó cũng là sự thường, để mọi người đến được với nhau, để mọi sự đến được với mọi sự và người người hữu duyên với mọi sự. Giống như câu chuyện tôi sắp kể dưới đây,đều bắt đầu từ duyên.
Mỗi buổi sáng ngày Tết nguyên đán, có một vị khách viễn xứ về thăm quê nhà. Vị khách đã đến chùa Kim Liên (Nghi Tàm, Hà Nội) lễ Phật, vãn cảnh chùa. Trong sân chùa, một bé trai nhỏ đang ngồi trên chiếc xe bé xinh chơi cùng mẹ như để hưởng được phúc ấm đầu năm. Bỗng đâu, một bé gái cùng đi lễ với gia đình, bước vào cửa chùa. Thấy có em bé, cô bé chạy ùa tới rồi đẩy chiếc xe nôi chạy chơi quanh sân chùa. Trong sáng, hồn nhiên như những thiên thần, chúng vui đùa với nhau như thể đã thân từ nhiều năm trước. Đó chẳng là duyên sao? Vị khách thấy cảnh đó bất chợt thốt lên: “Hai đứa bé này thật có duyên với nhau. Không biết sau này chúng có gặp lại nhau không nhỉ?”.
Nghe thấy vậy, bỗng tôi nhớ về câu chuyện cách đây hơn 30 năm, khi tôi còn rất trẻ. Năm đó tôi mới chừng đôi mươi.
Phải nói thêm rằng, từ nhỏ tôi cũng đã có chút nhân duyên với Đạo Phật, thường xuyên được đi chùa với bà ngoại, theo bà đi làm những việc công đức nhà chùa, ngồi tụng kinh cùng bà….Về duyên, thì như vậy tôi cũng đã bắt đầu được tạo nhân đạo Phật trong tâm trí từ ngày ấy. Thế rồi, khi đã có chút nhận thức, có chút lý lẽ trong đầu, mọi chuyện đã không còn đơn giản. Cuộc sống thực tế khách quan đã tác động tới trực giác của tôi, khiến nhiều thắc mắc về Đạo phật nảy sinh.
Nếu chẳng phải duyên, thì sẽ chẳng có sự trở lại của người thứ hai để “dẫn dắt” tôi đến với Đạo Phật, điều mà cho đến hôm nay, sau 31 năm tôi mới nhận ra. Dạo đó, sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi cùng với bố vào TP.Hồ chí Minh (ngày ấy vẫn còn mang tên Sài gòn) thăm các bác (anh ruột của bố). Trong số các anh chị em, có một người anh họ, người mà tôi luôn yêu quí và kính trọng, đã khai tâm cho tôi ít nhiều về Đạo Phật. Ông đã nghiên cứu, thực hành Đạo Phật và Thiền nhiều năm, nên kiến thức thừa đủ để giải thích cho đứa em mới “nứt mắt” như tôi. Và câu chuyện của anh em tôi với Đạo Phật bắt đầu từ đó.
Bố tôi, xa gia đình bên nội đã lâu, còn tôi lần đầu tiên gặp họ, đáng lẽ có khối chuyện để nói với nhau, nhưng quả thực, tôi không biết từ đâu khiến câu chuyện lại dẫn anh em tôi đến Thiền và Đạo Phật. . . Anh tôi nói rằng, Đạo Phật là giúp cho con người ta thoát khỏi mọi nỗi khổ. Ông giải thích cho tôi mọi điều. Nào là nhân – quả, nào là duyên sinh, luân hồi… ông còn khuyên tôi, nếu có ai đó không tốt với mình, có thể mình không giao thiệp với họ nữa, mà lòng không thù hận gì, khi ấy mình sẽ thấy thanh thản vô cùng. . . Rồi anh tôi nói rằng, con người ta vì cảm nhận được cái ngon, cái đẹp mới đem lòng mê đắm và từ đó mới sinh lòng tham muốn chiếm hữu thành của mình, thế mới có giành giật, đánh giết lẫn nhau để mà chiếm hữu, mới sinh lòng căm ghét, thù hận… vân vân. Nếu bây giờ mình thấy đẹp nhưng chẳng màng, thấy ngon chẳng thèm. . . , thì đâu cần phải tranh giành làm chi. Khi đó làm gì có chiến tranh, như thế sẽ sống thoải mái, nhẹ nhàng sung sướng. Sống ở cuộc đời mà tựa Niết bàn đó. Thế nên Đức Thế Tôn mới dạy: Không tận diệt năm uẩn (là sắc, thụ, tưởng, hành, thức) sẽ không đoạn tận được khổ đau.
Tôi đã không cho là như vậy và thắc mắc: Đã không chơi với người ta, có nghĩa là mình thù hận rồi còn gì, làm sao lại nói là không. Và rằng người ta không tốt với mình, hà cớ gì mình cứ phải nhịn, phải tốt với họ; Hay như phàm đã là con người thì phải có cảm xúc; Phải có yêu, có ghét, có tham vọng và phấn đấu . . . Rất nhiều thắc mắc nảy sinh đối lập với những gì anh tôi đã giải thích. Ngày đó tôi đã khẳng khái nói với ông rằng: Em thấy đạo Phật không tích cực chỉ toàn khuyên con người ta sống thụ động mà thôi. Khi đó ông nói: chừng nào cô thấy không còn “thắc mắc nữa, và cô nhận ra, tin tưởng rằng đạo Phật hoàn toàn đúng. Ấy là cô đã theo được Đạo Phật rồi đó.
Nghe anh tôi nói vậy, nhưng tôi chẳng để tâm. Và dẫu vẫn năng đi chùa với bà,với mẹ, nhưng để nhất tâm đến với Phật thì quả là chưa thể.
Thời gian thấm thoắt quan đi. Khi mái tóc đã điểm sương, và cuộc đời đã cho tôi thấy nhiều điều hơn, giao du rộng hơn và đặc biệt thực tế khách quan cũng được đập vào trực giác tôi nhiều mầu sắc, nhiều hoàn cảnh hơn…thì tôi đã nhận ra rằng anh tôi nói đúng.
Cuộc đời thật khó dự đoán. Tôi chợt nhớ tới một câu hát của Jay Livingston and Ray Evans: “Que sera sera? Que’ sera’ sera’? What ever will be, will be. The futures not ours to see…” – ( lời dịch) Biết ra sao ngày sau? Đời luyến lưu vui cười, khổ đau…Vì sắc duyên là sóng bể dâu… Nào ai biết ngay sau”..
Tôi đã hiểu ra nhiều. Theo giáo pháp của Đức Phật, thì con người ta sống ở đời tất thảy đều là nhân duyên. Và như vậy, là trong mỗi chúng ta, ai ai cũng đều hội tụ 12 nhân duyên: Vô Minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thụ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão và cuối cùng là Tử. Chiêm nghiệm từ câu chuyện của mình, tôi đã cảm nhận được điều đó.
Ví như cái duyên đã dẫn tôi sớm đến với Đạo Phật. Song vì Vô minh, nên đã chẳng nhận ra cái đúng của Đạo là vị tha, là xả, mà chỉ thấy cái dở của đời là chấp ngã, nên trong lòng luôn thấy bức xúc, bực bội. Thấy người ta không công bằng với mình thì đem lòng oán hận; thấy mình không được may mắn như người ta thì lấy làm phiền não; Luôn tự phụ, cho mình là giỏi hơn người nên đem lòng khinh miệt…
Từ sự Vô minh ấy mà hành không thuận, tạo nên ác nghiệp cho mình. Bởi luôn cảm thấy bất bình, cộng với bản tính cương trực, nên lời ăn tiếng nói không biết dung hoà. Kết quả là suốt một thời gian dài làm việc trong một cơ quan, tôi đã không được xem là người tiến bộ và không được hưởng những gì đáng lẽ mình được hưởng. Nhưng rồi mọi chuyện đã qua đi. Một cơ may, và cũng lại là nhân duyên đưa tôi sang một bước ngoặt khác trong cuộc đời. Đó là thời điểm tôi chuyển nghề. Tôi đã tưởng mình nằm mơ khi sang làm công việc mới, công việc mà suốt một thời trẻ tôi ngưỡng vọng, ao ước. Đến bây giờ tôi mới lý giải được vì sao tôi gặp được cơ duyên đó, âu cũng là nhân – quả mà thôi. Thân thiện, cư xử tốt với mọi người, đến khi mình cần, sẽ có người giúp đỡ.
Ở công việc mới, tôi có nhiều điều kiện đi đây, đi đó, học hỏi nhiều, mắt thấy tai nghe cũng lắm. “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” là thế. Thêm nữa, mỗi độ tuổi, con người ta cũng có những thay đổi, nhận thức cũng khác, và dần dần tôi đã bớt sân hận, bớt đòi hỏi và đã biết thoả hiệp với cuộc đời… Có thể, vì đã nhận thức được lẽ đó, mà cuộc sống của tôi thật vui vẻ, thoải mái và cảm thấy lòng mình nhẹ nhàng hơn.
Và rồi mỗi ngày, duyên đến với Đạo Phật như càng gần với tôi, được lân mẫn với các vị tăng, ni để trao đổi, học hỏi; gặp gỡ nhiều Phật tử, được giới thiệu, thậm chí có cư sỹ còn tặng những cuốn sách quí về Đạo Phật… Đọc, chiêm nghiệm đã giúp tôi nhìn nhận lại mình rõ ràng hơn.
Cuộc sống thật khó khăn. Chẳng thể ngày một ngày hai mà đến được với Đạo Phật, chẳng phải đã đến rồi mà theo được. Theo rồi chưa chắc đã giác ngộ được …Tất thảy còn phải do duyên nghiệp mà nên. Ấy mới cần phải tu hành, và quan trọng hơn cả phải nhất tâm tin tưởng con đường mình chọn là đúng đắn, tin tưởng rằng, con đường ấy dẫu “xa” hay “gần” thì kiên trì sẽ tới đích. Đó chính là điều tôi nhận ra sau 30 năm, kể từ ngày hai anh em tôi trò chuyện với nhau về Đạo Phật.
Giờ đây, dẫu tôi chưa hiểu Đạo Phật bao nhiêu, và càng chưa tu tập được gì nhiều, bởi cuộc sống còn quá nhiều gian truân buộc mình phải đối mặt. Song, có một điều tôi đã thấy rất rõ ràng, trong cuộc sống hàng ngày, càng xả được nhiều, mình càng thanh thản và thấy cuộc sống có nhiều ý nghĩa.
Thích Châu Triêm
180/188Đầu«...10...179180181...»Cuối
Các Phúc Đáp Gần Đây